MỐI QUAN HỆ GIỮA
CHỮ QUỐC NGỮ VỚI CHỮ
NÔM
*
Chữ Quốc ngữ là di sản văn hóa vô giá mà chúng ta được thừa
hưởng từ quá khứ vẻ vang của dân tộc ta, cũng là thành tựu ngôn ngữ học cực kỳ
xuất sắc của tiến trình phát triển ngôn ngữ viết của người Việt Nam đi từ chữ
Nho (tức chữ Hán đọc âm Việt) đến chữ Nôm rồi chữ Nôm được Latin hóa, hiện đại
hóa thành Chữ Quốc ngữ. Công trình Latin hóa, hiện đại hóa chữ Nôm ấy được một
nhóm giáo sĩ Thiên Chúa Giáo đến nước ta truyền giáo vào nửa đầu thế kỷ 17 thực
hiện thành công mỹ mãn. Sự kiện lịch sử, thành tựu lao động sáng tạo kiệt xuất
này xứng đáng được dân tộc ta muôn đời tôn vinh.
Năm 1612, chính quyền Mạc Phủ ở Nhật đột nhiên ra lệnh cấm hoạt
động truyền giáo của các giáo sĩ đạo Thiên Chúa; họ buộc phải rời nước Nhật. Về
sau Tòa thánh Vatican cử họ sang Việt Nam truyền giáo. Các giáo sĩ Thiên Chúa
giáo như Francisco de Pina, António Barbosa, Gaspar do Amaral, António de
Fontes, Girolamo Maiorica, Alexandre de Rhodes v.v… lần lượt đến nước ta. Họ
đều thuộc Thiên Chúa Giáo Dòng Tên, là dòng mang tên Chúa Jesu cao quý (SJ) chỉ
tuyển người có trình độ tiến sĩ, và nghiêm khắc yêu cầu nhà truyền giáo phải
thông thạo ngôn ngữ và theo phong tục tập quán của dân bản xứ. Do đã từng làm
việc ở Nhật hoặc Trung Quốc, các giáo sĩ này đều rất giỏi chữ Hán, vì thế họ
không khó học được chữ Nôm của Việt Nam -- thứ chữ đã tồn tại hon 500 năm và
tùng được Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông ... dùng để viết những áng văn thơ bất hủ.
Theo ghi chép, Francisco de Pina (người Bồ Đào Nha) đến Việt Nam
năm 1617, ba năm sau đã cùng các giáo sĩ soạn tài liệu giáo lý bằng chữ Nôm.
Trong các năm 1632-1656, giáo sĩ Girolamo Maiorica (người Ý) đã viết 45 tác
phẩm chữ Nôm, trong đó Thư viện Quốc gia Pháp hiện còn giữ 15 tác phẩm với tổng
số 1,2 triệu chữ Nôm, nhiều gấp 52 lần số chữ Nôm trong Truyện Kiều. Một số thư
viện còn giữ được nhiều tài liệu chữ Nôm của các giáo sĩ đi đầu làm chữ Quốc
ngữ như Gaspar do Amaral, António Barbosa…
Vì đối tượng truyền giáo thời ấy là nông dân, ngư dân Quảng Nam,
Quảng Ngãi nên dĩ nhiên các tài liệu giảng đạo chữ Nôm phải dùng từ ngữ của dân
thường. Từ đây có thể suy ra các vị giáo sĩ --bậc thầy ngôn ngữ học ấy không
thể không nhận thấy chữ Nôm có yếu tố biểu âm, thể hiện được các từ thuần Việt
và đã ghi được phần lớn âm tiếng Việt, nhưng chỉ vì dùng ký tự vuông của Hán ngữ
nên ghi âm chưa chính xác, và khó học, khó phổ cập. Kinh nghiệm thất bại của
các giáo sĩ Dòng Tên ở Nhật trong việc phiên âm Latin hóa chữ Kanji biểu ý (tức
chữ Hán dùng trong tiếng Nhật) càng cho thấy việc chữ Nôm có yếu tố biểu âm là
một thuận lợi lớn khi tiến hành phiên âm nó thành chữ biểu âm Latin hóa.
Với nhận thức như vậy, các giáo sĩ giỏi chữ Nôm kể trên dĩ nhiên
đã sớm nảy ra ý tưởng và niềm tin có thể dùng chữ cái Latin để phiên âm chữ
Nôm, biến thứ chữ gốc Hán có yếu tố biểu âm ấy thành thứ chữ biểu âm Latin hóa
dễ học dễ dùng cho việc truyền giáo.
Hiển nhiên, phiên âm một loại tiếng nói đã có chữ viết ghi lại
âm của tiếng đó thì đơn giản nhiều so với việc phiên âm thứ tiếng nói chưa có
chữ viết –– ở thời xưa, đó là một công trình lao động sáng tạo cực kỳ phức tạp,
cần nhiều người làm trong hàng trăm năm.
Trên thực tế, các giáo sĩ kể trên dù rất ít người và làm việc
phân tán nhưng đã nhanh chóng tìm ra các chữ cái Latin thích hợp thay cho các
ký tự vuông tương ứng trong chữ Nôm và tạo ra loại chữ mới trong thời gian ngắn
kỷ lục: 32 năm (1617-1649). Năm 1617 Francisco de Pina đến Đàng Trong, năm 1619
đã viết xong một bản từ vựng tiếng Việt bằng chữ Latin. Năm 1631 Gaspar do
Amaral đến Đàng Ngoài, năm sau đã ghi âm rất tốt tiếng Việt, năm 1634 làm xong
một cuốn từ vựng tiếng Việt. Trong mấy cuộc gặp tại Macao (1630-1631), các giáo
sĩ đã xác định được 6 thanh điệu và tính đơn âm tiết (monosyllabic) của tiếng
Việt. Năm 1649 Rhodes mang theo bản thảo Từ điển Việt-Bồ-La (Dictionarium
Annamiticum Lusitanum et Latinum) rời Việt Nam đi Ý. Năm 1651 Từ điển này được
xuất bản tại Roma, đánh dấu sự ra đời chữ Quốc ngữ Việt Nam. Đây là lần đầu
tiên trong lịch sử, chữ viết biểu âm Latin hóa thành công ra đời tại khu vực
ảnh hưởng của Hán ngữ.
Trong quá trình làm chữ Quốc ngữ, các giáo sĩ đã phải giải quyết
nhiều khó khăn gây ra bởi hệ ngữ âm tiếng Việt quá phong phú và mới lạ. Vấn đề
phức tạp nhất là phải nghiên cứu sáng tạo ra hệ thống ký hiệu thể hiện được các
thanh điệu sắc, huyền, hỏi. ngã, nặng, và các con chữ thể hiện được các ngữ âm
không có trong bộ chữ La tinh như ă, â, ê, ơ, ô, ư, đ. Bộ ký hiệu và con chữ ấy
làm nên cái gọi là “giày và mũ” trong nhận xét của một học giả nổi tiếng Trung
Quốc: “Chữ viết của Việt Nam sau khi phiên âm hóa, đầu đội mũ, chân đi giày,
rất nực cười”. Thực ra “mũ, giày” ấy là những sáng tạo hợp lý tới mức người
Việt xưa và nay đều không chấp nhận bất cứ thứ chữ Quốc ngữ nào không có các ký
hiệu và con chữ đó. Ví dụ gần đây công luận nước ta tỏ ý không tán thành một số
phương án chữ Quốc ngữ bỏ dấu. Ngoài ra các giáo sĩ đã hiệu chỉnh những âm
tiếng Việt mà chữ Nôm chưa ghi chính xác, và hiện đại hóa ngữ pháp cùng cách
viết, như đưa vào các loại dấu ngắt câu, ngắt đoạn, xuống dòng, dấu ngoặc, ký
hiệu toán học, lối viết hoa, viết tắt v.v…
Về hình thức, chữ Quốc ngữ khác hẳn chữ Nôm, nhưng về bản chất
cả hai đều là các hệ chữ viết ghi âm tiếng Việt; chữ Quốc ngữ trong Từ điển
Việt-Bồ-La thể hiện rất rõ mối tương quan với chữ Nôm.
Sau mấy chục năm dầy công lao động sáng tạo, các vị giáo sĩ nói
trên đã hoàn thành việc phiên âm và biến đổi chữ Nôm thành một thứ chữ biểu âm
dùng chữ cái Latin –– loại chữ viết tiên tiến nhất, quốc tế hóa nhất thời đó.
Về sau thứ chữ Nôm Latin hóa hiện đại hóa ấy được dân ta yêu mến gọi là chữ
Quốc ngữ, tức chữ viết của quốc gia. Các chí sĩ cách mạng Đông Kinh Nghĩa Thục
gọi "chữ Quốc ngữ là hồn trong nước", học giả Phạm Quỳnh ca ngợi thứ
chữ mới này là "Công cụ kỳ diệu giải phóng tư tưởng người Việt Nam".
Rõ ràng, chữ Quốc ngữ chính là chữ Nôm được Latin hóa và hiện đại hóa.
Giả thử thời ấy chưa có chữ Nôm, chỉ có chữ Nho, thì việc làm
chữ của các giáo sĩ sẽ vô cùng khó khăn nếu không nói là sẽ bất thành, vì chữ
Nho vốn là chữ Hán 100%.
Thực tiễn ngót trăm năm cải cách chữ viết ở Trung Quốc
(1894-1986) đã chứng tỏ không thể dùng bất cứ bộ chữ cái nào để phiên âm chữ
Hán thành chữ biểu âm.
Ấy thế mà chữ Nôm tuy được cấu tạo trên nền tẳng chữ Hán, có
nhiều chữ Hán nguyên gốc, lại có thể phiên âm được, Latin hóa được ("Từ
điển chữ Nôm dẫn giải" của GS Nguyễn Quang Hồng sưu tầm được 9450 chữ Nôm,
trong đó có gần 3000 chữ Nôm tự tạo, nghĩa là có hơn 6000 chữ Hán). Căn nguyên
là do chữ Nôm có tính biểu âm, còn chữ Hán thì không có.
Năm 1582 giáo sĩ Dòng Tên người Ý Matteo Ricci (1552-1610) đến
Trung Quốc truyền giáo 28 năm. Ông rất giỏi Hán ngữ, đã dành nhiều năm nghiên
cứu cách phiên âm chữ Hán. Năm 1605 Ricci đưa ra phương án phiên âm chữ Hán
bằng chữ cái Latin, nhưng phương án này chỉ giúp người Âu học chữ Hán dễ hơn,
chứ chưa phải là một loại chữ viết mới.
Về sau, giới trí thức Trung Quốc tiếp tục nghiên cứu theo phương
hướng của Ricci nhằm mục tiêu tạo ra một thứ chữ biểu âm (chữ phiên âm) có thể
thay thế chữ Hán mà họ muốn loại bỏ. Nhưng mọi cố gắng ấy đều không có kết quả.
Năm 1958 Ủy ban Cải cách chữ viết Trung Quốc làm ra Phương án
phiên âm (Pinyin) Hán ngữ dùng chữ cái Latin, nhưng chỉ có tác dụng phụ trợ là
ghi chú âm cho chữ Hán, không phải là một loại chữ viết. Từ năm 1986 Ủy ban này
đình chỉ việc nghiên cứu phiên âm hóa chữ Hán, các văn bản đều không còn nhắc
tới mục tiêu tạo ra loại chữ biểu âm thay cho chữ Hán nữa, và nói tương lai của
chữ Hán sẽ do các thế hệ sau quyết định. Hiện nay Trung Quốc vẫn dùng chữ Hán
như cũ, có kết hợp dùng phương án Phiên âm (Pinyin) Hán ngữ chỉ để ghi chú âm
đọc chữ Hán.
Tóm lại, việc dùng chữ cái Latin phiên âm chữ Nôm thành chữ biểu
âm đã thành công ngay từ giữa thế kỷ 17, trong khi mọi cố gắng tương tự đối với
chữ Hán cho tới nay vẫn bất thành. Tại sao vậy? Đó là do chữ Nôm có yếu tố biểu
âm, còn chữ Hán biểu ý không biểu âm; và tình trạng đó bắt nguồn sâu xa từ chỗ
tiếng Việt giàu âm tiết, tiếng Hán nghèo âm tiết.
Đến đây có thể kết luận:
Chữ Nôm đã xây đắp nền tảng ngôn ngữ để các vị giáo sĩ đáng kính
nói trên dựa vào đó tạo ra chữ Quốc ngữ. Toàn dân Việt Nam mãi mãi ghi nhớ công
trạng làm chữ Nôm của tổ tiên ta, coi chữ Nôm là một sáng tạo ngôn ngữ xuất sắc
góp phần quyết định sự hình thành chữ Quốc ngữ.
Sau cùng cần nhấn mạnh vai trò quan trọng của Kitô giáo.
Là hiện tượng văn hóa của số đông loài người, các tôn giáo lớn
đều tôn sùng và truyền bá tư tưởng nhân ái cao quý. Thế kỷ 17, các giáo sĩ Kitô
giáo người Âu khi đến Việt Nam truyền giáo đã tranh thủ kết hợp làm sứ mạng
khai hóa dân bản xứ, khác hẳn hành vi xâm chiếm thuộc địa của chủ nghĩa thực
dân phương Tây. Thực dân Bồ Đào Nha khi chiếm Brazil đã cưỡng bức đồng hóa dân
bản xứ bằng cách bắt họ nói tiếng Bồ, trong khi các giáo sĩ Kitô giáo người Bồ
như Francisco de Pina … đến Việt Nam truyền giáo đã không làm thế mà còn tìm
cách Latin hóa chữ Nôm.
Hơn nữa, de Pina còn nghĩ tới việc dùng thứ chữ hiện đại này bắc
cây cầu đối thoại Việt Nam với châu Âu văn minh, và tạo dựng một nền văn hóa
mới cho nước ta. Đây thật là một ý tưởng cao quý!
Khi mới chiếm Việt Nam, thực dân Pháp từng chủ trương bắt dân ta
đời đời nói tiếng Pháp như chúng đã làm ở các thuộc địa châu Phi. Nhưng giáo sĩ
người Pháp Alexandre de Rhodes lại hăng hái làm chữ viết riêng giúp cho người
Việt giữ được tiếng mẹ đẻ. Nếu chưa có chữ Quốc ngữ thì nước ta ắt hẳn đã bị
người Pháp đồng hóa từ lâu rồi. Các giáo sĩ sẵn sàng "tử vì đạo" ấy
chỉ nghĩ đến việc truyền bá đạo lý của tôn giáo họ sùng tín, nhằm làm cho toàn
nhân loại đều có niềm tin tôn giáo như họ, để mọi người cùng sống trong tình
nhân ái, họ đâu có làm tay sai cho bọn thực dân. Họ đến Việt Nam vào thế kỷ 17,
mấy trăm năm sau thực dân Pháp mới đặt chân tới đây. Có thể bọn thực dân lợi
dụng tôn giáo để phục vụ mục đích của chúng, nhưng đó đâu phải là lỗi của nhà
truyền giáo.
Bởi vậy sẽ là sai lầm khi cho rằng các giáo sĩ đạo Kitô đến Việt
Nam truyền giáo là để phục vụ chính sách xâm lược của thực dân Pháp.
Với truyền thống Uống nước nhớ nguồn, dân tộc ta đời đời ghi ơn
tất cả các giáo sĩ Kitô giáo đã góp phần làm ra thứ chữ viết kỳ diệu ta dùng
hơn trăm năm nay.
Và như vậy có thể nói chữ Quốc ngữ là thành quả kết hợp trí tuệ
của nền văn minh Việt với nền văn minh Kitô giáo, là món quà vô giá mà các giáo
sĩ Dòng Tên trao cho dân tộc ta trong một ngẫu nhiên lịch sử xảy ra ở thế kỷ
17.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
Chuyện làng văn0
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
- Bạn đọc cảm nhận
bài thơ “Quê Nghèo” của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc
truyện ngắn
CHUYỆN CU TỐ LÀNG TÔI của Đặng
Xuân Xuyến:
*
NGUYỄN HẢI HOÀNH
Địa chỉ: phố Lê Thánh Tông, phường Phan Chu Trinh
quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
........................................................................................
- Cập nhật từ email:
quanboyman1992@yahoo.com.vn ngày 26.02.2023
- Ảnh dùng minh họa cho
bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể
hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét