NHÀ TRẦN (1226-1400)
THỜI KỲ XÂY DỰNG VÀ 3 CUỘC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG NGUYÊN MÔNG 
(Tác giả Lý Thành Phương)
Nhà Trần là triều đại quân
chủ chuyên chế trong lịch sử Việt Nam,
bắt đầu khi Trần Cảnh lên
ngôi vào năm 1226,
sau khi được Lý Chiêu Hoàng truyền
ngôi, cho đến khi Hồ Quý Ly soán ngôi vào năm 1400, tổng cộng 175 năm. Nếu
không kể thời kỳ Dương Nhật Lễ, thì nhà Trần truyền qua 12 đời vua.
Trong giai đoạn nắm giữ quyền lực, nhà Trần vẫn đóng đô ở Thăng Long – kinh đô
triều Lý cũ, tiếp tục mở rộng và phát triển sự hưng thịnh có từ đời nhà Lý. Về chính sách
chính trị, các hoàng đế nhà Trần cũng xây dựng bộ máy nhà nước hoàn thiện hơn
so với nhà Lý,
họ tạo nên một hệ thống đặc biệt, trong đó các Hoàng đế sớm nhường ngôi
cho Thái tử mà
lui về làm Thái thượng hoàng,
tuy nhiên vẫn cùng vị Hoàng đế mới điều hành chính sự.
Việc này được đánh giá là tích cực, khi ngôi Hoàng đế sớm có chủ,
tránh được việc tranh giành ngôi vua như triều đại nhà Lý trước đó; và bản thân
vị Hoàng đế sẽ tiếp xúc và làm quen việc cai trị cho đến khi trưởng thành. Các
mặt kinh tế, xã hội, giáo dục và nghệ thuật cũng
hoàn chỉnh hơn và cho thấy Nho giáo, Đạo giáo đã
có ảnh hưởng rõ rệt tới triều đại, tạo ra cục diện Tam giáo đồng nguyên,
sự cân bằng ảnh hưởng của Phật giáo –
Nho giáo – Đạo giáo.
Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông được
coi là một danh nhân văn hóa nổi tiếng, người bảo trợ Phật giáo và Đạo giáo,
thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nổi
tiếng và truyền đến đời nay. Bên cạnh đó, những danh thần Đoàn Nhữ Hài, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Hiền, Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu, Chu Văn An, Trần Quang Triều,…
là những cái tên nổi danh về tri thức, thơ văn, góp phần to lớn tạo
nên thời kỳ nhà Trần hưng thịnh văn hóa.
Dưới triều Trần, lực lượng quân đội đặc
biệt được chú trọng phát triển đủ sức đánh dẹp các cuộc nội loạn và đương đầu
với quân đội các nước xung quanh. Lực lượng quân đội nhà Trần thiện chiến nhất
là thủy binh,
rồi kỵ binh, bộ binh, tượng binh…
chính sách chia thực ấp cho các thân tộc trong họ, mỗi thế lực trong dòng tộc
đều có quân đội tinh nhuệ là nền tảng lớn khiến quân đội nhà Trần tiêu diệt
được cuộc xâm phạm của quân đội Nhà Nguyên – Đế quốc Mông Cổ qua
ba lần vào năm 1258, 1285 và 1287. Thời gian này xuất hiện một danh
tướng kiệt xuất, vốn là tôn thất nhà Trần, chính là Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn;
người có vai trò quan trọng trong chiến thắng quân Nguyên vào năm 1285 và 1287.
Nhà Trần lấy ngôi nhà Lý bằng biện pháp
hôn nhân. Nhà Trần từ vai trò là ngoại thích của nhà Lý đã giành ngôi. Do đó,
để tránh họa ngoại thích, nhà Trần chủ trương chỉ kết hôn với người
trong họ.Tuy cẩn thận đề phòng nạn ngoại thích bằng việc kết hôn nội
tộc, nhưng về sau thì việc kết hôn nội tộc trong họ Trần cũng thưa dần. Từ khi
Trần Nghệ Tông trọng dụng Hồ Quý Ly là một ngoại thích, lập tức nhà Trần cũng
gặp “họa ngoại thích” và cuối cùng cũng mất về tay ngoại thích, giống như nhà Lý trước đó.
Trần Thái Tông
Trần Cảnh khi lên ngôi vua chỉ mới tám tuổi, niên hiệu là Thái
Tông. Thái sư Trần Thủ Độ,
chú của Trần Cảnh và Thái thượng hoàng Trần Thừa nhiếp
chính và thực sự nắm quyền hành.
Trần Thủ Độ tuy bị đánh giá là người không có lễ giáo, thất học
nhưng mưu lược hơn người, trị việc trong nước đều cẩn thận và chu toàn.
Về mọi mặt, thời Thái Tông, Trần Thủ Độ giúp củng cố các vấn đề
chính nhất là: Mở khoa thi Tam giáo (Đạo giáo, Nho giáo, Phật giáo);
định lại luật pháp, soạn ra bộ Quốc triều hình
luật gồm 20 quyển để định tội danh trong nước; mở rộng phía
ngoài thành Đại La (Thăng
Long), trong thành dựng cung, điện, lầu, các và nhà lang vũ ở hai bên phía đông
và tây, bên tả là cung Thánh Từ (nơi Thái thượng hoàng ở), bên hữu là cung
Quan Triều (nơi Hoàng đế ở); thủy lợi cũng
được coi trọng, sai hoạn quan Nguyễn Bang Cốc chỉ
huy binh lính phủ mình đào vét kênh Trầm và kênh Hào từ phủ Thanh Hóa đến địa
giới phía nam Diễn Châu;
định luật hành chính, chia đất nước làm 12 lộ, làm sổ hộ khẩu, định lại chế độ
thuế khóa một cách hợp lý; mở rộng thông thương nơi biên giới, để có thể giao
thương với nhà Tống ở Giang Nam. Mỗi khi có dịp
hạn hán, triều đình thường ban hành luật miễn thuế khóa, mở lương thóc rồi đại
xá.
Ngày 24/2/1258,
Trần Thái Tông truyền ngôi cho Thái tử Trần Hoảng, tức Hoàng đế Trần Thánh Tông.
Trần Thái Tông lui về cung Thánh Từ làm Thái thượng hoàng.Từ
đây, nhà Trần theo lệ truyền ngôi sớm cho thái tử, thứ nhất để tránh việc tranh
giành ngôi báu giữa các con (do đã sớm được định đoạt), thứ nữa là rèn luyện
cho vị hoàng đế mới cai trị đất nước càng sớm càng tốt.
Đánh Chiêm Thành
Trước đó khi nhà Lý suy, Chiêm Thành thường hay xua binh công phá
ở vùng Nghệ An,
dân chết vô số, nay vua Thái Tông lên ngôi mà Chiêm Thành không sang thông hiếu
nên vua rất giận. Năm 1252,
Thái Tông dẫn binh đi chinh phạt Chiêm Thành,
bắt được nhiều thần thiếp và cướp được nhiều của cải. Uy danh Đại Việt đối với
Chiêm Thành lại được thiết lập.
Chiến tranh với Nguyên
Mông lần thứ nhất
Ở phương Bắc, người Mông Cổ dần và xâm chiếm Trung Quốc. Sau khi
tiêu diệt nhà Kim phía
Bắc, các vua Mông Cổ tiến xuống phía Nam để diệt nước Nam Tống vốn
đã suy yếu khi bị nhà Kim của
người Nữ Chân xâm
lấn từ đầu thế kỷ 12. Để tạo thế bao vây Nam Tống, vua Mông Cổ đánh chiếm
nước Đại Lý (Vân Nam (1254) và sau
đó chuẩn bị đánh sang Đại Việt.
Cuối năm 1257,
tướng Mông Cổ là Ngột Lương Hợp
Thai mang ba vạn quân tiến vào nước Đại Việt qua đường Vân Nam.
Vua Trần Thái Tông đích thân ra chiến trận. Quân Trần cố gắng chặn nhưng quân
Mông Cổ vẫn tiến vào được Thăng Long. Nhân dân Thăng Long theo lệnh của triều
đình đã thực hiện “vườn không nhà trống,”
rút về Thiên Mạc (Hà Nam). Ngột Lương Hợp Thai kéo quân vào Thăng Long chưa đầy
một tháng thì bị thiếu lương thực. Nhân cơ hội đó quân Đại Việt phản công ở
Đông Bộ Đầu (Từ Liêm-Hà Nội). Quân Mông Cổ thua phải rút khỏi Thăng Long, đến
vùng Quy Hóa (Yên Bái) bị quân
Trần Thánh Tông
Dưới thời của Thánh Tông hoàng đế, mọi việc chính sự vẫn đều chu
toàn, nhà Trần tiếp tục thịnh trị.
Năm 1262, Thánh Tông đổi hương Tức Mạc (quê gốc của nhà Trần ở
tỉnh Nam Định) thành phủ Thiên Trường, sau đó phủ được nâng thành lộ. Từ đó về
sau, Thượng hoàng thường ngự ở phủ Thiên Tường giúp vua trong việc cai trị
nước.
Năm 1264, Thái sư Trần Thủ Độ qua đời, thọ 71 tuổi. Thái sư công
chính nghiêm minh, nhà Trần có được ngôi báu và sự thịnh trị đời Thái Tông phần
nhiều là công sức của ông. Đến đây, vua Trần truy làm Thượng phụ Thái sư Trung
Vũ đại vương.
Đối với anh em trong hoàng tộc, nhà vua luôn coi là thân thiết.
Ông xuống chiếu cho các vương hầu tôn thất, khi bãi triều thì vào trong điện và
lan đình. Vua cùng ăn uống với họ. Hôm nào trời tối không về được thì xếp gối
dài, trải chăn rộng, kê giường liền cùng ngủ với nhau để tỏ hết lòng yêu quý
nhau. Còn như trong các lễ lớn như triều hạ, tiếp tân, yến tiệc thì phân biệt
rõ ngôi thứ, cấp bậc cao thấp. Vì thế, các vương hầu thời ấy không ai là không
hòa thuận, kính sợ và cũng không phạm lỗi khinh nhờn, kiêu căng.
Năm 1277, Thượng hoàng Thái Tông băng hà, hưởng thọ 60 tuổi, làm
Thượng hoàng được 19 năm. Cùng năm đó, Thánh Tông nhường ngôi cho Hoàng thái tử
Trần Khâm sử gọi là Trần Nhân Tông.
Trần Nhân Tông
Khi Nhân Tông lên ngôi, họa giặc giã từ quân Nguyên ở phía Bắc
đang kéo đến. Năm đó, quân Nguyên đánh diệt nhà Tống, Tả thừa tướng nhà Tống là
Lục Tú Phu cõng Tống đế nhảy xuống biển chết. Hậu cung và các quan chết theo
rất nhiều. Qua 7 ngày có đến hơn 10 vạn xác chết nổi lên mặt biển. Xác Tống đế
cũng ở trong số đó.
Chiến tranh với Nguyên
Mông lần thứ hai
Năm 1279,
quân Mông diệt được Nam Tống. Từ năm 1280, vua
Mông Cổ là Hốt Tất Liệt đã
lập ra nhà Nguyên.
Để lấy cớ đánh Đại Việt,
nhà Nguyên cho Toa Đô xin
qua Đại Việt để mượn đường đánh Chiêm Thành.
Sau nhiều hoạt động ngoại giao hòa hoãn bất thành, cuối cùng chiến tranh bùng
phát. Cuối năm 1284, nhà Nguyên liền phái hoàng tử Thoát Hoan và tướng Toa Đô
mang quân đánh hai đường nam, bắc kẹp lại để chiếm Đại Việt. Thoát Hoan đi
từ Quảng Tây còn
Toa Đô đi đường biển từ cảng Quảng Châu,
trước hết đánh vào Chiêm Thành rồi đánh “gọng kìm” thốc lên từ phía Nam Đại
Việt.
Đây là lần xâm lược Đại Việt với quy mô lớn nhất của nhà Nguyên
(huy động hơn 50 vạn quân) và cũng là cuộc kháng chiến gian khổ nhất của nhà
Trần chống phương Bắc, quyết định sự tồn vong của Đại Việt lúc đó.
Để chuẩn bị cho chiến tranh chống quân xâm lược, nhà Trần cho xét
duyệt sổ đinh, chuẩn bị lương thảo lực lượng. Phong cho Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn làm Quốc
công tiết chế, thống lĩnh quân đội toàn quốc, sai chọn các quân hiệu có tài chỉ
huy, chia đi nắm giữ các đơn vị. Sau nhiều đợt rút lui để tránh thế mạnh của
các đạo quân Mông, quân Đại Việt dùng chiến thuật “vườn không nhà trống” để
quân địch không có lương ăn và bị bệnh dịch do không hợp thủy thổ bản địa, nhà
Trần tổ chức phản công vào cuối xuân, đầu hè năm 1285. Với những chiến thắng ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương,
quân Trần đại thắng, bắt giết được Toa Đô. Thoát Hoan thu tàn quân chạy về Bắc.
Chiến tranh với Nguyên
Mông lần thứ ba
Thắng lợi năm 1285 cơ
bản xác định sự tồn tại của Đại Việt và củng cố lòng tin của người Việt có thể
đương đầu được với đạo quân hùng mạnh của Mông Nguyên liền kề phía Bắc. Bởi vậy
trong lần kháng chiến thứ 3 chống Mông Nguyên năm 1287, Hưng Đạo Vương Trần
Quốc Tuấn nói với vua Trần: “… Quân ta đã quen việc chiến trận, mà quân nó thì
sợ phải đi xa… Theo như thần thấy, phá được chúng là điều chắc chắn”. Nhà Trần
tiếp tục chủ động áp dụng chiến thuật tránh thế mạnh, triệt lương thảo. Cuối
cùng quân Trần đại phá quân Nguyên ở sông Bạch Đằng tháng 4 năm 1288, bắt sống
Nguyên soái Ô Mã Nhi,
Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ. Thoát Hoan một lần
nữa chạy trốn về bắc.
Sau thất bại lần thứ ba ở Đại Việt, Nguyên Thế Tổ Hốt
Tất Liệt vẫn chưa muốn đình chiến. Sang các năm sau, vua Nguyên tiếp tục muốn
điều binh sang nhưng chưa gặp thời cơ thuận tiện. Tới năm 1294 lại định điều
binh lần nữa thì chính Hốt Tất Liệt băng hà. Cháu nội là Nguyên Thành Tông lên
ngôi không muốn gây chiến với Đại Việt nữa. Việc chiến tranh với nhà Nguyên từ
đó mới chấm dứt.Cuối cùng, quân đội nhà Trần toàn thắng vào năm 1285 và năm 1287. Đến đây, nhà Trần bắt đầu bước vào
thời thịnh trị lâu dài tiếp theo.
Năm 1290,
Thượng hoàng Thánh Tông băng hà, hưởng dương 50 tuổi. Trị vì được 21 năm,
thượng hoàng được 11 năm. Ông là người thiên tư, nhân ái, kế nghiệp Thái Tông
khiến quốc gia hưng thịnh, lại giúp Nhân Tông chống giặc ngoại xâm, thực là
công lao to lớn. Miếu hiệu Thánh Tông hoàng đế cũng
là rất tôn xứng.
Trong nước sau thời kỳ chiến tranh, mất mùa thất bát. Ngay năm
Thánh Tông băng hà, trong triều lục đục chuẩn bị tang lễ thì nhân dân ngoài
kinh thành lại đói to. Ngay lập tức, triều đình xuống chiếu phát thóc gạo công
chẩn cấp dân nghèo và miễn thuế nhân đinh. Năm sau, tiếp tục chết đói, 2 năm
này liên tiếp nạn đói hoành hành, Nhân Tông lại ban chiếu cho nô dịch, nô lệ có
thể mua ruộng đất để tăng cường cải thiện tình hình lương thực. Tình hình dần
dần cải thiện.Năm 1293,
Nhân Tông nhường ngôi cho Hoàng thái tử Trần Thuyên, sử gọi là Trần Anh Tông.
THỜI KỲ THỊNH TRỊ
Trần Anh Tông
Anh Tông hoàng đế là một vị Hoàng đế có tính trưởng thành cao
trong các vị hoàng đế nhà Trần. Khi mới lên nối ngôi, Anh Tông hay uống rượu và
đêm thường hay lén ra ngoài đi chơi, có lần bị đồ vô lại ném trúng đầu. Một hôm
uống rượu say đến nỗi Thượng hoàng Nhân Tông ở Thiên Trường về kinh
đô, các quan đều ra đón rước cả, mà vua vẫn nằm ngủ. Thượng hoàng giận lắm,
truyền xa giá lập tức về Thiên Trường và hạ chiếu cho bách quan phải về đấy hội
nghị định truất ngôi Anh Tông.
Khi Anh Tông tỉnh rượu, biết thượng hoàng về kinh đô, sợ hãi quá,
vội vàng chạy ra ngoài cung gặp một người học trò tên là Đoàn Nhữ Hài,
mượn thảo bài biểu để dâng lên tạ tội, rồi cùng với Nhữ Hài xuống thuyền đi
suốt đêm đến phủ Thiên Trường. Thượng hoàng xem biểu rồi quở mắng một lúc, và
tha lỗi cho Anh Tông. Về đến kinh sư, Anh Tông cho Đoàn Nhữ Hài làm ngự sử trung
tán, và từ đấy không uống rượu nữa.
Anh Tông từ sau việc ấy siêng năng hơn, tối hôm tấu duyệt sớ của
chính sự. Và từ sau vụ ấy, vua cũng đâm ra ghét người nghiện rượu và không dùng
những người ấy vào việc quan. Ông cũng là người rất ghét nạn đánh bạc, đã sai
đánh chết Thượng phẩm Nguyễn Hưng vì tội ấy. Dưới thời Anh Tông luật pháp rất
nghiêm, vì thế trong nước có trật tự, quốc gia đi lên nhanh chóng.
Dưới thời ông, Ai Lao và các động biên giới thường xuyên
quấy nhiễu, dù Trần Quang Khải, Trần Quốc Tuấn đều đã qua đời
nhưng các tướng Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật, Trần Quốc
Tảng đều là các danh tướng nên biên giới được an lành. Đối với văn
hóa, thời Anh Tông xuất hiện các danh nhân như Đoàn Nhữ Hài, Trương Hán
Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Trần Thì Kiến, Bùi Mộc
Đạc.
Một sự kiện đánh dấu sự mở rộng cương vực Đại Việt là việc Anh
Tông gả em gái là Huyền Trân công chúa cho Chế Mân, để đổi lấy
hai châu Ô, Lý (phía nam Quảng Trị đến đèo Hải Vân và Thừa Thiên ngày
nay). Nhưng cuộc hôn nhân chỉ được 1 năm thì Chế Mân băng hà, Anh Tông lo sợ
Huyền Trân ở đấy không hay nên cử Trần Khắc Chung cướp công chúa về,
từ đấy người Chiêm Thành oán hận Đại Việt. Năm 1311, chúa Chiêm
là Chế Chi tiến công đánh Đại Việt nhưng bị đại bại. Năm 1318, Chế
Năng tiếp tục đem quân đánh phá nhưng vẫn không kết quả.
Năm 1314, Anh Tông nhường ngôi cho Hoàng thái tử Trần Mạnh,
sử gọi là Trần Minh Tông. Minh Tông tự xưng làm Ninh Hoàng. Thượng
hoàng Anh Tông vẫn giúp đỡ ông trông coi chính sự. Triều đại nhà Trần dưới thời
Minh Tông tiếp tục duy trì sự thịnh vượng của các đời Anh Tông đã tạo nên. Sự
thịnh thế này gọi là Anh Minh thịnh thế kéo dài hơn 60 năm hưng
thịnh.
Huyền Trân Công Chúa
Năm 1301, Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông nhận lời mời, du
ngoạn vào Chiêm Thành, được Quốc vương Chiêm Thành
Chiêm Thành là Chế Mân tiếp đãi nồng hậu, ông ở lại trong
cung điện Chiêm Thành gần 9 tháng. Khi ra về, Thái thượng hoàng có hứa gả con gái
cho Chế Mân, mặc dù khi đó Chế Mân đã có chính thất là Vương hậu Tapasi,
người Java (Indonesia ngày nay). Sau đó nhiều lần, Chế Mân cử sứ sang
hỏi về việc hôn lễ, nhưng nhiều quan lại nhà Trần phản đối, chỉ có Văn Túc
vương Trần Đạo Tái và Nhập nội hành khiển Trần Khắc
Chung chủ trương tán thành.
Tháng 6, năm 1306, vua Chiêm Thành là Chế Mân dâng hai
châu Ô, Rý (còn gọi là Lý) làm của hồi môn, vua Trần Anh Tông khi đó mới
đồng ý gả Công chúa Huyền Trân cho Chế Mân. Công chúa khi về Chiêm Thành, được
phong làm Vương hậu thứ 2 với phong hiệu là Paramecvari.
Tháng 5, năm 1307, quốc vương Chế Mân chết. Nghĩa là chỉ một năm
sau khi cuộc liên hôn giữa Đại Việt và Chiêm Thành diễn ra. Thế tử Chế Đa
Đa sai sứ thần Bảo Lộc Kê sang dâng voi trắng báo tang sự
việc này.
Theo Đại Việt sử ký chép lại, Trần Anh Tông khi đó nghe
rằng theo tục nước Chiêm, Quốc vương chết thì Vương hậu phải lên giàn hỏa
để tuẫn táng. Trần Anh Tông liền cử Hành khiển Trần Khắc
Chung vờ sang viếng tang, tìm cách cứu công chúa.
Theo truyền thuyết thì công chúa Huyền Trân đã xin phép hoàng gia
Chiêm Thành được lập một đài trên núi cao, hướng ra biển về phía Đại Việt, để
làm lễ vĩnh biệt với phụ hoàng. Khi đó Trần Khắc Chung dùng thuyền nhỏ đậu dưới
chân núi, thành công, cứu được công chúa và đưa xuống thuyền, đưa công chúa về
Đại Việt bằng đường biển.
Cuộc hải hành này, theo lời của Trần Khắc Chung đã kéo dài tới một
năm mới về đến Đại Việt. Không biết chuyện gì đã xảy ra giữa hai người mà Trần
Khắc Chung và Huyền Trân công chúa, thay vì về Thăng Long, đã lên núi Yên Tử, nơi
thái thượng hoàng Nhân Tông xuất gia để thỉnh tội.
Trần Khắc Chung sau đó được về triều phục chức. Còn Huyền Trân
công chúa thì theo di mệnh của Thái Thượng hoàng, xuất gia ở núi Trâu Sơn
(nay thuộc Bắc Ninh). Công chúa thọ Bồ tát giới và được ban pháp
danh Hương Tràng.
Cuối năm Tân Hợi (1311), Hương Tràng cùng một thị nữ trước
đây, bấy giờ đã quy y đến làng Hổ Sơn, huyện Thiên Bản (nay thuộc Nam
Định), lập am dưới chân núi Hổ để tu hành. Sau đó, am tranh trở thành điện
Phật, tức chùa Nộm Sơn hay còn gọi là Quảng Nghiêm Tự.
Bà mất ngày mùng 9 tháng giêng năm Canh
Thìn (1340). Dân chúng quanh vùng thương tiếc và tôn bà là Thần
Mẫu và lập đền thờ cạnh chùa Nộm Sơn.
Chiêm Thành coi sự việc Đại Việt cướp lại Huyền Trân là quốc nhục
và các vị vua Chiêm kế tiếp đã sáu lần dùng vũ lực, từ năm 1311
-1353, nhằm yêu cầu Đại Việt trao trả cho vương quốc này lại hai châu Ô, Lý
nhưng không thành công.
Trong dân gian, có lẽ vì thời đó người
Việt coi người Chăm là dân tộc thấp kém nên đã có câu:
Tiếc thay cây quế giữa rừng
Để cho thằng Mán thằng
Mường nó leo
Tương truyền là bài “Nước non ngàn dặm” theo điệu Nam Bình,
có người cho rằng chính công chúa đã soạn ra trong lúc đi đường sang Chiêm:
Nước non ngàn dặm ra đi…
Mối tình chi!
Mượn màu son phấn
Đền nợ Ô, Lý.
Xót thay vì,
Đương độ xuân thì.
Số lao đao hay là nợ
duyên gì?…
Trần Minh Tông – Trần
Hiến Tông
Dưới thời Minh Tông, trong huyết thống hoàng gia đã bắt đầu có
ngoại thích xen vào. Đó là việc ông sủng ái Anh Tư phu nhân, con gái một
quan viên họ Lê và em phu nhân là Sung viên Lê thị. Cả hai bà đều sinh ra
các Hoàng tử đều là những người sẽ kế thừa ngôi vị Hoàng đế Đại Việt tương lai.
Anh Tư phu nhân sinh ra Hoàng trưởng tử Trần Vượng, Trần Phủ còn Lê
sung viên sinh ra hoàng tử út Trần Kính.
Minh Tông do sủng ái Anh Tư phu nhân nên muốn lập con của phu nhân
là Trần Vượng làm Thái tử, nhưng gặp phải sự phản đối từ cha của Lệ Thánh
hoàng hậu là Huệ Vũ vương Trần Quốc Chẩn, một đại thần trụ cột đương
thời, con trai của Nhân Tông hoàng đế, người mà Minh Tông phải gọi bằng chú.
Khi Anh Tông hấp hối, ông đã giao Quốc Chẩn chăm nom Minh Tông nên có thể nói
địa vị của Quốc Chẩn rất là cao. Khi Quốc Chẩn phản đối việc ông lập Trần Vượng
làm Thái tử, Minh Tông bèn thôi nhưng rất bực mình. Sau đó, dưới sự xúi giục
của Trần Khắc Chung, Văn Hiến hầu là con trai của Trần Nhật Duật, cùng sự
ngấm ngầm của Anh Tư phu nhân, Minh Tông đã bắt giam Quốc Chẩn vào một ngôi
chùa và khiến Quốc Chẩn thiệt mạng.
Minh Tông sau đó truyền ngôi cho Thái tử Trần Vượng, gọi
là Trần Hiến Tông. Hiến Tông chết khi còn trẻ, ông lập con của Lệ Thánh
hoàng hậu là Trần Hạo, tức Trần Dụ Tông. Năm 1358, Thượng hoàng
Minh Tông băng hà, hưởng dương 59 tuổi. Dụ Tông tự mình điều hành chính sự,
thời kỳ suy vong của nhà Trần bắt đầu.
THỜI KỲ SUY VONG
Trần Dụ Tông
Trần Dụ Tông tuy
được đánh giá thông minh, hiểu rộng, sách vở đều thông nhưng đến khi Thượng
hoàng Minh Tông băng hà, ông trở nên bỏ bê chính sự. Ông ham mê tửu sắc, ra
lệnh cho xây cung điện, tạo sưu cao, thuế nặng làm cho nhân dân vô cùng khổ sở
và ta thán. Trong nước, giặc giã nổi lên khắp nơi. Trong khi đó tại triều đình,
các bọn gian thần kéo bè kết đảng và trở nên lộng hành vô cùng.
Chu Văn An,
một vị quan thanh liêm, trung thần tại triều đình, đã dâng Thất trảm sớ đề
nghị trị tội những tên tham quan ô lại. Vua Trần Dụ Tông đã không nghe theo nên
Chu Văn An đã từ quan về nhà dạy học.
Dụ Tông ham chơi bời, mê đàn hát,
thường sai các vương hầu và công chúa bày tiệc đóng trò hát tuồng cho
vui, ai diễn hay thì được thưởng. Mặc dù phép tắc nhà Trần rất nghiêm khắc với
tội đánh bạc nhưng
Trần Dụ Tông lại thích trò này, chiêu tập các nhà giàu vào cung đánh bạc cùng
vua.
Ông sai phu xây cất nhiều cung điện, đào hồ ở vườn trong hậu cung,
trong hồ xây đá làm núi, trồng nhiều cây cỏ lạ và nuôi chim thú quý;
sau đó ông lại sai làm hồ con, lệnh cho dân ra biển chở nước mặn đổ vào hồ và
thả cá biển, đồi mồi vào
nuôi.
Vua thích chơi bời, các quý tộc cũng hưởng ứng theo vua khiến
triều đình rối nát. Bên ngoài xảy ra mất mùa trong nhiều năm. Trần Dụ Tông chỉ
có các biện pháp khắc phục tạm thời như sai các nhà hào phú bỏ thóc lúa chu cấp
cho người nghèo để chống đói và thưởng chức tước cho họ để trả công; ông không
chú trọng việc đắp đê và làm thủy lợi để
phát triển nông nghiệp lâu dài.
Năm 1369,
Trần Dụ Tông băng hà, hưởng dương 34 tuổi, cai trị được 28 năm.
Loạn Dương Nhật Lễ
Trần Nhật Lễ,
con của Cung Tĩnh vương Trần Nguyên Dục được
chọn làm người kế thừa đại thống. Nhật Lễ không phải là con của Nguyên Dục mà
mẹ Lễ vốn là cô đào, vợ của kép hát Dương Khương.
Bà múa vở Vương mẫu hiến bàn đào, thân người rất đẹp nên Nguyên Dục si mê,
buộc bà phải bỏ Dương Khương mà về làm vợ mình, nhưng lúc đó bà đã mang thai
Lễ. Sau khi Nhật Lễ sinh ra, Nguyên Dục tự nhận làm con mình. Đến khi Dụ
Tông bệnh nặng,
truyền ngôi cho Nhật Lễ để kế thừa. Thật ra, lúc đó triều thần không muốn thế
mà muốn lập Cung Định vương Trần Phủ lên
thay, nhưng Hiến Từ hoàng thái
hậu lại nghĩ đó là cháu mình, khăng khăng lập Nhật Lễ nên quần
thần đều nghe theo. Nhật Lễ lên ngôi, tôn Thái hậu làm Thái hoàng thái
hậu, Trần Nguyên Trác làm Thượng
tướng quốc thái tể. Sau này, Thái hoàng thái hậu biết chuyện của Nhật Lễ, hết
sức thất vọng mà muốn phế truất Lễ nên Lễ ra tay trước, cho người ngầm bỏ độc giết chết Thái
hậu.
Nhật Lễ ở ngôi bỏ bê chính sự, ham tửu sắc, hằng ngày chỉ rong
chơi, thích các trò hát xướng, muốn đổi lại họ là Dương, việc này làm bất bình
trong giới hoàng tộc nhà Trần trong đó có Thái tể Trần Nguyên Trác. Ông ngầm
lập mưu bắt Lễ trong cung, cùng con trai là Trần Nguyên Tiết với 2 cháu trai là
con của Thiên Ninh công
chúa xâm nhập và cung nhưng kế hoạch thất bại, Nguyên Trác cùng
đồng đảng đều bị Nhật Lễ giết hết.
Mùa đông, tháng 10, năm 1370, Cung Định vương Trần Phủ vì có con
gái làm hoàng hậu của Nhật Lễ, sợ vạ lây đến mình, tránh ra trấn Đà Giang (Gia Hưng), ngầm hẹn với
các em là Cung Tuyên Vương Trần Kính, Chương Túc quốc thượng hầu Trần Nguyên Đán cùng
với Thiên Ninh công chúa hội ở sông Đại Lại, phủ Thanh Hóa để dấy
quân. Lật đổ được Nhật Lễ, giáng xuống làm Hôn Đức công.
Cùng năm ấy, Cung Định vương Trần Phủ lên ngôi, tức là Trần Nghệ Tông.
Hồ Quý Ly chiếm ngôi
Nghệ Tông Hoàng giữ ngôi vị được 2 năm, lên làm Thái thượng hoàng và
nhường ngôi cho em là Trần Kính lên thay, tức là Trần Duệ Tông.
Năm 1377, Duệ Tông tử trận
ở Chiêm Thành,
Nghệ Hoàng lập con Duệ Tông là Trần Hiện lên thay, sử gọi là Trần Phế Đế.
Thượng hoàng Nghệ Tông nắm quyền bính trong tay quyết định mọi việc nhưng lại
quá tin dùng một mình Hồ Quý Ly,
là cháu của Minh Từ thái phi, mẹ của Nghệ Hoàng.
Hồ Quý Ly muốn nắm đại quyền, nên xúi giục Nghệ Hoàng giết hại các
trung thần, các hoàng tử, các thân vương và ngay cả Phế Đế cũng bị sự gièm pha
của Quý Ly mà bị Nghệ Tông phế bỏ. Con út của Nghệ Hoàng là Trần Ngung,
tức Trần Thuận Tông được
lập lên ngôi nhưng cũng không có thực quyền. Con gái lớn của Quý Ly là Khâm Thánh hoàng
hậu của Thuận Tông, nên mọi việc của Thuận Tông càng bị Quý Ly
siết chặt hơn bởi lẽ Hồ Quý Ly rất gian xảo.
Vì có mưu đồ soán đoạt ngôi vị mà lại được sự tin dùng của Nghệ
Tông nên Hồ Quý Ly đã tạo được khá nhiều phe cánh và bè đảng ở triều đình và
khắp mọi nơi. Rồi từ đó Quý Ly càng ngày càng lộng quyền không coi ai ra gì.
Năm 1394,
Nghệ Hoàng băng hà, hưởng thọ 74 tuổi. Hồ Quý Ly nắm lấy cả quyền hành rồi sai
người vào đất Thanh Hoá xây
thành Tây Đô.
Sau khi công việc xong xuôi, Quý Ly bắt Trần Thuận Tông dời kinh về Tây Đô rồi
lập mưu ép Thuận Tông nhường ngôi cho con là Trần An, khi đó mới có 3 tuổi lên
ngôi, tức Trần Thiếu Đế.
Quý Ly lên làm phụ chính sai
người giết Thuận Tông, tự xưng làm Quốc Tổ Chương Hoàng.
Nhìn thấy âm mưu của Hồ Quý Ly, nhiều tướng lĩnh nhà Trần như Đại
tướng quân Trần Khát Chân cùng
các tông thất lập hội với mưu đồ tiễu trừ Quý Ly, nhưng cơ mưu bị bại lộ, tất
cả đều bị bắt và bị giết vào khoảng hơn 370 người. Năm 1400, Quý Ly phế truất Thiếu Đế rồi tự
xưng làm vua, chiếm lấy ngôi nhà Trần, đổi sang họ Hồ, lập ra triều đại nhà Hồ.
Nhà Trần chấm dứt, kéo dài 175 năm với 12 đời hoàng đế.
Nguồn gốc tên con em nhà
Trần
Tổ tiên nhà Trần vốn là người đất Mân (tỉnh Phúc Kiến – Trung
Quốc). Có người tên là Kinh đến ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, sinh ra Hấp,
Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá. Vua (Thái Tông Trần
Cảnh) là con thứ của Thừa, mẹ họ Lê, sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần, Kiến Gia
thứ 8 triều Lý.
Vốn sống bằng nghề đánh cá, họ Trần thường sinh sống làm ăn ở
những vùng cửa sông ven biển, đến đời Trần Lý (ông nội của vua Trần Thái Tông)
đã trở thành một cự tộc có thế lực vùng Hải Ấp (nay là xã Lưu Xá, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).
Các nhà lãnh đạo thuộc những thế hệ đầu tiên của nhà Trần thường
mang tên các loài cá, do nguồn gốc xuất thân chài lưới của họ. Tổ họ Trần (Trần
Lý), trong tiếng Hán “Lý,” nghĩa là cá chép. Con ông là Trần
Thừa vốn có tên là Dưa (cá dưa). Hai con trai Trần Thừa vốn có tên là Leo (cá leo), được phiên theo
chữ Hán là Liễu (Trần Liễu cha của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn),
người con thứ hai, Trần Cảnh, có tên là Lành Canh (cá lành canh),
phiên sang chữ Cảnh. Trần Thị Dung cũng vốn có tên là Ngừ (cá ngừ),
khi làm hoàng hậu của Lý Huệ Tông mới đổi gọi là Dung. Về sau dân địa phương
lập đền thờ bà vẫn gọi là “Bà chúa Ngừ”.
Từ thế hệ thứ hai, nhà Trần nắm quyền cai trị nên mới đặt theo các
tên đời sau thường biết tới.
Lãnh thổ Việt Nam dưới
thời nhà Trần
Địa giới phía bắc nước Đại Việt thời
Trần kế thừa nhà Lý bao gồm một phần nhỏ của tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), vùng
bắc Bộ Việt Nam hiện nay và vùng Thanh-Nghệ-Tỉnh.
Năm 1069, dưới
thời vua Lý Thánh Tông
biên giới đã mở rộng về phía nam đến tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị (khoảng
phân nửa tỉnh, Quảng Trị hiện nay).
Năm 1306, dưới thời vua Trần Anh Tông lãnh thổ được mở rộng thêm
phần còn lại của Quảng Trị đến đèo Hải Vân và Thừa Thiên –
Huế ngày nay.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Cuộc chiến tranh
Biên giới 1979l
- Không được quên
tội ác của bá quyền Trung Quốcl
- Trận chiến cầu
Khánh Khê và giờ học lịch sửl
- Vị Xuyên ơi! Nỗi
đau không quên!l
- Bàn thêm về nước
Nam Việt của Triệu Đà và lịch sử nước Việt Naml
- Gạc Ma - Nỗi đau
không được quênl
- Vai trò của Mao
Trạch Đông trong chiến dịch tiến chiếm Hoàng Sa năm 1974l
- Cuộc chiến chống
quân Trung Quốc xâm lược: Hoàng Sa năm
1974l
- Vạch trần dã tâm
thâm đọc của Trung Quốc nhằm độc chiếm biển Đôngl
- Sự thật về quan
hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năml
- Đại nạn Trung
Hoa thời Cổ sửl
- Đại nạn Trung
Hoa thời Trung sửl
- Đại nạn Trung
Hoa thời Cận đạil
Mời nghe Phạm Giang đọc
truyện ngắn
CHÀNG LÙN NỂ VỢ của Đặng
Xuân Xuyến:
LÝ THÀNH PHƯƠNG
Quê quán: Núi Sập, Thoại Sơn,
tỉnh An Giang.
Định cư: thành phố San Diego,
California, Hoa Kỳ.
…………………………………………………………………………
- Cập nhật từ email tranchicuong27@gmail.com gửi ngày 28.11.2025.
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.


0 comments:
Đăng nhận xét