HÔN NHÂN KHÔNG BẮT NGUỒN
TỪ TÌNH YÊU, SAO VẪN HẠNH PHÚC
ĐẾN ĐẦU BẠC RĂNG LONG?
Người xưa tin rằng, nhân duyên là do Thiên
định, vợ chồng đến với nhau cũng là do ông mai bà mối kết tóc se tơ mà thành.
Hôn nhân của người xưa không bắt nguồn từ tình yêu, vậy vì sao vẫn có thể hạnh
phúc đến răng long đầu bạc?
Quan niệm hôn nhân của người xưa không
giống với hiện nay. Hệ thống lý luận của người xưa về vũ trụ quan là: “Thiên
Nhân hợp nhất”, và nhân sinh quan là: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ”. Với quan niệm “Thiên Nhân hợp nhất” thì nhân duyên là do Trời định nên hôn
nhân phải theo ý mẹ cha, dựa vào mai mối. Vì hôn nhân là đại sự của đời người
nên được đối đãi hết sức cẩn thận, cần phải được Trời Đất và thần linh an bài
chứng giám.
Về quan hệ giới tính, trẻ em vốn hồn nhiên
thơ ngây, quấn quít bên nhau như “thanh mai, trúc mã”. Nhưng khi các bé gái tới
khoảng 11, 12 tuổi thì theo khuôn phép không thể tùy tiện ra ngoài nữa, bởi ở
độ tuổi này biến đổi về sinh lý sẽ đem lại những hiếu kỳ về giới tính trong các
em.
Người xưa hiểu rõ đây là thời kỳ nhạy cảm
nhất và quan trọng nhất đối với sự trưởng thành nên các bé gái được cha mẹ dạy
dỗ rất cẩn thận. Con gái phải học thêu thùa, pha trà, nấu ăn và những kỹ năng
ứng xử trong gia đình; xem các sách về nhân luân lễ nghĩa, học làm thơ phú, hội
họa, âm nhạc và các tài nghệ khác… Mục đích chủ yếu của thời kỳ này là chuẩn bị
trạng thái tinh thần và tâm lý cho các em bước vào tuổi trưởng thành, biết đối
đãi với hôn nhân và gia đình bằng lễ nghi khuôn phép. Như vậy, “giáo dục giới
tính” của thời xưa hoàn toàn khác với quan niệm lệch lạc thời nay cho rằng là
để ức chế tính dục.
Các bé trai khi bước vào tuổi thiếu niên
thường được theo hầu bậc trưởng bối để học các lễ nghi trong giao tiếp, để từng
lời nói và hành vi cử chỉ không được buông thả tùy tiện. Các đấng nam nhi tương
lai này sẽ được học lễ nghi và đạo lý trong các cuốn cổ thư, như “Đại học”,
“Trung dung” và “Luận ngữ” để giáo dưỡng sâu về nhân dục, xã giao, đối nhân xử
thế…
Học thuyết âm dương ngũ hành không chỉ là
hạt nhân của vũ trụ quan “Thiên Nhân hợp nhất”, mà còn là cơ sở của sinh lý học
và y học cổ đại. Vì hôn nhân là do Thiên định, cần phải theo ý cha mẹ và dựa
vào mai mối nên điều tiên quyết là ở xem tử vi và bát tự hai bên để tác thành
nên đôi lứa. Điều này cũng rất khoa học, vì theo âm dương ngũ hành thì tính
cách, năng lực, xu thế đời người đều có quan hệ mật thiết tới giờ, ngày, tháng,
năm sinh. Nếu bát tự phù hợp thì đặc trưng sinh mệnh hai bên có thể bao dung
lẫn nhau. Người xưa cho rằng đây là tiền đề cơ bản của hạnh phúc hôn nhân gia
đình.
Với những điều kiện tiên quyết trên, đôi
trẻ đồng trinh trong đêm tân hôn và động phòng hoa trúc sẽ có trạng thái tinh
thần như thế nào? Nhẹ nhàng nâng tấm khăn hồng, cử chỉ ngượng ngùng mà lại đoan
trang mực thước, nụ cười bẽn lẽn, ánh mắt e lệ, cung kính lễ nghi… ấn tượng ấy
mãi mãi không thể phai mờ.
Hai người xa lạ được Trời Đất kết tóc se
duyên, một mực giữ gìn phẩm giá, chờ đến đêm tân hôn mới chính thức thiết lập
quan hệ vợ chồng, lần đầu tiếp xúc thông qua quan hệ sinh lý mà hiểu biết lẫn
nhau. Tuy là lần đầu nhưng là ấn tượng khắc cốt ghi tâm.
Hạnh phúc thông qua giao tiếp sinh lý mà
nảy sinh tình cảm luyến ái nên họ lưu ý từng cử chỉ ánh mắt của nhau, vậy mới
nói ngày thứ hai sau hôn lễ tình yêu mới thực sự bắt đầu. Họ sẽ tìm ưu điểm và
bao dung các khiếm khuyết của nhau. Thông qua giao lưu cầm, kỳ, thi, họa, ẩm
thực, thưởng trà mà luận đàm nhân sinh, thiên thời, thế thái, cộng hưởng với sự
thăng hoa về tinh thần mà đạt tới cảnh giới viên mãn của tình yêu, tâm đầu ý
hợp.
Như đối với một bài thơ, một bức họa, một
góc nhìn cảnh vật hay sự bài trí trong nhà, họ không cần nhiều lời mà chỉ cần
một ánh mắt nụ cười là hiểu ý và đồng thuận với nhau. Bề ngoài như là thiếu sự
gắn kết keo sơn, nhưng kỳ thực lại là một cảnh giới thời thời khắc khắc giao
hòa về tinh thần.
Khi người chồng về muộn, từ xa đã thấy
bóng hình vợ yêu dưới bóng đèn bên khung cửa sổ; người vợ cũng không mở cửa
ngóng, nhìn thấy bóng chồng từ xa vẫn chỉ lặng lẽ chờ đợi cho tới khi bốn mắt
giao nhau thắm đượm ân tình, rồi một người lặng lẽ ngồi chờ, một người lặng lẽ
dọn cơm…
Vì vậy, cũng không khó để hiểu vì sao các
cặp phu thê trong quá khứ, khi không may một người qua đời sớm thì người vợ sẽ
thanh tâm thủ tiết cả đời, người chồng cũng chung thân quyết không đi bước nữa.
Không giống như quan niệm lệch lạc thời nay cho đó là lễ nghi phong kiến hà
khắc, mà đó hoàn toàn là tự nguyện chân thành, vì tình yêu của họ đã vượt khỏi
sự yêu thương thế tục nam hoan nữ ái, đã bao gồm một nửa của đối phương thành
một chỉnh thể không thể tách rời. Vì vậy quan hệ vợ chồng của người xưa là một
quá trình không ngừng thăng hoa.
Từ đó có thể thấy, người xưa nhìn nhận hôn
nhân là để cá thể thông qua các mối quan hệ mà thăng hoa, gia đình là môi
trường rèn luyện sự trung hậu, nhân nghĩa và bao dung. Khi quan hệ vợ chồng
dung hòa, gia đình hoà ái, thì toàn thể xã hội cấu thành từ những “tế bào” gia
đình sẽ an định, thiên hạ nhờ đó mà thái bình. Vì vậy “tu thân, tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ” là quan điểm chủ đạo của người xưa.
Ngày nay quan hệ vợ chồng bắt đầu từ việc
tự do tìm hiểu, tự do luyến ái đi cùng với quan điểm đề cao bản thân, khác với
tập tục của người xưa. Dù rằng tự do hôn nhân cũng không thoát khỏi nhân duyên
Thiên định, nhưng xuất phát điểm và mục đích hoàn toàn ngược lại với quan niệm
hôn nhân truyền thống, vậy nên hôn nhân cũng không còn mang ý nghĩa thiêng
liêng và sâu sắc như xưa.
Hơn thế nữa, sự rạn nứt trong quan hệ vợ
chồng sau hôn nhân đã trở nên phổ biến, tình cảm vợ chồng không bao hàm sự bao
dung đồng thuận, mà trái lại, có lẽ là sự ích kỷ đơn thuần của mỗi người. Họ
thường nhìn thấy khuyết điểm của nhau, rồi tranh luận với hy vọng cải biến đối
phương theo mong muốn chủ quan của mình. Điều đó dẫn đến thực tế là khi nhận
thấy người kia không thay đổi theo như mình mong muốn, họ trở nên thất vọng và
cho rằng người kia chính là nguyên nhân gây nên sự bất hạnh của họ và gia đình.
Kết quả là vợ chồng trở thành đồng sàng dị mộng, hôn nhân chỉ còn là cái vỏ
trống rỗng mang tính pháp lý và các ràng buộc về quyền lợi và nghĩa vụ.
Trăm năm trôi qua trong nháy mắt. Nếu nhìn
lại những câu chuyện phu thê của một thời không xa lắm, ta mới thấy chỉ trong
lễ nghi truyền thống và khuôn phép mực thước ấy mới làm nên thứ tình nghĩa sắt
son giữa vợ và chồng. Để kết thúc bài viết này, hãy đến với tâm sự của một
người vợ gửi cho chồng ở ngoài biên ải, để thấy tình nghĩa phu thê của người xưa
thật sâu sắc mặn nồng:
Chồng
trấn tây cương, thiếp ở đông,
Gió
tây lạnh thiếp, thiếp thương chồng.
Một
dòng thư gửi, nghìn dòng lệ:
“Rét
đến bên chàng, áo đến không?”
(“Ký phu” – nguyên tác Trần
Ngọc Lan, bản dịch của Tương Như)
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
Chuyện làng văn0
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
- Bạn đọc cảm nhận
về thơ của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl
Mời nghe AudioBook Chọn Lọc đọc truyện ngắn
CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ của Đặng Xuân Xuyến:
Trần Chí Cường giới thiệu
Tác giả: Trần Ngọc Lan - nguồn: trithuc
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn:
internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét