UỐNG RƯỢU VỚI CHỒNG
MỘT
‘ĐOẠN TRƯỜNG THƠ’
*
UỐNG
RƯỢU VỚI CHỒNG
Quanh năm khó nhọc bộn bề
Sớm đi sấp ngửa, tối về đăm chiêu
Bởi chưng chạy trốn cái nghèo
Bao nhiêu hy vọng thả theo gió trời
Oái oăm là cái sự đời
Có trôi chảy cũng nửa vời đắng cay
Ngồi buồn rót rượu ra say
Chén này nhắm với nỗi này phải không?
Ừ thì đắng nuốt vào lòng
Cay phà vào gió mênh mông quanh mình
Mặc cho thiên hạ rập rình
Ta ngồi đây rót cho mình, cho nhau
Này là bể khổ nguồn đau
Này là đò chật sông sâu chập chờn
Nhấp môi chạm phải cơn nguồn
Gió ào ạt gió, mây lờn vờn mây
Thì mình cứ rót em say
Tựa vào hơi ấm mà bay một lần
Đất xa, trời tạt xuống gần
Chung chiêng cả mấy mươi phần thế gian...
*.
NGUYỄN
LAM ĐIỀN
(Nguyễn Lam Điền, tên thật là Nguyễn Thanh Huyền, sinh năm 1975, tốt
nghiệp Khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà nội, hiện đang giảng dạy tại trường
Trung học Phổ thông Nguyễn Trãi, thành phố Hải Dương.)
LỜI BÌNH:
(Tác giả Đặng Văn Sinh) |
Đọc bài thơ, hẳn là
giới mày râu phải ngạc nhiên, bởi từ cổ chí kim, hiếm có người đàn bà ngồi buồn
rủ chồng uống rượu. Nhân vật trung tâm của bài thơ hiển nhiên là người vợ, anh
chồng chỉ đóng vai trò thứ yếu, xuất hiện như một cái cớ, thông qua hình tượng
chén rượu để người vợ bộc lộ tâm trạng. Ngay từ những câu đầu tiên, người đọc
đã thoáng nhận ra, có một cái gì đó bất ổn, mất cân bằng, bị dồn nén quá lâu, luôn
có nhu cầu giải phóng. Đây là tâm trạng dằn vặt, u uất của cặp vợ chồng gặp rủi
ro sau những tháng năm dài bươn chải kiếm sống. Có điều họ là những người đủ
bản lĩnh, hiểu được thế thái nhân tình, âm thầm nhìn đời mà chiêm nghiệm. Thực
ra, rượu chỉ là cái cớ, người phụ nữ ấy chắc chả uống được đến nửa chén nhưng
bản lĩnh thật đáo để, cương cường, quyết đoán đến mức dám thách thức cả thế
gian. Cứ theo văn bản mà xét, hầu hết những câu thơ đều toát lên nỗi ngậm ngùi,
ẩn chứa những giọt nước mắt, lúc thì lẳng lặng "nuốt vào lòng" mặc
cho dòng đời đưa đẩy, lúc thì như muốn vỡ òa, hiển hiện thành lời cay đắng thậm
chí chao chát. Cách vận dụng lớp từ láy, từ ghép ở đây đạt đến hiệu quả bất ngờ
làm người đọc không khỏi sửng sốt trước khả năng diễn đạt ý tưởng bằng ngôn ngữ
dân gian thông qua những cấu trúc gần với thành ngữ của tác giả: "Oái oăm là cái sự đời", "Ừ thì đắng nuốt vào lòng", "Này là bể khổ nguồn đau / Này là đò chật
sông sâu chập chờn"... Đến đây thì chẳng ai còn nghi ngờ tính chất
tượng trưng của rượu. Rượu chỉ là một cách nói còn nỗi cay đắng, nghèo hèn mới
là có thật.
Tâm trạng người vợ
lần lượt được biểu hiện qua những dòng thơ hình dung cuộc nhân sinh đầy bất
trắc. Họ phải chống chọi với đủ thứ nguy nan hữu hình và vô hình, không chỉ của
Trời, Đất mà mà của cả đồng loại trong cuộc canh tranh khốc liệt. Đó là "bể khổ", "nguồn đau", "đò
chật", "sông sâu",
"gió ào ạt", "mây lờn vờn"... Những lớp từ ấy
giàu biểu cảm, đa nghĩa, đa thanh, đọc nghe như xoáy vào lòng tạo thành nỗi ám
ảnh sợ hãi như một thứ định mệnh truyền kiếp. Trong trạng thái "chung
chiêng", nghĩa là nửa tỉnh nửa say, người phụ nữ nhìn thế gian bằng con
mắt có chút hơi men nên cảm thấy thứ gì cũng chao đảo, bồng bềnh nhưng cũng là
lúc người ta dễ nói thật lòng mình nhất. Tư thế của cặp vợ chồng này là an
nhiên tự tại, phong cách thật ngạo nghễ, nhìn thiên hạ nhốn nháo trong guồng
quay tạo hóa bằng tâm trạng của một người thua thiệt nhưng có vẻ như không mấy
bi quan: "Mặc cho thiên hạ rập rình
/ Ta ngồi đây rót cho mình, cho nhau" Rót cái gì? Rót rượu hay rót
những nổi chìm của kiếp người? Đến đây ta dễ liên tưởng đến một câu Kiều:
"Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh"
khi mà trước mắt bày ra toàn những "bể
khổ", "nguồn đau",
"đò chật", "sông sâu" nghe thấp thoáng đâu đây
nỗi "đoạn trường" của một
nàng Kiều hiện đại.
Về bố cục, bài thơ
được chia là hai phần nhưng có sự gián cách. Phần một gồm bốn câu đầu và bốn
câu cuối, phần còn lại là mười hai câu giữa, từ "Oái oăm là cái sự đời" đến "Gió ào ạt gió, mây lờn vờn mây". Phần thứ nhất, bao hàm cả bốn
câu cuối như một vĩ thanh, là lục bát hiện đại phát triển từ ca dao, tục ngữ,
được hoàn thiện với khả năng phu diễn khá chính xác hoàn cảnh bế tắc gần như
không lối thoát của cặp vợ chồng nghèo trên cái nền không gian buồn tẻ, tù
túng. Thế nhưng bốn câu cuối lại mở ra cả một chân trời mới đầy chất lãng mạn,
bay bổng, hình thành một cảm quan có biên độ giãn nở rộng, không bó chặt như
nỗi đoạn trường của nàng Kiều mà ý tứ phóng túng, ngôn ngữ khoáng đạt. Cuộc
song ẩm giờ đây đã biến nỗi đau khổ thành vấn đề triết lý nhân sinh. Bằng sự
thăng hoa trong tâm tưởng, họ đem số phận, tư cách và cả tình yêu của mình đánh
đổi lấy "cả mấy mươi phần thế gian".
Chén rượu tình ở đây hẳn là cay đắng nhưng là "chén đồng" có sức mạnh làm nghiêng vũ trụ. Hơi ấm ở đây chính
là nội lực tình yêu, tình nghĩa vợ chồng. Trong men say lãng đãng, mọi thứ
dường như đều "chung chiêng".
Chồng say, vợ say, tâm hồn chống chếnh, họ như bay lên tầng trời hạnh phúc. Đó
là thứ thiên đường "cả mấy mươi phần
thế gian" ở ngay trong cõi nhân gian.
Mười hai câu giữa
khác hẳn về mặt thi pháp. Đây là đoạn lục bát mang phong cách tập Kiều mà hồn
cốt của nó không gì khác hơn là "nỗi
đoạn trường". Ở đây ta bắt gặp đủ kiểu lập ý, lập tứ, cấu trúc câu,
trong đó có cả những câu đanh quánh, riết róng hoặc thâm trầm nghiệt ngã. Một
dàn những tổ hợp từ biến hóa như có phép màu rút ra từ thi pháp “Truyện Kiều” tạo thành các cặp tiểu
đối, so sánh, tỷ dụ đẩy cảnh nghèo đến mức lý tưởng làm người đọc sững sờ trước
tài "phù phép" của tác giả. Những câu: "Chén này nhắm với nỗi này phải không?”, hoặc: "Này là bể khổ nguồn đau / Này là đò chật
sông sâu chập chờn / Nhấp môi chạm phải cơn nguồn / Gió ào ạt gió, mây lờn vờn
mây" là sự đóng góp rất đáng kể trong hành trình lục bát. Sự sắc sảo
của Nguyễn Lam Điền còn ở chỗ, chị dùng thể loại lục bát truyền thống để tập
Kiều mà không bị sa vào thứ văn vần dung tục.
Có thể nói, “Uống rượu với chồng” là một thành
công bất ngờ. Nó tạo được sự hấp dẫn đặc biệt bởi trong đó hàm chứa một triết
lý nhân sinh, một quan niệm sống, một thái độ ứng xử bằng những lớp từ giàu sắc
thái với nội hàm phong phú. Cặp vợ chồng uống rượu trên một cái nền "chung chiêng", từ điểm xuất phát
ấy, cái tôi nghệ sỹ bình thản hòa vào kiếp người bằng nguồn cảm hứng tình yêu,
dù nhìn thiên hạ bằng con mắt la đà của chén rượu đắng nhưng tâm thức họ lại
rất tỉnh. Cũng bởi trạng thái tỉnh trong lúc say ấy mới có được những hình ảnh
"đoạn trường thơ" như "sấp
ngửa", "đăm chiêu",
"thiên hạ rập rình", "đò chật sông sâu", "đất xa trời tạt xuống gần / Chung chiêng cả
mấy mươi phần thế gian". Đó là những câu chữ có sức nặng được đặt vào
đúng ngữ cảnh, thoát khỏi những ràng buộc về cú pháp tạo nên sự đồng điệu tâm
hồn.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Bạn đọc cảm nhận
về thơ của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
bài thơ “Quê Nghèo” của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl
Mời nghe Trương Ngọc Tuân đọc truyện ngắn
CHÀNG LÙN NỂ VỢ của Đặng Xuân Xuyến:
*
ĐẶNG VĂN SINH
Địa chỉ: Khu Dân cư 3, phường
Bến Tằm,
thành phố Chí Linh, Hải Dương.
Điện thoại: 098 765 35 60
........................................................................................
- Cập nhật từ email huongmai8081@yahoo.com,vn
gửi ngày 25.02.2021.
- Ảnh dùng minh họa cho
bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể
hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
Bài bình thơ rất hay! Cám ơn tác giả Đặng Văn Sinh
Trả lờiXóa