VŨ HOÀNG CHƯƠNG,
LẠC LOÀI TRONG CÕI NHÂN SINH
Khi tiếng kêu đớn đau của thi sĩ Hàn Mặc Tử ở phương
Nam chợt vụt tắt, thì vòm trời thi ca đất Việt dường như chỉ còn
một Vũ Hoàng Chương đang quằn quại với những vết thương xẻ nát tâm
hồn. Thì kỳ lạ thay, từ chính vết thương đang rỉ máu ấy lại vẽ ra
một lối đi riêng, một con đường cho thi ca ngay từ buổi đầu đến với
thơ mới. Nếu ai đó đã nói, thơ là tiếng nói hồn nhiên trong trẻo của
tâm hồn, là tuổi thơ của loài người còn xót lại…thì quả thật với
Vũ Hoàng Chương, nó lại là tiếng bi ai được cất lên từ nỗi đau rách
nát của linh hồn. Chính vì vậy, thơ ông đã chạm đến tận cùng nỗi
đau và sự cảm thông của con người. Để rồi thơ văn Vũ Hoàng Chương
không chỉ đóng đinh vào lòng người, mà còn dán chặt tên tuổi ông vào
nền văn học nước nhà. Ông viết nhiều thể loại, từ thơ, văn đến cả
kịch thơ…Hơn hai chục tác phẩm tuy chưa hẳn đã là nhiều, nhưng chính
tư tưởng, hình tượng nghệ thuật mới làm nên chân dung và sự nghiệp
sáng tác đồ sộ Vũ Hoàng Chương.
Vũ Hoàng Chương sinh năm 1915 tại Nam Định, trong một
gia đình nho giáo. Cha ông là quan tri huyện, mẹ ông cũng hay chữ, yêu
văn học và âm nhạc, nên ông được học và tiếp cận với Hán văn từ
nhỏ. Sau đó, Vũ Hoàng Chương học tiếp tiếng Pháp và vào học trung
học, đỗ tú tài Pháp tại Hà Nội năm 1938. Đang học luật ông bỏ đi
làm ngành hỏa xa và in tập Thơ Say đầu tay vào năm 1940. Năm 1941 ông
theo học khoa toán, Đại học khoa học Hà Nội. Rồi một lần nữa ông
lại bỏ xuống Hải Phòng dạy học và cùng với Chu Ngọc, Nguyễn Bính
lập ra Ban Kịch Hà Nội. Năm 1943 ông in tập thơ Mây, rồi theo kháng
chiến. Một thời gian sau ông bỏ kháng chiến về thành, rồi di cư vào
Nam. Từ đây ông theo nghề dạy học và viết văn làm thơ. Thời gian này,
ông viết nhiều, được dịch và in ra nhiều thứ tiếng. Do vậy, tên tuổi
ông đến gần hơn với bạn đọc nước ngoài cũng như văn bút quốc tế.
Sau biến cố 30-4-1975 ông bị bắt vào tù và mất ngay
sau đó vào tháng 9 năm 1976.
Có thể nói, Vũ Hoàng Chương là nhà thơ lớn của dân
tộc. Nếu nhìn lại văn học sử, ta có thể thấy: Sau sự cổ vũ của
các cụ Phan Khôi, Nguyễn Văn Vĩnh… Vũ Hoàng Chương góp phần không nhỏ,
cùng với những Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử,
Nguyễn Bính, Thâm Tâm, Nguyễn Nhược Pháp, Xuân Diệu, Huy Cận…mở đường,
tiên phong cho phong trào thơ mới từ những thập niên đầu của thế kỷ
hai mươi. Thơ ông sang trọng, giàu nhạc tính, tuy cách tân mà vẫn mang
mang hoài cổ.
Tập Mây (in năm 1943) và Lửa Từ Bi (năm 1963) có thể
chưa phải là những thi tập hay nhất của Vũ Hoàng Chương, nhưng với
tôi, nó là hai tập thơ tiêu biểu nhất cho từng giai đoạn, tư tưởng
cũng như thi pháp sáng tác của ông.
Men khói “ba mươi năm” sầu dựng mộ.
Vũ Hoàng Chương xuất hiện vào thời kỳ cuối của phong
trào thơ mới bằng tập Thơ Say. Nhưng phải đến thi tập Mây (năm 1943) tên
tuổi ông mới được khẳng định trên thi đàn. Và tập thơ này đã làm
rung động giới thưởng ngoạn, bởi giọng điệu thơ khác hẳn với những
thi sĩ cùng thời.
Thật vậy, khi đọc và và nghiên cứu sâu về thơ Vũ
Hoàng Chương, tôi mới chợt nhận ra cái tôi, cái riêng biệt trong thiên
tình sử của ông, sao mà nó khác với những tuyên ngôn tình yêu, dành
cho hội trường, đọc nơi đông người như trong thơ tình Xuân Diệu đến
vậy. Với khoảng cách, sự trái ngược này, chỉ có cảm thụ của cá
nhân người đọc mới có thể tự so sánh rạch ròi. Nếu được phép gắn
ông hoàng, bà chúa cho thơ (tình) như người ta vẫn thường làm, với tôi
chắc chắn vương miện đó phải được trao cho Vũ Hoàng Chương.
Sinh ra, lớn lên trong gia đình quyền quí, nhưng cuộc
sống, tình yêu Vũ Hoàng Chương luôn tuyệt vọng, chán chường. Để tự
thoát ra khỏi cuộc sống bơ vơ nơi địa ngục: “Lũ chúng ta lạc loài
dăm bảy đứa/ Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh” ông đã treo hồn
mình lơ lửng giữa vòm trời thi ca. Và Vũ Hoàng Chương không chỉ lạc
loài giữa cõi nhân sinh hiện hữu này, mà chính linh hồn ông cũng lạc
khỏi thân xác mình. Do vậy, đọc Vũ Hoàng Chương, ta có cảm giác thơ
ông được chiết ra từ khói thuốc, men rượu trong những cơn chao đảo,
thất tình điên loạn.
Vâng! Chỉ có những cơn say ấy mới có thể nhập linh
hồn vào với thể xác, để thi nhân đủ can đảm đi đến tận cùng sự
thật đắng cay. Đọc thơ ông, vẳng lên tiếng kêu sầu thảm, dường như
không phải từ con chữ, mà được vắt ra từ trái tim đang vỡ vụn. Và
biết bao đêm trường ấy, nấm mồ sầu thảm đó vẫn được đong bằng nước
mắt của thi nhân:
“Là thế là thôi là thế đó
Mười năm thôi thế mộng tan tành
Mười năm trăng cũ ai nguyện ước
Tố của Hoàng ơi Tố của Anh
…
Men khói đêm nay sầu dựng mộ
Bia đề tháng sáu ghi mười hai
Tình ta ta tiếc cuồng ta khóc
Tố của Hoàng nay Tố của Ai”
(Mười hai tháng sáu)
Có lẽ, không có nỗi đau nào bằng sự đổ vỡ, phụ bạc
của tình yêu, nhất là trái tim dễ vỡ của thi nhân. Và Vũ Hoàng
Chương cũng không nằm ngoài cái qui luật đó “Yêu sai lỡ để mang sầu
trọn kiếp/ Tình mười năm còn lại mấy tờ thư!”. Đứng trước sự bế tắc
của xã hội và tình yêu nhà thơ luôn cảm thấy lạc loài, bơ vơ với
cuộc sống đang hiện hữu, nên luôn luôn muốn từ bỏ, thoát ly nó, tìm
đến cõi mộng ảo địa đàng. Thật vậy! Vũ Hoàng Chương đang trốn chạy,
tìm nơi ẩn nấp. Và cứ tưởng rằng, trốn vào men say và khói thuốc,
thì sẽ mất đi nỗi đau, sầu nhớ đó, nhưng rượu đã cạn, thuốc đã tàn
càng buốt lạnh thêm tâm hồn thi nhân:
“Say đã gắng để khuây sầu lẻ gối
Mưa, mưa hoài rượu chẳng ấm lòng đau
Gấm thế nào từ buổi lạnh lùng nhau
Vàng son có thay màu đôi mắt biếc?
Tình đã rời đi riêng mình tưởng tiếc
Thôi rồi đây chiều xuống giấc mơ xưa
Lá, lá rơi nằm bệnh mấy tuần mưa
Say chẳng ngắn những đêm dằng dặc nhớ…”
(Lá thư ngày trước)
Có thể nói, Mây là tập thơ hay và tiêu biểu về sự
bế tắc tình yêu, cuộc sống của Vũ Hoàng Chương. Trong đó, có một số
bài, một số câu thơ mới táo bạo đã đạt đến độ toàn bích. Có lẽ,
ở thời điểm đó, ngoài Vũ Hoàng Chương không ai dám viết và viết hay
được như vậy. Có một điều đặc biệt, đa phần những bài thơ hay của
ông đều thuộc thể thất ngôn. Ta hãy đọc lại đoạn trích trong bài Đời
Vắng Em Rồi, để thấy rõ sự chia ly và tình yêu đắng chát như vậy,
nhưng lời thơ rất đẹp, nhẹ nhàng và trau chuốt:
“…Em ơi lửa tắt bình khô rượu
Đời vắng em rồi say với ai”
…
Tuyết xuống phương nào lạnh lắm không
Mà đây lòng trắng một mùa đông
Tương tư nối đuốc thâu canh đợi
Thoảng gió trà mi động mấy bông.”
Trong cuộc sống đầy thị phi này, có rất nhiều người có
những mối tình đầu đổ vỡ, đắng cay. Nhưng thất vọng sầu thảm, gục
mặt vào bồng bềnh men khói, tìm đam mê, khoái cảm, quên đi nỗi buồn
dằng dặc như Vũ Hoàng Chương, thì quả thật trong văn học sử đất
Việt, (ngoài Hàn Mặc Tử cùng thời) dường như chỉ có nhà thơ, nhà
biên kịch Lưu Quang Vũ (có thể) coi là hậu nhân của ông mà thôi.
Vũ Hoàng Chương là người giỏi Hán Văn và chịu nhiều
ảnh hưởng Đường thi. Mỗi lần đọc ông, ta lại thấy hồn cốt của Bạch
Cư Dị, Lý Bạch… chợt hiện về. Những Đà Giang, Nghe Hát…đã nối dài
thêm mạch chảy Tỳ Bà Hành, một thi phẩm gắn liền với tên tuổi Bạch
Cư Dị. Và khi viết, ông sử dụng nhiều từ Hán Việt cũng như hình
tượng điển tích, làm cho lời thơ sang trọng ẩn chứa thiền triết hoài
cổ. Những nét phương đông cổ kính ấy cho ta cảm giác gần gũi lạ
thường.
Tuy sâu sắc như vậy, nhưng thơ ông lại kén người đọc,
nhất là tầng lớp bình dân và những người ít am hiểu văn học cũng
như (tích tuồng) lịch sử. Đoạn trích trong bài Chân Hứng dưới đây, cho
ta thấy rõ điều đó:
“Từ thuở chàng say ôm vũ trụ
Thu trong bầu rượu một đêm trăng.
Nhảy xuống muôn trùng sông quạnh quẽ
Đem theo chân hứng gửi cô Hằng.…
Ngựa ơi hãy nghỉ chân cuồng khấu
Cho thoả lòng ta nỗi khát khao
Ta chẳng mò trăng như Lý Bạch
Nhưng tìm thi hứng mất đêm nao…
Tình hoa thuở trước xô về đọng
Ơi phiến gương vàng một tối nay.
Ta lặng buông thân trời lảo đảo,
Mơ hồ sông nước choáng men say…”
Cũng là người yêu thích thơ Đường, nên tôi hay tìm đọc
những bài cổ thi qua bản dịch của các nhà thơ, dịch giả tên tuổi.
Bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, tôi đã được đọc từ khi còn ngồi
trên ghế nhà trường qua bản dịch của Tản Đà, sau đó là những bản
dịch Trần Trọng Kim, Ngô Tất Tố, Khương Hữu Dụng và một số người
khác. Tuy nhiên bản dịch của Tản Đà hay và nhiều người biết hơn cả.
Nhưng gần đây tôi mới tìm được bản dịch của Vũ Hoàng Chương. Đọc
xong, tôi lặng người, bởi lời thơ thoát, thoáng đạt giữ nguyên thể thơ
Đường, nhưng vẫn kéo tâm trạng sầu nhớ nao nao đi đến tận cùng trong
lòng người lữ khách. Qủa thật, bản dịch của Vũ Hoàng Chương tôi
thích hơn so với bản dịch theo thể lục bát của Tản Đà. Với tôi, đây
là tác phẩm (dịch) tuyệt bút của ông. Chúng ta đọc lại dịch phẩm
cuả Tản Đà và của Vũ Hoàng Chương, để nhìn nhận so sánh:
“Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Hạc vàng đi mất từ xưa,
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.
Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”
(Tản Đà)
“Xưa hạc vàng bay vút bóng người,
Đây Lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi.
Vàng tung cánh hạc đi đi mất,
Trắng một màu mây vạn vạn đời.
Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu,
Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi.
Gần xa chiều xuống đâu quê quán?
Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!”
(Vũ Hoàng Chương)
Sự giải thoát linh hồn.
Nếu thi phẩm Mây chỉ là những tiếng than trong sự bế
tắc cuộc sống, tình yêu, thì đến Lửa Từ Bi là sự giải thoát linh
hồn. Điều mà trước đây Vũ Hoàng Chương đã thử nghiệm và kiếm tìm
trong kháng chiến. Nhưng con đường giải thoát ấy, không chỉ đắng cay
thêm mà còn giết chết cả hồn thơ ông. Những bài thơ, câu thơ ông viết
trong thời gian này không hồn vía, nặng tính tụng ca, hò vè hô khẩu
hiệu. Có những câu thơ tối nghĩa và mất gốc “Vì giang sơn
quyết bỏ gia đình”. Nhớ Về Hà Nội Vàng Son được Vũ Hoàng Chương
viết vào năm 1947, là một bài thơ điển hình như vậy:
“…Năm cánh hoa xoè trên năm cửa ô (…)
Chen tiếng hoan hô, này khẩu hiệu
Muôn năm Chủ tịch Hồ Chí Minh!
Muôn năm người lính già tiêu biểu
Vì giang sơn quyết bỏ gia đình.
Ôi ngày mười chín, ngày sung sướng!
Vạn ước mong dồn một ước mong!
Ôi mùa thu ấy, mùa tin tưởng!
Một tấm lòng mang vạn tấm lòng.”
Nhát dao cắt đôi đất nước và cuộc di cư năm 1954 là
bước ngoặt lớn nhất không chỉ cho riêng Vũ Hoàng Chương, mà cho cả dân
tộc. Ông thực sự hoang mang trước sự bi đát ấy. Và với ông, lúc này
bàn đèn khói thuốc dường như không còn là nơi trú ngụ cho thể xác lẫn
tâm hồn. Sự dằn vặt làm ông thao thức và luôn tự hỏi về thân phận
con người trong loạn ly. Bài Nguyện Cầu của Vũ Hoàng Chương ra đời
trong hoàn cảnh, tâm trạng như vậy. Bài thơ mang hương vị thiền ở thể
lục bát. Khi viết bài này, dường như thi sĩ muốn bỏ cái tham, sân, si
của con người để đến gần nơi cửa phật. Cả bài thơ như một câu hỏi tu
từ: “Ta còn để lại gì không?” nhằm răn mình, răn đời vậy. Đây
là bài thơ không chỉ hay nhất trong thi tập Rừng Phong, mà còn là
trong số (ít) những bài hay nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông:
“Ta còn để lại gì không?
Kìa non đá lở, này sông cát bồi.
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước, xa xôi dặm về
Trông ra bến hoặc bờ mê
Nghìn thu nửa chớp, bốn bề một phương
Ta van cát bụi bên đường
Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này.
Ðể ta tròn một kiếp say
Cao xanh liều một cánh tay níu trời.
Nói chi thua được với đời
Quản chi những tiếng ma cười đêm sâu.
Tâm hương đốt nén linh sầu
Nhớ quê dằng dặc, ta cầu đó thôi!
Ðêm nào ta trở về ngôi
Hồn thơ sẽ hết luân hồi thế gian.
Một phen đã nín cung đàn
Nghĩ chi còn mất hơi tàn thanh âm.”
Đến với Lửa Từ Bi, Vũ Hoàng Chương đã bốc được ngôi
mộ sầu thảm ba mươi năm dài dằng dặc (1933-1963) ra khỏi linh hồn. Ông
hoàn toàn trở thành con người khác lạ. Ngòi bút của ông đã chọc
thẳng vào cuộc sống xã hội. Đứng trước sự đàn áp bắt bớ tù đày
của chế độ đương thời, ông đã đứng hẳn về phía công lý và sự thật.
Thi sĩ tìm ra con đường tự giải thoát mình, giải thoát đời. Và ông
đang đi từ hiện hữu đến với cái vô thường:
“Rồi đây, rồi mai sau, còn chi ?
Ngọc đá cũng thành tro
lụa tre dần mục nát
Với Thời-Gian lê vết máu qua đi.
Còn mãi chứ! còn TRÁI TIM BỒ TÁT
Gội hào quang xuống tận ngục A-tỳ.”
Ngọn đuốc sống (Bồ Tát) Quảng Đức đã cháy vào lòng
thi sĩ, để Vũ Hoàng Chương viết lên (Ngọn) Lửa Từ Bi gửi tình yêu
thương con người đến với con người. Bài thơ được chảy ra từ cảm xúc
tự nhiên của người thi sĩ, mang một chút hơi hưởng Tế Ca, không phải
sở trường viết của Vũ Hoàng Chương. Nhưng nó làm xúc động hàng
triệu con tim, không chỉ đóng khung trong đất Việt. Bởi, ngoài giá trị
thi ca và thông điệp chỉ có tình yêu mới xóa bỏ được hận thù, khổ
đau, nó còn là một lời cảnh tỉnh cho cả chế độ độc tài, độc đảng,
gia đình trị, phe nhóm trị. Với tôi, đây là một trong những bài thơ
hay nhất, nhân bản nhất trong thơ ca Việt từ một trăm năm nay:
“Lửa! Lửa cháy ngất Tòa Sen!
Tám chín phương nhục thể trần tâm
hiện thành Thơ, quỳ cả xuống.
Hai Vầng Sáng rưng rung
Đông Tây nhoà lệ ngọc
Chắp tay đón một Mặt Trời Mới Mọc,
Ánh Đạo Vàng phơi phới
đang bừng lên, dâng lên…
…
Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc!
Lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi!
Chỗ NGƯỜI ngồi: một thiên thu tuyệt tác
Trong vô-hình sáng chói nét TỪ-BI .”
Trong cái bi thương ấy, cũng thật may mắn thay, chiến
tranh, bom đạn bắt bớ tù đày, thi sĩ Vũ Hoàng Chương chợt nhận ra
ngọn Lửa Từ Bi đang ngùn ngụt cháy là nơi ẩn nấp, che chắn duy nhất
cho những linh hồn bơ vơ. Sự giải thoát ấy đã phá bỏ cái vòng tròn
ba mươi năm luẩn quẩn, từ đó con đường lên cõi Niết Bàn được mở ra
trong ông.
Thật vậy, không có chủ thuyết nào, chế độ nào giải
thoát được linh hồn con người, ngoài Đạo Giáo:
“…Nghe được từ lâu cá thở than
Hôm nay mới sõi tiếng cây ngàn
Bao giờ tôi hiểu sâu lòng đất
Là thấy đường lên cõi Niết Bàn…”.
(Nhị thập bát tú 2)
Trong cái xã hội nhá nhem điên loạn và sự bấp bênh
của thân phận con người, tết Bính thìn 1976 Vũ Hoàng Chương trải lòng
mình vào Vịnh Bức Tranh Gà Lợn. Đây là bài thơ hay và lạ. Lạ bởi có
lẽ ít ai dám đưa tục ngữ, thành ngữ vào trong thơ như ông một cách
dân dã và châm biếm như vậy. Đây là bài thơ có tính thời sự cao, dễ
thuộc đi vào mọi tầng lớp trong xã hội và lan truyền nhanh ở trong
nước cũng như ra hải ngoại. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, vì bài
thơ này Vũ Hoàng Chương đã phải vào tù. Tuy nhiên, tôi không nghĩ như
vậy, mà đây chỉ là cái cớ, nếu không có bài thơ trên, họ cũng sẽ
tìm ra muôn vàn lý do khác để bắt ông. Bởi cái Bóng của Vũ Hoàng
Chương quá rộng, quá dày đối với một chế độ nhìn đâu cũng thấy vi
trùng sợ hãi, dẫn đến việc ông phải nhập kho là điều không thể
tránh:
“Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành
Gà lợn, om sòm rối bức tranh
Rằng vách có tai, thơ có hoạ
Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
Lòng lợn âm dương một tấc thành
Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn
Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh”
Tôi không rõ bài thất ngôn tứ tuyệt: Dấu Hỏi Vây Quanh
Kiếp Người, được thi sĩ Vũ Hoàng sáng tác từ khi nào? Đây là bài
thơ có tính thiền triết, đầy hình tượng ám ảnh, cho ta cảm giác rờn
rợn khi đọc. Cả kiếp người là một câu hỏi, một câu hỏi trong vòng
luẩn quẩn, đến lúc nhắm mắt xuôi tay không lời giải đáp, mà chỉ có
tiếng vọng lại khi nắp quan tài sập lại:
“Dấu hỏi vây
quanh trọn kiếp người
Sên bò nát óc
máu thầm rơi
Chiều nay một
dấu than buông dứt
Đinh đóng vào
săng tiếng trả lời.”
Bài thơ này, tiếng vọng kia, phải chăng là câu kết hay
lời khép lại của chính cuộc đời thi sĩ Vũ Hoàng Chương?
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
Chuyện làng văn0
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ QUÊ NGHÈO:
*.
ĐỖ TRƯỜNG
Địa chỉ: Thành
phố Leipzig, tỉnh Leipzig,
Bang Sachsen, Cộng hòa Liên Bang Đức.
Email: dotruong07@yahoo.de
.............................................................................................................
- Cập nhật từ email
dovantuyenbk@yahoo.com.vn ngày 11.02.2023
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu
tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện
quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét