NHÀ LÝ (1009-1225) - Tác giả: Lý Thành Phương (Hoa Kỳ)

Leave a Comment

 


NHÀ LÝ (1009-1225)

 

THỜI KỲ MỞ ĐẦU 

(Tác giả Lý Thành Phương)

Triều đại nhà Lý bắt đầu khi Lý Công Uẩn lên ngôi vào năm 1009, sau khi giành được quyền lực từ tay nhà Tiền Lê. Triều đại này trải qua chín vị hoàng đế và chấm dứt khi Lý Chiêu Hoàng, lúc đó mới có bảy tuổi, bị ép thoái vị để nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh vào năm 1225 – tổng cộng là 216 năm.

Trong thời đại này, lần đầu tiên nhà Lý đã giữ vững được chính quyền một cách lâu dài đến hơn 200 năm, khác với các vương triều cũ trước đó chỉ tồn tại hơn vài chục năm. Vào năm 1054, Lý Thánh Tông đã đổi quốc hiệu từ Đại Cồ Việt thành Đại Việt, mở ra kỷ nguyên Đại Việt rực rỡ trong lịch sử Việt Nam.

Trong nước, mặc dù các vị Hoàng đế đều sùng bái Phật giáo nhưng ảnh hưởng của Nho giáo cũng rất cao với việc mở các trường đại học đầu tiên là Văn Miếu (1070) và Quốc tử giám (1076) và các khoa thi để chọn người hiền tài không có nguồn gốc xuất thân là quý tộc ra giúp nước. Khoa thi đầu tiên được mở vào năm 1075, và Trạng nguyên đầu tiên là Lê Văn Thịnh.

Về thể chế chính trị, đã có sự phân cấp quản lý rõ ràng hơn và sự cai trị đã dựa nhiều vào pháp luật hơn là sự chuyên quyền độc đoán của cá nhân. Sự kiện nhà Lý chọn thành Đại La làm kinh đô, đổi tên thành Thăng Long đã đánh dấu sự cai trị dựa vào sức mạnh kinh tế và lòng dân hơn là sức mạnh quân sự để phòng thủ như các triều đại trước. Những danh thần như Lê Văn Thịnh, Bùi Quốc Khái, Doãn Tử Tư, Đoàn Văn Khâm, Lý Đạo Thành, Tô Hiến Thành,… đã góp sức lớn về văn trị và chính trị, tạo nên một nền văn hiến rực rỡ của triều đại nhà Lý.

Quân đội nhà Lý được xây dựng có hệ thống đã trở nên hùng mạnh, ngoài chính sách Ngụ binh ư nông, các Hoàng đế nhà Lý chủ trương đẩy mạnh các lực lượng thủy binh, kỵ binh, bộ binh, tượng binh…. cùng số lượng lớn vũ khí giáo, mác, cung, nỏ, khiên và sự hỗ trợ công cụ công thành như máy bắn đá, những kỹ thuật tiên tiến nhất học hỏi từ quân sự Nhà Tống. Việc trang bị đầu tư và quy mô khiến quốc lực dồi dào, có đủ khả năng thảo phạt các bộ tộc man di ở biên giới, cũng như quốc gia kình địch phía Nam là Chiêm Thành hay cướp phá thường xuyên, bảo vệ thành công lãnh thổ và thậm chí mở rộng hơn vào năm 1069, khi Lý Thánh Tông chinh phạt Chiêm Thành và thu về đáng kể diện tích lãnh thổ.

Quân đội nhà Lý còn vẻ vang hơn khi đánh bại quân đội của Vương quốc Đại Lý, Đế quốc Khmer và đặc biệt là sự kiện danh tướng Lý Thường Kiệt dẫn quân đội đánh phá vào lãnh thổ nhà Nhà Tống vào năm 1075, dẫn đến Trận Như Nguyệt xảy ra trên đất Đại Việt và quân đội hùng mạnh của nhà Tống hoàn toàn thất bại.

Bên cạnh quân sự, nhà Lý còn nổi tiếng về nghệ thuật với kinh đô Thăng Long phỏng theo mô hình kinh thành Trường An của nhà Đường và Khai Phong của nhà Tống, tạo nên một quần thể kiến trúc quy mô và hoa lệ. Những hiện vật về mái ngói, linh thú trang trí trên nóc mái và các loại gạch lót cho thấy trình độ mỹ nghệ cao của nghệ nhân thời Lý. Con Rồng thời Lý được xem là hình tượng đỉnh cao của nghệ thuật tạo hình đương thời, bên cạnh các tượng Phật lớn còn lại cho thấy tư duy của người thời Lý rất lớn. Ba trong bốn bảo vật của An Nam tứ đại khí là Tháp Báo Thiên, Chuông Quy Điền, và Tượng phật Chùa Quỳnh Lâm được tạo ra trong thời đại nhà Lý. Cùng với sự sùng đạo Phật, những tinh hoa nhất của nghệ thuật thời Lý đa phần đều thể hiện qua các bức tượng Phật, chùa chiền, phản ánh sự xa hoa tột độ của Phật giáo thời Lý.

 

Thành lập

Nhà sử học Lê Văn Hưu viết: Lý Công Uẩn người châu Cổ Pháp (Từ Sơn, Bắc Ninh). Thuở nhỏ làm con nuôi nhà sư Lý Khánh Văn, theo học ở chùa Lục Tổ của sư Vạn Hạnh. Sau đó làm quan nhà Lê, giữ đến chức Điện tiền chỉ huy sứ, chỉ huy cấm quân ở kinh đô Hoa Lư. Ông là người có học, có đức và có uy tín nên được triều thần nhà Lê quý trọng.

Việc Lý Công Uẩn trưởng thành, thăng tiến trong bộ máy nhà Tiền Lê và lên ngôi vua có vai trò gây dựng rất lớn của thiền sư Vạn Hạnh. Các nhà nghiên cứu thống nhất ghi nhận vai trò của sư Vạn Hạnh và Đào Cam Mộc trong việc đưa Lý Công Uẩn lên ngôi nhanh chóng, êm thấm và kịp thời, khiến cục diện chính trị nước Đại Cồ Việt được duy trì ổn định trong quá trình chuyển giao quyền lực, không gây xáo trộn từ trong cung đình lẫn bên ngoài. Việc lên ngôi nhanh chóng và êm thuận của Lý Công Uẩn được xem là điều kiện thuận lợi và nền tảng để ông yên tâm bắt tay xây dựng đất nước thống nhất, mở đầu một vương triều thịnh vượng lâu dài, mở ra thời kỳ phục hưng toàn diện của đất nước.

 

Dời đô về Thăng Long

Hơn một năm sau khi lên ngôi vua, tháng Bảy Âm lịch năm 1010, Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Đại La (Hà Nội). Ông đã ban hành Chiếu dời đô vào mùa Xuân năm 1010.

Việc tìm đất, nghị bàn đến việc chuẩn bị để dời đô diễn ra tương đối khẩn trương. Từ Hoa Lư về thành Đại La có thể đi theo đường bộ hoặc theo đường thủy. Sử cũ không ghi chép chi tiết nhà Lý dời đô bằng đường nào. Các nhà nghiên cứu đã kết luận: triều nhà Lý dời đô bằng đường thủy, và chỉ có dời đô bằng đường thủy thì mới an toàn và tải được cả bộ máy triều đình đông đảo cùng vật chất bảo đảm đồ sộ đi kèm.

Sử gia Ngô Thì Sỹ trong Đại Việt sử ký tiền biên nhận xét về kinh đô Thăng Long như sau: 

Quyết định dời đô ra Thăng Long của Lý Thái Tổ được xem là sự kiện trọng đại, đánh dấu bước phát triển vượt bậc của vương triều Lý. Trong vòng 8 thế kỷ tiếp theo, hầu hết các triều đại phong kiến kế tục nhà Lý như nhà Trần, nhà Mạc, nhà Hậu lê đều tiếp tục dùng Thăng Long làm kinh đô và có thời gian tồn tại tương đối lâu dài.

 

Loạn tam vương

Khoảng tháng Ba năm 1028, Lý Thái Tổ qua đời, hưởng dương 55 tuổi, thụy hiệu là Thần Vũ hoàng đế, an táng ở Thọ Lăng.

Các đại thần đều đến cung Long Đức để dâng biểu, xin Thái tử Lý Phật Mã lên ngôi nhưng ba người em của ông là Đông Chinh vương, Dực Thánh vương và Vũ Đức vương không đồng ý nên đem quân của mình phục sẵn ở trong Hoàng thành nhằm cướp ngôi.

Lúc đó Đông Chinh vương phục ở trong Long Thành còn Dực Thánh vương và Vũ Đức vương phục binh ở cửa Quảng Phúc, đợi Thái tử đến sẽ đánh úp. Một lát sau, Thái tử từ cửa Tường Phù vào, đến điện Càn Nguyên, biết có biến, sai người hầu đóng hết các cửa điện và sai các vệ sĩ trong cung phòng giữ. Thấy Phật Mã không nỡ xuống tay, nội thị là Lý Nhân Nghĩa xin đánh một trận để quyết được thua, theo gương Đường Thái Tông và Chu Công Đán.

Quân của ba vương đánh đến rất gấp, Thái tử bèn sai vệ sĩ trong cung mở cửa ra đánh. Lê Phụng Hiểu sức khỏe hơn người, một mình vượt hơn trăm quân lính, ra trước cửa Quảng Phúc xông thẳng đến chỗ ngựa của Vũ Đức Vương. Vương quay ngựa tránh, ngựa quỵ xuống, bị Phụng Hiểu bắt giết. Phủ binh của ba vương thua chạy. Quan quân đuổi theo chém giết hết, chỉ có hai vương Đông Chinh và Dực Thánh chạy thoát được.

Thái tử Phật Mã lên ngôi, tức là Lý Thái Tông, đổi niên hiệu là Thiên Thành. Hai vương chạy thoát sau đó được tha tội. Cũng vì biến loạn này, để ngăn ngừa về sau, Lý Thái Tông đặt ra Hội thề thần Đồng Cổ, là một buổi lễ thề rất quan trọng suốt triều đại nhà Lý. Ông xuống chiếu giao cho Hữu ty dựng miếu ở bên phải thành Đại La sau chùa Thánh Thọ, lấy ngày 25 tháng ấy, đắp đàn ở trong miếu, cắm cờ xí, chỉnh đốn đội ngũ, treo gươm giáo ở trước thần vị, đọc lời thề rằng: “Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, xin thần minh giết chết”. Các quan từ cửa Đông đi vào, đến trước thần vị cùng uống máu ăn thề, hàng năm lấy làm lệ thường. Sau vì tháng Ba có ngày quốc kỵ, chuyển sang mồng 4 tháng Tư. Nếu không có mặt trong buổi lễ, người bị tội sẽ bị đánh 50 trượng.

Việc thái tử Phật Mã dẹp được loạn, giữ được ngôi khiến chính trị nhà Lý từ đó được duy trì ổn định trong thời gian dài, chấm dứt tình trạng biến loạn gây hậu quả nặng nề sau khi vua khai quốc qua đời đã xảy ra với các triều đại trước như Ngô (Dương Tam Kha đoạt ngôi), Đinh (trung thần nhà Đinh chống Lê Hoàn dẫn tới nhà Đinh mất), Tiền Lê (các hoàng tử tranh ngôi).

 

Cha của Lý Công Uẩn là ai?

Sách Đại Việt sử lược và Đại Việt sử ký toàn thư đều chép Lý Công Uẩn người ở Cổ Pháp, Bắc Giang (nay thuộc huyện Từ Sơn, Bắc Ninh), mẹ họ Phạm.  Lúc 3 tuổi, bà mẹ Lý Công Uẩn ẵm ông đến nhà sư Lý Khánh Văn, Khánh Văn bèn nhận làm con nuôi, từ nhỏ đã thông minh, vẻ người tuấn tú khác thường.

Dù rằng tên cha của Lý Công Uẩn không được chép rõ, nhưng là mẹ, bà Phạm thị tất phải biết rõ cha của con mình là ai, nhưng tại sao cho đến sau này khi Lý Công Uẩn đã lên ngôi vua cũng không thể tiết lộ danh tánh của cha ruột mình. Tất nhiên sự bộc lộ thân phận của nhân vật đó có điều bất tiện. Vậy nhân vật đó là ai? Tại sao lại không thể công khai thân phận ngay từ lúc Công Uẩn còn trong tuổi ấu thơ, trưởng thành trong chùa, đến lúc ra làm quan cho triều Lê, và cho đến lúc lên được ngôi vua?

Theo sách Việt sử tiêu án: Mẹ Lý Công Uẩn năm 20 tuổi nghèo hèn không có chồng, nương tựa người lão Sa môn ở chùa Ứng Thiên, làm việc thổi nấu, khi lửa tắt và bà đương ngủ lơ mơ, lão Sa môn ngẫu nhiên chạm phải, giật mình trở dậy rồi có thai mà sinh ra. Về sau Lý Thái Tổ nương nhờ cửa Phật, Khánh Vân nuôi lớn, Vạn Hạnh dạy dỗ. 

Ai cũng hiểu đây chỉ là một truyền thuyết cố gắng giải thích và thần thánh hóa thân phận của một vì vua không cha. Nhưng vô tình nó lại nói lên thân phận của Lý Công Uẩn có dính líu tới các nhân vật trong chùa. Vậy tác giả của cái “long thai” ấy là ai? Nhân vật nào là thủ phạm đáng nghi nhất? 

Nếu tập trung ở những nhân vật trong chùa thì có hai người đáng chú ý nhất là nhà sư Lý Khánh Văn và sư Vạn Hạnh, trong đó sư Vạn Hạnh là có khả năng cao hơn, vì rằng sư Vạn Hạnh có cuộc sống phóng khoáng như một triết gia, nửa tu nửa tục.

Sư Vạn Hạnh quê cũng ở Cổ Pháp, từ thuở nhỏ đã thông minh, học thông Nho, Lão, Phật và nghiên cứu hàng trăm bộ luận Phật giáo. Năm 21 tuổi ông xuất gia, tu học với bạn là thiền sư Ðịnh Tuệ dưới sự chỉ dẫn của thiền sư Thiền Ông tại chùa Lục Tổ. Sau khi Thiền Ông mất, ông bắt đầu chuyên thực tập Tổng Trì Tam Ma Ðịa, nên sau này hễ ông nói lời gì đều được thiên hạ cho là phù sấm. Vua Lê Đại Hành rất tôn kính ông và thường hay hỏi ý kiến ông trong chính sách đối ngoại với Tống và Chiêm Thành. 

Theo “Ngọc phả các vua triều Lê” ở các di tích cố đô Hoa Lư – Ninh Bình, Lý Công Uẩn hàng năm theo thiền sư Vạn Hạnh vào hầu vua Lê Hoàn ở thành Hoa Lư, Công Uẩn được vua yêu, cho ở lại kinh thành học tập quân sự. Lê Hoàn lại gả con gái cả là công chúa Lê Thị Phất Ngân, sinh ra Lý Phật Mã và đặc phong cho Công Uẩn làm Điện tiền cận vệ ở thành Hoa Lư. Dần dần, Công Uẩn thăng lên chức Điện tiền chỉ huy sứ. Chức ấy chỉ dành cho hoàng tộc hoặc quốc thích mới được trao. Chính nhờ vậy mà về sau, Lý Công Uẩn đã đem ngôi vua về cho họ Lý.

Trong cuộc vận động Lý Công Uẩn lên ngôi, sư Vạn Hạnh đã tác động dư luận quần chúng bằng sấm truyền rất hữu hiệu. Sách Thuyền Uyển Tập Anh nói những loại sấm truyền và tiên tri ông dùng có rất nhiều thứ không kể hết được

Thời vua Lê Long Đĩnh còn tại vị, ở hương Diên Uẩn, châu Cổ Pháp, có cây gạo bị sét đánh, có chữ trên ấy. Vị sư Vạn Hạnh mới bảo Lý Công Uẩn rằng: Mới rồi tôi thấy chữ bùa sấm kỳ lạ, biết họ Lý cường thịnh, tất dấy lên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều, nhưng không ai bằng Thân vệ là người khoan thứ nhân từ được lòng dân, lại đang nắm binh giữ quyền trong tay, đứng đầu muôn dân chẳng phải Thân vệ thì còn ai đương nổi nữa. Tôi đã hơn 70 tuổi rồi, mong được thư thả hãy chết, để xem đức hóa của ông như thế nào, thực là cái may nghìn năm có một. Lý Công Uẩn sợ câu nói ấy tiết lộ, bảo người đem Vạn Hạnh giấu ở Tiêu Sơn.

Nghiên cứu lời sấm trên, có thể đoán rằng, tác giả của lời sấm này chính là sư Vạn Hạnh. Nếu không phải thân thích với Công Uẩn, sao ông lại bỏ công dạy dỗ từ thuở nhỏ, đã dùng uy tín của mình với vua Lê để cất nhắc Công Uẩn trở thành tâm huyết của nhà vua, và dụng tâm lương khổ giúp Công Uẩn lên ngôi. Giả thuyết bất tiện ban đầu có phải là cha của vua là một vị sư chăng? Vì vậy Công Uẩn không tiện bộc lộ quan hệ máu huyết với cha mình ngay từ thuở nhỏ. Có thể ngày xưa chính sư Vạn Hạnh  là người bảo Phạm thị, đem Công Uẩn đến em ông là nhà sư Lý Khánh Văn nhờ nuôi nấng nên người. Sư Vạn Hạnh có lẽ là một Lã Bất Vi, theo sử Trung Quốc, đã tạo ra được một Tần Thủy Hoàng. Một bằng chứng nữa là khi sư Vạn Hạnh qua đời, nhà vua đã kéo hết cả triều đình đến chiêm bái.

 

THỜI KỲ THỊNH TRỊ

Ngay từ thời Lý Thái Tổ đến các vị hoàng đế tiếp theo là Thái Tông và Thánh Tông, nhà Lý tập trung giải quyết những vấn đề lớn sau:

Củng cố nội trị: Phát triển kinh tế, đặc biệt là nông nghiệp; ban hành Hình thư, hệ thống pháp luật đầu tiên từ khi giành độc lập sau thời Bắc thuộc; xác lập hệ thống giáo dục khoa cử có hệ thống.

Củng cố cương vực cai trị, vươn rộng quyền lực đến những vùng xa. Nhà Lý dùng chính sách hôn nhân, gả công chúa cho các tù trưởng địa phương để thắt chặt mối quan hệ. Với những nơi không thần phục, vua cử các hoàng tử hoặc thân chinh đi đánh dẹp. 

Bảo vệ biên giới các phía: giải quyết những xung đột nhỏ xảy ra vùng biên với nhà Tống, và thường có liên quan tới các tù trưởng địa phương; đánh lui những cuộc tấn công cướp phá của Nam ChiếuChiêm Thành.

Một sự kiện lớn trong những năm thịnh trị thời nhà Lý là việc đổi quốc hiệu từ Đại Cồ Việt sang Đại Việt vào năm 1054, mở ra kỷ nguyên Đại Việt trong lịch sử Việt Nam.

Năm 1070, Thánh Tông cho xây dựng Văn miếu, đắp tượng thờ Khổng TửChu CôngTứ phối, vẽ tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cũng tế, để mở mang Nho học. Ông là vị vua đầu tiên khởi xướng Nho giáo vào việc cai trị của các Hoàng đế Đại Việt sau này.

Ba vị hoàng đế đầu tiên triều Lý đều lên ngôi ở tuổi trưởng thành và qua đời ở độ tuổi 55, có tư tưởng và thực thi chính sách kế tục nhau khá nhất quán. Các ngài đều ở ngôi trong thời gian tương đối dài, sau Loạn tam vương không còn tranh chấp nội bộ, vì vậy chính quyền nhà Lý ngày càng được củng cố.

Từ sau đời Lý Thánh Tông, nhà Lý bắt đầu đối mặt với vấn đề nhân sự. Thánh Tông muộn con, khi ông mất thái tử Lý Càn Đức mới bảy tuổi lên nối ngôi, tức là Lý Nhân Tông. Dương hoàng hậu được thái sư Lý Đạo Thành lập làm Hoàng thái hậu và có quyền nhiếp chính. Việc này gọi là Thùy liêm thính chính (rủ mành nghe việc nước), các Thái hậu sẽ thượng triều, ngồi sau long tọa đã được buông 1 tấm rèm the và quyết định thay vua.

Ỷ Lan phu nhân – mẹ đẻ của Nhân Tông, được tôn làm Hoàng thái phi. Thái phi do nghĩ mình là mẹ đẻ mà không được can dự triều đình nên rất buồn bực, hằng ngày bà than thở với Nhân Tông khiến vị vua cũng dần nhận ra và quyết định phế truất Dương thái hậu và bắt giam bà cùng 72 cung nhân khác của Thánh Tông, đến khi linh cữu Thánh Tông được hạ huyệt thì Thái hậu và các cung nhân đó đều bị chôn sống theo. Lý Đạo Thành, do ủng hộ Dương thái hậu nên bị Ỷ Lan thái phi điều ra trấn thủ Nghệ An.

Sau khi Dương thái hậu bị phế truất, Ỷ Lan thái phi được tôn làm Hoàng thái hậu, buông rèm nghe chính sự. Bên dưới mọi việc do Thái úy Lý Thường Kiệt, một trọng thần thời Thánh Tông đảm nhiệm.

Nhà Lý vượt qua thử thách lớn nhất từ khi hình thành và tiếp tục thịnh trị. Sau khi đánh bại được quân Tống, Nhân Tông bắt tay vào việc cai trị, mở khoa thi đầu tiên và chọn ra 10 người thi đỗ, nổi tiếng nhất là Lê Văn Thịnh. Ông còn củng cố nông nghiệp, cấm nạn giết trâu và xử phạt rất nặng. Quốc gia yên bình, Nhân Tông chuyên tâm theo Phật giáo, mở nhiều cuộc vui như đua thuyền, múa rối,… Đại Việt luôn có hội hè, trở nên cực kỳ phồn vinh và phát triển.

 

Phạt Tống bình Chiêm

Phạt Tống

Nhà Tống muốn nhân lúc vua Lý còn nhỏ, Thái hậu nhiếp chính mang quân đánh chiếm. Thái úy Lý Thường Kiệt vốn có xích mích với Lý Đạo Thành, đã mạnh dạn xóa tan hiềm khích, mời Lý Đạo Thành về triều để bàn đối sách chống quân Tống.

Năm 1075, ngay khi nhà Tống đang tập kết lực lượng ở Ung châu chuẩn bị tiến sang, Lý Thường Kiệt chủ động mang thủy quân, kết hợp quân trên bộ của Nùng Tôn Đản đánh sang đất Tống trước. Sang đầu năm 1076, quân Lý hạ thành Ung châu.

Năm 1076, nhà Tống cử Quách Quỳ, một viên tướng dày dặn trận mạc cùng Triệu Tiết đem đại binh sang xâm lược Đại Việt. Thế quân nhà Tống rất mạnh, quân đội nhà Lý dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt đã chống trả hết sức quyết liệt. Ông đã cử Lý Kế Nguyên đánh bại đội quân thủy của quân Tống sang kết hợp với quân đánh bộ của Quách Quỳ. Cuối cùng, Lý Thường Kiệt đánh bại được đội quân nhà Tống tại trận tuyến trên sông Như Nguyệt. Năm 1077, Quách Quỳ chấp nhận cho Đại Việt giảng hòa và rút quân trở về.

Cảm khái trong chiến thắng, Lý Thường Kiệt ngâm bài Nam quốc sơn hà Nam đế cư:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Có nhiều tài liệu cho rằng, bài thơ này là do Lý Thường Kiệt sáng tác. Nhưng các nhà nghiên cứu gần đây thống nhất quan điểm Nam quốc sơn hà là bài thơ xuất hiện dưới thời Lê Đại Hành và tiếp tục được Lý Thường Kiệt vận dụng sau này.

Bình Chiêm

Sau khi người Chăm rời bỏ kinh đô Indrapura (Quảng Nam), mâu thuẫn giữa Chiêm Thành và Đại Việt vẫn không chấm dứt.

Năm 1020, vua Lý Thái Tổ sai Khai Thiên Vương Lý Phật Mã và Đào Thạc Phụ đem quân đi chinh phạt Chiêm Thành ở trại Bố Chính (nay thuộc các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình), thẳng đến núi Long Tỵ (nay thuộc Quảng Trạch, Quảng Bình), chém được tướng của Chiêm Thành là Bố Linh tại trận, quân Chiêm chết đến quá nửa.

Năm 1044, với lý do “Tiên đế mất đi, đến nay đã 16 năm rồi, mà Chiêm Thành chưa từng sai một sứ giả nào sang”, vua Lý Thái Tông thân chinh đi chinh phạt ra oai với Chiêm Thành. Binh lính chưa chạm mà quân Chiêm đã tan vỡ, quan quân đuổi chém được 3 vạn thủ cấp. Tướng Quách Gia Di chém được đầu vua Chiêm là Sạ Đẩu tại trận. Đoạt được hơn 30 voi thuần, bắt sống hơn 5 nghìn quân Chiêm, số còn thì bị giết chết, xác chất đầy đồng. 

Vua tỏ ý cảm khái , xuống lệnh rằng: “Kẻ nào giết bậy người Chiêm Thành thì sẽ giết không tha”. Sau đó vua Lý Thái Tông đem quân vào thành Phật Thệ bắt vợ cả, vợ lẽ của Sạ Đẩu và các cung nữ giỏi hát múa đem về nước. Khi đến hành điện Ly Nhân (nay là huyện Ly Nhân, Nam Hà), vua sai nội nhân thị nữ gọi Mỵ Ê là phi của Sạ Đẩu sang hầu thuyền vua. Mỵ Ê phẫn uất lấy chăn quấn vào mình nhảy xuống sông chết. Vua khen là trinh tiết, phong là Hiệp Chính Hựu Thiện phu nhân.

Năm 1068, Chiêm Thành quấy nhiễu biên giới Đại Việt. Năm 1069, Vua Lý Thánh Tông thân chinh đánh Chiêm Thành, tướng Lý Thường Kiệt chỉ huy hải quân tấn công đốt phá kinh đô Vijaya (Bình Định). Vua Rudravarman (Chế Củ) bị bắt làm tù binh và sau đó phải đổi ba châu Địa LýMa Linh và Bố Chính (3 châu này thuộc vùng Quảng Bình, Quảng Trị ngày nay) để lấy tự do.

 

THỜI KỲ SUY VONG

Nhân Tông là vị Hoàng đế trị vì lâu dài nhất trong lịch sử Việt Nam, tuy nhiên ông không có con. Vì vậy, ông chọn trong các con em hoàng tộc một người để kế vị và chọn được Lý Dương Hoán, là con của người em Sùng Hiền Hầu, tức là cháu gọi ông bằng bác. Năm 1128, Lý Nhân Tông qua đời, hưởng thọ 63 tuổi, Dương Hoán lúc đó mới 11 tuổi lên nối ngôi, tức là Lý Thần Tông. 

Từ Nhân Tông trở đi, trong bốn đời vua liên tiếp, người kế vị của nhà Lý đều nhỏ tuổi. Tuy việc cai trị bên ngoài chưa có nhiều ảnh hưởng trong thời kỳ đầu nhưng trong cung đình đã chịu ảnh hưởng trực tiếp vì sự tranh chấp quyền lực của những người tham gia nhiếp chính.

Thời Lý Thần Tông, các đại thần giúp vua gồm Thái sư Lê Bá Ngọc, Thái phó Dương Anh Nhĩ, Thái úy Lý Công Bình, Gián nghị đại phu Mâu Du Đô, Điện tiền chỉ huy sứ Lý Sơn,… đều là những người có năng lực, được Nhân Tông tin tưởng giao trọng trách nên thời đại Thần Tông cai trị, nước Đại Việt vẫn giữ được ổn định.

Năm 1138, Lý Thần Tông qua đời khi mới 23 tuổi, trị vì được 10 năm. Trước đây Thần Tông đã lập con trưởng là Lý Thiên Lộc làm Thái tử. Nhưng Cảm Thánh phu nhân cùng Phụng Thánh phu nhân, Nhật Phụng phu nhân đã dùng tiền hối lộ hoạn quan Từ Văn Thông mà cho vào gặp Thần Tông, xui vua bỏ thái tử Thiên Lộc. Thần Tông nghe theo, bèn lập con nhỏ là Thiên Tộ làm Hoàng thái tử, giáng Thiên Lộc xuống làm Minh Đạo vương. Lý Thiên Tộ khi đó mới ba tuổi lên ngôi, tức là Lý Anh Tông.

Cảm Thánh phu nhân Lê thị trở thành Hoàng thái hậu. Bà trọng dụng tình nhân Đỗ Anh Vũ – người em ruột của Đỗ thái hậu và là cháu gọi Lý Thường Kiệt bằng cậu – cho làm nhiếp chính. Việc đó khiến nhiều đại thần, gồm Điện tiền chỉ huy sứ Vũ Đái, Phò mã Dương Tự Minh cùng một số thân vương nhà Lý bất bình và làm binh biến bắt Anh Vũ, nhưng không quyết đoán giết ông. Vì vậy Anh Vũ chỉ bị đày làm Cảo điền nhi – cày ruộng. 

Không lâu sau, Thái hậu cố nghĩ làm thế nào để phục hồi chức nhiệm cho Anh Vũ, mới nhiều lần mở hội lớn để xá cho tội nhân. Anh Vũ được mấy lần xá tội, lại làm Thái úy phụ chính như cũ, càng được yêu dùng hơn. Đỗ Anh Vũ tìm cách trả thù. Anh Tông còn nhỏ, chuẩn tâu theo Anh Vũ, do đó những người tham gia binh biến đều bị giết hoặc đi đày.

Năm 1158, Đỗ Anh Vũ qua đời. Tô Hiến Thành, được thăng làm Thái úy. Hiến Thành giỏi việc dụng binh, lại là người chính trực, chuyên tâm tuyển chọn quân lính, biên giới nhiều lần bình định Chiêm Thành , Ai Lao.

Năm 1174, nhà Lý lại xảy ra việc thay ngôi thái tử. Thái tử là Lý Long Xưởng gian dâm với cung phi, làm chuyện thất đức nên bị phế truất làm Bảo Quốc vương. Anh Tông lập người con trai nhỏ là Lý Long Cán, con của một cung phi là cháu gái Đỗ Anh Vũ, làm Hoàng thái tử. Tô Hiến Thành làm Nhập nội kiểm hiệu thái phó bình chương quốc trọng sự, tước Vương, được giao phụ chính giúp người kế vị.

Năm 1175, Anh Tông qua đời khi mới 40 tuổi, trị vì được 36 năm. Thái tử còn nhỏ tuổi lên ngôi, sử gọi là Lý Cao Tông. Từ đây nhà Lý bắt đầu con đường suy vong.

 

Thời kỳ suy vong

Lý Cao Tông lên ngôi khi mới ba tuổi, mẹ là Đỗ phu nhân trở thành Chiêu Thiên Chí Lý hoàng thái hậu, Tô Hiến Thành được giao cho việc kèm cặp phụ chính.

Khi Cao Tông mới lên sáu tuổi thì Thái úy Tô Hiến Thành qua đời. Lý Cao Tông trưởng thành chỉ thích chơi bời, cho mua bán chức tước, khiến xã hội bất ổn, bọn bất tài cứ có nhiều tiền là làm quan gây phiền nhiễu cho dân chúng. Nhiều thủ lĩnh địa phương nhân lúc triều đình trung ương suy yếu cũng ngầm xây dựng lực lượng nổi dậy.

 

Loạn Quách Bốc 

Có lần lực lượng nổi loạn của Quách Bốc đánh vào kinh thành. Hoàng tử Lý Hạo Sảm (hay còn gọi là hoàng tử Sảm) phải chạy về Hải Ấp, được Trần Lý cùng Phạm Ngu là một học giả người vùng Diêu Hào lập làm minh chủ. Hạo Sảm được sắp xếp kết hôn với con gái của Trần Lý là Trần Thị Dung, và ban chức cho những người trong phe họ Trần như Trần Lý, Phạm Ngu và Tô Trung Từ (cậu của Trần Thị Dung).

Cao Tông nghe tin Thái tử Sảm tự ý lập triều đình riêng ở Hải Ấp, cho là chống lại mình nên cử Phạm Du đang huấn luyện binh sĩ ở vùng Hồng mà đi đánh. Nhưng Phạm Du mải tư thông với Thiên Cực công chúa, nên đến trễ, bị thuộc hạ của Thái tử Sảm (thực chất là thuộc hạ họ Trần) mai phục và bắt giết. Sau đó, Trần Lý và em vợ là Tô Trung Từ đứng đầu cầm quân đánh đến kinh sư, đánh bại Quách Bốc và đồng đảng, dẹp tan loạn Quách Bốc.

Đây là khởi điểm của họ Trần tham gia vào chính quyền nhà Lý và sau này có cơ hội để nhà Trần thoán ngôi nhà Lý.

 

Bất lực trong đại loạn

Cao Tông được rước về kinh thành Thăng Long. Không lâu sau, năm 1210, Cao Tông qua đời lúc 38 tuổi. Thái tử Sảm lên ngôi, tức Lý Huệ Tông, lúc ấy mới 16 tuổi. Lúc bấy giờ triều đình nhà Lý trải qua một thời kỳ đại loạn, cuối cùng nhờ công của con cháu của Trần Lý mà giang sơn lại được thống nhất. Nhưng sau các biến cố đó, thế lực họ Trần đã trở nên rất mạnh và chuẩn bị thay ngôi họ Lý.

 

Họ Trần nắm quyền

Cuối năm đó, mùa Đông, Thuận Trinh phu nhân (Trần Thị Dung) được sắc phong làm Hoàng hậu. Huệ Tông phong chức cho một loạt người họ Trần: Tự Khánh làm Thái uý phụ chính, anh trai Tự Khánh là Trần Thừa làm Nội thị phán thủ, tước Liệt hầu, Phùng Tá Chu làm Quan nội hầu; con trưởng của Trần Thừa là Trần Liễu làm Quan nội hầu, con trưởng của Thái úy Tự Khánh là Trần Hải làm Hiển Đạo vương. 

Lúc này, Huệ Tông thường phát điên, tự xưng là Thiên tướng, cắm cờ ở búi tóc, cầm giáo và khiên múa may, đến khi mệt thì uống rượu ngủ li bì. Chính sự không quyết đoán, giao phó cả cho Trần Tự Khánh. Quyền lớn trong nước dần dần về tay họ Trần.

Năm 1233, Thái úy Trần Tự Khánh qua đời, Huệ Tông phong Trần Thừa làm Phụ quốc Thái uý, cho đặc quyền khi vào chầu không xưng tên. 

 

Chiêu Hoàng nhường ngôi

Năm 1224, bệnh của Huệ Tông ngày càng tăng mà không có con trai để nối nghiệp lớn, các công chúa đều được chia các lộ làm ấp thang mộc, uỷ nhiệm cho một mình chỉ huy sứ Trần Thủ Độ quản lĩnh các quân điện tiền hộ vệ cấm đình. Con gái thứ 2 là công chúa Chiêu Thánh được lập làm Hoàng thái nữ, rồi làm Hoàng đế lúc đó được 10 tuổi, sử gọi là hoàng đế Lý Chiêu Hoàng. Huệ Tông truyền ngôi xong trở thành Thái thượng hoàng, rồi xuất gia ở chùa Chân Giáo. 

Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ coi giữ mọi việc quân sự trong ngoài thành thị. Trần Cảnh (mới 10 tuổi), con trai thứ của Trần Thừa được phong làm Chính thủ, cho hầu hạ gần gũi với Chiêu Hoàng, được Chiêu Hoàng yêu mến. 

Dưới sự sắp đặt của Trần Thủ Độ, Chiêu Hoàng lấy Trần Cảnh làm chồng, rồi đến tháng 12 âm lịch năm 1225 (đầu năm 1226), ngày mồng một Mậu Dần, Chiêu Hoàng mở hội lớn ở diện Thiên An, trút bỏ áo ngự mời Trần Cảnh lên ngôi Hoàng đế. Cha Trần Cảnh là Trần Thừa được tôn làm Thái thượng hoàng.

Ngôi nhà Lý chính thức chuyển sang nhà Trần. Nhà Lý kéo dài 216 năm với 9 đời vua. Không lâu sau, thượng hoàng Huệ Tông bị Trần Thủ Độ bức tự sát ở chùa Chân giáo.

 

Nhổ cỏ tận gốc

Sau khi Trần Thái Tông lên ngôi, nhà Trần phế Thượng hoàng nhà Lý ra ở chùa Chân Giáo, gọi là Huệ Quang đại sư. Trước đây, thượng hoàng ra chơi ở chợ Đông, dân chúng tranh nhau tới xem, có người than khóc. Thủ Độ sợ lòng người nhớ vua cũ, sinh biến loạn, nên mới dời vua tới chùa Chân Giáo, nói để phụng nhưng thực ra để dễ bề giữ chặt. Có lần Thượng hoàng nhổ cỏ ở sân chùa, Thủ Độ đến chơi liền nói:”Nhổ cỏ thì phải nhổ cả rễ sâu.” Thượng hoàng nói:”Điều ngươi nói ta hiểu rồi.” Đến tháng 8, Thủ Độ sai người đưa hương hoa đến cho thượng hoàng Huệ Tông, nói: “Thượng phụ sai thần đến mời.” Thượng hoàng nhà Lý nói: “Ta tụng kinh xong sẽ tự tử.” Nói rồi vào buồng ngủ khấn rằng: “Thiên hạ nhà ta đã vào tay ngươi, ngươi lại còn giết ta, ngày nay ta chết, đến khi thác con cháu ngươi cũng sẽ bị như thế.” Bèn thắt cổ tự tử ở vườn sau chùa.

Thủ Độ ra lệnh cho các quan đến khóc, khoét tường thành phía nam cửa, đưa linh cữu ra phường Yên Hoa để thiêu, chứa xương vào tháp chùa Bảo Quang, tôn miếu hiệu là Huệ Tông. Giáng hoàng hậu của Huệ Tông tức Trần Thị Dung, làm Thiên Cực công chúa, gả cho Trần Thủ Độ, cho châu Lạng làm ấp thang mộc.

Năm 1232, nhân lúc tông thất nhà Lý về quê ngoại ở làng Hoa Lâm (nay là xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội) làm lễ cúng tổ tiên, Thủ Độ đào ngầm hố sâu, làm nhà bên trên, đợi khi mọi người uống rượu say, giật máy chôn sống hết.

Sau này Trần Thủ Độ còn ra lệnh bắt những người sống sót phải đổi sang họ Nguyễn và một số họ khác để trừ tuyệt hậu họa. Những người họ Lý sau này là những người Hoa Hạ di dân từ Trung Quốc đến Việt Nam sau thời kỳ nhà Lý.

 

Lãnh thổ Việt Nam dưới thời nhà Lý

Địa giới phía bắc nước Đại Việt thời Lý ban đầu bao gồm một phần nhỏ của tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), vùng bắc Bộ Việt Nam hiện nay và vùng Thanh-Nghệ-Tỉnh. 

Năm 1069, dưới thời vua Lý Thánh Tông  biên giới đã mở rộng về phía nam đến tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị hiện nay. Cương vực này được duy trì ổn định tới khi triều Lý kết thúc.

 

Mời nhấp chuột đọc thêm:

- Cuộc chiến tranh Biên giới 1979l

- Không được quên tội ác của bá quyền Trung Quốcl

- Trận chiến cầu Khánh Khê và giờ học lịch sửl

- Vị Xuyên ơi! Nỗi đau không quên!l

- Bàn thêm về nước Nam Việt của Triệu Đà và lịch sử nước Việt Naml

- Gạc Ma - Nỗi đau không được quênl

- Vai trò của Mao Trạch Đông trong chiến dịch tiến chiếm Hoàng Sa năm 1974l

- Cuộc chiến chống quân Trung Quốc xâm lược: Hoàng Sa năm 1974l

- Vạch trần dã tâm thâm đọc của Trung Quốc nhằm độc chiếm biển Đôngl

- Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năml

- Đại nạn Trung Hoa thời Cổ sửl

- Đại nạn Trung Hoa thời Trung sửl

- Đại nạn Trung Hoa thời Cận đạil

- Những tấm bản đồ do Trung Quốc và Nhật Bản phát hành không ăn cướp Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Naml

 

NGƯỜI VIỆT NAM LẬP LÀNG Ở QUẢNG TÂY, TRUNG QUỐC:

*.

LÝ THÀNH PHƯƠNG

Quê quán: Núi Sập, Thoại Sơn, tỉnh An Giang.

Định cư: thành phố San Diego, California, Hoa Kỳ.

 

 

 

 

 

…………………………………………………………………………

- Cập nhật từ email tranchicuong27@gmail.com gửi ngày 13.06.2025.

- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.

- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.

- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.

0 comments:

Đăng nhận xét