NỖI CÔ ĐƠN HIỆN SINH
TRONG THƠ HOÀNG VŨ
THUẬT
*
Hoàng Vũ Thuật là một nhà thơ có sức viết bền
bỉ, hầu hết những tác phẩm của ông đều được lấy chất liệu từ cuộc sống buồn vui
của chính mình và những phận đời xung quanh. Với sự trải nghiệm của mình và sự
sáng tạo riêng độc đáo, ông đã khắc họa nên những nỗi khổ đau phận người, nỗi
cô đơn hiện sinh trong rất nhiều tác phẩm.
Có lần Hoàng Vũ Thuật tự bạch: "Với tôi, hầu như tất cả những sản phẩm sáng
tạo đều xuất phát từ một chuyện buồn, một niềm cô đơn, vật vã. Câu thơ vui cũng
hình thành từ nước mắt. Cô đơn là một đặc tính của con người. Trong ý niệm
tương đối, cô đơn thuộc phạm trù cái đẹp. Tôi coi trọng cái riêng con người,
chất cá thể con người, nên có lúc bài thơ bật ra trong trạng thái vô thức. Thơ
chính là mảnh tâm trạng, cõi riêng thân phận, một cảnh huống đơn độc của con người". Có
lẽ cũng chính vì điều này nên trong thơ của ông thường thấy hình bóng của những
con người, những phận đời, số kiếp cô đơn.
Trên giá đỡ
những trang sách mở ra số phận cay đắng hạnh phúc
chiến tranh hòa bình
Trên bả hư
danh thừa mứa quyền uy hăm hở dối lừa
ngông nghênh tăm tối
Trên pháp
trường lởn vởn hồn oan xơ xác mong nhìn thấy ánh sáng
Trên sương
mù bóng mẹ liêu xiêu sớm khuya đi về quang gánh oằn vai
Trên giường
chiếu khổ đau bần hàn lam lũ hết đời này sang đời khác
Trên mâm
cơm đầu mùa bung nở ríu rít trẻ con bát đũa lanh canh
Anh đợi
Trên hứng
khởi người tìm bóng tối với những ngôi sao cuồng chết
bên gốc dứa dại
…
Trên cánh
bay giấc mơ hoang tưởng và hiện thực chồng chéo tan chảy
Trên tuyệt
vọng rơi rơi rơi hun hút chín tầng âm u
Anh đợi
…
Đứa bé ngây
ngô đợi bụt hiền hiện ra ban phép lạ
Anh đợi
(Anh đợi)
Trong cuộc sống không ai không mong cho mình
được sống hạnh phúc, tự do nhưng ước nguyện ấy không phải ai cũng đạt được. Có
những phận đời bị đẩy vào chiến tranh loạn lạc, có những người mẹ sớm khuya đi về quang gánh oằn vai, có
những người khổ đau bần hàn lam lũ
hết đời này sang đời khác, lại có những người vì tuyệt vọng mà rơi rơi rơi hun hút chín tầng âm u… Bằng
trải nghiệm của mình, nhà thơ đưa ra quan điểm về những cuộc chiến tranh tàn
khốc, về những trò chơi quyền lực tăm tối. Đồng thời, ông đã nhìn thấy sự bất
lực, cô đơn của những phận người bị đẩy vào lửa đạn chiến tranh, những con
người yếu thế.
Cái chết
được thử nghiệm
I rắc
Giờ thì Li
Băng
Máu xoáy
sẹo đen lòng biển
Những ngày
thảm khốc tôi vùi chân bên dòng Nêva
Chẳng đủ để
răn dạy kẻ khác
Cuộn tròn
mình lo lấy thân xác hơn chăng
Ngày anh
tôi không về
Tôi đứa trẻ
chỉ biết hát
(Cái chết)
Nỗi cô đơn trong thơ Hoàng Vũ Thuật được chắt
lọc từ những gì nhà thơ cảm nhận được trong cuộc sống hiện tại, trong quá khứ
và cả tương lai với những sự liên tưởng, so sánh:
những cánh
tay chọc thủng gạch ngói
những chiếc
nón vẫy mưa
những tiếng
kêu đứt đoạn
những hốc
mắt đói nhìn
mỏi mòn đêm
tối
kiệt quệ
rạng ngày
...
mẹ thắp
hương chờ
những đứa
con không trở lại
những đứa
con khát sữa gào lên khuya khoắt
sạp giường
lạnh tanh
đôi vòng
tay trơ rỗng
sách vở
trộn bùn đất
rơm rạ trộn
thây người
(Lá cứ hồn nhiên)
Lá thì cứ hồn nhiên, nhưng không lẽ mỗi con
người trong kiếp đời này lại có thể hồn nhiên như lá? Không, con người có ý
thức và sự cô đơn thường sẽ tác động mạnh đến tâm thức của mỗi người. Khi người
mẹ mất đi những đứa con sẽ đau đớn, cô đơn, quằn quại và quãng thời gian tương
lai của mẹ sẽ là đối diện với sạp
giường lạnh tanh/ đôi vòng tay trơ rỗng, cuộc sống của những đứa con khát
sữa sẽ ra sao khi thế giới ngoài kia là sách vở trộn bùn đất/ rơm rạ trộn thây người? Bằng lối gợi và
liên tưởng, Hoàng Vũ Thuật đã nói lên nỗi đau nhân thế, đây cũng chính là cảm
thức hiện sinh sâu sắc trong thơ của ông.
Không chỉ là những phận đời phải trải qua chiến
tranh, loạn lạc mà ngay cả những hình ảnh rất đời thường, Hoàng Vũ Thuật cũng
nhìn thấy được nỗi cô đơn trong tâm khảm, trong cuộc sống của từng số phận.
mười lăm
phút một gương mặt hiện ra
Á Úc Mỹ da
đen da trắng
không giống
nhau
nhưng không
hề khác
trên trang
giấy phẳng phiu tuyết trắng
mười lăm
phút gương mặt hiện ra
mười lăm
phút vòng quanh năm châu lục
Trung Hoa
Đan Mạch Thái Bình Dương
thế giới
hiền hòa yên ả
mười lăm
phút dư thừa đói nghèo khôn dại
chiếc gương
phản chiếu hành tinh
trẻ và già
gái và trai hiền và dữ
tóc nâu tóc
vàng tóc xanh
cuối mùa
thu rừng phong trút lá
trơ trọi
mình họaH sĩ giữa khung đêm.
(Họa sĩ trong công viên Kultura)
Họa sĩ trong công viên Kultura giống như một
khắc họa về cái tôi nhìn đời bằng lăng kính hiện sinh. Họa sĩ cảm nhận được sự
tồn tại của những người khác, với những diện mạo, gốc gác, độ tuổi khác nhau.
Họ cùng đến trong thế giới này, "không
giống nhau/ nhưng không hề khác", vì họ cùng chịu chung một bàn
tay run rủi của số phận. Người họa sĩ khắc họa lại những gương mặt ấy. Nhưng
sau cùng, mọi sự gặp gỡ với những con người trong thế gian cũng sẽ phai đi. Tha
nhân và bản thể vẫn chỉ là những tồn tại riêng biệt. Cuối cùng còn lại chỉ còn
"ta với ta" trong khung cảnh tồn tại riêng mình. Một không gian hiện
sinh thực sự tinh tế đã được xây dựng bằng lối thơ giản dị của Hoàng Vũ Thuật.
một chiếc
ghế bện mây bên chiếc ghế bện mây cũ
hai mái tóc
ông chải sáng
rẽ đôi chút
khí trời hiếm hoi
bức tranh
quê Đông Hồ bày nơi ngưỡng cửa
và nàng như
ngày tháng xếp chồng lên nhau
ẩn trong
gam lạnh
cứ thế ban
mai hay chiều tà ông mở ra cuộn lại
người qua
ngắm nghía bỏ đi
không mặc
cả hỏi han
ông hiểu
chẳng ai nhìn thấy vẻ đẹp nàng sau làn vải mộc
lẽ nào rao
bán hoặc đem biếu không
hay treo
giá tận chót cùng đi nữa
ông đưa về
làm của quý riêng mình
vì ông biết
những đêm dài nàng bay ra cùng khói sương buốt giá
ánh sáng
hơi thở
tiếng đàn
bởi nàng là
bức tranh Đông Hồ ấm áp khắc họa cuộc đời ông
(Bức tranh mùa đông)
Nhìn rộng ra, thân phận cô đơn của người họa sĩ
trong đêm thu hay sự cô đơn vì không có người hiểu để chia sẻ, thưởng thức nét
đẹp văn hóa, nét đẹp của tranh Đông Hồ như ông già cũng chính là nỗi cô đơn
thường thấy của con người trên thế gian. Con người, ai cũng muốn được quan tâm,
chia sẻ nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng có thể nhận được tình cảm của
những người xung quanh để rồi chúng ta tự mình lạc lõng, cô đơn trong nhân thế.
Đây chính là một hiện thực được Hoàng Vũ Thuật nhìn nhận và khai thác rất tinh
tế.
Lạc lõng trong cuộc sống đã là một sự cô đơn
đáng sợ. Nhưng còn đáng sợ hơn khi cuộc sống làm cho con người ta cảm thấy chán
ngán, thấy mất niềm tin vào nó, để rồi mỗi người tự sống với cuộc sống riêng
của mình, bất lực hoặc thờ ơ trước những đắng cay, hạnh phúc, xảo trá, lọc lừa,
tội ác… thờ ơ trước tất cả những gì xảy ra xung quanh mình và sau đó lại tự hỏi
mình: Ta là ai?:
chán ngán
chuyện ô uế hàng ngày diễn ra trên tờ báo to
đứa trẻ vừa
bị kẻ hãm hiếp nơi ngã ba thành phố
muốn đi tìm
lại cái bản mặt thật mình
cho ngày
mai kịp đến với cõi thiền ngôi chùa cổ
những viên
ngói mở mắt nhìn
…
cái thẻ bài
nhà tu hành nói với tôi
anh là anh
không là ai khác
chính anh
đã làm nên cuộc sống của mình
còn bạn thì
sao
hỡi người
bên kia nửa trái đất
bạn học
được gì khi sự xảo trá đang ngự trị
lên mỗi sợi
tóc trắng chúng ta
(Sự xảo trá đang ngự trị lên mỗi sợi tóc trắng)
Vâng, ta chính là ta không là ai khác, chính
chúng ta đã làm nên cuộc sống của chính mình. Nhưng cuộc sống của mỗi người có
do họ toàn quyền quyết định? Nếu như có thì cũng biết phải làm thế nào cho
đúng, cho xứng với kiếp người? Biết về
đâu khi dòng sông ngang qua đời/ ta/ không bọt/ về đâu những con sóng
vỗ chân cầu/ đừng nói nữa/ chiếc hộp trà đêm đêm/ đối diện/ dấu đi/ thi thể
ngàn năm/ trôi / sóng truyền kiếp/ chiều nay/ dạt phía chân cầu (Trà
đạo). Những câu hỏi đầy trăn trở: về đâu, về đâu cứ liên tục xuất hiện, liên
tục vang lên mà tìm được ở đâu, ở ai một lời đáp, một câu trả lời? Để rồi ta cô
đơn đối diện với chính mình với hàng trăm ngàn câu hỏi. Có người tìm ra đáp án,
tìm ra lối đi, tìm được chính mình đó là những người may mắn. Tuy nhiên, điều
may mắn ấy không phải sẽ đến với tất cả mọi người, bởi có những người đi trọn một năm vẫn không/ ra khỏi vùng ám
tượng để rồi lưỡi hái thần chết/ đốn ngã linh hồn/ đố kỵ mờ xa gương
mặt/ chữ nghĩa đánh bóng mạ kền… /đi trọn một đời vẫn không/ ra khỏi cuộc tranh
giật/ nghìn cánh tay giơ cao/ biểu quyết/ không biết nữa cái gì xảy ra… (Ý
nghĩ vụt hiện).
Dường như tất cả những bài thơ của Hoàng Vũ
Thuật đều mang lại cảm giác buồn, cô đơn. Có khi là nỗi cô đơn chung của nhân
loại, có khi lại là những nỗi niềm riêng, những cô đơn của một con người lạc
lõng trong cuộc đời. Nó được ông diễn tả bằng nhiều hình ảnh, tứ thơ độc đáo.
Đọc thơ ông người đọc như thấy rằng nỗi cô đơn đó là của chính bản thân mình,
là nỗi buồn của chính mình. Ví dụ như trong Bài thơ ban mai ông
viết:
mùa đông
đến bất ngờ
không báo
trước
tôi không
kịp mặc áo ấm quàng khăn đi tất
như sự lạnh
lùng của em
không báo
trước
tôi đi qua
những hoàng hôn
những trận
mưa đêm đột biến
những lối
phố rộng rênh
những quảng
trường quá hẹp
những chiếc
quán lẻ loi
tôi đi như
một lời độc thọai
….
Tôi đã qua
một mùa đông lạnh nhạt
một mùa
đông không báo trước
như dáng em
ngồi đan áo trong khuya
…
tôi cần sự
bù đắp
sự bắt đầu
nhưng không
bao giờ là sự cuối
(Bài thơ ban mai)
Ở đây, người đọc có thể cảm nhận, thấm thía
khi tôi đi qua những hoàng hôn -
những trận mưa đêm đột biến rồi những hình ảnh lối phố rộng tênh, những chiếc quán lẻ loi càng
làm cho con người trở nên nhỏ bé trong không gian và còn nỗi buồn nào buồn hơn
khi trong mùa đông lạnh giá lại thấy mình, lại phát hiện ra mình đang đi như một lời độc thọai. Cũng từ đó,
con người cô đơn ấy cảm thấy cần một cái gì đó để làm cho lòng mình ấm lên, đó
có thể là sự bù đắp, sự bắt đầu nhưng không bao giờ là sự cuối.
Là một con người tinh tế, nhạy cảm, Hoàng Vũ
Thuật đã lắng nghe con tim mình, lắng nghe tiếng nói của mình qua những trải
nghiệm cá nhân. Đồng thời, với nhãn quan tinh tường nhìn nhận quy luật cuộc
sống thông qua các sự kiện, nét văn hóa, các biến động lịch sử, ông đã khắc họa
nên những nỗi cô đơn hiện sinh của con người và chính mình.
Mời
nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
Chuyện làng văn0
- Các bài viết của
(về) tác giả Hoàng Vũ Thuật0
- Bạn đọc cảm nhận
về thơ của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn
CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ của Đặng Xuân Xuyến:
Hoàng Vũ Thuật giới thiệu
Tác giả: Lê
Nga - nguồn: nguoihanoi
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Nhà thơ Hoàng Vũ Thuật
gửi qua messenger
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét