VIỆT NAM CÓ ĐÒI LẠI ĐẤT ĐAI
HIỆN TRUNG QUỐC ĐANG CHIẾM GIỮ HAY KHÔNG?
VIỆT NAM CÓ ĐÒI LẠI ĐẤT ĐAI CỦA TỔ TIÊN MÌNH,
HIỆN LÀ VÙNG ĐẤT LƯỚNG QUẢNG VÀ QUẦN ĐẢO
HẢI NAM TRUNG QUỐC ĐANG CHIẾM GIỮ HAY KHÔNG?
Có người bảo là chuyện mơ hồ. Có người bảo là rất khó. Nhưng tôi
cho rằng không gì là không thể! Không gì là bất biến cả! Ngày nay, rất nhiều
người Việt ở Quảng Đông, tự hào rằng mình là người Việt. Họ muốn trở về với tổ
tiên mình.
Nhưng trước mắt, xin các bạn hãy nên đọc bài viết này, lấy đó làm
tài liệu rất cần thiết để truyền dạy cho thế hệ trẻ Việt Nam, cho cả chính
mình. Chúng ta phải biết rõ tổ tiên mình là ai, để có thể tự tin đứng vững và
tiến lên trong cái thế giới "phẳng" mà rất nhiều biến động, không thể
lường trước được!
DANH SĨ NGÔ THÌ NHẬM VÀ VẤN ĐỀ BIÊN CƯƠNG PHÂN CHIA NAM, BẮC
NÚI PHÂN MAO
Một dải núi xanh giáp giới Sở Việt,
Trên đường trạm Hoàng Mao, nhận ra núi Phân Mao.
Sách trời ghi biên giới không quá Hành Dương,
Khí đất làm trôi ngược lông chim nhạn ở Nhạn Trạch.
Lưỡi gươm của Trưng Trắc mở mang động phủ,
Mọt quế của Uý Đà còn đậu trong hang núi.
Gió từ tây nam làm nguội cơn nóng nực,
Núi Hùng Bi dù cao muôn nhận, cũng chẳng thấm vào đâu.
Dịch thơ:
Núi xanh chia Việt - Sở xưa,
Cao cao Mao Lĩnh cũng vừa thấy đây!
Sách trời ghi rõ điều này,
Trung Nguyên biên giới tới đây thì dừng.
Lưỡi gươm Trưng Trắc lẫy lừng,
Úy Đà mọt quế đã từng đầy hang.
Giải sầu, có gió đông nam,
Bùng Bi muôn trượng, đã làm sợ ai!
Vũ Bình Lục dịch
Tập thơ HOÀNG HOA ĐỒ PHẢ của danh sĩ Ngô Thì Nhậm có
khoảng hơn trăm bài (kể cả một số chùm 2 bài liên hoàn). Có Ngũ ngôn
trường thiên, có Cổ phong, có Thất ngôn bát cú. Trong số hơn trăm bài
thơ chữ Hán viết trong chuyến đi sứ cuối cùng của Ngô Thì Nhậm sang
nhà Thanh báo tang và xin sắc phong tước AN NAM QUỐC VƯƠNG cho vua Quang
Toản (1793), sau cái chết “bất đắc
kỳ tử” của Quang Trung Hoàng Đế (1792).
Ngô Thì Nhậm viết tới gần hai chục bài về vùng đất Lĩnh
Nam của ta thời Hai Bà Trưng trị vì (40 SCN-43 SCN), tức đất Nam Việt của
ta thời Triệu Vũ Đế (Triệu Đà) làm chủ trước đó.
Khác hẳn và hơn hẳn người cha nổi tiếng của mình là cụ
Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm có nhãn quan chính trị rõ ràng hơn, dứt
khoát và mạnh mẽ hơn, đặc biệt là tầm nhìn lịch sử sâu rộng hơn,
về lãnh thổ đã từng có của tổ tiên mình, do tổ tiên mình xây dựng,
mặc dù, đã bị kẻ thù phương Bắc dùng vũ lực cướp mất.
Bài thơ PHÂN MAO LĨNH (Núi Phân Mao) là một trong số gần
hai chục bài thơ viết ở Quảng Tây sầm uất, về một chủ đề chung. Đó
chính là biên giới của Bách Việt (ngoài Ngũ Lĩnh) và Trung Nguyên
(Phương Bắc).
Mở đầu, nhà thơ viết:
Một giải núi xanh, nơi giáp giới Sở-Việt,
Trên đường trạm Hoàng Mao, (ta) nhận ra núi Phân Mao.
Chính tác giả chú rằng: “Núi Phân Mao ở địa giới Hành Sơn, tỉnh Hồ Nam, cỏ mao rẽ hai
ngả Nam, Bắc, trên đường có biển đề PHÂN MAO LĨNH”.
Nhà thơ sứ thần Đại Việt viết tiếp
Sách trời ghi biên giới (của Trung Nguyên với Nam Việt)
không quá Hành Dương,
Khí đất làm trôi ngược lông chim nhạn ở Nhạn Trạch.
Thế là sao? Chả là ở thiên KINH CHẾ, sách KINH LỄ chép
rằng: “Địa giới Trung Nguyên
phía Nam không quá Hành Sơn”! Thế nghĩa là biên giới của Trung
Quốc với Nam Việt ta đã được phân chia rất rõ ràng. Đất đai Trung
Quốc chỉ đến núi Hành Sơn là hết. Lại như khí đất làm trôi ngược
lông chim nhạn, là vì sông Tương chảy về phía Bắc, chim hồng nhạn mùa
thu bay về, lông chim nhạn rụng xuống, lại trôi ngược về phương Nam,
nổi lềnh bềnh trên sông Ly, cho nên khúc sông này gọi là Nhạn Trạch.
Đọc đến đây, chúng ta lại phải quay về với bài thơ NAM
QUỐC SƠN HÀ (Sông núi nước Nam), tương truyền do Lý Thường Kiệt viết:
Sông núi nước Nam, (thì) do vua nước Nam làm chủ,
Điều ấy đã ghi rất rõ ràng ở sách trời!
Cớ sao lũ nghịch tặc đến đây xâm phạm?
Chúng bay nhất định sẽ phải chuốc lấy bại vong!
Nước Nam ở đây, chính là nước Nam Việt của người Bách
Việt ta ở thời Triệu Vũ Đế, cũng là nước Lĩnh Nam ở thời Hai Bà
Trưng giành lại quyền tự chủ từ tay nhà Hán. Sách trời đã ghi rõ
ràng điều đó. Triệu Vũ Đế làm chủ nước Nam Việt. Hai Bà Trưng làm
chủ nước Lĩnh Nam, đất đai cũ của nhà Triệu. Vua Hán chỉ có quyền
làm chủ đất đai của họ, từ Hành Dương, có núi Phân Mao này ngược lên
phía Bắc mà thôi!
Đến như Nguyễn Trãi (thế kỷ 15) từng viết trong ĐẠI CÁO
BÌNH NGÔ, rằng:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc, Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”
…
Thì đương nhiên, Bắc ở đây là để chỉ người Hán ở phương
Bắc, còn Nam, chính là nước Nam Việt của chúng ta thời nhà Triệu.
Phải hiểu như thế, để khẳng định rằng biên giới của hai
nước Trung Quốc và Đại Việt ta, chính là ở núi Phân Mao này đây, chứ
đâu phải chỉ là một tẹo đất đai vũng Bắc Bộ, từ Lạng Sơn đến dãy
Hoành Sơn của Hà Tĩnh mà thôi!
Kìa như:
Lưỡi gươm của Trưng Trắc mở mang động phủ,
Mọt quế của Úy Đà còn đậu trong hang núi.
Chả là, ở phía Nam hồ Động Đình, có đền thờ Trưng Trắc,
gọi là “Miếu Bà Trắc”. Năm 40 SCN, Hai Bà Trưng, hậu duệ vua Hùng
dựng cờ khởi nghĩa, giành lại toàn bộ đất Nam Việt của ta thời nhà
Triệu, đóng đô ở Phiên Ngung, kinh đô cũ của nhà Triệu (chứ không phải
ở Mê Linh như nhiều người lầm lẫn). Vùng đất Lưỡng Quảng và quần
đảo Hải Nam, Trung Quốc chiếm giữ của ta, có rất nhiều đền thờ Hai
Bà Trưng, hiện vẫn còn. Đền thờ ở bên hồ Động Đình chỉ là một
trong số đó.
Lại như câu “Mọt quế
của Úy Đà còn đậu trong hang núi” là sao? Số là, Triệu Đà
được vua Tần Nhị Thế phong chức Úy ở quận Nam Hải. Nhân nhà Tần
loạn, Triệu Đà đánh chiếm cả vùng Quế Lâm, Tượng Quận, diệt Thục
Phán An Dương Vương, thành lập nước Nam Việt do người Bách Việt làm
chủ. Triệu Đà xưng Đế, tức Triệu Vũ Đế. Do sức ép ngoại giao của
nhà Hán, Triệu Đà bề ngoài tự hạ cấp xuống tước Vương (Triệu Vũ
Vương), nhưng thực chất ông vẫn giữ nguyên là Triệu Vũ Đế. Đó chẳng
qua là sách lược ngoại giao kiểu “cây
tre” “nội cương ngoại nhu” đấy
thôi!
Thêm nữa, Uý Đà vốn là cháu nội vua Hùng Duệ Vương nước Văn Lang,
sang Tần làm con nuôi hoạn quan Triệu Cao, nên mang họ Triệu. Biên giới nước
Văn Lang thời xưa kép dài đến đất Ngô Châu, chứ đâu phải chỉ có một tẹo Phong
Châu như chúng ta thường nghĩ thế!
Mục tiêu của sự nhún mình khôn khéo này, là để giữ được
mối hòa hiếu với nhà Hán, giữ vững hòa bình. Đó mới là mục tiêu
tối thượng. Bề ngoài tỏ vẻ mềm mỏng một tý, nhưng bên trong vẫn là
ý chí độc lập tự chủ. Người Việt ta, trong đó có Ngô Thì Sĩ, nhất
là mấy chục năm gần đây, một vài người cho rằng Triệu Vũ Đế đã đầu
hàng nhà Hán. Đó là một sự hiểu biết nông cạn, thậm chí là thiển
cận, trái ngược với chính sử nước ta ghi chép về nhà Triệu, về
Triệu Vũ Đế anh hùng tài lược, tiếp nối sự nghiệp các vua Hùng...
Ở đây, có câu chuyện “mọt
quế”, đại khái, Triệu Vũ Đế hàng năm vẫn cho người đem quế (một
loại hương liệu rất quý ở phương Nam) sang biếu nhà Hán. Trong bụng Triệu
Vũ Đế vẫn khinh nhờn nhà Hán. Triệu Đà cho người bắt con cà cuống,
đóng vào giỏ đem dâng cống cho nhà Hán, nói dối rằng, quế đã bị “quế đồ”, tức mọt quế ăn hết cả
rồi. Vậy xin dâng cống “quế đồ”,
tức con cà cuống thay thế. Đó chỉ là một cái mẹo, để nhà Hán thôi
việc bắt Nam Việt cống nạp quế mà thôi.
Nhà thơ kết luận:
Gió từ phía Tây Nam làm nguội cơn nóng nực,
Núi Hùng Bi dù cao muôn nhận, cũng chẳng thấm vào đâu.
Núi Hùng Bi ở địa phận huyện Kỳ Dương, tỉnh Hồ Nam. Dãy
núi này rất cao, giáp giới giữa Hồ Nam và Quảng Tây, tức vùng biên
giới giữa Trung Quốc và Quảng Tây nước Nam Việt. Nhà Thơ cho rằng,
Núi Hùng Bi kia dẫu rất cao, nhưng cũng chưa lấy gì làm sợ hãi. Vẫn
còn có núi cao hơn thế nữa kia!
PHÂN MAO LĨNH (Núi Phân Mao) là một bài thơ rất hay. Không
phải nó hay ở công phu gọt đẽo câu chữ, mà hay ở tầm tư tưởng lớn,
ở lòng yêu nước, niềm tự hào về quá vãng xa xăm của dân tộc Đại Việt
ta, một thời vang bóng…
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Cuộc chiến tranh
Biên giới 1979l
- Không được quên
tội ác của bá quyền Trung Quốcl
- Trận chiến cầu
Khánh Khê và giờ học lịch sửl
- Vị Xuyên ơi! Nỗi
đau không quên!l
- Bàn thêm về nước
Nam Việt của Triệu Đà và lịch sử nước Việt Naml
- Gạc Ma - Nỗi đau
không được quênl
- Vai trò của Mao
Trạch Đông trong chiến dịch tiến chiếm Hoàng Sa năm 1974l
- Cuộc chiến chống
quân Trung Quốc xâm lược: Hoàng Sa năm
1974l
- Vạch trần dã tâm
thâm đọc của Trung Quốc nhằm độc chiếm biển Đôngl
- Sự thật về quan
hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năml
- “Đặc Khu 99 năm”
- Tiếng nói của người dânl
- Đại nạn Trung
Hoa thời Cổ sửl
- Đại nạn Trung
Hoa thời Trung sửl
- Đại nạn Trung
Hoa thời Cận đạil
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện
ngắn
“CÔ” SƯỚNG CƯỚI VỢ của Đặng
Xuân Xuyến:
VŨ BÌNH LỤC
Địa chỉ: thôn Ngọc Chi,
xã Vĩnh Ngọc
huyện Đông Anh, tỉnh Hà Nội.
Email: vubinhluc184@gmail.com
Điện thoại: 097.366.05.79
.............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản nhà thơ La Thụy giới thiệu ngày 31.10.2025.
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện
quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.jpg)


0 comments:
Đăng nhận xét