PHÓ GIÁO SƯ, TIẾN SĨ NGUYỄN
CHÍ BỀN
CÓ ĐẠO VĂN KHÔNG
Trước dư luận trong giới Khoa học Xã hội
gần đây cho rằng trong các công trình bài báo viết về nghệ thuật cồng chiêng,
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Chí Bền đã “đạo văn” của Giáo sư, Tiến sĩ Tô Ngọc
Thanh, chúng tôi tìm đọc cuốn sách Góp phần nghiên cứu văn hóa dân gian
Việt Nam (2006) của ông Nguyễn Chí Bền xem thực hư ra sao và thấy một
số đoạn trong cuốn sách này tương tự với nghiên cứu các tác giả khác. Xin tạm
nêu như sau:
1. Thực chất đây là
cuốn sách đăng lại gần như toàn bộ cuốn Văn hóa dân gian Việt Nam – Những phác thảo của ông Bền, do Nhà xuất
bản Văn hóa – Thông tin ấn hành năm 2003 (đăng lại bài từ các tạp chí, các hội
nghị khoa học). Ở đây, một cuốn sách như “hóa phép” thành hai: cuốn năm 2006
gồm 45 bài, lấy nguyên vẹn 36 bài của cuốn sách xuất bản năm 2003, bỏ một bài
(Tản mạn về việc bảo tồn kho tàng văn hóa phi vật thể), lấy thêm 9 bài gọi là
mới, hình thành một tác phẩm khoa học với cái tên hoàn toàn mới là Góp phần
nghiên cứu văn hóa dân gian Việt Nam. 9 tiểu luận này lại đã công bố, không hề
có một bài nào mới thực sự, có nhiều bài đã đăng đến 2 lần. Thậm chí ngay Lời
thưa trước ở đầu sách cũng lặp lại gần như nguyên si, chỉ thay thời gian và con
số, như 2 chị em sinh đôi vậy!
2. Tại cuốn sách này, bên cạnh các tri thức về
nghệ thuật cồng chiêng, giới chuyên môn cũng nhận ra ông Bền còn “thuổng thêm”
của Giáo sư, Tiến sĩ Tô Ngọc Thanh rất nhiều, có thể lấy ví dụ từ tiểu luận
Phác thảo văn học dân gian Gia Lai, ông Bền đã “cầm nhầm” một cách khéo léo như
sau:
* Nguyễn Chí Bền
Người Ba Na có hát ru, một thể loại dân ca
mang tính chất chung của các thể loại hát ru: giai điệu mềm mại, bình ổn, tốc
độ vừa phải hay chậm, nhịp điệu đơn giản. Thông thường hát ru gồm hai câu nhạc
ứng với hai câu lời ca.
Đồng thời, dân ca Ba Na còn có avơng (hát
giao duyên). Nó thường được sinh hoạt dưới dạng hát đối đáp trai gái. Theo các
nghệ nhân có nhiều làn điệu cho thể loại dân ca này. Làn điệu chính có tên là
avơng, còn có làn điệu khác như bum sơtang, đjor, sơđri, hơri, brơng, inh rinh.
Cuối cùng hai tộc người này đều có đồng
dao. Giống như ở nhiều dân tộc ít người khác trong các pơlei Ba Na, hát đồng
dao vẫn được các em nhỏ sử dụng hàng ngày. Đồng dao cũng là một kết hợp thể của
âm nhạc và các trò chơi. Lời ca là những câu vần vè chứa 3,4,5 âm tiết.
* Tô Ngọc Thanh (Fônclo Bâhnar, Sở
VHTT Gia Lai- Kon Tum, 1988, tr 204-205)
1/ Úm kon (Hát ru): mang tính chất chung của các thể
loại hát ru: giai điệu mềm mại, bình ổn, tốc độ vừa phải hay chậm, nhịp điệu
đơn giản. Thông thường hát ru gồm hai câu nhạc ứng với hai câu lời ca…
2/ Tơ pun Tơpan (Đồng dao): Giống như ở nhiều dân tộc
ít người khác trong các pơlei Bâhnar, hát Đồng dao vẫn được các em nhỏ sử dụng
hàng ngày. Đồng dao cũng là một kết hợp thể của âm nhạc và các trò chơi. Lời ca
là những câu vần vè chứa 3,4,5 âm tiết…
3/ Avơng (Hát Giao duyên): Hát Giao duyên thường được
sinh hoạt dưới dạng hát đối đáp trai gái. Theo các nghệ nhân có nhiều làn điệu
cho thể loại dân ca này. Làn điệu chính có tên là AVơng, còn có làn điệu khác
như Bum Sơtang, Đjor, SơĐri, HơRi Brơng, InhRinh.
* Nguyễn Chí Bền viết về Hát kể trường ca như
sau:
Với người Ba Na, từ này chỉ một thể loại
bao gồm nhiều yếu tố: văn, thơ, diễn xuất thông qua phương thức hát kể.
Làn điệu hát kể này mang tính chất
ngâm vịnh.
Làn điệu hát kể mang nhiều yếu tố trữ tình
và bản sắc cảm thụ riêng của người hát kể. Những yếu tố này đậm nhạt, nhiều ít
tùy theo từng người hát kể và tùy theo trạng huống tâm sinh lý nghệ thuật của
họ trong những lần kể, những không khí buổi kể khác nhau.
Môi trường diễn xướng của h’ri/ hơamon, có
thể là nhà rông, hay ở một gia đình nào đó, hoặc chính nhà nghệ nhân. Các khán
giả – cư dân của plei đến tham dự ngồi bên ngoài. Họ đốt các đống lửa bao quanh
căn nhà.
* Tô Ngọc Thanh (Fônclo Bâhnar, Sở Văn
hóa Thông tin Gia Lai – Kon Tum, 1988, tr 205 và 250)
… Hơ Amon (Hát kể “trường ca”)Hơ Amon mà
ta thường gọi là “trường ca” là một một thể loại bao gồm nhiều yếu tố: văn,
thơ, diễn xuất. Trong chương Năm của công trình này, chúng tôi sẽ có chuyên mục
về Hơ Amon. ở đây chỉ xin nói đôi chút về làn điệu hát kể.
Làn điệu hát kể này mang tính chất ngâm vịnh
(récitatif). Làn âm bao giờ cũng bắt đầu từ âm cao nhất, chuyển dần từng bậc
theo hướng đi xuống…
Làn điệu hát kể “trường ca” mang nhiều yếu tố trữ tình
và bản sắc cảm thụ riêng của người hát kể. Những yếu tố này đậm nhạt, nhiều ít
tùy theo từng người hát kể và tùy theo trạng huống tâm sinh lý nghệ thuật của
họ trong những lần kể, những không khí buổi kể khác nhau.
… Hát kể Hơ Amon có thể làm ở nhà rông,
hay ở một nhà nào đó, hoặc chính nhà nghệ nhân vào ban đêm. Nhân dân đến tham
dự phần lớn ngồi ở bên ngoài. Họ đốt nhiều đống lửa bao quanh căn nhà và làm
thành những nhóm người ngồi im lặng, vừa rít tẩu thuốc vừa nghe.
Năm 1981, tác giả Nông Quốc Thắng trong
Báo cáo kết quả sưu tầm văn học dân gian ở xã Ya Tul, huyện Ayun Pa – Gia Lai –
Kon Tum có bàn về nhiều vấn đề văn học nghệ thuật Gia Rai. Có được tài liệu
này, Phó Giáo sư Bền đã “đưa” hầu hết vào tiểu luận Phác thảo văn học dân gian
Gia Lai trong cuốn sách của mình. Vì ông Bền “cầm nhầm” nguyên văn với dung
lượng rất lớn, có đoạn lên tới vài trang liền nên ở đây, chỉ nêu một ví dụ nhỏ:
* Nguyễn Chí Bền
Trước hết là lời nói vần, nó chưa phải là
hát nhưng cũng đã có nhịp điệu khi xướng lên, nó là một chuỗi lời nói, được móc
xích với nhau bằng vần điệu. Trong những lời nói vần này có thể kể đến các
loại: rlu Yang (cúng thần, khấn thần) hay kã tơ pai (gọi người chết lên uống
rượu) hoặc Hoa pơ xát (gọi người chết lên ăn). Đây là những xâu chuỗi lời nói
dùng để khấn cầu thần linh hoặc hồn người chết, mục đích là khấn nguyện, thông
đạt giữa người và thần, giữa người và hồn. Những loại này thường dùng khi cưới
xin, cầu chúc sức khỏe, cúng ở nhà mồ. Đây là loại lời nói vần mang tính chất
tín ngưỡng, ngôn ngữ thường ổn định, vần điệu cố định. Thế nhưng so với những
loại phù chú hoặc lời khấn của các thầy phù thủy người Kinh thì loại riu Yang
này gần gũi hơn với lời nói hàng ngày: dễ hiểu, mộc mạc, chứ không bí hiểm và
chưa bị thần thánh hóa ở mức độ cao.
* Nông Quốc Thắng (Giữ
gìn, phát huy vốn văn hóa truyền thống của dân tộc, Ty Văn hóa và Thông tin Gia Lai- Kon Tum, 1981)
Trước hết, trong dân gian có tồn tại một loại lối nói vần, nó chưa phải
là hát nhưng cũng đã có nhịp điệu khi xướng lên, nó là một chuỗi lời nói được
móc xích với nhau bằng vần điệu. Trong những lời nói vần này có thể kể đến các
loại: Riu Yang (cúng thần, khấn thần) hay Ká tơ pai (gọi người chết lên uống
rượu) hoặc Hoa pơ xát (gọi người chết lên ăn). Đây là những xâu chuỗi lời nói
dùng để khấn cầu thần linh hoặc hồn người chết, mục đích là khấn nguyện, thông
đạt giữa người và thần, giữa người và hồn. Những loại này thường dùng khi cưới
xin, cầu chúc sức khỏe, cúng ở nhà mồ. Đây là loại lời nói vần mang tính chất
tín ngưỡng, ngôn ngữ thường ổn định, vần điệu cố định. Thế nhưng so với những
loại phù chú hoặc lời khấn của các thầy phù thủy người Kinh thì loại Riu Yang
này gần gũi hơn với lời nói hàng ngày: dễ hiểu, mộc mạc, chứ không bí hiểm và
chưa bị thần thánh hóa ở mức độ cao.
3. Tác giả Tô Ngọc Thanh bàn về các giá trị văn hóa
nghệ thuật của tộc người Ba Na, còn tác giả Nông Quốc Thắng lại bàn về tộc
người Gia Rai. Vậy mà khi thuổng của hai tác giả nêu trên, Phó Giáo sư Bền đã
cố tình gán ghép các giá trị của 2 tộc người Ba Na và Gia Rai làm một, kiểu
“râu ông nọ cắm cằm bà kia”. Ví dụ: Trong đoạn coppy của tác giả Nông Quốc
Thắng, ông Bền thêm chữ Ba Na vào trong đoạn viết về Gia Rai: “Ngoài ra, người
Gia Rai, Ba Na còn một loại lời nói vần mang tính chất nghi lễ nữa, đó là
loại phát k’đi (lời hát vè) (luật tục)”. Ngược lại, trong đoạn viết về đồng dao
Ba Na (copy của Tô Ngọc Thanh), ông Bền đã ghép ngay với đoạn copy của Nông
Quốc Thắng (vốn viết về đồng dao Gia Rai). Đương nhiên, bài đồng dao minh họa
sau đó (vốn của người Gia Rai) sẽ “bị hiểu” là của người Ba Na!
Hy vọng mấy dẫn chứng kể trên góp phần trả
lời cho câu hỏi: Có thực là Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Chí Bền đạo văn hay
không?
----------
Nguồn: https://tiasang.com.vn/dien-dan/co-dao-van-hay-khong-148/
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết của
(về) tác giả Nguyên Lạc0
- Điểm danh một số
vụ đạo văn ở Việt Naml
- Các bài viết của
(về) tác giả Phan Huyền Thư0
- Các bài viết của
(về) tác giả Nguyễn Đăng Điệp0
- Các bài viết của
(về) tác giả Nguyễn Thánh Ngã0
- Các bài viết của
(về) tác giả Nguyễn Phan Quế Mai0
- Mọi người hãy đề
phòng kẻ ăn cắp văn trắng trơn nàyl
- Ngô Hương Giang,
hành động đạo văn và những phản ứng kỳ lạl
- Tiến sĩ đạo văn
vẫn chờ phán quyết nghiêm túc của Viện Hàn Lâml
.- Bạn đọc cảm nhận
bài thơ “Quê Nghèo” của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến -
Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc
truyện ngắn
CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ của Đặng Xuân Xuyến:
Ngô Thanh Tuấn giới thiệu
Tác giả: Nhất Nguyên - nguồn: tiasang
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn:
internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét