CAO BÁ QUÁT
KẺ SĨ BẮC HÀ
Cao Bá Quát (1808 - 1855) tự là Mẫn Hiên,
hiệu (bút hiệu) là Chu Thần, Cao Chu Thần, Cúc Đường và Cao Tử người làng Phú
Thị (tên nôm gọi là làng Sủi) huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội. Ông nổi tiếng là
người thông minh, học giỏi, chữ đẹp, thơ hay. Đương thời, tầng lớp sĩ phu đã
suy tôn và truyền tụng, ca ngợi về tài năng văn chương của ông qua đôi câu đối:
“Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán/ Thi đáo
Tùng Tuy thất Thịnh Đường” (Văn như ông Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát
khiến văn thơ thời Tiền Hán mất hết cái hay/ Thơ của Tùng Thiện Vương, Tuy Lý
Vương làm mất hết cái hay của thơ thời Thịnh Đường); còn dân gian ngắn gọn hơn
thì bảo nhau rằng: “Thần Siêu, Thánh
Quát” (Nguyễn Văn Siêu tài như thần, Cao Bá Quát giỏi như Thánh). Tuy
nhiên, sinh bất gặp thời nên cuộc đời của Cao Bá Quát cũng phải chịu thăng trầm
theo thời cuộc với bao điều vinh nhục và kết thúc bằng một cái án chặt đầu và
chu di tam họ vô cùng thảm khốc. Nhưng vượt lên tất cả, cuộc đời và sự nghiệp
của ông để lại cho đương thời và lịch sử về sau một tấm gương sáng về một tấm
lòng nhân đạo và khí phách hiên ngang của một kẻ sĩ trong thời loạn. Chỉ cần
thế thôi, “Thánh Quát” đủ để sống mãi
trong lòng dân tộc với sự ngưỡng vọng của con cháu muôn đời.
1. Cuộc
đời tài cao phận thấp.
Cao Bá Quát là em sinh đôi cùng Cao
Bá Đạt. Thân phụ của anh em họ Cao vốn là nhà nho làm nghề bốc thuốc (Cao Huy
Sâm, sau đổi là Cao Huy Tham) nên đã lấy tên hai hiền sĩ nhà Chu để đặt tên cho
con với khát vọng mong hai anh em sẽ trở thành những bậc lương đống của nước
nhà. Hai anh em Đạt, Quát đã được cha gửi theo học ông thầy cùng họ hiệu Hồng
Quế (Cao Huy Diệu) dạy dỗ, dìu dắt. Ngay từ tuổi thơ Cao Bá Quát đã thể hiện
được tư chất thông minh với văn hay chữ tốt nên đương thời đã gọi là thần đồng.
Người ta kể rằng, Cao Bá Quát viết chữ Hán đẹp như tranh vẽ (bởi thế nên nhà
văn Nguyễn Tuân đã lấy ông làm nguyên mẫu cho nhân vật Huấn Cao nổi tiếng trong
truyện ngắn “Chữ người tử tù”). Ông có thể viết được cả bốn loại chữ chân,
thảo, triện, lệ mà loại nào cũng đạt đến trình độ đỉnh cao của nghệ thuật. Tuy
thông minh học giỏi nhưng Cao Bá Quát lại không chịu được sự khuôn phép, gò bó.
Thân sinh của ông đã từng bảo rằng: “Văn
của Bá Đạt hơn về khuôn phép nhưng kém về tài, tứ. Văn của Bá Quát hơn về tài,
tứ nhưng kém về khuôn phép”. Năm 12 tuổi, Cao Bá Quát đã lều chõng vào Hà
Nội theo các bậc đàn anh để dự thi hương. Tuy nhiên do văn chương vượt ra ngoài
khuôn phép của triều đình nên con đường khoa cử của ông khá lận đận. Mãi đến
năm Tân Mão, lúc đó 22 tuổi, ông mới đậu cử nhân tại trường thi Bắc Thành. Lúc
đầu ông đỗ Á nguyên nhưng sau khi Bộ Lễ xem lại thì ông lại đứng xuống cuối
bảng vì chuyện trường qui.
Sau khi đỗ cử nhân, Cao Bá Quát tiếp
tục ôm mộng công danh theo con đường khoa cử mong rằng sẽ đỗ đạt làm quan để có
dịp mang tài năng ra phò vua giúp nước. Ông đã hăm hở vào Huế, kinh đô của nhà
Nguyễn để thi hội. Ông dự thi ba lần nhưng hỏng cả ba. Những lần thi hỏng này
là những cú giáng đối với ông. Nếu Cao Bá Quát thi đỗ, thậm chí đỗ đầu bảng thì
cũng là lẽ thường, dễ hiểu với mọi người. Nhưng việc ông hỏng thi, thậm chí thi
ba lần đều hỏng thì lại là một điều băn khoăn, khó hiểu với không ít người. Một
người được ca tụng “Văn như Siêu, Quát vô
tiền Hán”, được ví “Thần Siêu, Thánh
Quát” như ông mà thi hỏng thì chẳng đáng để băn khoăn, khó hiểu hay sao?
Đây cũng là những vấp ngã, là mối hận đầu tiên của Cao Bá Quát khi bước vào đời
và với triều đình nhà Nguyễn.
Cũng kể từ đây ông chấm dứt ý định tiến
thân bằng con đường khoa cử. Tuy nhiên sau khi vua Minh Mạng mất, năm 1840 vua
Thiệu Trị lên ngôi. Thiệu Trị tỏ ý trọng dụng hiền tài nên quan đầu tỉnh Bắc
Ninh đã tiến cử ông. Được triều đình trọng dụng Cao Bá Quát đã hăm hở lai kinh
và nhận chức hành tẩu tại Bộ Lễ. Đến năm 1841, triều đình có cho mở khoa thi.
Ông được cử làm sơ khảo tại trường thi Thừa Thiên. Trong khoa thi này, khi chấm
bài, Cao Bá Quát thấy một số bài thi hay nhưng phạm húy vì mến tài nên ông đã
cùng với một người bạn là Phan Nhạ lấy bút chấm muội đèn chữa bài thi. Sự việc
bại lộ ông đã bị tống ngục Trấn Phủ, kết tội xử chém. Sau đó sự việc được xét
lại thì ông chỉ bị cách chức. Đầu xuân 1843, Cao Bá Quát được cử đi theo phục
dịch đoàn công cán của triều đình nhà Nguyễn ở Inđônêxia. Sau chuyến đi lấy
công chuộc tội này Cao Bá Quát đã được cho phục chức nhưng một thời gian sau
thì bị xa thải về quê.
Là con người hành động, ôm hoài bão
nên Cao Bá Quát không yên phận với cuộc sống ở quê nhà. Ông vẫn mong muốn triều
đình có ngày lại trọng dụng mình. Đúng lúc ấy, năm 1847, cuối thời Thiệu Trị
ông lại có chiếu triệu vào kinh. Lần này ông lại phấn khởi nhập cuộc. Vào đến
Huế ông lại được cử đi công cán ở vùng Nam Trung Bộ, thực ra đây là công việc
của người đi đày nên ông đã rất chán ngán. Sau đó ông đã được giao việc ở Viện
Hàn Lâm (phụ trách việc sưu tầm sắp xếp các tài liệu thơ văn cho vua dùng). Với
tính cách của Cao như vậy triều đình nhà Nguyễn khi ấy khó có thể hòa hợp được
hiền tài nên cuộc sống ở kinh thành chỉ làm cho Cao Bá Quát cảm thấy buồn chán
và căm tức. Cứ vậy, mối quan hệ giữa vua quan nhà Nguyễn với ông ngày càng xa
cách. Mùa hè năm 1850 Cao Bá Quát đã bị đẩy về làm giáo thụ phủ Quốc Oai.
Gần với nhân dân, tận mắt chứng kiến
sự suy thoái của nhà Nguyễn và nhất là khi mùa màng thất bát do nạn châu chấu
hoành hành ở xứ Đoài mà triều đình chẳng ngó ngàng gì tới, Cao Bá Quát đã ngày
càng nhận ra con đường giải thoát mình và cứu giúp lương dân. Năm 1853, lấy cớ
phụng dưỡng mẽ già ông đã xin nghỉ dạy học ở phủ Quốc để về quê. Bắt đầu từ đây
ông đã tích cực liên kết với những người cầm đầu cuộc khởi nghĩa để chống lại
triều đình. Dưới danh nghĩa phù Lê, ông và các nghĩa binh suy tôn Lê Duy Cự làm
minh chủ và tự mình xưng làm Quốc sư kêu gọi đồng bào Kinh, Mường tham gia khởi
nghĩa dưới lá cờ nghĩa với hai dòng chữ lớn: “Bình Dương, Đồ Bản vô Nghiêu, Thuấn/ Mục Dã, Minh Điều hữu Võ, Thang”
(Ở Bình Dương và Đồ Bản không có những vua tốt như Nghiêu, Thuấn thì ở Mục Dã,
Minh Điều phải có những người như Võ, Thang để chống lại). Do kế hoạch khởi
nghĩa chưa được chuẩn bị chu đáo, một phần cũng là do bị bại lộ nên cuộc khởi
nghĩa đã bùng nổ sớm hơn so với dự định. Cuộc khởi nghĩa kéo dài trong vài
tháng, đánh chiếm được phủ lỵ Ứng Hòa, huyện lỵ Thanh Oai … làm cho triều đình
nhà Nguyễn phải điên đảo. Tuy nhiên do lực lượng không cân xứng nên cuộc khởi
nghĩa nhanh chóng bị triều đình đàn áp và thất bại. Vua Tự Đức đã treo giải
thưởng cao nhất cho ai bắt được hoặc giết chết Cao Bá Quát. Tháng giêng năm
1855, tên Suất đội đã bắt và giết Cao Bá Quát. Tự Đức đã cho chặt đầu Cao Bá
Quát để bêu ông ở quê nhà và nhiều nơi khác, sau đó triều đình nhà Nguyễn đã
cho băm nhỏ và vứt xuống sông cho hả giận. Đồng thời để trả thù và thị uy người
khác nhà Nguyễn đã cho bắt, giết hết họ hàng nội ngoại của Cao Bá Quát ở quê
hương. Anh trai song sinh của ông là Cao Bá Đạt khi ấy làm quan ở Nông Cống
(Thanh Hóa) cũng bị bắt và phải tự tử dọc đường.
Tin Cao Bá Quát bị bắt và bêu đầu
khi ấy đã gây xúc động cho rất nhiều người. Nhiều người đã căm tức sự hèn hạ
của nhà Nguyễn và tiếc thương ông. Kết thúc cuộc đời và sự nghiệp ở tuổi 47
nhưng Cao Bá Quát đã để lại một ấn tượng tốt đẹp với nhiều giai thoại về tài năng
và khí phách hiên ngang trước các thế lực bạo tàn và hủ bại đáng cho đời sau
noi theo. Tuy nhiên cũng có người nói, Cao Bá Quát bị thương, bị bắt giải về Hà
Nội nhưng có người thương ông nên đã dùng một người có diện mạo giống ông để
đánh tráo. Sau đó ông trốn lên Lạng Sơn và biệt tích. Cảm phục tinh thần và
nhân cách của một con người “tài cao phận thấp”, nhà thơ - nhà cách mạng Sóng
Hồng (Trường Chinh) đã viết: “Dấu xưa nay
biết đâu tìm/ Thương ai bảy nổi ba chìm nước non/ Trăng kia khi khuyết khi tròn/
Tinh thần phản kháng vẫn còn sáng soi” (Đến Giacacta nhớ Cao Chu Thần).
2. Nhất sinh đê thủ bái mai hoa
Cao Bá Quát khí tiết lừng danh. Cả cuộc
đời, ông chưa bao giờ khom lưng uốn gối cúi đầu phụng sự cường quyền bất nghĩa.
Một con người sống hiên ngang, bất khuất, từng là lãnh tụ của phong trào khởi
nghĩa làm rung chuyển đất Bắc khiến triều đình nhà Nguyễn phải hoang mang, kinh
sợ như thế, vậy mà, trong đời thường ông sống vô cùng nhân hậu với nhân dân;
yêu quí bạn bè; gắn bó nghĩa tình với gia đình, đất nước quê hương. Suốt đời
ông luôn khát khao vươn tới cái đẹp, cái thanh tao.
Tấm chân tình nồng hậu, cao đẹp của ông
trước hết dành cho quê hương. Với Cao Bá Quát, quê hương luôn “nghĩa nặng tình sâu”. Dù ở đâu ông cũng
vẫn luôn hướng về quê nhà với một nỗi niềm, đau đáu, da diết:
“Nhất
thanh cô ố nhập liêm lung
Kinh
khởi ly nhân phục chẩm trung/
Khả ức
cố hương phong vật phủ
Am la
hoàng tiếp lệ chi hồng”
(Văn bá lao)
(Một tiếng tu hú vang vào trong rèm/ Đánh
thức người tha hương dậy, nằm gục đầu trên gối/ Không biết ở quê nhà phong vật
bây giờ như thế nào/ Có lẽ mùa Xoài chín vàng tiếp theo mùa vải chín đỏ)
“Hương
sầu duy phạm dạ
Thân
sự dục qua niên”
(Hàn dạ tức sự)
(Nỗi buồn nhớ quê không chừa gì đêm khuya/
Công việc của mình chừng muốn qua năm khác)
“Mạch
mạch tương khan thức lệ ngân
Nam
nam bất yếm thoại hương thôn”
(Kiến bắc nhân lai, nhân thoại cố hương tiêu
tức)
(Tần ngần vừa nhìn nhau vừa gạt nước mắt/
Rì rầm nói chẳng hết chuyện trong làng)
Quê hương, cái làng Sủi, ở đấy có cây gạo,
có rặng tre, có ao nước lúc nào cũng hiện lên trong tâm trí ông với một khắc
khoải mong muốn được trở về:
“Cao
cao mộc miên thụ
Cổ cán
hà thanh sơ ...
...
Trúc mật phú dư kính
Thảo
phong nhiễu tiền trừ
Bích
chiểu hý tiêm lân
Lục
đẳng tú gia sơ”
(Tương đáo cố hương)
(Cây gạo cao cao kia/ Gốc già mà ngọn
thanh thanh đẹp làm sao .../ ... Tre rậm che kín lối đi/ Cỏ tốt mọc quanh trước
thềm/ Cá tung tăng lội trong ao nước biếc/ Lúa tốt xanh um khắp chốn ruộng
đồng).
Nỗi niềm với quê hương đất nước ở trong
Cao không chỉ là sự gắn bó, nhung nhớ làng Sủi với cảnh làng quê hôm sớm. Rộng
hơn, trong thơ ông ta thấy Cao luôn canh cánh với vận mệnh của đất nước. Vốn là
người nhạy cảm, có tư tưởng tiến bộ, được đi nhiều nơi khắp cả trong và ngoài
nước nên ông sớm nhận ra sự bất lực của Nho giáo trước thời cuộc:
“Xuất
môn như hải lữ tình khiên
Tảo
tín văn chương bất trị tiền”
(Thuật hoài)
(Rời nhà đi hải ngoại, mối tình của người
lữ khách vấn vương hoài/ Sớm tin rằng văn chương không đáng giá đồng tiền)
Từ nhận thức này, trước sự phát triển mạnh
mẽ của chủ nghĩa tư bản phương Tây, ông không khỏi bàng hoàng lo lắng cho vận
mệnh dân tộc trong tay triều đình phong kiến nhà Nguyễn đang lạc hậu và cổ hủ:
“Ngã
thị Trung nguyên cựu nhân vật
Tây
phong hồi đầu lệ phân phân”
(Dữ Hoàng Liên Phương ngữ cập hải
ngoại sư triếp hữu sở cảm, tẩu bút
dữ chi)
(Ta là nhân vật cũ của Trung Nguyên/ Quay
đầu nhìn ngọn gió Tây mà lệ rơi lã chã)
Để rồi từ đó ông căm ghét cái bọn
quyền quý mà đầu óc tối tăm ở trong nước quanh năm lấy Khổng sân Trình làm
những thước đo, chẳng biết gì về thời thế, thảm hại lố bịch như một anh hề:
“Xuất
thế khởi vô chân diện mục
Phùng
trường lãng tiếu cổ y quan
Hổ môn
cận sự quân tri phủ
Thán
tức hà nhân ủng tỵ khan”
(Dạ quan Thanh nhân diễn kịch
trường).
(Ra đời lẽ nào không có bộ mặt thực/ Mà
vào cuộc vui để cười đùa với bộ mũ áo xưa/ Việc ở Hổ môn gần đây anh có biết
không/ Đáng phàn nàn cho ai đó cứ nghênh mũi ngồi xem)
Yêu quê hương đất nước như vậy, Cao Bá Quát
không thể không gần gũi với nhân dân. Có thể nói suốt đời ông lo cho dân. Ông
nổi dậy chống lại triều đình nhà Nguyễn cũng bởi vì thương cảnh lầm than của bá
tính. Suốt đời ông vui với cái vui của nhân dân và lo cùng nỗi lo của nhân dân.
Ở đất nước nông nghiệp còn lạc hậu, trồng trọt chủ yếu phụ thuộc vào thời tiết
theo kiểu “ơn trời mưa nắng phải thì” nên niềm vui nỗi buồn của Cao cũng thấp
thỏm theo tiết trời mưa nắng. Ông đã từng cất tiếng reo vui khi thấy mưa về làm
cho lão nông mừng vui sung sướng:
“Điền
tẩu quy lai hà thái hỷ
Đồn đề liệu lý hạ tân niên”
(Đắc vũ tác)
(Ông lão nông trở về sao lại sung sướng
như thế/ Chân giò lợn mua sẵn để ăn mừng năm mới).
Mỗi khi mùa màng thiếu nước, thấy mưa nhỏ
lòng ông lại không khỏi phấp phỏng, âu lo:
“Vũ
trạch cẩu phục sắc
Thích
thích tại lai thần”
(Vi vũ)
(Nếu mưa móc lại ít ỏi/ Thật đáng lo buồn
cho ngày mai).
Và khi mùa màng chín rộ, chưa kịp thu
hoạch, gặp mưa to không ngớt ông cũng lại không khỏi bồn chồn lo lắng suốt cả
đêm thâu:
“Hắc
vân thùy quá tường
Thiên
hôn ngưỡng nan thị
Ngung
tọa độc trầm ngâm
Đáo
minh thượng bằng kỷ”
(Trung dạ thập tứ vận)
(Mây đen lướt qua đầu tường/ Trời
tối sẫm trông lên không rõ/ Ngồi góc nhà ngâm khẽ một mình/ Đến sáng vẫn còn
tựa ghế)
Cũng có khi mưa to, nước sông dâng cao,
ông lại nghĩ đến cảnh đê vỡ mà lo lắng, xót thương:
“Bạo
vũ khuynh thiên lậu
Phi
đào táp địa lai
Thế
liên giang sắc tráng
Thanh
nhập dạ phong ai
Xích
nhật hành hà đạo
Thương
sinh tán kỷ hồi
Khách
tình ngâm vọng viễn
Thu
khí chính tương thôi”
(Đối vũ)
(Mưa dữ như nghiêng trời đổ nước xuống/
Sóng tung tóe tràn ngập mặt đất/ Một màu liền với dòng sông, thế trông rất
mạnh/ Tiếng reo hòa cùng gió đêm nghe cùng ai oán/ Mặt trời đỏ lẩn đi đằng nào/
Để dân đen than thở mãi/ Nỗi lòng khách chỉ ngâm nga và ngóng trông/ Chính là
lúc hơi thu đang giục giã).
Cao Bá Quát yêu nước, thương dân nhưng
không thể thoát ra ngoài vòng cương tỏa của xã hội phong kiến đương thời. Tầm
vóc tư tưởng của Cao tuy to lớn hơn cái xã hội ngột ngạt ấy nhưng ông vẫn bị nó
chi phối. Bởi vậy sự phản kháng với cái xã hội ấy trong thơ được ông được gửi
gắm qua những khát vọng về một xã hội thái bình. Ở đó ít thiên tai và nhân họa,
không có chiến tranh, loạn lạc, không có cảnh:
“Hoang
thôn đỗ vũ tam canh oán
Châu
đạo hồ ly nhật tân hoành”
(Vọng Khoái Châu hữu cảm)
(Thôn hoang tiếng cuốc ba canh ai
oán/ Đường cái lớn suốt ngày cầy cáo tung hoành).
Cũng có khi mạnh mẽ hơn, khi Cao Bá Quát
kín đáo lên án, đả kích bọn quan tham hại dân hại nước qua hình ảnh con chuột:
“Tân
khổ cập thành gia
Trí
khí khả bất tích …
...
Đản giới thiết thời bạo
Thâu
lợi phi an đồ”
(Phủ hạ thử)
(Biết bao nhiêu đau khổ đắng cay ta mới
dựng nên cửa nhà/ Biết bao vật dụng sắm sửa được sao không tiếc …/... Ta
cảnh cáo bọn chuột chớ ăn vụng bừa bãi/ Vì hám lợi quá không phải là chước lâu
dài).
Và sinh tồn trong cái xã hội ấy con người
sao có thể tránh khỏi cái cảnh phá sản ly phương tha phương cầu thực, bởi vậy
ông càng xót thương:
“Tích
giả đê hạ điền
Thập
mẫu phả dĩ phong
Tự
thất Mậu Tý thu
Lữ
thực vô tây đông”
(Phụ tương tử)
(Ngày trước có ruộng ở chân đê/ Mười
mẫu tạm cũng đầy đủ/ Từ năm Mậu Tý mất mùa/ Phải đi kiếm ăn đây đó);
“Vũ
vũ thùy gia tử
Y phá
lạp bất hoàn …
...
Nhị nhật điển không khiếp
Tam
nhật xuyến ung xan”
(Đạo phùng ngã phu)
(Con nhà ai một mình đi thất thểu/
Áo rách nón cũng không lành …/... Ngày thứ hai bán cái tráp không/ Ngày thứ ba
nhịn cả hai bữa).
Nhưng có lẽ đầy đủ hơn cả cho cái cảnh lầm
than của nhân dân đương thời hiện ra dưới ngòi bút của Cao là cái cảnh dân
phường Phúc Lâm giục nhau bỏ chạy khi thấy “Công
sai” về:
“Kỳ
mãn vô nhân tứ truy trục
Huyện
quan phụ mẫu phất ngã sát/
Tuyển
tào tiên phác như triết trúc
Thả
ngã nhị huyện thùy thế cư …
...
Binh đào dịch trọng khổ vị trừ
Tử
nhược điệt bần khí hương lý ”
(Phúc Lâm lão)
(Hết hạn không có ai thì người ta
lùng bắt tứ tung/ Quan huyện là cha mẹ dân đã chẳng xét cho/ Nha lại còn đánh
đạp dân như chém tre …/ Nào lính nào phu nỗi khổ chưa qua/ Con bé cháu nghèo
đều bỏ làng đi hết).
Vốn là một người được đào tạo trong khuôn
khổ của cửa Khổng sân Trình nên đạo hiếu trung nghĩa đã ngấm sâu trong tâm hồn
Cao Bá Quát. Là một người con Cao lúc nào cũng hướng về cha mẹ với một lòng
thành kính nhớ thương:
“Bạch
phát cao đường ỷ vọng thâm
Tha
hương thê tử hự như kim
Hành
như hoặc sử tri dư tội
Tình
cựu năng vong huống khách tâm”
(Thuyền hồi quá Bắc Dữ giản Trần Ngộ
Hiên nhị thủ)
(Ở nhà cha mẹ tóc trắng tựa cửa trông
hoài/ Nơi xa xôi, vợ con lại phải chịu cảnh như ngày nay. Cái gì xui khiến cho
ta đi, ta đã biết là người có tội/ Tình cảm đời nào quên được huống hồ mình lại
mang tấm lòng ở đất khách).
Đó là khi ông công cán ở nước ngoài. Còn
khi bị bắt giam, ở trong ngục tù, nỗi niềm ấy lại càng tăng lên gấp bội:
“Cố hương hữu mộng tri hà đáo
Thùy
hướng cao đường úy nhị thân”
(Cử nguyệt sơ thất nhật dĩ trường sự
hạ Trấn phủ ngục)
(Cái mộng về cố hương biết bao giờ
được/ Ai là người đến nhà an ủi cha mẹ ta).
Khi nghe tin chị gái mất Cao choáng
váng, đứng ngồi không yên. Nhưng ở giữa nơi đất khách ông biết làm gì hơn là
hướng cái nhìn về quê mẹ:
“Nhật
mộ độc trầm ngâm
Tam
vãng vọng thành bắc”
(Đắc gia thư thị nhật tác)
(Trời tối độc một mình trầm ngâm/ Nhiều
lần ra ngóng về phía bắc thành).
Ngoài ra, đọc thơ của Cao ta còn
thấy tình thương yêu vợ, con lúc nào cũng thường trực trong ông và không ít lần
ta thấy Cao đã thốt lên trên trang giấy:
“Tử nữ thâm tương luyến”
(Tích viễn)
(Với con cái thì rất đỗi nhớ thương);
“Chuyết
thê ỷ chẩm sơ bồng nấm
Trĩ tử
khiên y tạ khúc quăng”
(Bệnh trung).
(Người vợ vung tựa vào gối chải mái tóc
rối/ Đứa con thơ kéo áo ghé vào cánh tay nằm)
Tình yêu thương trong Cao Bá Quát, ta thấy
ông không chỉ dành cho những người trong gia đình mà với bạn bè cao cũng vậy.
Xem lại thơ Cao, ta thấy tình bạn của ông cũng cao đẹp vô cùng:
“Hương
viễn mộng trở tam thu lạo
Nhi nữ
sầu liên bạc mộ nha
Thùy
đạo Mao khanh thành lục lục
Bình
Nguyên môn hạ cánh tha đà”
(Thương Sơn công hữu sở quỹ vật kiêm
chí hảo thi, bộc phương nhiễu
phu thất tử chi thích, cảm thế giao khẩn
tình hiện hồ từ)
(Hồn mơ về quê nhà, bị nước lụt mùa thu
ngăn cách/ Mối sầu thương con giay dứt trong tiếng quạ chiều hôm/ Ai ngờ chàng
Mao Toại mà ra người tầm thường/ Cứ lần nữa mãi dưới cửa nhà Bình Nguyên Quân)
Đó là với Miên Thẩm. Còn đây là là
cuộc chia tay với bạn dưới sự chứng kiến của vầng trăng sông Trà:
“Tửu
mãn tu khuynh vị quân thuyết
Đà môn
cựu lữ Tồn Chân ông,
Cần
hải minh tiên hiểu tương biệt...”
(Trà Giang thu nguyệt ca)
(Muốn nghiêng bầu rượu cùng trăng nói/ Tồn
Chân bạn cũ cửa sông Đà/ Sớm mai quất ngựa bể Cần xa...)
Tâm hồn Cao Bá Quát phong phú và nhân hậu.
Trái tim Cao Bá Quát đa cảm và bao dung. Ông không chỉ yêu người mà còn yêu cả
mọi tạo vật xung quanh với những cây cối, hoa lá, trời mây, non nước hữu tình.
Những cảnh vật ấy hiên lên trong thơ ông cũng thật vô cùng sinh động và rất
đáng yêu. Đây là cảnh núi Sài Sơn qua trận mưa nhỏ:
“Tiểu
vũ sạ qua hồng ngẫu phố
Hàn
chung hốt khởi tịch dương lầu”
(Vãn
du Sài Sơn vũ hậu
đăng sơn đầu đề bích).
(Trận mưa nhỏ vừa qua, bến nước đầy sen đỏ
thắm/ Tiếng chuông chùa vẳng bỗng ngân lên từ trên lầu dưới bóng tà dương).
Hay đây là hoa lá trong vườn nhà họ Quan:
“Kim
phong sắt súc khởi vi lương
Tùng
quế u lan các tự hương
Sơ đạm
sổ chi xuất danh cúc
Phân
minh nhất bức tả thu quang”
(Du quan thị viên cư khán cúc)
(Gió thu dồn se sắt nổi lên cơn mát dịu/
Khóm quá và lan thanh đều tỏa mùi thơm/ Vài cành cúc thuộc loại nổi tiếng trông
đơn sơ mờ nhạt/ Một bức tranh vẽ cảnh mùa thu rất trong sáng).
Trong hành trình đi qua đèo Ngang. Cảnh
vật nơi đây hiện lên dưới ngòi bút của Cao Bá Quát không còn sợ hãi, khiếp đảm
nữa. Trái lại đèo Ngang hiện lên cũng rất sinh động và rất hữu tình:
“Nhất
bích ngưng vị giới
Trùng
vân nhiễu tác thành
Viễn
phong xung hải tập
Cao
lãng tiếp thiên bình”
(Châu trung hiểu vọng phụng trình đồng
châu chư quân tử)
(Một màu xanh biếc đọng lại làm giới hạn/
Nhiều lớp mây vây lại làm những bức thành/ Ngọn núi xa chìa ra đứng giữa biển/
Làn sóng cao giáp tới chân trời).
Còn đây là cảnh sông núi xứ Huế mộng mơ
khi Cao đi qua sông Hương:
“Vạn
chướng như bôn nhiễu lục điền
Trường
Giang như kiến lập thanh thiên
Sổ
hàng ngư đĩnh liên thanh trạo
Lưỡng
cá sa cầm khuất túc niên”
(Hiểu quá Hương Giang).
(Muôn dãy núi như chạy vòng quanh
khu ruộng xanh mướt/ Ngọn sông dài như lưỡi gươm dựng giữa trời xanh/ Mấy dãy
thuyền chài không ngớt tiếng hò khoan đưa mái chèo/ Hai con chim trên bãi đứng
co chân ngủ).
Còn núi Tổ của nước Nam, Cao Bá Quát nhìn
với một cảm hứng lịch sử. Ông không chỉ cho người ta thấy hình dáng bề thế hiên
ngang một cách đáng yêu mà còn cho thấy niềm tự hào của con người đất Việt về
linh khí thiêng liêng của núi non khiến cho kẻ thù phải bất lực:
“Danh
sơn sơn thượng cổ kim truyền
Tứ
vọng đoàn đoàn nhược tản viên
Vân
mại trùng tiêu tinh khả trích
Địa
dao vạn nhận thủy vô truyền
Yên hà
truyền tỏa vô trần cảnh
Tuyền
thạch nhàn thê bất lão tiên
Đường
Ý đảm hàn, Cao thúc thủ”
(Vịnh Tản Viên Sơn)
(Đỉnh núi nổi tiếng trên núi, xưa nay vẫn
truyền tụng/ Bốn bề tròn trĩnh như hình cái tán/ Mây giáp tới tận trời, các
chòm sao có thể hái được/ Đất xa hàng vạn bậc, nước lụt không làm gì nổi/ Khói
mây luôn luôn khoá kín một cõi xa trần tục/ Giữa cảnh suối đá sống thảnh thơi
một vị tiên không già/ Đường Ý khiếp đảm, Cao Biền phải bó tay/ Chót vót ở miền
cực nam, trấn giữ trời phương nam).
Cao Bá Quát vang danh tài hoa; suốt đời
không chịu cúi đầu trước bất nghĩa, bất công; hiên ngang trước giáo gươm, súng
đạn. Con người ấy khí tiết cứng cỏi như sắt đá nhưng tâm hồn lại rất đa cảm và
bao dung. Chính trái tim ấm áp nhân hậu ấy đã đưa đường dẫn lối cho ông về với
nhân dân. Và hành trình cuộc đời của Cao Bá Quát là hành trình không ngừng nghỉ
để đi tìm công lý và công bằng xã hội cho mình và cho mọi người. Suốt đời ông
khát khao, tìm kiếm và vươn tới cái đẹp. Đó là cái đẹp của tự nhiên, của con
người, của những khát vọng tự do. Có thể nói khí phách và tấm lòng ấy của Cao
Bá Quát được phản ánh chân thực qua đôi câu đối vốn được người đời truyền tụng,
ngợi ca: “Thập tải luân giao cầu cổ
kiến/ Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”. Dịch nghĩa: “Mười năm đi tìm gươm báu/ Một đời chỉ biết cúi đầu trước hoa mai”.
Chỉ vậy thôi, tư tưởng và tấm lòng của Cao Bá Quát còn sống mãi với đất nước,
nhân dân.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
Chuyện làng văn0
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
- Bạn đọc cảm nhận
về thơ của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl
Mời nghe nhạc phẩm XUÂN ĐÃ VỀ
của Minh Kỳ, qua tiếng hát Minh Hằng:
Trần Chí Cường giới thiệu
Tác giả: Phan Ngọc Anh - nguồn: vanchuongviet
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn:
internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét