VẨN VƠ NGHĨ VỀ VĂN HÓA
*
“Với một tinh thần khoa học rất nghiêm túc, ông tìm lại hầu hết các
bản Truyện Kiều từ trước đến nay, so sánh các dị bản, tìm đọc hầu hết các bài
đã bình luận, phân tích tác phẩm và tác giả Truyện Kiều. Từ đó, ông đã có ý
tưởng lớn là làm thế nào để phổ cập hóa Truyện Kiều cho quảng đại công chúng,
ông gạt bỏ những câu chữ khó hiểu từ tiếng Hán để thay bằng ngôn ngữ thuần Việt
trong Truyện Kiều… Tôi hoan nghênh công phu nghiên cứu của ông Đỗ Minh Xuân và
tin rằng cuốn sách này của ông là một đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu
Truyện Kiều…”.
Vũ Khiêu
Phần 1 – Những suy tư về
văn hóa(Tác giả Nguyễn Thế Duyên)
Đã đến lúc chúng ta phải
dũng cảm để nói với nhau rằng: Nền văn hóa của chúng ta là vô cùng nhỏ bé mặc
dù nước ta cũng là một nước vào loại lớn và đông dân trên thế giới. Thử kiểm
điểm lại xem chúng ta có gì trưng ra cho thiên hạ để chúng ta có thể tự hào nói
rằng: ”Các vị hãy xem đi! Chúng tôi có bốn nghìn năm văn hiến”
Kiến trúc? Không trong
lúc nước Lào chỉ có ba triệu dân có đền Vàng. Căm Pu Chia chỉ có bảy triệu dân
có đền Ăng co…..
Tạo hình? Không!
Mỹ thuật? Không!
Âm nhạc? Không! Nhạc cụ
của chúng ta hầu hết có xuất xứ từ Trung Quốc. Duy nhất có cây đàn bầu và một
số thứ nhạc cụ bằng tre nứa vùng Tây Nguyên.
Văn học? Gần như là không!
Sao lại gần như? Bởi vì
may mắn quá ta còn có truyện Kiều. Duy nhất có một ngôi đền trong văn học thì
lại có hai vị lăm le cầm đuốc để đốt đền. Ai vậy? Xin thưa đó là giáo sư, anh
hùng lao động Vũ Khiêu và một ông kĩ sư cơ khí Đỗ Minh Xuân.
Môt dân tộc đã nghèo nàn
về văn hóa thì chớ, nhưng cái dân tộc ấy lại không bao giờ có ý thức phải gìn
giữ lấy cái vốn vốn đã quá nghèo nàn của mình. Cứ nhìn vào những ngôi đình chùa
của chúng ta thì rõ. Từng ngày một, những ngôi chùa cổ của chúng ta cứ biến mất
dần để thay vào đó là những ngôi chùa rất lạ chẳng tây mà cũng chẳng là tàu.
Nói đến văn hóa là nói
đến bản sắc. Tất nhiên cũng không thể nói như ông Nguyễn Hoàng Đức. Văn hóa
phải là những cái gì to lớn vĩ đại như Vạn Lý Trường Thành hay Kim Tự Tháp. Một
viên kim cương nhỏ thôi nhưng cũng làm cho ta phải chiêm ngưỡng và thán phục.
Và còn điều này nữa chúng ta phải luôn nhớ. Những thứ to lớn, kì vĩ trong văn
hóa bao giờ cũng gắn liền với sinh mệnh của hàng vạn, thậm chí là hàng triệu
con người.
Cứ nhìn vào số người chết
trong khi xây dựng Vạn Lý Trường Thành và Kim Tự Tháp thì chúng ta phải biết ơn
những vị vưa xa xưa của chúng ta đã biết thương xót đến sinh mạng của con người
mà đừng nên trách cứ tiền nhân.
Chúng ta! Những kẻ hậu
thế, đứng nhìn những di sản của tiền nhân để lại rồi bĩu môi chê rằng: Bé thế!
Chẳng có gì đáng nói. Nhưng, Nếu như chúng ta chính là những kẻ phải xây những
công trình kì vĩ ấy và bị chết vì nó thì chúng ta nói sao?
Tuy vậy , bé thì bé nhưng
nếu nó có bản sắc riêng thì nó vẫn là một viên ngọc của văn hóa. Tiếc rằng, nói
thẳng ra, chúng ta không có bản sắc. Phải nói rõ ra điều đó để cho thế hệ hôm
nay và mai sau biết rằng: Trách nhiệm xây dựng một nền văn hóa mang một bản sắc
riêng đó là nhiệm vụ của họ.
Chắc khối nhà văn hóa sẽ
nhảy dựng lên khi đọc đến câu này. Nhưng biết làm sao được! Tôi đã nói rồi, Chúng
ta phải dũng cảm.
Dân tộc ta rất kiên cường
trong chống giặc ngoại xâm nhưng lại rất dễ đầu hàng trước những cuộc xâm lăng
của văn hóa.
Cứ nhìn vào âm nhạc, văn
học, kiến trúc ngày hôm nay của chúng ta thì chúng ta thấy rất rõ điều này.
Phải đau đớn để nói với nhau rằng: Người việt chúng ta không có bản sắc.
Gia đình tôi vừa đón tiếp
một gia đình người Hàn Quốc chồng là tiến sỹ, vợ là thạc sỹ có một đứa con ba
tuổi. Khi ra về, đứa bé cúi đầu, chắp tay cung kính cúi chào mọi người bằng
tiếng Hàn. Còn chúng ta? Con cháu chúng ta chào mọi người thế nào? Bai! Và kèm
theo một nụ hôn gió còn những người lớn thì reo lên “ÔI! Dễ thương quá”
Đấy bản sắc Việt đấy.
Thật đáng đau buồn.
Phần 2 - Những suy tư về
truyện Kiều
Nói đến văn hóa thì không
thể không nói đến mảng văn học. Và ở mảng này chúng ta lại phải thừa nhận với
nhau rằng di sản mà chúng ta có cũng vô cùng nghèo nàn.
May mắn mà chúng ta còn
có truyện Kiều. Một ngôi đền duy nhất trong văn học.
Trong chúng ta, không
phải ai cũng nhận ra cái giá trị to lớn và cái hay tuyệt đỉnh của truyện Kiều
đâu. Chính vì vậy trước khi phê phán hai vị đốt đền tôi xin nói một chút về
truyện Kiều.
Nếu ai hỏi tôi, xin anh
hãy nói thật ngắn gọn, chỉ một câu thôi, truyện Kiều hay như thế nào? Thì tôi
sẽ trả lời họ rằng:
Truyện Kiều hay đến cái
mức dịch nó ra tiếng nước ngoài là không thể!
Tại sao tôi lại nói thế?
Vì rằng để thấy, để hiểu cái hay của truyện Kiều người dịch nó phải hiểu biết
một cách sâu sắc cùng một lúc hai nền văn hóa. Văn hóa Việt và văn hóa Hán cộng
với nền văn hóa của thứ tiếng mà người dịch định dịch sang. Làm sao có thể tìm
được người dịch thông thạo một cách sâu sắc cùng một lúc ba nền văn hóa.
Chỉ cần kém hiểu biết đi
một trong hai nền văn hóa ấy thì truyện Kiều đã mất đi quá nửa giá trị. Trên
thế giới có rất nhiều các tác phẩm thơ lớn như: Trường ca Iliat
của Home hay kịch của Sexpia nhưng những tác phẩm ấy tinh hoa của nó lại nằm ở
cốt truyện chứ không phải ở phần thơ. Truyện Kiều thì ngược lại
tinh hoa của Nguyễn Du lại nằm ở phần thơ chứ không phải là ở cốt truyện. Chính
vì vậy mà kịch của Sex pia hay Iliats đã được dịch ra tiếng nước ngoài dưới
dạng văn xuôi còn truyện Kiều thì không thể dịch được. (Tôi biết có một số bản
dịch truyện Kiều ra tiếng pháp nhưng không thành công chính vì vậy cụ Nguyễn Du
không hề nổi tiếng ở nước ngoài. Âu cũng là (Như cụ từng nói “Chữ tài liền
với chữ tai một vần”)
Nói như thế là tôi muốn
khẳng định một điều những ai muốn loại bỏ từ Hán Việt trong truyện Kiều là
những người không biết gì về Kiều và không có khả năng cảm thụ văn học.
Nếu ai hỏi tôi: Nguyễn Du
vĩ đại ở điểm nào? Thì tôi sẽ bảo với họ rằng:
- Nguyễn du vĩ đại ở chỗ
đã viết nên được một tác phẩm đỉnh cao nhưng lại có tính đại chúng cao nhất mà
từ xưa đến nay những văn hào nổi tiếng trên thế giới từng mơ ước nhưng không
một ai làm nổi.
Tại sao tôi lại nói như
vậy?
Tại vì như Nguyễn Hưng
Quốc đã từng nói “Tính đại chúng là kẻ thù của văn học”
Một tác phẩm đỉnh cao
thường là một tác phẩm khó đọc. Không phải ai cũng đọc nổi một tác phẩm đỉnh
cao. Tôi dám chắc rằng hỏi mười người hay đọc sách (Chỉ tính những người thích
đọc sách còn những người không thích đọc sách thì không tính) thì có đến quá
nửa chưa đọc Chiến tranh và hòa bình. Nếu hỏi mười người đã từng
cầm cuốn Trăm năm cô đơn, một tác phẩm được giải nobel văn học thì
tôi có thể khẳng định với mọi người rằng có đến tám người bỏ dở nửa chừng. Tại
sao tôi lại dám khẳng định điều này? Bởi vì tôi rất xấu hổ để thú thật với mọi
người rằng chính tôi cũng không thể đọc nổi cuốn sách ấy dù rằng tôi đã vận đến
mười thành công lực
Nhưng với truyện Kiều
thì khác. Từ những người mù chữ đến những giáo sư văn chương. Từ anh xe ôm đến
đến bà bán rau ngoài phố. Không ai là không thuộc dăm ba câu kiều. Truyện kiều
đã đi sâu vào trong dân gian và những thứ ăn theo truyện Kiều như lẩy Kiều, bói
Kiều nhiều vô kể. Có bao nhiêu học giả đã nổi tiếng nhờ nghiên cứu về “Kiều”
Vừa thỏa mãn được thị
hiếu của tầng lớp thị dân, vừa thỏa mãn được thị hiếu của những bậc học giả. Có
lẽ Nguyễn Du là người duy nhất làm được điều này
Phần 3- Về những kẻ đốt
đền
Dạo này, khi cái độc
quyền về thông tin của nhà nước bị internet cướp mất, chúng ta mới ngã ngửa
người ra là trong đám “ráo sư” quốc doanh có rất nhiều ông có lắm vấn đề cả về
nhân cách lẫn tri thức. Nhưng thôi! Đừng bàn đến họ cho tốn thời gian và giấy
mực. Trong phần này tôi chỉ xin đề cập đến hai vị hiện đang nổi đình nổi đám
trong giới văn chương đó là giáo sư Vũ Khiêu và một ông vô danh tiểu tốt Đỗ
Minh Xuân, một kĩ sư cơ khí đang (Nói như một người nào đó ) lắp ráp lại truyện
Kiều bằng Cờ lê và búa.
Với ông kĩ sư Đỗ Minh
Xuân, tôi cũng chẳng lấy gì ngạc nhiên cho lắm. Tôi còn gặp một ông đã từng hô
to “Kéo cổ Nguyễn Du xuống, ta mới là đại thi hào của Việt Nam” nhưng
với ông giáo sư Vũ Khiêu thì tôi đã thực sự ngạc nhiên. Tôi đã tự hỏi: Một người
danh đã có, lợi cũng đã có và chắc ông viết lời giới thiệu cho cuốn sách của
ngài kĩ sư Đỗ Minh Xuân không phải vì mệnh lệnh của một ai đó thì tại sao lại
đi làm cái chuyện này? Tôi chịu không thể trả lời được!
Ông Vũ Khiêu nói “Với
một tinh thần khoa học rất nghiêm túc”
Vậy thế nào mới là khoa
học?
Xét về mặt văn bản chúng
ta phải nói rằng “Một chữ của tác giả ta cũng không được phép sửa đổi”.
Đấy không những là khoa học mà cao hơn, nó còn là pháp lý về “Quyền sở hữu trí
tuệ”
Văn bản gốc của truyện Kiều
do Nguyễn Du viết đã bị thất lạc. Truyện Kiều được lưu giữ cho đến ngày nay là
do truyền miệng. Mãi về sau này mới được in thành sách. Trong quá trình truyền
khẩu ấy truyện Kiều đã bị sai lạc khá nhiều, do nhớ nhầm. Sau này, khi được in
thành sách, truyện kiều vẫn tiếp tục bị sai lạc do tam sao thất bản. Nhưng tất
cả sự sai lạc này đều do vô thức tạo nên. Đây là lần đầu tiên sự sai lạc có ý
thức xảy ra đối với truyện Kiều.
Chính sự sai lạc này đã
làm đau đầu những nhà “Kiều học” Họ đã phải đau đầu, cân nhắc từng chữ, tranh
luận với nhau hàng năm trời để cố gắng tìm ra đâu mới là từ mà Nguyễn Du đã
dùng. Họ cố gắng đưa truyện Kiều về gần nhất với văn bản gốc. Đó mới là khoa
học.
Trên thế giới cũng vậy!
Tượng thần vệ nữ người ta tìm thấy thiếu mất hai cánh tay. Các nhà tạo hình
trên thế giới hoàn toàn có thể tạo ra hai cánh tay khác để lắp vào bức tượng và
bức tượng chắc chắn là sẽ đẹp hơn nhưng họ đã không làm. Tại sao vậy? vì một
điều rất đơn giản: Chắc gì hai cánh tay mới làm ấy đã đúng với bản gốc của bức
tượng.
Những sửa chữa, tôn tạo
để khắc phục sự xuống cấp các di sản văn hóa chỉ được phép làm lại đúng như bản
gốc không được phép sửa đổi còn những thứ không có bản gốc thì phải giữ nguyên
hiện trạng dù rằng nó chỉ còn là phế tích, mặc dù với kĩ thuật tiên tiến hiện
nay người ta hoàn toàn có thể dựng lại hiện trang ban đầu bằng kĩ thuật máy
tính
Với một tinh thần “Khoa
học một cách nghiêm túc” Ông Vũ Khiêu đã khuyến khích một việc làm ngược
lại: Sửa một văn bản mà bao nhiêu người đã cố gắng đưa nó về gần đúng với văn
bản gốc thành một văn bản… (Tôi cũng không biết phải gọi thứ văn bản này là thứ
văn bản gì)
Ông còn viết:
“ông đã có ý tưởng lớn
là làm thế nào để phổ cập hóa Truyện Kiều cho quảng đại công chúng, ông gạt bỏ
những câu chữ khó hiểu từ tiếng Hán để thay bằng ngôn ngữ thuần Việt trong
Truyện Kiều”
Tôi không hiểu ông Vũ
Khiêu nghĩ gì khi viết câu này!.
Thứ nhất – Về tính đại
chúng của truyện kiều thì đâu cần những người trí thức lùn như các vị phổ cập nó.
Thử hỏi trong nền văn học Việt từ trước đến nay có tác phẩm văn học nào mà chín
mươi triệu người dân thì nói không ngoa phải có đến sáu bảy mươi triệu người
biết đến nó. Có tác phẩm văn học nào mà từ Bắc chí Nam ai ai cũng thuộc một đôi
câu như truyện Kiều.
Thứ hai: Phải khẳng định
rằng truyện Kiều là một tác phẩm đỉnh cao. Nghĩa là nó không chỉ dành cho những
người có trình độ thị dân mà còn là cuốn sách dành cho những tác giả.
“gạt bỏ những câu chữ
khó hiểu từ tiếng Hán để thay bằng ngôn ngữ thuần Việt trong Truyện Kiều”
Chẳng lẽ ông không hiểu
rằng chính những điển tích mà Nguyễn Du đã dùng chính là tinh hoa của truyện
Kiều?
Ta thử xét một câu trong
truyện Kiều
“Một hai nghiêng nước
nghiêng thành”
Nếu là một người bình
thường, người ta vẫn hiểu được hai cô gái đẹp lắm. Nếu là một học giả họ còn
biết cao hơn thế. Khi đọc đến đây họ phải vỗ đùi khen rằng: Sao cụ Nguyễn Du
tài thế! Cụ đã dịch được hai câu thơ Đường
“Nhất tiếu khunh nhân
thành
Tái tiếu khunh nhân quốc”
Mà không ai có thể dịch
hay hơn. Thay câu thơ này bằng bất cứ câu nào thì cũng tước bỏ đi cái phần dành
riêng cho các học giả. Đồng nghĩa với việc biến một tác phẩm đỉnh cao thành một
tác phẩm thị dân.
Ta hãy thử xét một vài
câu thơ mà ông kĩ sư đã thay để xem thử ông đã tầm thường hóa truyện Kiều như
thế nào khi bỏ đi những điển tích.
“Rằng: Nghe nổi tiếng cầm
đài,
Nước non luống những lắng
tai Chung Kì”
Theo ông Thế Anh thì hai
từ Chung Kì ở đây được thay bằng hai từ “Ngưỡng vì”
Nên câu thơ trở thành
“Rằng: Nghe nổi tiếng cầm
đài
Nước non luống những lắng
tai ngưỡng vì”
Thôi được ta cứ hiểu một
cách cục mịch như ông Xuân đi thì câu đó có nghĩa “Ta nghe nói nàng nổi
tiếng đàn hay ta ngưỡng mộ đã lâu” thế thì hai từ “Nước non” trong
câu thơ phải giải thích thế nào đây? Chẳng lẽ là “Cả nước ngưỡng mộ”?
đấy là chưa kể đến hai từ “ngưỡng vì” nghe rất “Củ chuối”. Chắc ông kĩ
sư cũng chẳng ngu gì mà không tra cứu cái tích của hai từ Chung Kì . Ông biết
nhưng ông lại không hiểu... Khi hiểu hai từ Chung Kì là nói đến Bá Nha và Tử Kì
thì câu thơ còn hàm một nghĩa khác không chỉ dừng lại ở cái nghĩa là ngưỡng mộ.
Đó là sự khẳng định của Kim trọng “Ta sẽ là người tri âm, tri kỉ của nàng”
câu thơ cao vượt lên hẳn vài bậc so với sự ngưỡng mộ thông thường. Và phần này
của câu thơ để dành cho những vị học thật chứ không dành cho những người ”Học
giả”.
(Tôi cũng phải xin lỗi
trước là tôi không có quyển sách của ông Đỗ Minh Xuân nên tất cả những từ thay
đổi, tôi theo đúng của ông Thế Anh trong bài viết “Tại sao ông Vũ Khiêu
lại nối giáo cho giặc”. Nếu có gì sai sót tôi thành thật xin lỗi tất cả
mọi người)
Ta thử một câu nữa
“Vâng lời khuyên nhủ thấp
cao
Chưa xong điều nghĩ đã
dào mạch Tương”
Ở đây ông Xuân thay cụm
từ “Đã dào mạch Tương” Thành “Đã chào vầng Dương” nên câu thơ trở
thành
“Vâng lời khuyên nhủ thấp
cao
Chưa xong điều nghĩ đã
chào vầng dương”
Rõ ràng khi thay đổi ba
từ này nghĩa câu thơ đã thay đổi hoàn toàn. Ở câu trên câu thơ có nghĩa “Nghe
chưa hết lời khuyên nước mắt nàng đã lại trào ra” Thể hiện một cô gái đa
cảm. Ở câu câu dưới câu thơ lại có nghĩa “Chưa nghe hết lời khuyên nàng đã
hớn hở chào đón một ngày mới” Sao tôi lại dùng hai từ hớn hở? Vì cái từ “Chào”
mà ông Xuân đã dùng. Thể hiện một cô gái nông cạn và vô cảm. Biến nàng Kiều từ
một cô gái đa cảm thành ra một cô gái vô cảm và nông cạn đấy là “Một ý tưởng
lớn” của ông kĩ sư cơ khí mà ông Vũ Khiêu đã ca ngợi
Ta hãy xét thử thêm một
câu nữa để thấy thay từ thuần Việt cho điển tích câu thơ sẽ ra sao. Câu 507
“Phải trò trên bộc dưới
dâu”
Ông thay bằng “Trên cỏ
dưới dâu”. Thoạt nghe có vẻ thuận, có lý.
“Phải trò trên cỏ dưới dâu”
Nhưng nếu xét lại cả câu
theo cái nghĩa thuần Việt thì câu này vô nghĩa. Chúng ta không có cái trò nào
trên cỏ dưới dâu cả. Muốn câu này có nghĩa đúng như cụ Nguyễn Du viết mà lại
thuần Việt thì phải viết là:
“Phải trò mèo mả gà đồng”
Nhưng nếu viết thế thì
lấy vần đâu bắt cho câu dưới. Để thuần Việt ông bèn biến một câu có nghĩa nhưng
cần kiến thức rộng thành một câu vô nghĩa. Thiên tài! Làm gì mà ông Vũ Khiêu
chẳng khen hết lời
Ta tạm dừng phần thay đổi
những tích Hán Việt ở đây mà chuyển sang phần thay đổi từ ngữ không phải tích
Hán Việt xem thử cái mà ông Vũ Khiêu nói: “ông đã có ý tưởng lớn” nó như thế
nào? Câu dễ thấy nhất là câu:
“Sè sè nấm đất bên đường”
Ông Xuân sửa là
“Se se nấm đất bên đường” với lời giả thích (Theo
như bài viết của ông Thế anh): “Ông phân tích đó là nấm mồ vừa mới đắp, đất
hơi se se, cỏ chưa hồi phục hẳn, nên đang còn nửa vàng nửa xanh.”
Tài thật! Xin hỏi ông
Xuân thế còn hai câu:
“Trải bao thỏ lặn ác tà
Ấy mồ vô chủ ai mà viếng
thăm”
của Cụ Nguyễn Du là chỉ
nấm mộ của ai đây?
Còn câu “Bóng hoa đầy
đất vẻ ngân ngang trời”
Ông thay từ vẻ thành từ ve
“Ve ngân ngang trời”. Đọc câu này của ông tôi lại sực nhớ đến chuyện Tô
Đông Pha sửa thơ của Vương An Thạch
“Minh Nguyệt sơn đầu
khiếu
Hoàng Khuyển ngọa hoa tâm”
Thành
“Minh nguyệt sơn đầu
khiếu
Hoàng khuyển ngọa hoa âm”
Phải bao nhiêu năm sau Tô
Đông Pha mới biết kiến thức mình non nớt. Nhưng với từ vẻ thành ve
thì chúng ta không cần phải lâu đến thế. Chỉ cần đưa mắt đọc lên câu trên
“Cửa thiền vừa tiết cuối
xuân”
Thì ta thấy ngay sự non
nớt về kiến thức của ông Kĩ sư họ Đỗ. Tiết cuối xuân nghĩa là vào tháng hai đến
tháng ba âm lịch lúc ấy thì đào đâu ra ve. Hay là “Tiếng ve năm ngoái còn
vờn ông Xuân”?
Ta hãy xét đến một từ khó
hơn mà lại khó hơn rất nhiều đó chính là từ “Chiếc” của cụ Nguyễn Du thành từ
“Đơn” hay từ “Lẻ” của ông kĩ sư cơ khí vì từ này để cảm nhận được cái hay của
nó cần phải có một sự mẫn cảm hết sức tinh tế và kiến thức sâu rộng của người
thưởng thức
Trong thành ngữ của chúng
ta có câu thành ngữ rất hay “Chăn đơn, gối chiếc” Chăn đơn là loại chăn
mỏng (chứ không phải là loại chăn chỉ dùng cho một người). Nó không đủ ấm vào
mùa đông nên chăn đơn hàm chỉ sự lạnh lẽo. Gối chiếc là loại gối chỉ dùng cho
một người vì vậy nó hàm chứa một nội hàm cô đơn ở bên trong
Trong ca dao có câu
“Đêm đêm canh giữ phòng
không
Chăn đơn gối chiếc lạnh
lùng một thân”
Vậy từ “Chiếc”
luôn luôn đi với sự cô đơn. Còn từ đơn muốn chỉ sự cô độc thì lại luôn đi với
từ lẻ thành một từ kép ”đơn lẻ”. Ở đây phải thấy sự nhuần nhuyễn về
tiếng việt của cụ Nguyễn Du. Chỉ sự cô đơn bao giờ cụ cũng dùng từ chiêc
“Người về chiếc bóng
năm canh
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa soi gối chiếc, sửa
soi dặm trường.”
Thế đấy! Muốn dùng từ
thuần Việt cũng không hề dễ đâu. Phải thuộc, hiểu một cách sâu sắc về ca dao
tục ngữ thì dùng từ thuần Việt mới hay và chính xác. Phải đặt cái từ ấy vào trong
tổng thể của cả đoạn thơ chứ không thể bạ từ nào thay từ ấy như ông Xuân đã
làm.
Truyện Kiều là một tác
phẩm đỉnh cao. Một cây cổ thụ được hai ông Vũ Khiêu và Đỗ Minh Xuân bứng đi
trồng thay vào đấy là một cây cỏ dại.
Bỗng thấy thương cho cụ
Đào Duy Anh quá. Hai kẻ hậu sinh đã hóa vàng cho cụ bằng chính cuốn «Từ
điển truyện Kiều» . Ôi ! những nhà văn hóa!
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Đặng Xuân Xuyến - Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến - Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe Trương Ngọc Tuân đọc truyện ngắn
CHÀNG LÙN NỂ VỢ của Đặng
Xuân Xuyến:
*.
NGUYỄN THẾ DUYÊN
Địa chỉ: số nhà 19 ngõ 695
phố Bạch Đằng,
Chương Dương, Hoàn Kiếm,
Hà Nội.
.
.............................................................................................................
- Cập nhật từ email nguyenhung967812@gmail.com ngày 17.04.2023.
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của
trang Đặng Xuân Xuyến
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
bài viết rất hay
Trả lờiXóa