(Công chúa Huyền Trân (1287 - 1340) - Nguồn tranh: Internet) |
Tóc Huyền Trân
Đêm Đồ Bàn
Cổ cao ba ngấn
Sổ tóc trăng ngà thao thiết chải
Từ độ vu quy
Chưa lần trở lại
Tóc Huyền Trân như liễu nhớ Tây hồ
Con ngựa hồng cùa hoàng đế Chế Mân
Rủ bờm bên tàu cỏ
Cuốc
kêu hốc hác cung thành
Sương quan hà
Giọt giọt điểm canh
Trống thúc gươm khua
Giàn thiêu lặng thinh giông tố
Trống thúc gươm khua
Ai gọi tên ai bạt gió
Tay tiên
mái tháp vén tầng trời
Huyền Trân lên ngựa
Vén thêm tầng nữa
Huyền Trân xuống thuyền
Đồ Bàn ơi!
Khói trắng hay là mây trắng?
Lòng Việt nữ trùng trùng sóng đánh
Phút
phút tạ từ non nước Chiêm
Từ ấy Thăng Long
Đêm đêm Thăng Long
Đèn chong đỏ mắt
Tóc biếc rụng dần trên gối lụa
Mang mang
Dọc dài sông núi
Tóc ai bay.
*.
(Thơ Trần Thị Huyền Trang)
- Bài thơ rút trong tập thơ Muối
ngày qua -
NXB Hội
Nhà văn, Hà Nội, trang 21 - 23-
LỜI BÀN:
(Tác giả Trần Thanh Phương) |
1. Câu
chuyện về nàng công chúa Huyền Trân con gái vua Trần Nhân Tông được gả cho vua
Chế Mân nước Chiêm Thành để được hai châu Ô, Lý đã trở thành một đề tài cho thơ
ca, nghệ thuật từ bao đời nay. Người ta đã tiếp cận huyền tích này từ nhiều
điểm nhìn. Có người trách cứ vị vua Đại Việt không có cách gì hay hơn là đem gả
bán con gái của mình để mở rộng bờ cõi! Có người cười nhạo Chế Mân đem một phần
giang sơn để cưới vợ cho riêng mình, có đáng thế không? Có người lại cứ xoáy
sâu vào mối tình của vị quan triều đình là Nhập nội hành khiển Thượng thư Tả
bộc xạ Trần Khắc Chung với công chúa Huyền Trân, nhất là sau vụ giải cứu nàng
khỏi giàn thiêu hai người lênh đênh trên biển cả hàng tháng trời mới về đến cố
quốc, không biết giữa trùng khơi giữa họ có xảy ra chuyện gì không ? v.v…Quả
đúng là đa ngôn đa sự rất khó có sự đồng thuận. Là một người phụ nữ với sự nhạy
cảm riêng của giới mình, Trần Thị Huyền Trang đã chiêu tuyết cho nàng công chúa
đồng tộc, đồng giới và gần đồng tên hơn bảy trăm năm trước bằng một bài thơ tự
do phảng phất phong vị cổ điển. Có thể coi bài thơ chính là một nén tâm hương
chị dâng lên hương hồn nàng công chúa. Hay cũng có thể chính hồn nàng công chúa
đã nhập vào chị để viết ra bài thơ này chăng?
2. “Đêm Đồ Bàn
Cổ
cao ba ngấn
Sổ
tóc trăng ngà thao thiết chải”
Bằng bút pháp chấm phá
của hội họa cổ điển, chỉ với 14 chữ, ba câu thơ mở đầu đã khắc họa nổi bật hình
ảnh hoàng hậu Huyền Trân thời gian làm vợ vua Chế Mân ở thành Đồ Bàn thường hay
ngồi chải tóc trong những đêm trăng sáng. Vẻ đẹp của nàng công chúa con vua Đại
Việt được nhấn vào những hình ảnh biểu
tượng cho vẻ đẹp truyền thống của người con gái Việt Nam đúc kết hàng nghìn năm
- “cổ cao ba ngấn” và suối tóc mây dài óng ả qua động tác “thao thiết chải”.
Hai chữ “trăng ngà” gợi ra hình ảnh chiếc lược bằng ngà có hình khum khum như
một nửa vầng trăng (“Cầu cong như chiếc
lược ngà” - Nguyễn Bính) mà công chúa thường dùng để chải tóc dưới ánh
trăng huyền ảo. Ba câu thơ tiếp theo đặc tả tâm trạng nhớ nước nhớ nhà của
nàng. Nỗi nhớ dai dẳng thường trực: “Từ
độ vu quy/ Chưa lần trở lại” và một so sánh cực đắc địa: “Tóc Huyền Trân như liễu nhớ Tây hồ”. Té
ra động tác chải tóc của nàng không phải chỉ làm đẹp mà mục đích chính là để gỡ
rối cho tâm trạng nhớ thương quay quắt không nguôi. Hình ảnh “liễu nhớ Tây hồ”
gợi nhớ hình ảnh hàng liễu rủ quanh bờ hồ Tây (“tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng” - Xuân Diệu) ám ảnh trong tâm
trí nàng, nhưng cũng gợi ra vẻ đẹp thướt tha đài các của người con gái lá ngọc
cành vàng phải đem tấm thân liễu yếu đào tơ đi đền nợ nước (“Mượn màu son phấn/ Đền nợ Ô Ly” - Dân ca
Nam Bình). Câu thơ chỉ có 8 chữ thôi mà gợi ra cả một thế giới biểu tượng
của thơ cổ để chỉ người con gái đẹp (Thân bồ liễu, phận liễu, liễu yếu đào tơ,
lông mày lá liễu, liễu như mi…), lại như chứa đựng cả một thế giới nội tâm sâu
thẳm. Đối với Huyền Trân nhớ nhà, nhớ quê cũng là nhớ nước cho nên dùng biểu
tượng tiếng cuốc trong trường hợp này là
thích hợp hơn cả: “Cuốc kêu hốc hác cung
thành/ Sương quan hà/ Giọt giọt điểm canh” - Biết bao đêm nàng thao thức,
trằn trọc không ngủ được đến nỗi “hốc hác” cả người! Ngay từ những khổ thơ đầu nhà
thơ đã thể hiện được sự tri âm với nàng công chúa.
3. Màn giải cứu Huyền Trân khỏi giàn thiêu sau khi vua
Chế Mân băng hà được dồn nén trong hai khổ thơ tiếp theo với 39 chữ có màu sắc
của một màn kịch trên sân khấu tuồng truyền thống của Bình Định: “Trống thúc gươm khua/ Giàn thiêu lặng thinh
giông tố/ Trống thúc gươm khua/ Ai gọi tên ai bạt gió/ Tay tiên mái tháp vén
tầng trời/ Huyền Trân lên ngựa/ Vén thêm lần nữa/ Huyền Trân xuống thuyền”.
Những điệp ngữ và nhịp thơ gấp gáp gợi ra việc giải cứu nàng hết sức khẩn
trương, điệu nghệ, tạo sự bất ngờ và đã làm nên kỳ tích: Nàng được cứu thoát!
Nhưng khi đã ra đến giữa biển an toàn rồi, thay cho nỗi vui mừng được cứu sống
là trùng trùng tâm trạng thương nhớ phu quân đến quặn lòng: “Đồ Bàn ơi!/ Khói trắng hay là mây trắng?/
Lòng Việt nữ trùng trùng sóng đánh/ Phút phút tạ từ non nước Chiêm”. Câu
thơ gợi ra sự nấc nghẹn qua ngôn từ dồn nén, qua dấu chấm than (!), qua từ láy
“trùng trùng” cũng là trùng khơi muôn vàn sóng vỗ. “Khói trắng” ở giàn thiêu đã
hóa thành “mây trắng” nàng để tang chồng trong tâm tưởng vắt ngang qua bầu trời
hai nước Chiêm - Việt.
4. Sau bao nhiêu ngày tháng lênh đênh ngoài biển khơi,
đến khi trở về cố quốc, về với quê hương cha mẹ và trong vòng tay của những
người ruột thịt, không còn thao thức vì nhớ nhà, nhớ nước, nhớ quê hương, ai
biết được lòng nàng vẫn đêm đêm thức trắng và tàn tạ dung nhan vì nỗi nhớ chồng
ẩn sâu trong nỗi nhớ Đồ Bàn:
“Từ ấy Thăng Long
Đêm đêm
Thăng Long
Đèn chong
đỏ mắt
Nhớ Đồ Bàn
Tóc biếc
rụng dần trên gối lụa”
Vẫn là sự láy lại hai chữ
“Thăng Long” - Một bút pháp đã quen thuộc ở tác giả. “Từ ấy”, “đêm đêm” nói về
sự mất ngủ thường xuyên, đêm nào cũng “đèn chong đỏ mắt” (khóc lóc, thảm sầu)
gợi ra một người đang bị stress rất nặng. “Tóc biếc rụng dần trên gối lụa” – Sự
trăn trở trằn trọc đã hiện hình bằng những sợi tóc rụng đầy trên gối lụa
(“lụa”: lụa là, nhung lụa gợi sự quyền quý, quý phái, quý tộc)…Đến đây, bài thơ
đã khắc họa xong bức chân dung tinh thần đầy bi kịch nội tâm của Huyền Trân,
cũng có ý ngầm đối thoại với giả thiết và những cách hiểu xưa nay có phần hơi
nghiệt ngã đối với sự hy sinh cao cả của nàng công chúa đồng tộc với tác giả.
Đó là một hình tượng điển hình cho số phận người phụ nữ trong những cuộc hôn
nhân chính trị bất luận kết quả thế nào thì họ vẫn là những người chịu thiệt
thòi nhiều nhất, đau khổ nhiều nhất! Và đấy cũng chính là giá trị nhân văn cao
cả của bài thơ này.
5. Khổ thơ kết bài là nỗi niềm bâng khuâng, thương cảm
của một người phụ nữ hậu thế, bằng trực giác của giới mình và tấm lòng tri ân
tiên tổ, đã hết sức đồng cảm và trân trọng với nỗi lòng của tiền nhân:
“Mang mang
Dọc dài
sông núi
Tóc ai
bay”
*.
TRẦN THANH PHƯƠNG
Giảng viên Khoa Ngữ Văn Trường Đại học Quy Nhơn
Địa
chỉ: 170 An Dương Vương, Tp Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.
Email: rolanphuongnd@gmail.com
…………………………………………………………………………
- © Tác giả giữ bản quyền.
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 22.05.2016
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại..
0 comments:
Đăng nhận xét