THƠ CŨ VÀ THƠ MỚI
*
Điều đáng chú ý là cụ
Phan Khôi (1887-1959) - cháu ngoại của cụ Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu - vốn xuất
thân là nhà cựu học, đã từng đỗ tú tài chữ Hán năm 18 tuổi nhưng lại cổ vũ cho
phong trào thơ mới. Năm 1928, trên Đông Pháp thời báo, cụ Phan Khôi đã dám
táo bạo chê luật thơ cũ của ta la trói buộc, tù hãm. Sau khi bài thơ Tình
già xuất hiện trên báo, phái thơ cũ phản ứng mạnh mẽ. Thi sĩ Tùng Thành
viết bài thơ Nhàn ngâm đả kích nặng nề:
"Trách
bác Phan Khôi khéo rắc rối,
Noi
gương Hồ Thích (1) làm thơ mới
Câu
dài, câu ngắn chẳng ra sao,
Vần
đụp, vần đơn nghe thật thối,
Hăng
hái, Thị Kiêm (2) diễn thuyết khen,
Nhiệt
thành, Thế Lữ lao công mãi.
Phải
chăng muốn diễn ý tân kỳ?
Hay tại
làm thơ cũ kém giỏi?".
Thật ra không phải Phan
tiên sinh làm thơ cũ kém giỏi, thơ Đường của cụ cũng rất hay (như bài Ngẫu
cảm, Viếng mộ ông Lê Chấu) nhưng vì cụ không muốn gò bó trong phép làm thơ nên
mới đề xướng ra cách làm thơ mới.
Sau Phan Khôi, hàng
loạt nhà thơ mới có tài bắt đầu xuất hiện trên thi đàn làm cho vị trí của thơ
mới ngày càng vững: Thế Lữ (tức Lê Ta), Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Huy
Thông, Nguyễn Nhược Pháp... Trước tình hình ấy, phái thơ cũ không tiếc lời chỉ
trích, chê bai thơ mới:
"Nghĩa
lý vơ vơ rồi vẩn vẩn,
Thanh
âm ngẩn ngẩn lại ngơ ngơ.
So với
Á học như dưa đắng,
Sánh
với Âu văn tựa mít xơ..."
Họ cho rằng những người
làm thơ mới đều bất tài, không làm nổi thơ luật nên mới phải làm thơ mới, là
một loại thơ dễ dãi về kỹ thuật, đó là những người chẳng hiểu gì về thơ cả:
"Lạy
bác xin đừng nói đến thi,
Nghĩa
thi chưa hiểu, hãy im đi".
và họ gọi những nhà thơ
mới là bọn mù và dốt:
"Chẳng
khác anh mù lại nói mơ,
Chẳng
qua một bọn dốt làm thơ".
(Những bông hoa trái
mùa của Tường Vân và Phi Vân)
Dần dần, báo chí bị lôi
vào cuộc và hình thành hai phe rõ rệt. Phe bênh vực thơ cũ có các báo: An Nam
tạp chí, Văn học tạp chí, Văn học tuần san, Công luận, Tiếng dân, Tin văn...
Phe bênh vực thơ mới có: Phong hoá, Ngày nay, Phụ nữ tân văn, Tiểu thuyết
thứ bảy, Loa, Hà Nội báo..., trong số này, báo Phong hoá là "hùng
hổ" nhất. Và nhóm Tự lực văn đoàn vốn chủ trương theo mới dĩ nhiên đứng
vào hàng ngũ của những nhà thơ mới.
Tản Đà lúc đầu rất thận
trọng, có ý muốn đứng ngoài. Tuy chẳng ưa gì thơ mới nhưng ông không để cơ quan
ngôn luận của mình là tờ An Nam tạp chí tấn công thơ mới. Mãi đến cuối năm
1932, thấy báo Phong hoá làm quá, ông mới cho đăng lên báo An Nam tạp
chísố 6 một bài thơ Ông Tản Đà nhắn bạn Phong hoá (Tửu nhập thi xuất)
nhưng tuyệt nhiên không đề cập gì đến thơ mới cả:
"Mấy
lời nhắn bảo anh Phong hoá,
Báo đến
như anh thật láo quá!
Từ
tháng đến năm không ngớt mồm,
Sang
năm Quí Dậu (1993) phải kiếm khoá.
Ông
nỉnh ông ninh có liệu mà...
Tái tứ
tái tam đừng trách nhá!
Chút
tình đồng nghiệp bảo cho nhau,
Nhờ gió
thổi đi mong cảm hoá".
Gặp dịp tốt, lập tức
báo Phong hoásố 28 (30/12/1932) phản ứng ngay bằng cách đăng bài hoạ
nguyên vận để đả kích Tản Đà:
"Anh
lên giọng rượu khuyên Phong hoá,
Sặc sụa
hơi men khó ngửi quá.
Đã dạy
bao lần, tai chẳng nghe,
Hẳn còn
nhiều phen mồm bị khoá.
Thân
mềm chưa chắc đứng ngay đâu,
Lưỡi
ngắn thì nên co lại nhá!
Phong
hoá mà không hoá nổi anh,
Tuý
nhân quả thật là nan hoá!"
Sau bài thơ hoạ nguyên
vận trên đây, báo Phong hoá còn đăng nhiều bài đả kích Tản Đà vì coi Tản
Đà là lãnh tụ của phái thơ cũ như bài Ông Hiếu với thầy Nhan Hồi
của Tứ Ly (HoàngĐạo), bài thơ của Vân Dương nói xỏ xiên Tản Đà, vở hài
kịch Tuồng cổ tân thời của Tứ Ly chế giễu không chỉ Tản Đà mà cả các ông
Hoàng Tăng Bí, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Tiến Lãng, Dương Bá Trạc, Nguyễn Công
Tiến, Trịnh Đình Rư, Lê Công Đắc... là những nhà văn nhà thơ cũ.
Sau Tản Đà, đến lượt Á
Nam Trần Tuấn Khải, một nhà thơ lừng danh thời trước, cũng bị Việt Sinh lôi ra
làm bia chế giễu. Việt Sinh viết:
"Trong sách
Chơi xuân của Nam ký, ông Á Nam vì xuân làm bài thơ xuân rất hay, rất
mới: "Một đời dược mấy gang tay, Một năm được mấy mươi ngày là xuân./
Gặp xuân ta phải chơi xuân,/ Kẻo mai hạ tới là xuân không chờ".
Hay tuyệt! Câu đầu cả ý
lẫn chữ là câu sáo cũ. Câu thứ hai cũng hay như câu thứ nhất. Câu thứ ba cũng
hay như câu thứ hai. Còn câu thứ tư không hay thì là của ông Á Nam!".
Năm 1934, khi cuộc bút
chiến đã đến hồi gay gắt, trên báo Phụ nữ tân vănsố xuân năm ấy, Tản Đà có
một bài "hài đàm" nói móc Phan Khôi vốn là người đã từng "đụng
độ" với ông mấy lần về vụ Nho giáo, vụ "Cái cười của con Rồng cháu
Tiên". Bài hài đàm mở đầu bằng một đoạn văn xuôi rồi kết thúc bằng một
bài "thơ mới":
"Đờn
là đờn
Thơ là
thơ
Thơ
thời còn có chữ, đờn có tơ
Nếu
không phá cách, vứt điệu luật
Khó cho
thiên hạ đến bao giờ/ Bá Nha xa
Lý Bạch
khuất
Thơ có
họ Phan, đờn họ Quách
Thơ có
chữ
Đờn có
tơ
Đờn thì
ngớ ngẩn, thơ vẩn vơ
Tài tử
văn nhân thường rứa rứa
Bút huê
ngao ngán bận đề thơ".
Không thấy Phan Khôi
trả lời. Điều đáng chú ý là tờ Phụ nữ tân văn trước nay vẫn đứng về phe
bệnh vực thơ mới, đã từng đăng bài thơ Tình già của Phan
Khôi mà nay lại đăng bài của Tản Đà móc Phan Khôi.
Các nhà thơ mới thường
hay chê các nhà thơ cũ ưa dùng những từ ngữ và hình ảnh cũ kỹ sáo mòn: hễ mùa
xuân thì trăm hoa đua nở, mùa hạ có tiếng cuốc tiếng ve, mùa thu thì sương sa
gió thổi, láng ô đồng rụng, mùa đông thì tuyết phủ, tuyết ngậm mặc dù ở Việt Nam
chẳng bao giờ có tuyết. Nhân Tản Đà cho đăng bài Cảm thu,
tiễn thu trong đó có những chữ: gió thu hiu hắt, sương thu lạnh, lá thu
rơi rụng đầu ghềnh, cỏ vàng cây đỏ..., Tú Mỡ bèn làm một bài hát nói khôi hài
để chế giễu lối làm thơ sai sự thực, trong đó có mấy câu:
"Cây
tươi tốt, lá còn xanh ngắt,
Bói đâu
ra lác đác ngô vàng.
Trên
đường đi nóng dẫy như rang,
Cảnh
tuyết phủ mơ màng thêm quái lạ!"
Trên báo Phong hoá
số 31, Nhất Linh chế giễu thơ của Phương Lang, một nhà thơ cũ:
"Vậy tôi chỉ
nói đến bài thơ của ông Phương Lang và xin chép lại bài thơ ấy ra đây lần
nữa: Mặt bẩn sao chưa lau?/ Con ra lấy cái thau./ Đổ nước, mang khăn mặt,/
Mau!
Thơ như thế sao gọi là
thơ được? Đó chỉ là mấy câu sai con mà có vần. Nó cũng như thơ con cóc mà thôi.
Nhất Linh lại xin bắt chước ông Phương Lang làm bài thơ theo lối ấy:
"Trông vào nồi,
cơm hết/ May còn miếng cháy giòn/ Ăn với cá kho mặn,/ Ngon! (Lạc quan)
"Tay tôi mụn ghẻ
đầy,/ May sao gặp thuốc hay./ Bôi được một tuần lễ,/ Khỏi ngay!" (Mừng
khỏi bệnh)”
Trên tờ Hà Nội báo
ngày 19/2/1936, Lưu Trọng Lư "nở một nụ cười kiêu hãnh" đăng bài thơ
thất ngôn sách hoạ chế giễu các nhà thơ cũ:
"Đôi
lời nhắn nhủ bạn làng Nho,
Thơ
thẩn, thẩn thơ, khéo thẫn thờ.
Nắn nót
miễn sao nên bốn vế,
Chẳng
thơ thì cũng cóc cần thơ!"
Không thấy ai hoạ lại,
có lẽ hoặc là vì xem thường, hoặc là vì tự ái.
Phong trào thơ mới lên
rầm rộ, lấn át hẳn thơ cũ, chiếm địa vị ưu thắng trên thi đàn. Nhưng bên cạnh
những bài thơ hay cũng có không ít những bài thơ dở. Khái Hưng, một cột trụ của
báo Phong hoá - tờ báo nhiệt liệt bênh vực thơ mới - có bài đăng trên báo này
đả kích những người làm thơ mới quá dễ dãi với mình, cho ra đời những đứa con
thiếu tháng. Sau khi vờ tự hỏi "làm thơ dễ hay khó?", ông đã mỉa mai
"chỉ độ vài giờ thôi" rồi viết:
"Vì thế kỳ báo
này/ Tôi lại/ Viết một câu văn vui đại khái/ Cũng bằng thơ mới/ Nói thơ tự do
thì có lẽ phải hơn, vì cứ mỗi lần/ Gặp vần là tôi tự do xuống dòng, bất kỳ câu
ngắn/ Hay dài, từ một đến mười hai chữ/ Như thế hẳn/ Chẳng khó khăn gì/ Mà bỗng
mình trở nên một nhà thi/ Sĩ/ Rồi các nhà phê bình sẽ/ Tìm ra những cái hay của
mình và có lẽ/ Tôn bừa mình lên bậc thi hào/ Thì mình cũng đành nhận chứ biết
sao!"
Trong khi đó, nhà thơ
Thế Lữ không tranh luận ồn ào, chỉ cặm cụi làm thơ và cho ra đời những bài thơ
hay, có chất lượng rất cao như: Nhớ rừng, Tiếng sáo
Thiên Thai, Giây phút chạnh lòng..., xây dựng một nền
tảng vững chắc cho thơ mới.
Cuộc bút chiến ấy kéo
dài đến năm 1936 thì nhạt dần rồi tàn hẳn. Thơ mới nghiễm nhiên chiếm ưu thế
trên thi đàn rồi đi vào lớp học, đẩy lùi thơ cũ vào dĩ vãng để nằm im dưới lớp
bụi thời gian. Nhưng khi thơ mới đã thắng thế rồi, người ta bắt đầu nghĩ lại và
cảm thấy ân hận về những điều đã làm trước đó. Trước kia, ai nấy đều đổ xô vào
mỉa mai, châm biếm, chế giễu Tản Đà thì từ năm 1938, Tản Đà được coi như vị
thánh sống của làng thơ. Nhất là sau khi Tản Đà từ trần (1939), người ta đua
nhau viết bài ca tụng ông như là người có công lớn đối với nền thi ca của dân
tộc. Và Hoài Thanh, khi viết cuốn Thi nhân Việt Nam, đã kính
cẩn đặt Tản Đà ở đầu trang sách với những lời cung chiêu sang trọng.
Ngay cả nhóm Tự lực văn
đoàn trước kia công kích Tản Đà là thế mà nay cũng cho đăng nhiều bài của Văn
Bình, Xuân Diệu, Khái Hưng trên báo Ngày nay ca tụng công lao và sự nghiệp
văn chương của Tản Đà. Tinh thần hoà giải ấy đã dần dần xoá đi sự hiềm khích
giữa hai phái thơ cũ và thơ mới.
Từ đó đến nay cũng đã
ngót bảy mươi năm, thơ mới ngày ấy nay đã trở thành thơ cũ. Một thời đại trong
thi ca đã khép lại, nhưng dư âm của những ngày sôi động ấy hẳn sẽ còn vang vọng
mãi trên thi đàn.
--------------------
(1) Hồ Thích (1891-1962):
nhà trí thức nổi tiếng của Trung Hoa đã từng du học ở Mỹ và suốt đời nỗ lực vận
động cho nền tân văn học.
(2) Cô Nguyễn Thị
Kiêm, một kiện tướng của nền thơ mới, đã hai lần đăng đàn diễn thuyết để bênh
vực cho thơ mới tại Hội khuyến học Sài Gòn ngày 26/7/1933 và 9/1/1935.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về Chuyện làng văn0
- Đặng Xuân Xuyến - Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến - Cảm nhận thơ văn 2l
- Bạn đọc cảm nhận về một số tác phẩm
của Đặng Xuân Xuyếnl
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc
bài thơ ĐÊM CUỒNG SAY:
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến
đọc bài thơ CẠN LÒNG:
Đinh Hoàng
Long giới thiệu
Sưu tầm: Huyền Viêm
- nguồn: nslide.com
Ảnh minh họa sưu tầm từ
nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét