TRĂNG TRONG THƠ HÀN MẶC TỬ
*
Có một con người mà khi
sinh ra cuộc đời dường như gắn chặt mảnh đất miền Trung của đói nghèo, của nắng
gió và rất nhiều thi sĩ- ấy là Hàn Mặc Tử. Chính những đối cực của miền đất ấy
đã giao ứng với nhau và thăng hoa hồn thơ. Sự tương sinh tương khắc khôn lường
giữa chúng tạo nên một cặp đối cực cuối cùng của sự song sinh tột đỉnh: đau
thương và sáng tạo.
Hàn Mặc Tử là một hồn thơ mãnh liệt nhưng luôn quằn quại đau
đớn, dường như có cuộc vật lộn giữa linh hồn và thể xác. Linh hồn
muốn thoát khỏi xác phàm để bay tới cõi siêu nhiên sáng láng, thơm tho tinh
khiết nhưng thực ra vẫn gắn bó với cuộc đời thực. Ông tạo ra cho mình hai hình
tượng sống động như hai nhân vật: hồn và trăng- biết cười biết khóc, biết gào
thét… Bên cạnh những vần thơ điên loạn là những hình ảnh
tuyệt mĩ và hồn nhiên trong trẻo đến lạ thường.
Có thể nói trong thi ca
Việt Nam hiện đại thì thơ Hàn Mặc Tử là tiếng thơ lạ lùng nhất. Chế
Lan Viên đã đồng cảm “Chúng ta cần có người tả trăng là trăng. Nhưng cũng cần
có người vượt lên lề thói tập đoàn mà xẻ trăng ra làm hai nửa… Cần truyền thống
nhưng cũng cần biến dị”, cần nói những điều chưa ai nói.
Hôm nay còn một nửa
trăng thôi
Một nửa kia ai cắn vỡ
rồi
Ba biểu tượng trăng -
hồn - máu ăn sâu vào trong tâm khảm nhà thơ là những gì kinh dị nhất nhưng cũng
lộng lẫy nhất mà thơ ca có được. Trăng chẳng hạn:
Trăng tự tử
Trăng sắp mặt xuống uốn
mình theo dáng liễu
Trăng vàng, trăng ngọc
Ngả nghiêng đồi cao bọc
trăng ngủ
rồi đến:
Thuyền ai đậu bến sông
trăng đó
Có chở trăng về kịp tối
nay
“Đau thương đã biến chủ
thể thơ điên thành một chủ thể sinh hoá mầu nhiệm kì khôi” (Chu Văn Sơn)
Cả một miệng ta trăng
là trăng
Cả lòng ta vô số gái
hồng nhan
Ta nhả ra đây một nàng
Cho mây lặng lờ cho
nước ngất ngây
Một vẻ đẹp kì dị của
trăng nữa mà “tôi toan hớp cả váng trời… Ta cắn thơ để máu trào. Ta
há miệng cho hồn thơ trào vọt. Cười no nê sặc suạ cả mùi trăng… Hồn tôi mớm cho
tôi muôn ánh sáng. Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa. Vỡ tan thành vũng, đọng
vàng khô. Ta nằm trong vũng trăng ấy, sáng dậy điên cuồng mửa máu ra…” Thơ
điên muốn xé rào ra để tìm kiếm cho thơ những miền cảm giác mới- cảm giác mạnh,
đẩy cái kinh dị đến cùng.
Ở thơ điên, cũng có một
lớp ngôn từ đối nghịch gay gắt, có những tiếng rên xiết thê thiết của một thân
xác bị dày vò đau đớn:
Trời hỡi! Làm sao cho
khỏi đói
Gió trăng có sẵn làm
sao ăn
Như vậy, trăng xuất
hiện như cái gì rất thực lại rất hư, hiện hữu mà lẩn khuất, trong trẻo nên thơ
cũng có khi kì dị, vây bủa bám riết lấy thi sĩ, có khi gần gũi bằng
xác thịt, với tất cả sự thể hiện tinh xảo của một tâm hồn thơ đang đứng giữa
hai bờ hư thực.
Ở các thi sĩ trăng chỉ
là nét chấm phá, điểm thêm cho vẻ đẹp trong thơ. Trăng là một cái gì rất xa
xôi, là vật thể bí ẩn của vũ trụ, khó có thể khai thác, hiểu thấu
đáo:
Trăng sáng, trăng xa,
trăng lạnh quá
Hai người nhưng chẳng
bớt bơ vơ
(Xuân Diệu)
Ở Hàn Mặc Tử, trăng và
hồn thơ thi sĩ hoà quyện với nhau, cùng nhau vì nhau mà tồn tại. Trăng là nơi
chia sẻ, cảm nhận, đón nhận những đau thương từ thẳm sâu tâm hồn thi sĩ. Trăng
như đối tượng để nhà thơ hướng đến, cầm, nắm, bắt rồi tóm gọn nó làm theo ý
mình, có khi xa quá, cao quá, rộng quá nó lại là không gian. Trăng như một tố
chất không thể thiếu được trong cuộc sống của ông, lúc gần, lúc xa,
lúc lơi lả gợi tình, lúc dịu dàng đáng yêu, hơn hết lôi cuốn thi sĩ đến một thế
giới huyền diệu đầy quyến rũ.
Trong thơ ông, một bài
có thể coi là điển hình cho số phận và phong cách tâm linh của nhà thơ là “Đây thông
vĩ dạ”. Phải nói rằng đó là cả một biểu tượng tâm linh để thực hiện hiện thực
cuộc sống của mình. Trong bài thơ, hình tượng trăng là một biểu tượng độc đáo
được nhà thơ sử dụng với:
Thuyền ai đậu
bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối
nay
Trăng là biểu tượng của
thế giới ngoài kia, đầy sự sống. Bàng bạc khắp tác phẩm là ánh trăng.
Với tính chất hai mặt:
hiện thực và huyền ảo, ma quái kì dị- trong trẻo tươi tắng, trăng mang tất cả
tâm trạng, tính cách như một con người thường- là nơi gửi gắm tâm tư của tác
giả.
Trăng có khi mang tính
cách của một con người trần tục.Trăng là đối tượng tác giả hướng đến, làm tác
giả cũng cảm thấy đau đớn khi thấy trăng chết, trăng quằn quại, úa tàn.
Ta hoảng hồn, hoảng
vía, hoảng thiên
Nhảy ùm xuống giếng vớt
trăng lên
(Trăng
tự tử)
Có lúc trăng với tính
chất là không gian. Trăng phủ, trăng bọc, trăng vây bủa lên vạn vật thành vạn
vật trăng, sông trăng, thuyền trăng…Trăng đôi khi là khách thể, nhà thơ chiêm
ngưỡng, nhận xét, cảm nhận vẻ đẹp thanh khiết, tươi tắn của ánh trăng…
Trăng hiện lên với tất
cả các vẻ khác nhau, từ hình dạng, kích thước, trạng thái, từ thực đến mộng,
đến tâm linh, từ gần gũi đến xa xôi, cách trở… Trăng hoà nhập với Hàn Mặc Tử,
là tâm hồn, cuộc sống, tồn tại cùng với ông, trong những tháng ngày đau khổ.
Trăng là thứ ánh sáng- một thứ ánh sáng mà con người cảm nhận bằng thị giác
nhưng nếu người thơ lắng nghe một cách ung dung thì nó không còn là ánh sáng
của mắt, mà sẽ là thứ thuộc về cảm giác, khứu giác, vị giác… Và Hàn Mặc Tử đã
là người thơ làm được điều kì diệu ấy.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
Chuyện làng văn0
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
- Bạn đọc cảm nhận
về thơ của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ SAY YÊU:
Ngô
Nguyễn giới thiệu
Tác giả: Vân Khánh
- nguồn: toquoccom
Ảnh minh họa sưu tầm từ
nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
Trăng trong thơ Hàm Mạc Tử rất đẹp
Trả lờiXóa