BIỂU TƯỢNG
“TRĂNG”
TRONG THƠ HÀN MẶC TỬ
*
1.1 .
Mở đầu
Trải qua một thời kỳ
khá dài trong lịch sử văn học trung đại, thơ ca không thể thoát ra khỏi những
quy phạm chặt chẽ của thể loại. Và phải đợi đến những năm 1932 – 1945 của nền
văn học Việt Nam hiện đại, thơ ca mới có bước bứt phá làm chuyển
động, rạn nứt cả hệ thống nền tảng kiên cố về thi pháp thể loại. Phải nói rằng,
Việt Nam tự hào về một thời đại thơ ca có một không hai trong lịch sử
nước nhà. Một thời đại mà Vũ Ngọc Phan đã hãnh diện khi đưa ra nhận định: mười
năm của ta bằng mấy mươi năm của người. Vì thế, trong rất nhiều công trình
nghiên cứu của các tác giả đều đi đến một kết luận: Phong trào thơ mới là một
cuộc cách mạng trong thơ ca, mang một quan niệm hoàn toàn mới mẻ, quan niệm về
cá nhân, cái tôi biểu hiện với một tinh thần duy lý phương Tây. Thơ mới ra đời
đã xóa đi luật lệ xưa cũ cứng nhắc, trên tinh thần đổi mới toàn diện. Thơ mới
đã sáng tạo ra những thể thơ mới và cải tạo, nâng cấp các thể thơ truyền thống.
Nói đến sự thành công rực rỡ của thơ mới là phải nói đến sự nhiệt thành, tâm
huyết, say mê lao động sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sỹ, với mong muốn
mang lại diện mạo mới cho nền văn học nước nhà.
Trong khoảng thời gian
ra đời, phát triển và suy thoái của mình, phong trào thơ mới đã tồn tại nhiều
trường phái sáng tác: Lãng mạn, tượng trưng, siêu thực, … Với những đại biểu
xuất sắc như: Thế Lữ, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, LeiBa,… .
Trong số đó nhà thơ mới Hàn Mặc Tử được xem là một trong những nhà thơ có sức
sáng tạo mãnh liệt nhất trong phong trào thơ mới. Từ Gái quê, Lệ
thanh thi tập, Đau thương đến Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cẩm
châu duyên, Duyên kỳ ngộ, Quần tiên hội (kịch thơ), Chơi giữa mùa trăng (thơ
văn xuôi) chỉ trong vòng từ 1935 – 1940 ông đã làm một cuộc hành trình văn
học bằng một thế kỷ, mở đầu là thơ bát cú đường luật và cuối cùng là những bài
thơ chứa đựng nhiều yếu tố tượng trưng, siêu thực. Một điều đặc biệt hơn nữa là
mỗi tập thơ của ông để lại gắn liền với từng giai đoạn, biến cố của cuộc đời.
Với Gái quê mọi thứ đều dịu dàng, mơ mộng, chất phác, trẻ trung
thì Đau thương mọi cảm quan trong Gái quê hoàn toàn tan
biến bù lại đó là những hồn, máu, trăng, một tâm hồn bị ám ảnh bởi bệnh
tật. Đau thương không còn chứa đựng những yếu tố lãng mạn, hồn nhiên
như trong Gái quê mà chứa đầy những yếu tố siêu thực, tượng trưng.
Đến Xuân như ý, Thượng thanh khí thì hồn thơ của thi sĩ càng
ngày càng xa khỏi thế gian và mọi thứ tình tứ của đời thường với một lối thơ bí
hiểm khó mà suy nghiệm cho ra nghĩa. Thơ ông bám chặt với cuộc sống trần thế
đầy đau khổ, bệnh tật nhưng lại có một sức hút kỳ diệu. Qua các tập thơ, người
đọc nhận ra thơ Hàn Mặc Tử là một thế giới khác thường, đau đớn, quằn quại,
khát khao sống với những Hồn – Máu – Trăng. Vì thế, Hồn – Máu – Trăng cứ trở đi
trở lại trong thơ ông với một cường độ dày đặc, nó như là biểu tượng cho sự
sống còn của sự nghiệp sáng tác của chính thi sĩ. “Hàn Mặc Tử là nhà thơ viết
rất nhiều, rất hay và rất say về trăng. Trăng trong thơ ông kỳ ảo, biến hóa vô
cùng và có khi như là ý nguyện tha thiết muốn vươn tới cái đẹp, cái hoàn mỹ mà
không đạt được” [3, Tr 10]. Đọc thơ ông ta mới thấy được hàng loạt những ý niệm
qua hình tượng trăng.
1.2.
Khái niệm biểu tượng
Biểu tượng là một khái
niệm đang được đẩy mạnh nghiên cứu trên thế giới bởi nó là một khái niệm chứa
đựng nhiều bí ẩn và mang trong bản thân nó cả trường ý nghĩa. Trên thực tế,
khái niệm này là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội
khác nhau.
Theo Từ điển tâm lý
học (Vũ Dũng – NXB Khoa học xã hội - 2000) thì “Biểu tượng là hình ảnh các
vật thể, cảnh tượng và sự kiện xuất hiện trên cơ sở nhớ lại hay tưởng tượng.
Khác với tri giác, biểu tưởng có thể mang tính khái quát. Nếu tri giác chỉ liên
quan đến hiện tại thì biểu tượng liên quan đến quá khứ và tương lai”
Theo Từ điển Tiếng
Việt (Hoàng Phê chủ biên) thì “Biểu tượng là hình ảnh tượng trưng, là hình
ảnh của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn ghi lại
trong đầu óc khi tác dụng của sự vật vào giác quan đã chấm dứt”
Biểu tượng là một khái
niệm quen thuộc nhưng đây lại là một khái niệm vào loại phức tạp và chưa có sự
đồng thuận trong cách hiểu cũng như cách sử dụng. Tổng hợp những thành tựu mĩ
học, lý luận văn học Macxit, các soạn giả của cuốn Từ điển thuật ngữ văn
học đã định nghĩa Biểu tượng như sau: Theo nghĩa rộng biểu tượng thể hiện
“đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng hình tượng văn học nghệ thuật”. Theo nghĩa
hẹp thì biểu tượng là “một phương thức chuyển mã của lời nói” đặt bên cạnh ẩn
dụ, hoán dụ hoặc là một loại hình nghệ thuật đặc biệt “có khả năng truyền cảm
lớn, vừa khái quát được bản chất của một hiện tượng nào đấy, vừa thể hiện một
quan niệm, một tư tưởng hay một triết lý sâu xa về con người và cuộc đời”.
Như vậy, hiểu một cách
đơn giản và ngắn gọn thì Biểu tượng là một hình ảnh tượng trưng, có ý nghĩa
rộng lớn hơn chính bản thân nó. Mỗi biểu tượng phải khái quát được một phạm vi
bao quát rộng lớn những hiện tượng, sự vật trong cuộc sống. Nếu biểu tượng không
mang lại cho ta một ý nghĩa rộng hơn “cái biểu đạt” thì nó được coi là những
hình ảnh thuần túy mà thôi chứ không được coi là biểu tượng. Hơn nữa, ý nghĩa
của biểu tượng phụ thuộc vào biên độ và khả năng sáng tạo của nhà thơ.
Bàn về biểu tượng thơ
Hegel cho rằng : “Biểu tượng nên thơ là một biểu tượng có hình tượng, bởi vì
biểu tượng nên thơ không phải phơi bày trước mắt ta bản chất trừu tượng của cái
hiện thực cụ thể”. Vì lẽ đó mà trong thơ ca biểu tượng đóng một vai trò hết sức
to lớn. Biểu tượng giúp người nghệ sĩ thể hiện một cái gì đó ngoài bản thân nó,
lớn hơn ý nghĩa thông thường của nó. Đồng thời, nó mang phong cách độc đáo và
dấu ấn sáng tạo của người nghệ sĩ.
1.3.
Những biểu tượng nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử
Với quan niệm: Sáng tạo
thơ là hành động nhà thơ đi vào trong cõi mơ ước, trong “huyền diệu”, trong
“sáng láng” và vượt hẳn ra ngoài cõi “hư linh”. Đó là một thế giới “siêu thần”,
một cõi “tiềm thức”, những bờ bến xa lạ của “cảm giác”. Đồng thời, đó còn là
“một cõi vô hình cao tột bậc được xây dựng bởi trăng sao”. Và để đến được với
cõi thế giới bí ẩn và xa lạ ấy thì không chỉ được cảm nhận bởi giác quan thông
thường mà phải thông qua các biểu tượng và sự tương ứng với các giác quan. Vì
thế, khi tiếp cận với thơ Hàn Mặc Tử, chúng ta bắt gặp những hình tượng nổi bật
như Hồn – Trăng – Máu. Những biểu tượng này xuất hiện với một cường độ dày đặc
và thường xuyên trong suốt hành trình sáng tác của thi sĩ họ Hàn. Trong số đó,
Trăng là biểu tượng độc đáo và kỳ dị nhất. Nó được phóng chiếu từ nhiều góc độ
và mang một “phong cách” trăng rất riêng, rất khác lạ. Vì thế có người đã từng
viết: Trăng, Hồn, Máu không còn là những ý niệm trừu tượng, chúng là những hình
hài đầy nhục cảm, những linh hồn đầy đau thương. Không chỉ dừng lại ở ý nghĩa
là một cách giãi bày “chân thành” như cách nghĩ thông thường về thơ trữ tình,
những hình tượng này là sự “thoát xác”, vượt ra ngoài cái thân thể hạn hẹp, cố
định để sống tột cùng trong những cuộc đời khác, những cảm giác khác. Bản thân
hồn cũng là một sinh thể, tách biệt với thể xác, là một “kẻ lạ” với thể xác và
trong hồn không ngừng chia tách những linh hồn mới. Nếu hồn ứng với tinh thần,
thì máu ứng với thể xác con người, với sức nóng và sự sống vượt trội.
Chúng ta biết rằng,
hình ảnh trăng là đối tượng được nhiều thi nhân ở mọi thế hệ, mọi thời đại lĩnh
hứng, miêu tả dưới nhiều bình diện khác nhau. Ở mỗi nhà thơ trăng mang một vẻ
đẹp, một nỗi niềm riêng. Trăng trong thơ Nguyễn Du gợi tình, gợi cảnh. Trăng trong
thơ Xuân Diệu đem lại cảm giác bâng khuâng nhẹ nhàng cho người đọc. Còn với
trăng trong thơ Hàn Mặc Tử là cả một thế giới đầy bí ẩn, dị thường. Trăng có
lúc được ẩn dụ, lúc được nhân hóa làm cho nó mang một phong cách độc đáo và
khác lạ, kiểu như:
Trăng nằm
sòng soãi trên cành liễu
Đợi gió
đông về để lả lơi
Hoa lá
ngây tình không muốn động
Lòng em
hồi hộp chị Hằng ơi
(Bẽn lẽn)
Bản thân hình ảnh trăng
cũng là một biểu tượng đa nghĩa. Xuất phát từ những đặc tính tự nhiên, là thiên
thể ban đêm, trăng thường gợi nên hình ảnh của cái đẹp, của ánh sáng trong
khoảng không mênh mông tăm tối. Và nó cũng chính là biểu tượng của cái gì đó
siêu thoát bên ngoài mà con người không thể vươn tới.
Bên cạnh đó, Hồn cũng
là một hình ảnh đầy ấn tượng và kỳ lạ. Hồn trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện với
một tần số khá cao (62 lần) và có sức ám ảnh mạnh mẽ. Trong suốt hành trình thơ
Hàn Mặc Tử chúng ta thấy biều tượng Hồn xuất hiện như một nỗi ám ảnh đến rợn
người, khó nắm bắt. Chính nó cũng đã làm cho thi nhân phải thốt lên:
Hồn là
ai? Là ai? Tôi chẳng biết
Hồn
theo tôi như muốn cợt tôi chơi
Môi đầy
hương tôi không dám ngậm cười
Hồn vội
mớm cho tôi bao ánh sáng
…
Hồn là
ai? Là ai? Tôi không hay
Dẫn hồn
đi ròng rã một đêm nay
Hồn mệt
lả mà tôi thì chết giấc”
(Hồn là ai)
Theo quan điểm của tôn
giáo, hồn là một thực thể tinh thần thiêng liêng và là phần quý giá nhất của
con người. Khi con người chết đi thì linh hồn sẽ kìa khỏi thân xác và không bao
giờ bị phân hủy như thể xác. Điều này được thể hiện rất rõ trong bài Hồn
lìa khỏi xác:
…Rồi
hồn ngắm tử thi hồn tan rã
Bốc
thành âm khí loãng nguyệt cầu xa
Hồn mất
xác hồn sẽ cười nghiêng ngã
Và kêu
rên thảm thiết khắp bao la
…
Ôi! Hồn
thiêng không hề chết đặng
Làm sao
hồn chẳng hiểu nghĩa vô biên
Ngày
tận thế là ngày thôi tán loạn
Xác của
hồn, hồn của xác y nguyên
Hồn là biểu tượng của
sự sống, nó hội tụ đầy đủ đặc điểm của một con người và là phần không thể thiếu
để làm nên con người. Vì thế, nó có mối liên hệ ràng buộc với sinh mệnh. Trong
nỗi đau đớn đến tột cùng khi nhà thơ đang cận kề với cái chết, đang phải đối
diện với giờ hấp hối sắp chia phôi thi sĩ Hàn đang đón đợi, cầu xin
một sự tưởng nhớ rất chân thành:
Ta trút
linh hồn giữa lúc đây
Gió sầu
vô hạn nuối trong cây
Còn em
sao chẳng hay gì cả?
Xin để
tang anh đến vạn ngày
(Trút linh hồn)
Xa lìa thể xác, hồn
vượt ra ngoài vũ trụ để đi tìm Hương cho thơm ứ đầy hơi khoái lạc, để
được Tắm gội ở trong nguồn ánh sáng và ca những điệu ngọc vàng
sang sảng:
Hồn hỡi
hồn, lên nữa quá thinh gian
Tìm tới
chốn chiêm bao ngoài sự thực
…
Hồn hỡi
hồn, bay ra ngoài kia mức
Nơi
thiên sầu địa thảm giới Lâm Bô
Say máu
ngà, say nữa tới chừng mô
Cả vũ
trụ tan theo ngày phán xét
Là
khủng khiếp cả đất trời tiêu diệt…
(Ngoài vũ trụ)
Nỗi đau khổ vì bệnh tậ
dày vò đã hành hạ thân xác thi sĩ nhưng chính nó
lại cung cấp cho nhà
thơ một năng lực sáng tạo vô biên.
Với Hàn Mặc Tử, Tôi
làm thơ?
Nghĩa là tôi yếu đuối
quá! Tôi bị cám dỗ. Tôi phản lại những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết
sức giữ bí mật …
Nàng đánh tôi đau quá,
tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú. Có ai ngăn cản được lòng tôi?
Chính quan niệm đó đã
khơi nguồn cho một biểu tượng khác vốn được xem là khá thành công và độc đáo
trong thơ ông – đó chính là biểu tượng máu, động lực thúc đẩy sự sáng tạo.
Ta muốn
hồn trào ra đầu ngọn bút
Mỗi lời
thơ đều dính não cân ta
Bao nét
chữ quay cuồng như máu vọt
Như mê
man chết điếng cả làn da
(Rướm máu)
Máu – biểu tượng của sự
ám ảnh triền miên, dâng trào tràn ngập cả hồn thơ. Nó cuộn chảy tuôn trào trong
thân xác nhà thơ, trong sự đau đớn đến tột cùng đã ngưng tụ lại, đọng thành
vũng rồi tan chảy trong sự sáng tạo:
Cứ để
ta ngất ngư trong vũng huyết
Trải
niềm đau trên mảnh giấy mong manh
Đừng
nắm lại nguồn thơ ta đương siết
Cả lòng
ta trong mớ chữ rung rinh
(Rướm máu)
Lời thơ
ngậm cứng không rền rỉ
Mà máu
tim anh vọt lai láng
(Lưu luyến)
Chính sự đau đớn, hoảng
loạn, tuyệt vọng này đã khiến cho nhà thơ phải thốt lên:
Trời
hỡi bao giờ tôi chết đi
Bao giờ
tôi hết được yêu vì
Bao giờ
mặt nhật tan thành máu
Và khối
lòng cứng tựa si
(Những giọt lệ)
Máu cũng chính là thứ
tinh lực được vắt kiệt để dâng tặng cho thơ, cho đời.
Xinh
dâng này máu đang tươi
Này đây
nước mắt giọng cười theo nhau
(Bến Hàn Giang)
Thơ Hàn Mặc Tử chính là
những bông hoa nở trong màu huyết:
Lá trên
cành héo hắt, gió ngừng ru
Một
khối tình nức nở giữa âm u
Một hồn
đau rã lần theo hương khói
Một bài
thơ cháy tan trong nắng dọi
Một lời
run hoi hóp giữa không trung
Cả niềm
yêu, ý nhớ, cả một vùng
Hoá
thành vũng máu đào trong ác lặn
(Trường Tương Tư)
Những biểu tượng Trăng,
Hồn, Máu là sự tượng hình hoá tình trạng “cả thể xác lẫn linh hồn tan rã” của
Hàn Mặc Tử . Hay nói cách khác, đó chính là sự phân rã của bản thể người trong
một cảnh ngộ bi đát. Bị “cầm tù” trong những dày vò cùng cực cả về thể xác lẫn
tinh thần, sự phân rã này là một tất yếu mang tính bi kịch, nó tô đậm hơn nỗi
đau thương của thi sĩ Hàn Mặc Tử, nhưng đồng thời, đó cũng chính là một hành
động giải phóng và tự giải phóng. Từ đây, Hàn Mặc Tử có thêm bạn đồng hành,
cũng là những phương tiện để soi ngắm thế giới trong một cảm quan và một chiều
kích mới.
1.4
Biểu tượng “Trăng” trong thơ Hàn mặc Tử
1.4.1 Trăng – biểu thị
nỗi khổ đau cùng tận
Có thể nói Trăng trong
thơ Hàn Mặc Tử như một “linh vật” rất huyền nhiệm, kỳ lạ. Dưới mắt ông, Trăng
là một thực thể có linh hồn. Chừng như ông nghe được hơi thở, bước đi, sự
chuyển dịch của bóng trăng. Đồng thời, Trăng như là “người” thấu hiểu tất cả
nỗi đau đớn trong lòng thi nhân và cả những tâm tư tình cảm. Trăng như là hình
tượng không thể thiếu trong văn học từ xưa tới nay: Trăng như là nhân vật chứng
kiến mọi biến động của xã hội, đồng thời còn là nơi để cho con người thổ lộ mọi
tâm trạng, mọi nỗi niềm.
Từ
Trăng trong ca dao:
Vầng
Trăng vằng vặc giữa trời
Đinh
ninh hai miệng một lời song song
Rồi
trăng trong thơ Trung đại:
Vầng
trăng ai xẻ làm đôi
Nữa in
gối chiếc, nửa soi dặm trường
(Truyện kiều – Nguyễn
Du)
Đến thời hiện đại,
trăng cũng là một nhân vật không thể thiếu của các nhà văn, nhà thơ. Trăng như
là trung tâm điểm để cho các thi sĩ khai thác, đào bới dưới nhiều góc cạnh khác
nhau. Với Xuân Diệu, trăng như một vật chứng chứng kiến tình yêu của hai người:
“Trong
vườn đêm ấy nhiều trăng quá
Ánh
sáng tuôn đầy các lối đi
Tôi đi
với người yêu qua nhè nhẹ…
Im lìm,
không dám nói năng chi”
(Trăng)
Còn với Đoàn Thị Lam
Luyến, Trăng được hình tượng hóa như là người tình luôn đồng hành cùng thi
nhân.
Đầy vơi
con nước vì Trăng đấy
Biển đã
duềnh lên, biển bạc đầu
Ai biết
mối tình thiên niên kỷ
Ta là
Trăng - Biển tự trong nhau
(Trăng và Biển)
Nhưng với Hàn Mặc Tử
thì khác, Trăng trong thơ ông chính là Hồn và Máu của ông. Hàn Mặc Tử đã phải
sống trong những cơn đau triền miên khủng khiếp, một nỗi đau rùng rợn đến vô
biên. Vì thế nhà thơ muốn:
Tôi dìm
hồn xuống một vũng trăng êm
Cho
trăng ngập dần lên tới ngực
(Hồn là ai)
Thơ ông là những dòng
đầy máu lệ, đầy tiếng gào thét. Chính “Trăng, ánh trăng đã để lại những cảm
giác vật chất lên thân xác Hàn Mặc Tử” [1; Tr 229]. Điều đó cho chúng ta thây,
trăng trong thơ ông có tính chất hai mặt: vừa vật chất vừa tinh thần, vừa trần
tục lại vừa thiêng liêng. “Hàn Mặc Tử đi trong trăng, há miệng cho máu tung ra
làm biển cả, cho hồn văng ra, và rú lên những tiếng ghê người…” [1; Tr 206].
Nhà thơ đã không thể thoát ra khỏi sự ám ảnh ghê gớm của nó, lúc nó tối tăm,
lúc nó chói lòa như hai mặt đối lập của Thiêng đàng và Địa ngục. Trong
một Không gian dày đặc toàn trăng cả/ Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng.
Rồi Ngả nghiêng đồi cao bọc trăng ngủ/ Đầy mình lốm đốm những hào quang.
Chính cái sự đau đớn về
thể xác, bệnh tật đã khiến cơ thể ông hao gầy, suy nhược nhưng đó lại là dòng
suối khơi nguồn cho mọi cảm hứng sáng tạo vô biên. Ở Hàn Mặc Tử, đau thương
đồng nghĩa với sáng tạo, nó như là phương tiện để đưa nhà thơ lên đến cung bậc
cao nhất của nghệ thuật.
Đây
phút thiêng liêng đã khởi đầu
Trời mơ
trong cảnh thực huyền mơ
Trăng
sao đắm đuối trong sương nhạt
Như đón
từ xa một ý thơ
(Đà Lạt trăng mơ)
Trăng như một cái gì đó
hữu hình song hành cùng nhà thơ để cho nhà thơ được nuốt, được uống, được ngậm
rồi giao hoan cùng nó, hóa thân vào nó:
Gió rít
tầng cao trăng ngã ngữa
Vỡ tan
thành vũng đọng vàng khô
Ta nằm
trong vũng trăng đêm ấy
Sáng
dậy điên cuồng mữa máu ra
(Say trăng)
Sự đau đớn, dày vò về
thể xác bởi căn bệnh quái ác đã có lúc khiến cho nhà thơ không còn nhận thức
được sự sáng tạo nghệ thuật của chính mình: Tôi điên tôi viết như
người dại/ Vang lạnh không gian xóa những ngày. Ông quan niệm nhà thơ như
một vị “trích tiên” bị đày đọa xuống cõi bơ vơ lạc lõng và phải chịu một thứ
“Định mệnh tàn khốc theo riết bên mình”. Và thơ “là một tiếng kêu rên thảm
thiết của một linh hồn thương nhớ”. Đã có lúc nhà thơ như một người hoảng loạn,
vô ý thức:
Ta
hoảng hồn, hoảng vía, ta hoảng thiên
Nhảy ùm
xuống giếng vớt trăng lên
(Trăng tự tử)
Hay:
Bây giờ
tôi dại tôi điên
Chắp
tay tôi lạy cả miền không gian
Tuy nhiên chúng ta cần
phải biết rằng “điên” ở đây không phải là một trạng thái bệnh lý mà là sự thăng
hoa cao độ của sự sáng tạo nghệ thuật. Ở trạng thái đó, con người rơi vào trạng
thái xuất thần, vượt ra ngoài sự kiểm soát của lý trí. Đã có lúc nhà thơ lại
đoạn tuyệt với trăng, lạnh lùng rao bán như một vật phẩm có trong tay:
Trăng!
Trăng! Trăng! Là trăng, Trăng, Trăng!
Ai mua
trăng tôi bán trăng cho
(Trăng vàng Trăng ngọc)
Hình ảnh trăng đã được
nhà thơ làm mới đi, mang một phong cách độc đáo và lạ lùng, trăng như một thứ
định mệnh gắn kết với nhà thơ. Trăng nhiều lúc lẫn trong máu huyết, lai láng
gợi cảm giác ớn lạnh. Trăng thực sự trở thành biểu tượng của một sự thác
loạn tâm hồn. Nó chính là biểu tượng của sự đau khổ khi con người uất ức
đến tuyệt đỉnh, nó như là vực thẳm đày đọa tâm hồn thi sĩ. Và Máu – Hồn – Trăng
chính là hiện thể của đau thương, của nỗi đau khổ trần gian và kiếp người mà
thi sĩ phải chịu nhận.
1.4.2 Trăng – biểu thị
nỗi cô đơn tuyệt đối
Hẳn ai cũng biết rằng,
thi sĩ trẻ Hàn Mặc Tử đã phải sống một cuộc sống cuối đời đầy đau khổ, cô đơn.
Với cái tuổi ngoài đôi mươi mà thi sĩ phải sống cách ly với gia đình, xã hội và
ngậm đắng đón chịu những trận dày vò về thể xác của bệnh tật. Đặc biệt là sự
tha thiết yêu đương mà phải cách ly với cả người yêu nhưng vẫn một lòng yêu
người chung thủy. Đau khổ hơn nữa là đang ở độ tuổi xuân xanh, tràn đầy sức
sống mà phải mà phải chịu cảnh không biết sống chết ngày nào, thậm chí giờ phút
nào, trong thân hình “tan rữa” vì bệnh tật . Hàn Mặc Tử cảm thấy ghê sợ nỗi cô
đơn của một con người bị tách khỏi đồng loại:
Chao
ơi! Ghê quá trong tư tưởng
Một
vũng cô liêu cũ vạn đời!
Trong cảnh cô đơn tuyệt
vọng ấy, nhà thơ khao khát đón nhận những tín hiệu yêu thương cứu giúp của mọi
người:
Sao
trìu mến thân yêu đâu vắng cả
Trơ vơ
buồn và không biết kêu ai...
Hay:
Một mai kia ở
bên khe nước ngọc
Với sao
sương, anh nằm chết như trăng
Không
tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
Đến hôn
anh và rửa vết thương lòng
(Duyên kỳ ngộ)
Cái xa cách, nỗi
cô đơn, tuyệt vọng đó đã khiến cho nhà thơ phải thốt lên:
Ta đang
khao khát tình yêu thương
Cất
tiếng kêu vang trong im
lặng
Tiếng
va vào núi, dội quanh vùng
(Tiếng vọng)
Và cũng chính hính sự
khao khát đó lại càng tạo nên cảm giác bơ vơ, vắng bặt, càng làm cho nhà thơ có
cảm giác như đang sống trên một ốc đảo giữa biển vắng đại dương mênh mông:
Từ ấy
anh ra đi
Bóng
trăng vàng dải cát
Cánh cô
nhạn bơ vơ
Liệng
dưới trời xanh ngát
…
Từ ấy
anh ra đi
Em gầy
hơn vóc liễu
Em buồn
như đám mây
Những
đêm vừng trăng thiếu
(Nhớ nhung)
Sự cô đơn đó đã đẩy lên
đến tột đỉnh biến nỗi cô đơn thành sầu vạn cổ:
Lòng ta
sầu thảm hơn mùa lạnh
Hơn hết
u buồn của nước mây
Của
những tình duyên thương lỡ dở
Của lời
rên xiết gió heo may
(Sầu vạn cổ)
Rồi chính trong nỗi
lòng tê lạnh thiếu vắng tình đời đó nhà thơ phải tự đối thoại với chính tâm hồn
mình, xem đó như là một lẻ sống ở đời của bản thân:
Gió
theo lối gió mây đường mây
Dòng
nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền
ai đậu bến sông trăng đó
Có chở
trăng về kịp tối nay?
(Đây thôn Vĩ Dạ)
Sự cô đơn mà thi sĩ Hàn
phải gánh chịu chính là những chuỗi ngày dài đau khổ và thương
khó. Trăng không còn nguyên vẹn tròn trịa, không còn thơ mộng như trong thơ
lãng mạn mà trăng đã bị khuyết, bị cắn vỡ:
Hôm nay
có một nửa trăng thôi
Một nửa
trăng ai cắn vỡ rồi
Ta nhớ
mình xa thương đứt ruột
Gió làm
nên tội buổi chia phôi
(Một nửa trăng)
Thi sĩ Hàn đã cố gắng
đến cùng để diễn tả chân thực những biểu hiện tinh vi trong thế giới tâm linh
của mình nhưng càng đi sâu vào vực thẳm không cùng đó, thi sĩ càng đi xa và tạo
nên một sự khác biệt đối với mọi người. Và chính cái sự khác biệt này lại làm
nên một phong cách thơ độc đáo, một “hồn thơ dị biệt” Hàn Mặc Tử. Vì thế
mà Chế lan Viên đã từng nói: "Tôi có thể cam đoan với các người rằng,
tất cả những cái gì tầm thường hiện thời rồi sẽ tan biến hết, và sau này trong
tương lai còn lại một cái gì của thế hệ chúng ta đang sống, đó là thơ Hàn Mạc
Tử”
1.4.3 Trăng – người bạn
tâm giao và nguồn sáng tạo vô biên
Có thể nói Trăng trong
thơ Hàn Mặc Tử như một người bạn đồng hành với mọi biến cố trong cuộc đời ông.
Và chưa bao giờ người ta thấy trong một tập thơ tràn ngập cả ánh trăng như
trong thơ Hàn Mặc Tử: Trăng đẹp, Trăng lung linh huyền ảo đi cùng với “Trăng
điên”, “Trăng hủi”. Với Hàn Mặc Tử Trăng tồn tại và xuất hiện ở khắp mọi nơi.
“Không
gian tràn ngập toàn trăng cả
Tôi
cũng Trăng mà nàng cũng Trăng”
(Huyền ảo)
Hàn Mặc Tử có 5 tập thơ
chính thì đã có đến 3 tập nói về Trăng, viết về Trăng. Riêng tập “Thơ điên” có
đến 16 bài viết về Trăng, ngạc nhiên hơn nữa là chỉ có một bài thơ Trăng
vàng Trăng ngọc có tất cả 15 câu mà có đến 28 lần nhắc đến Trăng. Hay như
bài Rượt Trăng có đến 17 từ Trăng thay phiên nhau tỏa rọi trong thơ.
“Trăng
bay lả tả ngã lên cành vàng
Tới đây
là nơi tôi được gặp nàng
Rủ rê,
rủ rê hai đứa tôi vào rừng hoang
Tôi
lượm lá trăng lâm chiếu trải”
(Rượt trăng)
Trăng như một người bạn
tri kỷ theo suốt thi sĩ trong mọi quá trình, mọi biến cố. Đặc biệt Trăng như
một người bạn tâm giao, người bạn tình về đêm của nhà thơ. Trăng là một thứ ánh
sáng vừa của nội tâm, vừa của ngoại giới. Trăng chính là nơi để nhà thơ trút
bầu tâm sự, để được “điên” cùng Trăng, để được “hạnh phúc” cùng trăng
“Lạnh
quá ánh trăng không sáng mấy
Cho nên
muôn dặm ở ngoài kia
Em đang
mong mỏi, em đang nhớ
Bứt rứt
lòng em muốn trở về”
(Thao thức)
Bên cạnh Trăng là người
bạn tâm giao với những vẽ đẹp lung linh thì Trăng còn có những “hành động” lạ:
“Lá đổ
sào sào
Trăng
vào xôn xao
Chuỗi
cười ha hả
Trên
cánh đồi cao”
(Chuỗi cười)
Hay:
“Ánh
trăng mỏng quá không che nỗi
Những
vẻ xanh xao của mặt hồ”
(Huyền ảo)
Rồi:
Trăng
đang nằm trên sóng cỏ
Cỏ đùa
trăng đến bên ao
Trăng
lại đẫm mình xuống nước
Trăng
nước đều lặng nhìn nhau
(Bắt chước)
Bên cạnh đó, Trăng còn
được miêu tả như là người bạn tri kỷ, tâm giao, có cảm xúc, biết tâm tình, chia
sẻ, biết “lã lơi”, biết gào thét:
“Ta gặp
nàng Trăng ở suối Trăng
Nỗi
lòng ta mở lẹ như Trăng
Sáng
trưng sáng cả vùng tiên động
Ta ngắm
hồn ta sang trẻ măng”
(Chơi trên Trăng)
Trăng còn có sự “Lã
lơi”, một hành động gợi tình “rất người”
“Trăng
nằm sòng soãi trên cành liễu
Đội gió
đông về để lã lơi”
(Bẽn lẽn)
Rồi Trăng uốn mình như
thiếu nữ, quỳ sấp mặt theo dáng liễu như đang gợi tình:
“Bỗng
đêm nay trước cửa bóng Trăng quỳ
Sấp mặt
xuống uốn mình theo dáng liễu”
(Hãy nhập hồn em)
Bên cạnh đó, trăng còn
là nguồn cảm hứng sáng tạo vô biên, là nguồn cội của tuổi thơ. Đối với Hàn
Mặc Tử, ngay từ thủa nhỏ, trăng đã thoát khỏi tất cả những ý nghĩa thông thường
mà chúng ta thường gán cho vầng trăng, ánh nguyệt. Trăng trở thành thơ,
trăng trở thành nhạc. Trăng là thơ và là nhạc ở thi sĩ Hàn đã có ngay từ
những suy nghĩ đầu tiên của tuổi thơ. Và khi lớn lên, trăng sẽ là chia ly, đau
khổ, là cõi siêu hình, là sự rung động tận cùng trong mọi tạo tác.
Trong bài thơ văn xuôi Chơi
giữa mùa trăng có thể coi là bản tuyên ngôn thơ của Hàn Mạc Tử, thi sĩ coi
trăng như một thực thể sáng tạo :“Trăng là ánh sáng? Nhất là trăng giữa
mùa thu, ánh sáng càng thêm kỳ ảo, thơm thơm và nếu người thơ lắng nghe
một cách ung dung, sẽ nhận thấy có nhiều tiếng nhạc say say gió xé rách lả
tả... Và rơi đến đâu, chạm vào thứ gì là chỗ ấy, thứ ấy vang lên tuy chẳng một
ai thấy rõ sức rung động. Nghiã là trăng rằm trung thu : một đêm siêu hình
vô lượng, tượng trưng của một mùa ao ước xây bằng châu lệ, làm bằng chia ly, và
hơn nữa, hiện hình của một nguồn khoái lạc chán chê”
Như vậy chúng ta thấy,
Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử như một nhân vật không thể thiếu để tạo ra câu
chuyện, để thổ lộ tâm tình. Trăng hóa người rồi đến người hóa Trăng, tất cả
không ngoài mục đích tạo nền tảng cho thi sĩ trút bỏ nỗi lòng mình. Trăng có đủ
ngoại hình, có đủ đặc điểm, tính cách như một nhân vật. Đồng thời “Trăng cũng
ghen, cũng giận, cũng cay nghiệt, cũng trơ tráo và náo nức dục tình” (1; tr
206). Và trăng còn là người bạn khơi nguồn sáng tạo những vần thơ vô biên cho
chính nhà thơ.
1.5 Kết
luận
Với một thời gian ngắn
hoạt động trên văn đàn, Hàn Mặc Tử đã chuyển từ cổ điển, lãng mạn sang tượng
trưng, siêu thực, góp một phần quan trọng vào quá trình hiện đại hóa thi ca
nước nhà. Thơ Hàn Mặc Tử chịu ảnh hưởng đậm nét của ông tổ trường phái tượng
trưng Bauderlaire. Vì thế khi đọc thơ ông người đọc như bị hòa lẫn vào những
trạng thái cảm xúc tột cùng, như bị lạc vào một thế giới mơ hồ, huyền ảo, nửa
hư nửa thực không phân định cùng với một lối thơ Không rên siết là thơ vô
nghĩa lý. Trong thế giới thơ ấy cái tôi thi nhân rã rời thành muôn
mảnh Trăng – Hồn – Máu và chính nó đã trở thành biểu tượng nghệ thuật thường
trực, bất biến trong thơ thi sĩ Hàn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoài Thanh,
Hoài Chân (2008), Thi nhân Việt Nam, Nhà Xuất bản Văn hóa.
2. Phan Ngọc
(2003), Hồn thơ thế kỷ, Nhà Xuất bản Văn hóa.
3. Mã Giang Lân
(2005), Văn học hiện đại Việt Nam, Nhà Xuất bản Giáo dục.
4. Hàn Mặc Tử tác
phẩm và lời bình (2007), Nhà Xuất bản Văn học
5.Tuyển tập mười năm
tạp chí và tuổi trẻ (2004), Nhà Xuất bản Giáo dục.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Bạn đọc cảm nhận
về thơ của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ
TÌNH BÁN MUA, thơ của Đặng Xuân Xuyến:
Ngô
Nguyễn giới thiệu
Tác giả: Bùi Ánh
- nguồn: anhbui6688
Ảnh minh họa sưu tầm từ
nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
thơ Hàn Mặc Tử rất hay, hư hư ảo ảo đến lạ kỳ
Trả lờiXóa