NGÔ ĐÌNH NHU VÀ CÔNG LAO ĐẶC BIỆT
ĐỐI VỚI SỰ SỐNG CÒN CỦA
CHÂU BẢN TRIỀU NGUYỄN
Tạp chí Xưa và Nay, số 444 tháng 2 năm 2014
Ông Ngô Đình Nhu sinh ngày 7-10-1910 tại xã Phước Qua, tổng
Cự Chánh, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên trong một gia đình quan lại theo
đạo Thiên Chúa. Là con trai của Ngô Đình Khả, Thượng thư Bộ Lễ dưới triều vua
Thành Thái,sau những năm tháng học tập dưới sự dạy dỗ của cha và hội giáo ở
Huế, Ngô Đình Nhu sang Paris theo học tại các trường Đại học Văn khoa và Ngôn
ngữ phương Đông.
Ông thi đỗ vào trường Cổ tự học Quốc gia vào năm 1935 và tốt
nghiệp năm 1938 với luận văn về lịch sử Việt Nam lần đầu tiên được bảo vệ tại
Pháp có nhan đề Phong tục và tập quán của người Bắc Kỳ từ thế kỷ thứ 17 đến thế
kỷ thứ 18 theo các du khách và các nhà truyền giáo (Moeurs et coutumes des
Tonkinois aux XVIlè et XVIIlè siecles d’apres les voyageurs et missionaires).
Luận văn của Ngô Đình Nhu đã gây được sự chú ý của Bộ trưởng Bộ
giáo dục Quốc gia Pháp và vì thế, ông đã được nhận giải thưởng xuất sắc.
Trở về Việt Nam với hai bằng Lưu trữ - Cổ tự và Cử nhân khoa học,
Ngô Đình Nhu được bổ nhiệm Lưu trữ viên – Cổ tự tại Sở Lưu trữ và Thư viện Đông
Dương ở Hà Nội. Ngay trong năm làm việc đầu tiên với chức danh Quản thủ viên
phó hạng 3 (tháng 12-1938), Ngô Đình Nhu đã được Giám đốc Paul Boudet đánh giá
là một “Lưu trữ viên – Cổ tự trẻ đầy triển vọng”.
Chỉ trong một thời gian ngắn làm việc ở Hà Nội (từ tháng 12-1938
đến giữa năm 1942), Ngô Đình Nhu đã chứng tỏ năng lực của mình trong việc cộng
tác với Paul Boudet và Remi Bourgeois( Phó Giám đốc) biên soạn và xuất bản các
tập 2,3 và 4 của bộ Đông Dương pháp chế toàn tập (Recueil général de
Législation et de la Règlementation de l’Indochine). Ngoài ra, Ngô Đình Nhu còn
được Paul Boudet giao trách nhiệm chính trong việc chuẩn bị tài liệu để tham
gia các cuộc triển lãm được tổ chức tại Hà Nội và tại Huế.
Không chỉ được nhận xét là “một công chức trẻ có giá trị nhất, hội
tụ những đức tính kiên quyết và thẳng thắn, có văn hóa rộng và một khả năng
nghề nghiệp hoàn hảo”, Ngô Đình Nhu còn được đánh giá là “bằng chứng của một học
thuyết uyên bác, một sự hoạt động không mệt mỏi” và ông đã trở thành “một cộng
sự quý báu” của Paul Boudet.
Niềm đam mê trong công tác chuyên môn, năng lực làm việc và sự
cộng tác có hiệu quả của Ngô Đình Nhu đã làm sống lại trong Paul Boudet niềm
tin vào kế hoạch sắp xếp lại tài liệu các vương triều phong kiến Việt Nam mà
Paul Boudet đã từng theo đuổi ngay từ những ngày đầu tiên khi đặt chân đến Đông
Dương.
Cũng là một Lưu trữ viên – Cổ tự tốt nghiệp tại trường Cổ tự học
Quốc gia Paris như Ngô Đình Nhu, Paul Boudet rất coi trọng các nguồn sử liệu và
biện pháp quản chúng. Năm 1906, lần đầu tiên tận mắt nhìn thấy Tổng đốc và các
viên chức bản xứ ở các tỉnh miền Trung “ đem tài liệu lưu trữ, trong đó có cả
tài liệu của những năm Minh Mệnh thứ nhất ra phơi nắng to để chống ẩm và đuổi
côn trùng”, Paul Boudet đã đặc biệt quan tâm đến nguồn tài liệu vô cùng quý giá
đang ở trong tình trạng không được bảo quản theo đúng phương pháp khoa học.
Ngay từ thời gian đó, Paul Boudet đã muốn tiếp cận và áp dụng phương pháp phân
loại của phương Tây với nguồn tài liệu này, nhằm làm cho chúng được khai thác,
nghiên cứu và được sử dụng một cách có ích nhất.
Sau nhiều năm cố gắng mà không có kết quả, mãi cho đến năm 1942,
trải qua gần 5 năm cộng tác và chứng kiến khả năng đích thực của Ngô Đình Nhu,
Paul Boudet một lần nữa lại quyết tâm thực hiện mục đích của mình. Tháng 9 –
1942, mặc dù “đầy nuối tiếc” nhưng Paul Boudet vẫn phải gửi Ngô Đinh Nhu vào
Huế để thành lập một tổ chức Lưu trữ và Thư viện ở Huế và tổ chức lại tài liệu
của chính phủ Nam triều vì Paul Boudet cho rằng đây là “một sự nghiệp cần thiết
và hiển hách”.
Tuy chính thức trở về Huế vào tháng 9–1942 nhưng trên thực tế,
ngay từ tháng 2-1942, Ngô Đình Nhu đã thống nhất với ông Trần Văn Lý, Đổng lý
Ngự tiền văn phòng của triều đình một kế hoạch nhằm cứu châu bản đang được cất
giữ ở Nội các ra khỏi tình trạng bị hư hỏng nặng do không có người chăm sóc.
Bản tấu của ông Trần Văn Lý xin đưa ra tất cả tài liệu trong Nội các ra Viện
Văn hóa để có nhân viên chuyên trách trông nom, và xin đề nghị tổ chức một Hội
đồng để chỉnh đốn đã được vua Bảo Đại chuẩn y. Hội đồng này do Ngô Đình Nhu làm
Chủ tịch, làm việc theo một phương pháp thống nhất: kiểm tra châu bản, chia ra
từng loại, sắp xếp theo thứ tự thời gian rồi đóng thành từng tập có tiêu đề rõ
ràng.
Trở thành Quản thủ viên của cơ quan Lưu trữ và Thư viện Trung Kỳ ở
Huế từ ngày 1-1-1943, Ngô Đình Nhu bắt đầu sự nghiệp mới của mình với không ít
khó khăn. Chính trong thời gian thử thách với hai nhiệm vụ nặng nề này, Ngô
Đinh Nhu lại một lần nữa chứng tỏ bản lĩnh của “một người có học thức, một công
chức đặc biệt” với phong cách làm việc “đầy nghị lực, đầy năng động”.
Ngày 29-3-1943, Nghị định tổ chức lại cơ quan Lưu trữ và Thư viện
của chính phủ Bảo hộ và chính phủ Nam triều do Paul Boudet chuẩn bị đã được
Toàn quyền Đông Dương ký ban hành. Nghị định quy định: Lưu trữ và Thư viện của
chính phủ An Nam được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp về mặt hành chính của Bộ
Quốc gia Giáo dục và dưới sự kiểm soát về mặt kỹ thuật của Quản thủ viên Lưu
trữ và Thư viện, người được giao nhiệm vụ “làm cố vấn cho chính phủ nhà vua
trong mọi lĩnh vực có liên quan đến tài liệu lưu trữ và thư viện”. Nhiệm vụ của
Cố vấn – Quản thủ viên này được giao cho Ngô Đình Nhu, theo các điều 3 và 4 của
dụ số 61 ngày 11-7 năm Bảo Đại thứ 18(tức ngày 11-8-1943) do vua Bảo Đại ký về
thành lập tổ chức Lưu trữ và Thư viện của chính phủ An Nam. Và ngày 29-4-1943,
sau hôn lễ với Trần Lệ Xuân, Ngô Đình Nhu bắt đầu cuộc sống mới tại nhà số 19
đường Alexandre des Rhodes (Huế).
Trong thời gian 3 năm, từ 1942 đến 1944, với vai trò Chủ tịch Hội
đồng cứu nguy châu bản và Cố vấn kỹ thuật, Ngô Đình Nhu đã đóng góp một phần
quan trọng vào việc tập trung tài liệu của 5 nguồn(Quốc Sử quán, Tàng Thư lâu,
Nội các, Viện Cơ mật trước đấy và Thư viện Bảo Đại) vào cơ quan Lưu trữ và Thư
viện của chính phủ Nam triều.
Riêng đối với số châu bản ở Nội các, sau gần 2 năm làm việc dưới
sự chỉ đạo của Ngô Đình Nhu, Hội đồng đã làm ra được 3 bản thống kê bằng chữ
Hán và Việt: một bản dâng ngự lãm, một bản lưu hồ sơ và một bản gửi cho Viện
Văn hóa. Tiếp đó, Hội đồng đã xin Khâm Thiên giám chọn ngày tốt để cung nghênh
châu bản ra Viện Văn hóa. Tất cả châu bản sau khi thống kê đều được lưu giữ
trên những kệ sách mới đóng và sắp đặt rất có thứ tự.
Vô cùng hài lòng về những kết quả to lớn đó, Paul Boudet đã đánh
giá Ngô Đình Nhu là “một cộng sự hạng nhất” vì theo Paul Boudet, Ngô Đình Nhu
đã “hội tụ được cùng một lúc văn hóa truyền thống không thể thiếu trong vai trò
của một Quản thủ viên Lưu trữ Hoàng triều và một khả năng hoàn hảo về nghề
nghiệp nhờ có học thức uyên bác và vững chắc cho tổ chức Lưu trữ và Thư viện An
Nam và Lưu trữ của Hoàng triều”(2).
Thật đáng tiếc là công việc đang tiến hành với kết quả ban đầu khả
quan như thế thì xảy ra cuộc đảo chính Nhật – Pháp ngày 9-3-1945, rồi chiến
tranh kéo dài… Bao nhiêu tài liệu lưu trữ của Hoàng triều đã bị mất, bị hỏng do
thiếu người chăm sóc. Theo tục truyền, có rất nhiều châu bản được bày bán công
khai tại các chợ Đông Ba, Bao Vinh, Nam Phổ, Sam… Vì vậy, một phần lớn châu bản
đã bị mất hẳn, không thể nào tìm lại được.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp, Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương đã
có một sự thay đổi lớn về tổ chức, bắt đầu từ ngày 18-4-1945 bằng việc thải hồi
các nhân viên người Pháp.Theo đề nghị của giáo sư S.Kudo(Giám đốc mới của Sở
Lưu trữ và Thư viện Đông Dương), Toàn quyền Đông Dương là Yuichi Tsuchihashi đã
bổ nhiệm Ngô Đình Nhu làm Phó Giám đốc của Sở. Sau đó, Ngô Đình Nhu đã tới Hà
Nội và đã có 3 tuần gặp gỡ với Giáo sư S. Kudo trong cương vị mới. Ngày
31-7-1945, được sự đồng ý của Kudo, Ngô Đình Nhu đã quay trở lại Huế để tiếp
tục công việc ở Viện Văn hóa.
Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền cách mạng đã được
thành lập. Ngay từ những ngày đầu tiên, Lưu trữ và Thư viện đã được chính quyền
cách mạng quan tâm đến. Ngày 8-9-1945, nghĩa là chỉ có 6 ngày sau khi Việt Nam
tổ chức lễ tuyên bố độc lập ở Quảng trường Ba Đình lịch sử, Bộ trưởng Bộ Nội vụ
Võ Nguyên Giáp đã thay mặt Chủ tịch chính phủ lâm thời ký 2 sắc lệnh có liên
quan đến Thư viện và Lưu trữ. Sắc lệnh thứ nhất sáp nhập các thư viện công
(trong đó có Thư viện Pierre Pasquier trực thuộc Sở Lưu trữ và Thư viện Đông
Dương) và một số cơ quan văn hóa khác vào Bộ Quốc gia Giáo dục. Sắc lệnh tiếp
theo cử ông Ngô Đình Nhu làm Giám đốc Nha Lưu trữ công văn và Thư viện toàn
quốc(3). Sắc lệnh này thể hiện chính sách trọng dụng nhân tài của chính quyền
cách mạng Việt Nam.
Sau chuyến đi công cán ở Thuận Hóa để tổ chức việc phân tán tài
liệu của Viện Văn hóa theo sự vụ lệnh số 125-ND ngày 4-3-1946, Ngô Đình Nhu đã
trở lại Hà Nội ngày 20-5-1946, tiếp tục chỉ đạo công việc chuyên môn ở Sở. Tờ
trình số 635 ngày 16-11-1946, về công việc của Phòng Thư mục và Pháp chế của
Giám đốc Sở Lưu trữ công văn và Thư viện toàn quốc(4) gửi Bộ trưởng Bộ Quốc gia
Giáo dục với chữ ký tay của Ngô Đình Nhu là bằng chứng cuối cùng về hoạt động
của ông trong lĩnh vực Lưu trữ - Thư viện. Có một điều đáng tiếc là vì thiếu
tài liệu, chúng ta đã không thể biết rõ quá trình chuyển đổi của Ngô Đình Nhu
từ vai trò “cố vấn kỹ thuật về Lưu trữ - Thư viện” sang vai trò “cố vấn chính
trị” như thế nào. Nhưng rõ ràng là, bằng những công việc cụ thể được đề cập tới
trong bài viết này, Ngô Đình Nhu đã để lại một dấu ấn không nhỏ trong lịch sử
Lưu trữ Việt Nam thời kỳ 1938-1946, đặc biệt đối với sự sống còn của tài liệu
châu bản triều Nguyễn vô giá của chúng ta.
---------------
CHÚ THÍCH:
1. Những thông tin này được khai thác từ tài liệu của phông
Direction des Archives et des Bibliothefques de l’ Indochine(Sở Lưu trữ và Thư
viện Đông Dương – DABI) của Trung tâm Lưu trữ quốc gia I và từ phần Giới thiệu
về châu bản triều Nguyễn của Trần Kim Hòa trong Mục lục châu bản triều
Nguyễn(tập thứ I, triều Gia Long), Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam, Viện Đại
học Huế, tháng 4-1960.
2. DABI, hs: 156.
3. Việt Nam dân quốc công báo, số 1,tr.8.
4. Từ tháng 11-1946, tên giao dịch chính thức của cơ quan Lưu trữ
và Thư viện Việt Nam là Sở Lưu trữ công văn và Thư viện toàn quốc.
Nguồn: http://vusta.vn/.../Ngo-Dinh-Nhu-nha-luu-tru-Viet-Nam...
Hình ảnh: Ông Ngô Đình Nhu, và Thư viện Quốc gia Hà Nội mà ông đã
làm Giám đốc. Ảnh tư liệu.
*Nguyên nhan đề của bài là: Ngô Đình Nhu - Nhà lưu trữ Việt Nam
thời kỳ 1938-1946.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Cuộc chiến tranh
Biên giới 1979l
- Không được quên
tội ác của bá quyền Trung Quốcl
- Trận chiến cầu
Khánh Khê và giờ học lịch sửl
- Vị Xuyên ơi! Nỗi
đau không quên!l
- Bàn thêm về nước
Nam Việt của Triệu Đà và lịch sử nước Việt Naml
- Gạc Ma - Nỗi đau
không được quênl
- Vai trò của Mao
Trạch Đông trong chiến dịch tiến chiếm Hoàng Sa năm 1974l
- Cuộc chiến chống
quân Trung Quốc xâm lược: Hoàng Sa năm
1974l
- Vạch trần dã tâm
thâm đọc của Trung Quốc nhằm độc chiếm biển Đôngl
- Sự thật về quan
hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năml
- Đại nạn Trung
Hoa thời Cổ sửl
- Đại nạn Trung
Hoa thời Trung sửl
- Đại nạn Trung
Hoa thời Cận đạil
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ
LAN MAN VÀ CHUYỆN ĐÀN CỪU, thơ Đặng Xuân Xuyến:
Trần Chí Cường giới thiệu
Tác giả: Đào Thị Diến - Nguồn: teublog
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
.jpg)

0 comments:
Đăng nhận xét