VỀ ĐÂU KÊNH THƯƠNG NGHỀ
CHẰM NÓN LÁ
Từ sân bay Ái Tử đi qua
cầu An Mô, rẽ theo hướng tay trái đi theo con đường đổ nhựa chạy sóng đôi cùng
dòng Thạch Hãn, ta sẽ nhìn thấy ở khoảnh đất đầu làng hiện lên tấm bia chữ rất
đẹp : Làng Đâu Kênh. Ngôi làng gần 600 năm tuổi, dặt dìu đón gió mát từ dòng
sông quê mẹ thổi tạt lên sau lũy tre già mỗi độ trưa hè. Làng Đâu Kênh xanh
bóng cây, đan hòa nhiều kênh rạch bàu hói, đất chật bị kênh rạch tản chia thành
những khoảnh đất nhỏ thấp chật hẹp. Có lẽ vậy nên cùng với những thửa ruộng vạt
rau không đủ rộng để sải thẳng cánh cò bay, thì người dân quê tôi ngoài hạt lúa
củ khoai, còn phải tự vươn mình vượt khó, bền bỉ tỉ mẩn bên những liếp nghề thủ
công. Đó là nghề làm giường tre, nghề làm chổi, nghề đan giỏ, nghề chằm nón
lá…Và điều làm tôi trăn trở bao lâu nay vẫn là nghề chằm nón thủ công của chị
em phụ nữ làng mình.
Chiếc nón lá không chỉ
đơn thuần là một vật dụng che nắng che mưa, chiếc nón lá còn là quốc hồn của
dân tộc, nó là biểu trưng cho đất nước Việt Nam xứ đai nhiệt đới gió mùa, nắng
lắm mưa nhiều. Nhất là nơi eo thắt miền Trung nắng rát mưa dầm, là đòn gánh
giang sơn Việt Nam hình chữ S, trĩu nặng vai gầy như bóng mẹ từ ngàn xưa. Chiếc
nón lá còn mang vẻ đẹp thẩm mỹ cho dáng hình cô thiếu nữ nước Việt trong tà áo
dài, lan tỏa vẻ đẹp Việt đi khắp nơi trên thế giới. Cũng như hoa sen quốc hoa,
chiếc nón lá trở thành quốc phục gắn trong mình vẻ đẹp tự ngàn xưa mãi mãi
không bao giờ vơi cạn.
Chiếc nón lá có từ thế
kỉ XIII, thời nhà Trần, do thời tiết nắng lắm mưa nhiều nên tổ tiên ta đã lấy
lá kết vào nhau để làm vật dụng đội lên đầu che nắng che mưa. Dẫu có nhiều cách
tân, thì nó vẫn là nó, vẫn được làm nên từ lá nón chỉ thêu, được chằm thủ công
từ đôi bàn tay tỉ mỉ của nghệ nhân làng nghề. Chiếc nón lá chấp chới trắng giữa
cánh đồng vàng lúa chín tạc nên một vẽ đẹp hồn quê bất diệt ngàn đời. Chiếc nón
lá thường được đan bằng các loại lá khác nhau như lá cọ, lá buông, rơm, tre, lá
cối, lá hồ, lá dứa,… nhưng chủ yếu làm bằng lá nón. Nón hình chóp nhọn hoặc
thỉnh thoảng ta còn thấy chiếc nón rộng bản và phẳng đỉnh, nhưng hình nón muôn
thuở đi vào hồn cốt dân tộc vẫn là hình chóp nọn cổ truyền.
Ở làng Đâu Kênh, người
thợ chằm nón từ lá nón, lá nón được mua từ làng Bố Liêu. Tôi nhớ mạ tôi khi còn
trẻ, mỗi khi hết lá bà lại bảo tôi về làng Bố Liêu mua lá, ở đó người ta thường
bán đủ các loại nguyên vật liệu để chằm nón, gồm có lá tra, lá non, sợi cước,
chỉ màu khâu, kim khâu, nan tre được vót sẵn và cả khuôn nón. Khuôn nón của mạ
tôi được truyền lại từ thời ông bà ngoại, khung nón làm bằng tre cứng, hình chóp
nhọn, có kích thước bằng chiếc nón và có 16 dấu khấc để kiềng lên đủ 16 vành.
Khi tôi mua đủ lá về, mạ tôi thường ngồi vằn lá, phân ra lá tra, lá non, để
xuống gầm giường chỗ có nền đất cho dịu lá. Khi vằn lá phải tinh tế, tỉ mỉ và
cẩn thận để nhận biết gân lá và xếp vào nhóm lá thích hợp.
Mỗi sáng sớm tinh mơ,
khi gà vừa gáy sớm, mạ tôi sẽ thức dậy để ủi lá. Mạ nhen bếp lửa đỏ hồng cháy
rụi ra than, những viên than nóng ran lêu hêu vài ngọn lửa nhỏ là độ lửa chín
nhất để ủi lá. Trên bếp than mạ để lên đó một tấm sắt dày nặng trịch bằng
phẳng, một tay mạ cầm lá, tay kia cầm một nằm giẻ thật dày, rồi lui hui ủi lá.
Mạ cúi người vào độ nóng của than, bàn tay cầm lá và cầm giẻ phối hợp nhuần
nhuyễn, khéo léo, mồ hôi đầy mặt đầy trán, khuôn mặt đỏ hồng vì than lửa. Cứ
thế mạ ủi từng mảnh lá nhỏ, mạ thường nói ủi lá cũng phải chắt chiu từ những
cảm nhận hun đúc qua nhiều kinh nghiệm, khi nhanh khi chậm, khi nhặt khi khoan,
khi ít khi nhiều, cái này không phải tay năm miệng mười là có thể dễ dàng
truyền đạt được. Thỉnh thoảng tôi thức dậy sớm, ngó ngọn lửa bập bùng cuối gian
bếp củi, thấy bóng mẹ lom khom ùa cả khuôn mặt và đôi tay vào ủi lá, như ngó
thấy cả một ân tình nồng đượm quê xưa.
Lá được ủi xong thì mạ
xếp lá thành từng xấp mỏng, xấp lá tra, xấp lá non, xấp lá để vằn trong, xấp lá
để vằn ngoài, xấp lá hỏng còn dùng được, xấp lá đẹp, xấp lá thơm. Mạ để nguội
hẳn, chia lá và cất vào bao ni lông để chằm dần, một lần mua lá như vậy mạ có
thể chằm được vài chiếc nón. Rồi lại bằng đôi bàn tay tỉ mẩn của mình, mạ vót
vành nón, vót nhọn, mỏng tắp, đều đẹp và uyển chuyển. Mười sáu chiếc vành ngắn
dài khác nhau nhưng cùng chung kích thước đã được vót đều đẹp đẽ. Sau đó mạ sẽ
ngồi trên một chiếc đòn con, đặt khuôn nón trước mặt, xếp đều lên nó mười sáu
vành trên mỗi khấc đã có sẵn nơi khuôn. Mười sáu chiếc vành mỏng đều như mười
sáu vành trăng non khuyết, màu trắng của vành vừa đẹp đẽ vừa chắc chắn, gợi lên
tất thảy những chắt chiu đời mạ.
Sau khi kiềng mười sáu
vành lên khuôn nón, mạ khéo léo sắp lá vào khuôn. Đây có lẽ là công đoạn đòi
hỏi tính thẩm mỹ nhiều nhất, độ tinh tế và tỉ mỉ khi xây lá và xoay lá sau khi
đã cắt tỉa thích hợp độ dài ngắn khác nhau của từng miếng lá. Đầu tiên là xây
lớp lá bên trong trước, rồi đến lớp lá tra, tận dụng những mảnh lá còn đẹp và
thích hợp, cuối cùng là xây lớp lá bên ngoài. Có lẽ khó nhất chính là lúc này,
người thợ đòi hỏi phải có mắt thẩm mỹ và kinh nghiệm, xoay tròn lá để cân đối
các mặt lá, cân đối hình thể chiếc nón, kiểm tra các lớp lang của lá, sao cho
chiếc nón vuông thành đều cạnh. Tài năng và nét riêng của mỗi người thợ cũng
được thể hiện rõ nhất ở công đoạn này. Sau khi xây lá và xoay đầu nón xong, mạ
thường dùng một cái vành cứng, chụp lên bên ngoài khuôn nón để giữ cho lá nằm
cố định, mạ đeo vào ngón tay trỏ một miếng cao su dày, xâu chỉ (cước) vào kim
rồi tỉ mỉ chằm nón. Những mũi kim đều tăm tắp, khoảng cách giữa các mũi kim đều
đặn, thẳng hàng thẳng lối, không được chặt quá cũng không được mảnh quá. Những
mũi kim thưa hoặc dày cũng là một trong những tiêu chí đập vào mắt người mua
khi chọn nón lá. Những chiếc nón có mũi kim dày đều đẹp thường bền hơn những
chiếc nón có mũi kim thưa và khoảng cách xa. Vành vót dày và nhỏ cũng là yếu tố
làm nên độ bền của chiếc nón.
Tỉ mẩn và duyên dáng
nhất chính là bàn tay mạ khi thêu hoa văn dưới đỉnh nón và nức vành nón. Đỉnh
nón thường được thêu bằng chỉ đỏ, thêu hình ngôi sao hoặc hình bông hoa rất
đẹp. Sáng tạo thêm có khi là hình con chim bồ câu được họa hình bằng vài sợi
chỉ, hay chiếc nút áo được mặc áo chỉ dày mềm làm nên những ngôi sao lấp lánh
nơi đỉnh nón, dưới những vành vón mỏng mảnh đều đặn trông thật thích mắt. Công
đoạn nức vành là công đoạn cuối cùng, mạ sẽ vót một đến hai cọng nan có thân
dẹp, cặp vào vành nón số 16 để khi nức, vành nón được tròn và chắc chắn, nón sử
dụng được lâu bền. Chỉ màu được buộc khéo léo vào hai bên vành nón để móc quay
nón. Và chiếc quai nón được sáng tạo từ những dải vải mềm hay tơ lụa nhiều sắc
màu đẹp đẽ, tôi thì thích nhất quai nón làm từ những dải vải rẻo mà tôi xin
được ở chị thợ may đầu xóm đem về, những dải màu đủ các hình ảnh thật đẹp. Cuối
cùng là mạ sẽ thoa dầu nón lên cho bóng lá, vừa là lớp bảo vệ lá cho bền lâu và
phơi nón dưới nắng trưa. Nắng Quảng Trị giòn rang, chỉ phơi một lúc vừa đủ là
phải đem nón vào. Ngay cả độ nắng khi phơi cũng phải chắt chiu từ muôn đời kinh
nghiệm thủ công lưu truyền. Người nóng vội và nông cạn chưa chắc đã học được.
Chiếc nón lá được ra
đời như thế, chắt chiu từ những miệt mài hôm sớm, những đôi tay bền bỉ, những
đôi mắt cần mẫn tỏ tường. Ấy thế mà người chằm nón cứ ít dần rồi mai một lấy
cái tài thủ công muôn thuở ấy đi. Người chằm nón bây giờ đôi lần gác khung lên
chạn bếp, lại mơ hồ tìm kiếm một người hậu bối để truyền nghề, thảng thốt hỏi
trong muôn người: Ai lại ngồi tỉ mẩn chằm nón đầu hè? Ai sẽ thổi hồn vào từng
sợi cước, nắn nót từng nét chằm? Khi mà một ngày chằm nón không đủ tiền để mua
vài lạng thịt heo ăn xổi qua ngày. Mà mỗi lần đổ xăng cho chồng đi làm ban sớm
cũng đã tốn vài ngày chằm tay. Máy móc rập bao khuôn hình, hàng trăm chiếc nón
hiện hình trong vài giờ, thế nhưng hồn cốt muôn năm thuở, bàn tay người ủ ấp
từng đường nét, chiếc nón thủ công dày thơm hương lá, hương than, hương chỉ,
hương quai lụa, hương quê, hương đất, hương người, vẻ đẹp đích thực của hồn cốt
dân tộc? Biết tìm đâu? Rồi sẽ tìm đâu? Như những vần thơ của nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm:
“Ôi nón bài thơ của xứ
nhà
Có bàn tay nhỏ nở như
hoa
Có thành phố cổ giàu
mưa nắng
Bóng nón đi về thêm
thiết tha.”
Ngày nay, mỗi nếp nhà
tranh nơi miền quê thôn dã đều có ít nhất một chiếc nón lá. Trong những thước
phim về quê hương đất nước đều chấp chới những hình nón lá trắng nhấp nhô, nơi
thảm đỏ xa xôi của những sàn diễn thời trang vinh danh đất nước, chiếc nón lá
vẫn hiện diện, sánh đôi cùng những biểu tượng của mọi quốc gia. Vậy thì hà cớ
gì ta không đưa làng nghề truyền thống của làng Đâu Kênh sánh vai với các làng
nghề chằm nón khác, để những bàn tay miệt mài chằm nón hôm nay không chỉ vì
miếng cơm manh áo, còn tự hào vì họ là những chứng tích tuyệt vời của truyền
thống quê hương. Để những em gái đang lớn lên hôm nay, sẽ luôn sáng mắt sáng
lòng hãnh diện khi học nghề thủ công chằm nón từ mái hiên dưới mỗi lũy tre già.
Để từ khi mệ bày lại cho mạ, mạ lại bày lại cho con, con gái, con trai, con
dâu, con rể, bày lại cho cháu, cho chắt chút chiu. Để mãi mãi sau những bộn bề,
vẫn còn đó nếp nhà vang bóng cổ truyền nghề thủ công xưa.
Bà con Đâu Kênh nơi mọi miền đất nước, có thể chăng lưu giữ chuyện làng, quảng bá và kết nối, phát triển và lan tỏa một ngành nghề thủ công mãi mãi không bao giờ mai một : Nghề chằm nón lá truyền thống của xứ sở quê hương!
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Bạn đọc cảm nhận
về thơ của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
bài thơ “Quê Nghèo” của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến -
Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe AudioBook Chọn Lọc đọc truyện ngắn
CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ của Đặng Xuân Xuyến:
*.
TRẦN HIỀN (Trần Thị Hiền)
Địa chỉ: Thôn Đùng Hói
Bàu, xã Triệu Long,
huyện Triệu Phong, tỉnh
Quảng Trị.
Điện
thoại: 091.833.73.69
.............................................................................................................
- Cập nhật từ email:
nguyenhung967812@gmail.com ngày 05.11.2022.
- Bài viết không thể
hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Ảnh minh họa cho bài
viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét