NHÀ TIỀN LÝ
NƯỚC VẠN XUÂN (544-602)
Nhà Tiền Lý là một triều đại trong lịch sử Việt Nam,
gắn liền với quốc hiệu Vạn Xuân. Nhà Tiền Lý kéo dài 58 năm, tổng cộng 3
đời vua là Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương và Đào Lang Vương, và Lý Phật Tử.
Lý Nam Đế
Tiểu sử
Lý Nam Đế tên là Lý Bí,
người Thái Bình, phủ Long Hưng (Sơn Tây). Ông là người có công đánh đuổi quân
đô hộ nhà Lương (thời Nam Bắc triều),
sáng lập ra nhà Tiền Lý. Ông có một người anh là Lý Thiên Bảo cũng
góp công trong sự nghiệp kháng chiến.
Tổ tiên của Lý Bí là người Trung Quốc,
cuối thời Tây Hán khổ
về việc đánh dẹp, mới tránh sang ở đất phương Nam, được 7 đời thì thành người
Nam. Sử chép Lý Bí vốn con nhà hào trưởng, thiên tư lỗi lạc, do làm quan không
được vừa ý nên cáo quan về quê, tập hợp nhân tài lo khởi nghĩa.
Đuổi Tiêu Tư
Bấy giờ Việt Nam nằm dưới sự
đô hộ của nhà Lương. Thứ sử Giao Châu là Vũ Lâm
hầu Tiêu Tư (cùng họ với vua Lương – Tiêu Diễn), vì hà khắc tàn bạo, mất lòng
người. Các nhân tài Việt Nam lúc đó bị bạc đãi nên không hợp tác với nhà Lương.
Có người là Tinh Thiều, người Giao Chỉ, giỏi từ chương từng
đến Kiến Khang (Nam
Kinh ngày nay) kinh đô nhà Lương xin được làm quan. Thượng thư bộ Lại nhà Lương
là Sái Tôn cho rằng họ Tinh trước không có ai hiển đạt, nên chỉ bổ cho chức
Quảng Dương môn lang. Thiều lấy làm nhục, trở về làng, theo Lý Bí mưu việc dấy
binh. Lý Bí bấy giờ làm chức Giám quân ở Đức Châu (Hà Tĩnh), nhân liên kết
với hào kiệt mấy châu, đều hưởng ứng. Có Triệu Túc tù trưởng ở Chu Diên phục
tài đức của Lý Bí, bèn dẫn đầu đem quân theo về.
Thế lực của Lý Bí ngày càng lớn. Năm 542, thứ sử Tiêu Tư biết việc, đem của đến
hối lộ cho ông để mưu thoát thân, rồi chạy về Quảng Châu.
Lý Bí đem quân ra chiếm giữ thành Long Biên.
Đánh đuổi quân Lương và
Lâm Ấp
Tháng 12 năm 542, vua Lương sai Tôn Quýnh, Lư Tử Hùng sang xâm
chiếm. Quýnh lấy cớ là chướng khí mùa xuân đương bốc, xin đợi đến mùa thu. Bấy
giờ Thứ sử Quảng Châu là
Tân Dụ hầu Hoán không cho, Tiêu Tư cũng thúc giục. Bọn Tử Hùng đi đến Hợp Phố,
Lý Bí chủ động đem quân đón đánh tại đây. Quân Lương thua to, 10 phần chết đến
6, 7 phần, quân tan rã mà về. Tiêu Tư tâu vu với vua Lương rằng Quýnh và Tử
Hùng dùng dằng không chịu đi, đều bị buộc phải tự tử.
Tháng 4 năm 543, vua Lâm Ấp cướp
quận Nhật Nam, Lý Bí sai lão tướng Phạm Tu đánh tan ở
Cửu Đức.
Dựng nước Vạn Xuân
Đầu năm Giáp Tý 544, Lý Bí nhân thắng quân địch, tự xưng là Nam
Việt đế, đặt niên hiệu là Thiên Đức, đặt tên nước là Vạn Xuân,
có ý mong xã tắc lâu dài đến muôn đời. Ông dựng điện Vạn Xuân để làm chỗ
triều hội, xây chùa Trấn Quốc.
Lý Nam đế đặt
ra trăm quan, dùng Triệu Túc làm thái phó, Tinh Thiều làm tướng văn, Phạm Tu
làm tướng võ.
Đó là lần đầu tiên Việt Nam có hoàng đế và niên hiệu Thiên Đức
là niên hiệu riêng đầu tiên để chứng tỏ giành lại độc lập từ tay Trung Quốc.
Cường địch
Tháng 6 năm 545, vua Lương Vũ đế phong
Dương Phiêu làm thứ sử Giao Châu, sai đi
đánh Lý Nam đế,
cử Trần Bá Tiên làm
tư mã; thứ sử Định Châu là Tiêu Bột cùng họp với Dương Phiến ở Tây Giang.
Quân Lương đến Giao Châu, Lý Nam Đế mang
quân ra đánh bị thua nặng, chạy sang thành Gia Ninh. Quân Lương tiến vây thành.
Tháng giêng năm 546, thành Gia Ninh vỡ, tướng Phạm Tu và thái
phó Triệu Túc cùng tử trận, Lý Nam Đế chạy đi Tân Xương là vùng của người Lạo
(Lào ngày nay). Tại đây, ông chiêu mộ thêm được nhiều binh lính, uy thế lại
tăng lên.
Tháng 8, Lý Nam đế lại đem quân từ trong xứ người Lạo ra, đóng
đồn ở hồ Điển Triệt (nay thuộc Lập Thạch – Vĩnh Phúc). Đêm hôm ấy, nước sông
bỗng lên to đến bảy thước, chảy rót vào trong hồ. Trần Bá Tiên đốc thúc quân
bản bộ mình theo dòng nước tiến đi trước. Quân Lương đánh trống, reo hò, kéo
tràn vào. Quân Lý Nam Đế mới tập hợp bị đánh úp nên tan vỡ.
Lý Nam Đế lại rút lui về giữ trong động Khuất Lão, điều chỉnh
binh lính, mưu tính chiến đấu về sau. Ông giao lại binh quyền cho tả tướng quân
Triệu Quang Phục.
Dạ Trạch vương Triệu
Quang Phục
Triệu Quang Phục cầm cự với Trần Bá Tiên, chưa phân thắng bại.
Nhưng quân của Bá Tiên rất đông, Bá Tiên lại là mãnh tướng của nhà Lương.
Triệu Quang Phục liệu thế không thể dùng sức thắng được địch bèn
lui về giữ đầm Dạ Trạch ở huyện Chu Diên, cỏ cây um tùm, bụi rậm che kín, ở
giữa có nền đất cao có thể ở được, bốn mặt bùn lầy, người ngựa khó đi, chỉ có
thể dùng thuyền độc mộc nhỏ chống sào đi lướt trên cỏ nước mới có thể đến được.
Nhưng nếu không quen biết đường lối thì lạc không biết là đâu, lỡ rơi xuống
nước liền bị rắn độc cắn chết.
Triệu Quang Phục thuộc rõ đường đi lối lại, đem hơn 2 vạn người
vào đóng ở nền đất trong đầm. Ban ngày, ông ra lệnh tuyệt không để khói lửa và
dấu người, ban đêm dùng thuyền độc mộc đem quân ra đánh doanh trại của quân Bá
Tiên, giết và bắt sống rất nhiều, lấy được lương thực để làm kế cầm cự lâu dài.
Bá Tiên đuổi theo hút mà đánh, nhưng không thể tiến sâu vào trong đầm lầy được,
nên đành rút quân. Người trong nước gọi ông là Dạ Trạch Vương.
Anh Lý Nam Đế là Lý Thiên Bảo cùng với tướng là người cháu họ
tên là Lý Phật Tử đem 3 vạn người vào Cửu Chân. Trần Bá Tiên đuổi
theo đánh, Thiên Bảo bị thua, bèn thu nhặt quân còn sót được vạn người chạy
sang đất người Di Lạo ở Ai Lao.
Triệu Việt Vương và Đào
Lang Vương
Tháng 3 năm 548, nghe tin Lý Nam Đế mất trong động Khuất Lão,
Triệu Quang Phục tự xưng là Triệu Việt Vương. Trần Bá Tiên vây đánh nhiều lần
không được.
Lý Thiên Bảo thấy động Dã Năng ở đầu nguồn Đào Giang, đất phẳng
rộng màu mỡ có thể ở được, Lý Thiên Bảo mới đắp thành để ở, nhân tên đất ấy mà
đặt quốc hiệu. Đến bây giờ quân chúng tôn làm chúa, xưng là Đào Lang vương.
Tháng 1 năm 550, nhà Lương cho Trần Bá Tiên làm Uy minh tướng
quân Giao Châu thứ sử. Bá Tiên lại mưu tính cầm cự lâu ngày khiến cho Triệu
Việt Vương lương hết quân mỏi thì có thể phá được. Gặp lúc bên nước Lương xảy
ra loạn Hầu Cảnh, nhà Lương, gọi Bá Tiên về, ủy quyền cho tì tướng là
Dương Sàn cầm quân.
Triệu Việt Vương nhân lúc quân Lương không còn tướng giỏi, tung
quân ra đánh. Sàn mang quân chống cự, bị thua chết. Quân Lương tan vỡ chạy về
Bắc. Triệu Việt Vương lấy lại được nước Vạn Xuân, đóng đô ở thành Long Biên.
Lý Phật Tử - Chia
đôi bờ cõi
Triệu Việt Vương làm vua ở thành Long Biên. Lý Thiên Bảo làm Đào
Lang Vương ở nước Dã Năng. Năm 555, Thiên Bảo chết không có con nối, quân chúng
suy tôn người cháu trong họ là Lý Phật Tử lên nối ngôi.
Năm 557, Lý Phật Tử đem quân xuống miền Đông đánh nhau với Triệu
Việt Vương ở huyện Thái Bình. Hai bên năm lần giáp trận, chưa phân thắng bại,
quân của Phật Tử có phần kém thế hơn. Phật Tử liệu không thắng được bèn xin
giảng hòa xin ăn thề. Triệu Việt Vương nghĩ rằng Phật Tử là người họ của Tiền
Lý Nam Đế, không nở cự tuyệt, bèn chia địa giới ở bãi Quân Thần (nay là hai xã
Thượng Cát, Hạ Cát ở huyện Từ Liêm) cho ở phía tây của nước.
Phật Tử dời đến thành Ô Diên (nay là xã Hạ Mỗ, huyện Đan
Phượng, Hà Nội).
Học kế Triệu Đà
Lý Phật Tử có con trai là Nhã Lang, xin lấy con gái của Triệu
Việt Vương là Cảo Nương. Việt Vương bằng lòng, nên hai nhà kết thành thông gia.
Vì yêu quý Cảo Nương nên Việt Vương cho Nhã Lang ở gửi rể.
Sau Nhã Lang biết được bí mật về quân sự của Triệu Việt Vương,
báo lại cho Lý Phật Tử. Phật Tử mang quân đánh úp Việt Vương. Việt Vương tự
biết thế yếu không thể chống được, bèn đem con gái chạy về phía nam, muốn tìm
nơi đất hiểm để ẩn náu tung tích, nhưng đến đâu cũng bị quân của Phật Tử đuổi
theo sau gót. Việt Vương cưỡi ngựa chạy đến cửa biển Đại Nha, bị nước chắn,
than rằng: “Ta hết đường rồi!”, bèn nhảy xuống biển tự vẫn.
Người sau cho lập đền thờ ông ở cửa biển Đại Nha (Đại Nha nay là
huyện Đại An).
Chưa đánh đã hàng
Ở Trung Quốc, nhà Tùy đã diệt nhà Trần (con
cháu Trần Bá Tiên) thống nhất toàn quốc năm 589. Vua Tùy sai sứ sang dụ Lý
Phật Tử sang chầu. Phật Tử thoái thác không sang. Năm 602, Tùy Văn
Đế muốn đánh Vạn Xuân. Thừa tướng Dương Tố tiến cử Thứ sử Qua Châu là Lưu
Phương. Vua Tùy xuống chiếu lấy Tố làm Giao Châu đạo hành quân tổng quản, thống
lĩnh 27 doanh quân sang xâm chiếm. Quân lệnh của Phương rất nghiêm, ai phạm tất
chém quân lính ai nấy đều mến đức và sợ uy.
Nghe tin quân địch kéo sang, Hậu Lý Nam Đế sai con của người anh
là Lý Đại Quyền giữ thành Long Biên, Biệt súy là Lý Phổ Đỉnh giữ thành Ô Diên,
còn tự Lý Phật Tử đóng ở Phong Châu.
Quân Tùy đến núi Đô Long gặp quân Lý, Lưu Phương đánh tan hết,
rồi tiến quân sang đến cạnh dinh của Lý Phật Tử. Phương lấy họa phúc mà dụ.
Phật Tử sợ hãi xin đầu hàng, bị quân Tùy bắt đưa về Bắc rồi chết. Dân làm đền
thờ ở cửa biển Tiểu Nha để đối với đền thờ Triệu Việt Vương.
Thế là nước Vạn Xuân và nhà Tiền Lý mất. Nhà Tiền Lý
từ khi Lý Nam Đế giành lại được nước đến khi mất tổng cộng 61 năm. Việt Nam vào
thời kỳ Bắc thuộc lần thứ 3 mà trước hết là thuộc Tùy.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Cuộc chiến tranh
Biên giới 1979l
- Không được quên
tội ác của bá quyền Trung Quốcl
- Trận chiến cầu
Khánh Khê và giờ học lịch sửl
- Vị Xuyên ơi! Nỗi
đau không quên!l
- Bàn thêm về nước
Nam Việt của Triệu Đà và lịch sử nước Việt Naml
- Gạc Ma - Nỗi đau
không được quênl
- Vai trò của Mao
Trạch Đông trong chiến dịch tiến chiếm Hoàng Sa năm 1974l
- Cuộc chiến chống
quân Trung Quốc xâm lược: Hoàng Sa năm
1974l
- Vạch trần dã tâm
thâm đọc của Trung Quốc nhằm độc chiếm biển Đôngl
- Sự thật về quan
hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năml
- Đại nạn Trung
Hoa thời Cổ sửl
- Đại nạn Trung
Hoa thời Trung sửl
- Đại nạn Trung
Hoa thời Cận đạil
THÍCH CHÂN QUANG - TÊN THẦY CHÙA PHẢN QUỐC:
*.
LÝ THÀNH PHƯƠNG
Quê quán: Núi Sập, Thoại Sơn,
tỉnh An Giang.
Định cư: thành phố San Diego,
California, Hoa Kỳ.
…………………………………………………………………………
- Cập nhật từ email tranchicuong27@gmail.com gửi ngày 13.06.2025.
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.



0 comments:
Đăng nhận xét