VÀO CHÙA LỄ PHẬT
- NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT
(Tác giả: Đặng Xuân Xuyến ; Nhà xuất bản Văn
Hóa Thông Tin,
Xuất bản lần đầu 2006 ; Tái
bản lần đầu 2007)
*
LỜI
NÓI ĐẦU
Người Việt Nam ta có tục
đi lễ chùa vào những ngày đầu năm, đầu tháng và coi đó là một trong những nét
đẹp văn hóa truyền thống. Dù đến chùa dâng hương lễ Phật để cầu nguyện chư
Phật, chư vị Bồ Tát, Thánh Mẫu... phù hộ độ trì cho bản thân và gia quyến muôn
sự được hanh thông, mọi việc được như ý, hay đến chùa chỉ để vãn cảnh, để tách
bạch hẳn với những lo toan xô bồ của cuộc sống thường nhật, để tâm hồn được
thanh thản ... cũng đều làm cho con người hành xử có văn hóa hơn và sống thiện
hơn.
VÀO CHÙA LỄ PHẬT - NHỮNG
ĐIỀU CẦN BIẾT được biên soạn với mục đích giải đáp một phần nhỏ những thắc mắc
thường gặp, những niềm tin tín ngưỡng trong dân gian mà người thực hành tín ngưỡng
khi vào chùa lễ Phật, lễ Mẫu chưa rõ hoặc chưa biết, như: Dâng hương lễ Phật,
lễ Mẫu như thế nào? Cách nhận biết chư Phật, Thánh Mẫu qua tượng thờ? Cầu con,
cầu của, cầu công danh, sự nghiệp, cầu tình duyên... ở chùa nào sẽ được linh
nghiệm?
Trong khuôn khổ 260
trang sách, nhất là trình độ của người biên soạn còn nhiều hạn chế, chắc chắn
cuốn sách sẽ không thể thỏa mãn được những thắc mắc, những băn khoăn của người
thực hành tín ngưỡng tâm linh về các nghi lễ, tín ngưỡng... khi vào chùa dâng hương
lễ Phật.
Dù vậy, người biên soạn
vẫn hy vọng cuốn sách sẽ được bạn đọc đón nhận.
*
Hà Nội, mùa xuân năm
Bính Tuất (2006)
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
1. KHI NÀO THÌ ĐẾN
ĐỀN, CHÙA, MIẾU. PHỦ
Tại các đền, chùa, miếu,
phủ... đều có các kỳ dâng hương để “con nhang đệ tử” tiến hành các nghi thức
tâm linh, cầu tài lộc, sức khỏe, may mắn. Và người ta thường đến đền, chùa,
miếu, phủ... dâng hương vào các ngày Mồng Một và ngày Rằm âm lịch hàng tháng
hoặc khi nhà có việc, cần cầu xin Thánh, Thần, Phật, Mẫu phù hộ thì người ta
đến đình, chùa, miếu, phủ... thắp hương dâng lễ, lòng thành cầu mong bản thân
và gia đình được Phật, Mẫu... chở che, bình yên, đắc tài đắc lộc....
Đến với những nơi thờ tự
như đền, chùa, miếu, phủ… người thực hành tín ngưỡng phải gạt bỏ những tham,
sân, si, những ai oán, hận thù, những suy nghĩ bất chính để tâm thành hướng
thiện dâng hương lên Phật, Mẫu, Thánh, Thần.... Đồng thời người thực hành tín
ngưỡng cần có thái độ thành kính với chốn tôn nghiêm, không gây huyên náo nơi
thờ tự, ngay cả khi khấn vái cũng chỉ nên khấn nhẩm trong miệng.
Ngoài ra, người thực
hành tín ngưỡng phải tắm gội sạch sẽ, kiêng giới một số ngày và nên ăn chay,
làm việc thiện trước khi tiến hành nghi thức dâng hương hành lễ. Khi nhà có
tang, để trở người thân, người ta cũng kiêng tham dự dâng hương hành lễ tại
đền, chùa, miếu, phủ.
2. LỄ VẬT DÂNG
HƯƠNG CÚNG PHẬT, MẪU... Ở ĐỀN, CHÙA, MIẾU. PHỦ
Khi đến đình, đền, chùa,
miếu, phủ (dù với mục đích là vãn cảnh) thì cũng nên có lễ vật để dâng lễ.
Với nơi thờ Phật, lễ vật
dâng lên là đồ chay hoặc chỉ cần hương, hoa, đèn và nước trong là đủ, tuyệt đối
không dùng đồ mặn để cúng dường Phật. Còn ở đình, đền, chùa, miếu, phủ...
người ta thường dâng lễ mặn, lễ sống (giò, chả, thịt, rượu, trứng...) nhưng
cũng có thể sắm lễ chay như: Hương, hoa, quả, oản…để dâng hương.
Việc dâng lễ to hay nhỏ,
sang hay mọn, chay hay mặn ở những ban thờ Thần, Thánh, Mẫu... cốt yếu ở tâm
thành.
Có mấy loại lễ vật chính
sau:
Lễ chay: Gồm hương, hoa,
trà, quả, oản…dùng để lễ ở ban thờ Phật, Bồ Tát.
Lễ chay cũng được dùng
để dâng ở ban thờ Mẫu, thờ Thánh (Thần). Trong trương hợp này, người ta thường
sắm thêm một số hàng mã để dâng cúng như tiền, vàng, nón, hia, hài.....
Lễ mặn: Gồm có gà, lợn,
giò, chả, nem ... đã được nấu chín.
Lễ mặn thường đặt tại
bàn thờ Ngũ vị Quan lớn, tức là ban Tứ Phủ Công Đồng, chứ rất ít khi người thực
hành tín ngưỡng đặt ở ban thờ Mẫu.
Lễ đồ sống: Gồm có trứng,
gạo, muối hoặc thịt mồi (một miếng thịt lợn khoảng vài lạng)... Đây là lễ đồ
sống dành riêng cho việc dâng cúng quan Ngũ Hổ, Bạch Xà, Thanh Xà đặt ở hạ ban
Công Đồng Tứ Phủ, hoặc ở hạ ban thờ Mẫu.
Lễ gồm 5 quả trứng vịt
sống đặt trong một đĩa muối, gạo, hai quả trứng gà sống đặt trong hai cốc nhỏ,
một miếng thịt mồi được khía (không đứt rời) thành năm phần, không nấu chín (để
sống) và thêm tiền, vàng mã.
Lễ cỗ mặn sơn trang: Gồm những đồ đặc
sản Việt Nam như cua, ốc, bún, ớt, chanh quả, xôi, chè.
Khi sắm lễ mặn sơn trang
người thực hành tín ngưỡng thường sắm theo con số 15, chẳng hạn: 15 con ốc, 15
con cua; 15 quả ớt, 15 quả chanh hoặc có thể chỉ cần 1 quả ớt, 1 quả chanh
nhưng được khía ra làm 15 phần... bởi con số 15 này tương ứng với 15 vị được
thờ tại ban sơn trang: 1 vị chúa, 2 vị
thần và 12 cô sơn trang.
Lễ ban thờ cô, thờ cậu: Gồm có oản, quả,
hương, hoa... và các đồ hàng mã như hia, hài, nón, áo, gương, lược… là những đồ
chơi thường làm cho trẻ nhỏ.
Lễ thần Thành hoàng, Thổ
địa: Gồm gà, lợn, giò, chả, xôi, rượu, tiền,
vàng... Nhưng thường thì chỉ sắp chân giò lợn (đã luộc chín), rượu, xôi, tiền,
vàng mã.
3. NGHI THỨC DÂNG
HƯƠNG LỄ PHẬT, LỄ MẪU
Không ít người vào chùa
lễ Phật thường sửa lễ nào hoa, quả, xôi, giò, bia, rượu, vàng mã... rồi khấn
khứa cầu xin đấng Thế Tôn ban tài tiếp lộc cho gia đình được an khang thịnh
vượng. Họ mặc nhiên cho rằng, đó là sự thành tâm của họ nhưng họ đâu có nghĩ
đến câu dân gian thường nói: “Ăn chay niệm Phật” nên việc dâng lễ bằng rượu,
bia, giò, chả... cúng dường Chư Phật là không đúng với giáo lý nhà Phật.
Vậy cúng dường phật như thế
nào?
Đến dâng lễ Phật tại các
chùa chỉ sửa lễ chay như: Hương, hoa, quả tươi, xôi, oản…, cũng không dùng vàng
mã, tiền âm phủ dâng lên cúng Phật. Việc sửa lễ mặn, vàng mã... chỉ được dâng ở
ban thờ tự các vị Thánh, Mẫu. Ngay cả tiền thật cũng không nên đặt ở chính
điện, mà chỉ nên để vào hòm công đức đặt tại các ban thờ.
Hoa lễ Phật phải là hoa
thật, hoa tươi, chủ yếu là hoa sen, hoa huệ, hoa mẫu đơn, hoa hồng… không được
dùng các loại hoa tạp, hoa dại.
Thường thì Phật tử cúng
dường Phật Theo lệ thường, phải lễ thần thổ địa, thủ Đền trước, gọi là lễ
trình, cáo lễ với Thần linh cho phép được tiến hành lễ tại đền, chùa, miếu,
phủ. Sau đó, bày lễ vật ra các mâm, khay chuyên dùng vào việc cúng lễ... rồi
đặt lễ vật vào các ban.
Khi dâng lễ phải kính
cẩn dùng hai tay và cẩn trọng đặt lên bàn thờ. Cần đặt lễ vật lên ban chính rồi
mới trở ra ban ngoài cùng. Chỉ sau khi đã đặt xong lễ vật lên các ban mới được
thắp hương.
Đến Chùa hành lễ cần
theo thứ tự như sau:
1. Đặt lễ vật: Thắp
hương và làm lễ tại ban thờ Đức Ông (Đức Chúa) trước.
2. Sau khi đặt lễ ở ban
Đức Chúa (Đức Ông) xong, đặt lễ lên hương án của chính điện, thắp đèn nhang,
thỉnh 3 hồi chuông rồi làm lễ chư Phật, Bồ Tát.
3. Sau khi đặt lễ chính
điện xong thì đi thắp hương ở tất cả các ban thờ khác của nhà Bái Đường. Khi
thắp hương lên đều có 3 lễ hay 5 lễ. Nếu Chùa nào có điện thờ Mẫu, Tứ Phủ thì
đến đó đặt lễ, dâng hương cầu theo ý nguyện.
4. Cuối cùng thì lễ ở
nhà thờ Tổ (nhà Hậu)
5. Cuối buổi lễ, sau khi
đã lễ tạ các ban thờ để hạ lễ thì nên đến nhà trai giới hay phòng tiếp khách để
thăm hỏi các vị sư, tăng trụ trì và có thể tùy tâm công đức.
Khi thắp hương cần thắp
số lẻ: 1, 3, 5, 7 nén, không thắp số chẵn...
Sau khi hương được châm
thì dùng hai tay dâng lên ngang trán, vái ba vái rồi kính cẩn cắm hương vào
bình trên ban thờ. Nếu có sớ tâu trình thì kẹp sớ vào giữa bàn tay hoặc đặt lên
1 cái đĩa nhỏ, dùng hai tay nâng đĩa sớ lên ngang mày rồi vái 3 lần.
Trước khi khấn nên thỉnh
3 hồi chuông, thỉnh chuông xong thì mới khấn lễ.
Sau khi đợi hết một tuần
nhang, vái 3 vái trước mỗi ban thờ rồi hạ tiền, vàng để đem đi hóa. Khi hóa
tiền, vàng cần hóa từng lễ một, từ lễ ở ban thờ chính cho tới lễ ở các ban
khác, cuối cùng là lễ ở ban thờ cô thờ cậu. Hóa tiền vàng xong mới hạ lễ dâng
cúng.
Khi hạ lễ, phải hạ ban ngoài
cùng đến ban chính. Riêng các đồ lễ ở ban thờ cô, thờ cậu như gương, lược… thì
để nguyên trên bàn thờ.
Sau buổi lễ, người đi lễ
thường dành một phần lộc nhỏ đặt vào khay cúng với một số tiền tùy tâm để biếu
người thủ đền, thủ chùa...
Giáo lý nhà Phật cho
rằng: Phật tại tâm nên việc dâng lễ cốt yếu là ở tâm thành chứ không phải là
giá trị của những vật lễ.
Ngày còn bé, tôi được mẹ
tôi kể: Có hai bố con người hành khất, đúng ngày Mồng Một nọ đi qua một ngôi
chùa. Nhìn cảnh du khách thập phương đang náo nức sửa lễ dâng Phật, cô bé tủi
thân vì không có đồ lễ dâng Phật, liền quỳ xuống nức nở khóc. Vái lạy từ xa Đức
Phật từ bi bằng lòng thành kính, cô tiếp tục dắt người cha mù lòa đi ăn xin độ
nhật.
Đến một ngày nọ, do đói
lả lâu ngày, người cha kiệt sức qua đời, cô bé gào khóc thảm thiết. Khi nước
mắt đã cạn thì đôi mắt của cô trở thành tàn phế. Mò mẫm dọc đường, cô lạc vào
một khu rừng đầy thú dữ, ma quỷ.
Đúng lúc lũ quỷ dữ định
ăn thịt cô bé thì bỗng xuất hiện một vầng hào quang chói sáng làm thú dữ, ma quỷ
bỏ chạy, cô bé như được phép màu làm sáng trong đôi mắt trở lại và kỳ lạ hơn,
cô đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp kiều diễm.
Ngước mắt nhìn lên không
trung, cô thấy Phật Bà Quan Thế Âm đang nhìn cô trìu mến. Cô vội quỳ xuống tạ
ơn thì Bồ Tát dịu dàng nói: - Những giọt nước mắt thành tâm của con cúng ta năm
xưa, giờ giúp con, ta vẫn còn nợ con nhiều lắm.
Nói xong, Bồ Tát mỉm
cười rồi biến mất, để lại một mùi hương thơm thoảng nhẹ giữa rừng.
Như vậy, đâu cứ phải là
mâm cao cỗ đầy, là những món ăn cao sang mỹ vị sẽ được Phật chứng. Cô gái hành
khất kia làm gì có xôi, giò, gà, rượu để cúng dường Phật mà vẫn được Phật
thương, Phật giúp. Những giọt lệ thành tâm của cô cao hơn tất cả những đồ lễ
của khách thập phương vì những mâm sang cỗ quý ấy người ta đến cửa chùa để cầu
xin phú quý chứ đâu có thành tâm thờ Phật.
Không ít người ăn chay
trường niệm Phật, sớm sớm gõ mõ tụng kinh, tưởng như là người rất thành tâm mộ
đạo, dốc lòng hướng thiện, quy y Tam bảo sẽ được Phật độ để hưởng phúc lộc ở
đời nhưng vì “tu” theo kiểu “tu hú”, “miệng nam mô bụng bồ dao găm” nên đời họ,
con họ đâu có được bằng người. Nếu theo quan điểm duy vật, do họ sống thiếu chữ
tâm, chữ đức mà con họ theo “tấm gương” của họ trở nên hư hỏng, đời họ vì thế
mà chịu đắng cay khi tuổi xế chiều. Nếu theo quan điểm của Phật giáo thì do
“gieo nhân nào gặt quả ấy”, nên đời họ phải chịu quả báo vì nghiệp ác đã gây
ra.
Tóm lại: Phật giáo luôn
để cao chữ Tâm, chữ Thiện nên việc dâng hương cúng Phật cốt yếu ở tâm thành và
lòng hướng thiện. Đã là phật tử, khi vào chùa lễ Phật nên hiểu qua nghi thức
dâng hương cúng Phật để thực hành và quan điểm sống hướng thiện của Phật giáo
để “đẹp đạo tốt đời” là việc nên làm với các phật tử.
4. NHẬN
BIẾT CHƯ PHẬT QUA HÌNH DÁNG TƯỢNG THỜ
Vào chùa lễ Phật, cho dù
ở ngoài đời mỗi người một tâm tính nhưng khi đứng trước Ban thờ Phật, mọi bon
chen, toan tính của đời thường dường như không còn nữa mà thay vào đó là những
khuôn mặt hướng thiện, những ánh mắt trong sáng, chan chứa niềm tin gửi nơi cửa
Phật.
Cứ nhìn cử chỉ dâng hương,
ánh mắt thành kính, và những cái chắp tay lạy Phật của tín đồ Phật giáo mới
thấy lòng chí thành, khẩn thiết của họ, mới cảm nhận sâu sắc sự tôn nghiêm,
thanh tịnh chốn Phật đường.
Tuy vậy, cũng không ít
Phật tử đang thành tâm hành lễ dâng hương lại không biết mình đang đứng vái
lạy, cầu xin trước chư Phật (Phật và Bồ Tát) nào? Và lời cầu xin ấy có đúng sở
nguyện của chư Phật đó khi đắc đạo, để lời cầu xin ấy được toại nguyện?
Tất nhiên, chư Phật nào
cũng từ bi, hỷ xả, cứu độ chúng sinh nhưng mỗi chư Phật khi đắc đạo có sở
nguyện khác nhau nên thiện nam tín nữ phải phân biệt được tượng thờ các chư
Phật để lời cầu xin được chư Phật chứng giám.
1. Tượng thờ Phật Thích Ca:
Tượng thờ Phật Thích Ca
mặt tròn, đỉnh đầu có gò thịt nổi cao, cằm vuông vức, nơi ấn đường (chỗ đầu hai
lông mày giao nhau) có nốt ruồi đỏ. Tai dày, tròn, đầy đặn, thành quách phân
minh, sắc trắng hơn mặt. Hai tay dài và dày. Ngực có chữ vạn, mình vàng, sắc
hoàng kim.
Cũng tùy theo bố trí thờ
cúng của mỗi chùa mà tượng Phật Thích Ca có các tư thế đứng, ngồi khác nhau.
Tuy nhiên, tượng Phật Thích Ca thường được tạc theo thế ngự trên đài sen, hai
tay để ấn tam muội, đôi mắt khép lại ba phần tư.
Cũng có chùa ở tầng cao
nhất, sát vách cửa chính điện, thờ “Tam Thế Phật”, đó là các vị Phật của ba
thời gian: Quá khứ (Phật A Di Đà), hiện tại (Phật Thích Ca) và vị lai (Phật Di
Lặc). Ba tượng Tam Thế có kích thước và hình dáng giống nhau, đỉnh đầu có gò
thịt nổi cao như búi tóc, tai dài, tóc xoắn ốc, ngực có chữ vạn, mình có sắc
hoàng kim sáng rực, ngồi trên tòa sen.
2. Tượng thờ Phật Di Lặc:
Tượng Phật Di Lặc thường
được an vị ngay ở cửa ra vào, hiếm khi được thờ ở chính điện.
Khi thờ ở Tam Thế Phật
thì tượng Phật Di Lặc giống tượng Phật Thích Ca nhưng khi thờ riêng, thường là
ở ngay chỗ cửa ra vào thì tượng Phật Di Lặc được tạc theo tư thế ngồi ngả lưng
ra đằng sau, nhành miệng ra cười ngặt nghẽo, hớn hở như khoe cái bụng phệ, béo
tròn, vô lo vô nghĩ của mình, mà cũng giống như niềm hân hoan chào đón khách
thập phương và hoan hỉ ban niềm tin cho du khách.
Cũng có chùa thờ Ngài Di
Lặc theo tượng hình một vị hòa thượng mập mạp, mặc áo phơi ngực, bày cái bụng
to tướng, xung quanh Ngài có năm, sáu đứa trẻ quấy nhiễu mà Ngài vẫn cười ngặt
nghẽo...
3. Tượng thờ Phật A Di Đà:
Phật A Di Đà là hiện
thân đời sống vĩnh cửu và trí tuệ hào quang nên có hai danh hiệu: Vô lượng thọ
Phật (đời sống của Phật dài vô lượng, vô biên) và Vô lượng quang Phật (hào
quang của Đức Phật chiếu tới các cõi thập phương).
Theo lời Phật Thích Ca
trong kinh A Di Đà thì cõi Phật ở phương Tây cách xa Trái Đất hàng vạn ức dặm.
Cõi Phật có tên Cực Lạc quốc (Sukhavati), là nơi có đời sống hạnh phúc, an lạc.
Chúng sinh nào muốn được về cõi Cực Lạc thì phải thành tâm tu trì, tin đức Phật
A Di Đà.
Tượng Phật A Di Đà
thường có những nét đặc trưng: Đầu có các cụm tóc xoắn ốc, mắt nhìn xuống,
miệng thoáng nụ cười cảm thông cứu độ, mình mặc áo cà sa, ngực có chữ vạn ở
khoảng trống của áo cà sa, ngồi hoặc đứng trên toà sen.
Đi theo hầu Phật A Di Đà
thường là hai vị Bồ Tát: Đại Thế Chí và Quan Thế Âm. Ba tượng này được gọi là
bộ A Di Đà Tam Tôn. Tượng Phật A Di Đà thường được tạc thờ theo hai thế:
- Tượng ngồi kiết già
trên tòa sen, tay kiết định ấn, hình dáng tương tự như Phật Thích Ca nhưng có
sự khác biệt so với tượng Phật Thích Ca như: Tượng Phật Thích Ca thường đắp cà
sa choàng qua cổ không có đắp y (cà sa) khoát vuông để trống, trước ngực có chữ
vạn và không bao giờ duỗi một cánh tay.
Ngược lại, tượng Phật Di
Đà có đôi khi người ta tạc tượng Ngài ngồi tư thế kiết già và duỗi xòe bàn tay
mặt. Y (cà sa) khoát cổ vuông và trước ngực có chữ vạn.
- Tượng đứng trên
hoa sen lơ lửng trong hư không, bên dưới là bể cả sóng nổi lên rất cao, mắt
Ngài nhìn xuống, tay trái bắt ấn cam lồ và đưa lên ngang vai, tay mặt duỗi
xuống như sẵn sàng cứu vớt những chúng sinh đang đắm chìm trong bể khổ. Tượng
này gọi là tượng Di Đà phóng quang.
Về tượng đứng, bên cạnh
Ngài thường có hai vị đại Bồ tát Quán Âm và Thế Chí. Bồ tát Quán Âm thì đứng
bên tay trái và Bồ tát Thế Chí đứng bên tay phải của Ngài. Đây gọi là
tượng Tam Thánh (như tượng thờ Phật A Di Đà ở chùa Kim Liên (Hà Nội).
4. Tượng thờ Quan Thế Âm Bồ Tát:
Đức Phật nói về thần lực
của Quan Âm trong kinh Phổ Môn rằng: Nếu một ngàn chỗ có tâm thành cầu nguyện
Đức Quan Âm thì đồng một lúc đó có một ngàn Bồ tát Quan Âm liền ứng hiện, Ngài
sẽ hiện thân hình tương ứng với nhu cầu của con người như hiện thân Tỳ kheo,
hiện thân cư sĩ, hiện thân ngoại đạo...
Tượng Phật Bà Quán Thế
Âm được thờ tại các chùa đều theo các cách thể hiện: Quan Âm Chuẩn
Đề (Tượng có ba mặt và 18 tay), Quan Âm nghìn tay, nghìn mắt (Thiên
thủ, thiên nhãn), Quan Âm Tọa Sơn (Quan Âm ngồi trên đỉnh núi), Phật
Bà (Quan Âm đội mũ, ngồi toà sen), Quan Âm Tống Tử (Quan Âm ngồi bế
đứa bé, một bên có Thiện Sĩ - biểu trưng bằng hình con vẹt)...
Tượng thờ Phật Phật Bà
Quán Thế Âm tại các ngôi chùa Việt Nam thường là hiện thân hình dáng của người
phụ nữ quý phái, nhân hậu, dịu dàng, đứng trên đài hoa sen tay trái cầm bình
thanh tịnh, tay phải cầm cành dương liễu để phổ độ chung sinh. Cũng có một số
chùa lại thờ theo lối Di Đà Tam Tông: Đức Phật Di Đà ở giữa, bên tả là Quan Thế
Âm Bồ Tát, bên hữu là Đại Thế Chí Bồ Tát.
5. Tượng thờ Văn Thù Bồ Tát:
Văn thù Sư Lợi là vị Bồ
Tát tượng trưng cho kinh nghiệm giác ngộ, đạt được bằng phương tiện tri thức,
là một trong những vị Bồ Tát quan trọng của Phật giáo.
Theo truyền
thuyết Phật giáo Trung Quốc, Văn Thù Bồ Tát được Phật Thích
Ca đích thân giao phó việc truyền bá Phật pháp và Ngũ Đài
sơn chính là nơi Bồ Tát thuyết pháp. Vì vậy, Ngũ Đài sơn cũng được xem là
trụ xứ của Văn Thù Bồ Tát.
Văn Thù Bồ Tát thường
được tạc theo tượng đứng trên hoa sen trắng, an vị bên trái tượng Phật Thích Ca
(theo thế đứng vái lạy của người dâng lễ) để theo hầu Phật Tổ.
Nhưng có chùa thờ riêng
Văn Thù Bồ Tát ngồi trên lưng sư tử xanh, tay trái cầm cành hoa sen xanh, tay
phải cầm thanh kiếm sắc. Cũng có chùa thờ tượng Ngài theo hình thức người cư sĩ
đội mũ, mặc giáp, cầm kiếm....
6. Tượng thờ Phổ Hiền Bồ Tát:
Phổ Hiền là vị Bồ
tát Đẳng giác có năng lực hiện thân khắp mười phương pháp giới, tùy theo
mong cầu của chúng sinh mà Ngài hiện thân hóa độ. Trong Phật giáo Đại
thừa thì Ngài là một trong những vị Bồ Tát quan trọng.
Theo truyền thuyết của
Phật giáo thì Bồ Tát Phổ Hiền được xem là người hộ vệ của những ai
tuyên giảng đạo pháp và đại diện cho "Bình đẳng tính trí"
tức là trí huệ thấu hiểu cái nhất thể của sự đồng nhất và khác biệt.
Phổ Hiền Bồ Tát thường
được an vị đứng trên tòa sen, bên phải Phật Thích Ca (theo thế đứng vái lạy của
người dâng lễ) để theo hầu Phật Tổ.
Tại các chùa, Bồ Tát Phổ
Hiền hay được thờ chung với Phật Thích Ca và Bồ Tát Văn Thù Sư
Lợi. Nhưng cũng có chùa thờ riêng Phổ Hiền Bồ Tát với tượng hình người cư sĩ
cưỡi voi trắng sáu ngà (voi trắng tượng trưng cho trí huệ vượt chướng
ngại, sáu ngà tượng trưng cho sự chiến thắng sáu giác quan)....
7. Tượng thờ Địa Tạng Bồ Tát:
Địa Tạng Bồ Tát là vị Bồ
Tát chuyên cứu độ sinh linh trong địa ngục và trẻ con yểu tử hoặc cứu giúp
lữ hành phương xa. Đó là vị Bồ Tát duy nhất được diễn tả với bạch hào
(lông trắng xoáy nằm giữa hai mắt) trên trán, một trong ba mươi hai tướng tốt
của một vị Phật.
Tại Trung Quốc và các
nước Đông nam Á, Địa Tạng Bồ Tát được xem là một trong bốn vị Đại Bồ Tát (ba vị
khác là Quán Thế Âm, Văn Thù Sư Lợi và Phổ Hiền) chuyên cứu độ những người
bị sa vào địa ngục. Trú xứ của Bồ Tát Địa Tạng là Cửu Hoa Sơn. Tương truyền,
Địa Tạng Bồ Tát đã thật sự hiện thân tại núi Cửu Hoa vào đời Đường dưới dạng
một hoàng tử xứ Triều Tiên. Sau khi chết, nhục thân của vị hoàng tử này không
tan rữa và người dân bản địa đã xây một ngôi tháp để thờ và bảo tháp đó ngày
nay vẫn còn trên núi Cửu Hoa.
Tượng Địa Tạng Bồ Tát
thường có dáng một vị tăng đầu đội mũ thất phật (trên mũ có hình 7 vị Phật),
mặc áo cà sa đỏ, tay phải cầm gậy tích trượng có 12 khoen, tay trái cầm ngọc
minh châu, ngồi trên tòa sen.
Ở một số chùa, tượng Bồ
Tát Địa Tạng lại được tạc ở tư thế đứng hoặc cưỡi trên lưng một con vật giống
như sư tử.
8. Tượng thờ Đại Thế Chí Bồ Tát:
Đại Thế Chí Bồ
tát còn gọi là Đắc đại thế Bồ tát, Đại tinh tấn Bồ tát, Vô biên quang Bồ
tát... Là vị Bồ tát dùng ánh sáng trí tuệ chiếu khắp mọi loài, làm
cho chúng sinh thoát khổ thành tựu quả vị Vô thượng bồ đề.
Theo kinh “Quán vô lượng
thọ”, Bồ tát thân cao tám mươi muôn ức, da màu vàng tử kim, trong thiên quang
của Bồ tát có 500 hoa báu, mỗi một hoa báu có 500 đài báu, trong mỗi đài đều
hiện quốc độ tịnh diệu của mười phương chư Phật, nhục kế như hoa Bát đầu ma,
giữa nhục kế có một hình báu, khác hình tượng Quan thế âm Bồ tát.
Theo “A lợi đa la đà la
ni a lỗ lực”, thì hai Bồ tát (Đại Thế Chí và Quán Thế Âm)
đều toàn thân màu vàng, phóng hào quang trắng, tay phải cầm phất trần trắng,
tay trái cầm hoa sen, nhưng thân hình Bồ tát Đại thế chí nhỏ hơn thân hình Bồ
Tát Quán Thế Âm.
Còn trong “Hiện đồ mạn
đồ la thai tạng giới” của Mật tông, thì tượng Ngài ngồi trên hoa sen đỏ,
thân màu trắng, tay trái cầm hoa sen mới nở, tay phải co ba ngón giữa đặt trước
ngực. Mật hiệu là Trì luân kim cương, hình Tam muội da là hoa sen mới nở.
Tại các chùa
Việt Nam, tượng Đại Thế Chí Bồ Tát thường được tạc theo hình dáng người cư
sĩ, cổ đeo chuỗi anh lạc, tay cầm hoa sen xanh, đứng bên trái Đức Phật A Đi Đà
(theo thế đứng vái lạy của người dâng lễ) để theo hầu Phật A Di Đà. Đây là lối
thờ Di Đà Tam Tông: Đức Phật Di Đà ở giữa, bên tả là Quan Thế Âm Bồ Tát, bên
hữu là Đại Thế Chí Bồ Tát.
Khi đứng riêng thì tượng
Đại Thế Chí Bồ tát được tạc theo nhiều hiện thân, nhưng cơ bản là hình tượng cư
sĩ ngồi hoặc đứng trên toà sen, tay cầm một cành sen.
9. Tượng Đức Thánh Hiền:
Đức Thánh hiền được thờ
ở các chùa, chính là Ngài Anan tôn giả, đệ tử đệ nhất đa văn của Đức Phật. Theo
Phật giáo Đại thừa ngài còn phát nguyện độ sinh do đó Ngài còn tái sinh nhiều
lần để cứu vớt chúng sinh.
Tượng ngài được đặt ở
bên trái của Bái Đường. Tượng có khuôn mặt thanh thoát, hiền từ, đầu đội mũ có
7 cánh sen, mỗi cánh sen có hình một Đức Phật, một tay cầm chén, một tay bắt
ấn.
10. Tượng Đức Ông:
Có chùa ghi là Đức Chúa,
được an vị ở bên phải Bái Đường. Tượng được tạc theo hình dáng quan văn, đầu
đội mũ cánh chuồn, mặt đỏ, râu dài, vẻ mặt nghiêm nghị.
Theo điển tích Phật giáo
thì khi Đức Thích Ca vừa thành đạo, Trưởng giả Cấp Cô Độc, một nhân vật thời
Đức Thích Ca tại thế, đã mua một khu vườn cây xây tịnh xá, ngôi chùa rất to,
thỉnh Phật Thích Ca về thuyết pháp. Sau này ông được coi là người bảo vệ tài
sản của nhà chùa. Vì vậy người ta gọi là Đức ông hay Đức Chúa Già Lam Chầu Tể.
*
Trên đây là một số tượng
được thờ ở các ngôi chùa Việt Nam. Nhìn chung, các vị Phật hay Bồ Tát đều
ngồi hoặc đứng trên tòa sen với đôi mắt khép kín, khuôn mặt nhân hậu, thanh
thản, tượng trưng cho sự đại phú, đại quý, siêu phàm và vinh quang.
5. CÁCH BỐ TRÍ TƯỢNG THỜ TRONG CHÙA MIỀN BẮC
Các chùa miền Bắc thường
theo Thiền phái Bắc tông nên cách bài trí tượng Phật đơn giản và khác với chùa
miền Nam.
Một ngôi chùa Phật giáo
ở miền Bắc phổ biến có 4 khu vực: Chính điện, Tiền đường, Nhà hành lang, Nhà tổ
và nhà trai.
* CHÍNH ĐIỆN:
1. Tượng Tam Thế:
Là ba pho tượng ngồi
ngang nhau ở nơi cao nhất trên bàn thờ, đại diện cho chủ Phật trong ba thời
gian quá khứ, hiện tại thế, vị lai thế.
2. Tượng A-di-đà Tam Tôn:
Tượng còn được gọi là
“Tây phương tam thánh” đặt ở hàng thứ hai từ trên xuống gồm: Phật A-di-đà (ngồi
giữa) Đại Thế Chí (bên trái) và Quan Thế Âm (bên phải) Đây là 2 vị hộ pháp giúp
việc cứu độ cho Phật A-di-đà.
Tượng Phật A Di Đà
thường có những nét đặc trưng: Dù ngồi hoặc đứng trên toà sen thì đầu đều có
các cụm tóc xoắn ốc, mắt nhìn xuống, miệng thoáng nụ cười cảm thông cứu độ,
mình mặc áo cà sa, ngực có chữ vạn ở khoảng trống của áo cà sa.
Phật A-di-đà được tạc
trong tư thế toạ thiền, ngồi xếp bằng, hai tay đặt giữa lòng đùi, khuôn mặt đôn
hậu, mắt nhìn xuống suy tư, miệng hơi mỉm cười.
Một số nơi, tạc tượng
A-di-đà ở tư thế đứng thuyết pháp trên toà sen.
3. Tượng Thích Ca Mâu Ni:
Tượng đặt ở hàng thứ ba,
chính giữa. Tượng được tạc ở 4 tư thế thuộc 4 giai đoạn khác nhau theo truyền
thuyết về cuộc đời của Thích Ca Mâu Ni.
- Tượng Cửu Long (Thích
Ca sơ sinh): Tượng ở tư thế đã bước ra rồi đứng lại, một tay chỉ lên trời,
một tay chỉ xuống đất, có 9 con rồng uốn chầu xung quanh. Hai bên tượng Cửu
Long là hai tượng Đế Thích và Phạm Vương, chủ thể thế giới, nên tạc theo kiểu
nhà vua ngồi trên ngai.
Phật sử nói rằng, khi
Thích Ca giáng sinh có 9 con rồng phun nước để tắm cho Ngài. Tắm xong Ngài tự
đi 7 bước về phía trước, tay phải Ngài chỉ lên trời, tay trái Ngài chỉ thẳng
xuống đất mà nói ngay được rằng “Thiên thượng, Thiên hạ, duy ngã độc tôn” (có
nghĩa là trên trời, dưới đất, chỉ có “ta” là tôn quý).
- Tượng Tuyết
Sơn: Tượng diễn tả Thích Ca Mâu Ni trong thời kỳ tu khổ hạnh trên núi
Tuyết Sơn (núi rừng Ni Câu Luật) với thân hình gầy gò, chỉ có da bọc xương. Dân
gian quen gọi tượng Thích Ca Mâu Ni trong thời kỳ tu khổ hạnh là “Ông nhịn ăn
để mặc”.
- Tượng Thích Ca thuyết
pháp (còn gọi là Thích Ca giáo chủ): Tượng được tạc Thích Ca Mâu Ni trong
tư thế ngồi trên toà sen, mặc áo pháp, một vai để trần (tượng tay cầm bông sen
là tượng Thế Tôn niêm hoa…). Hai bên tượng Thích Ca thuyết pháp có hai vị thị
giả là Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát.
Có chùa thay hai tượng
này bằng hai tượng đệ tử A Nan Đà và Ca Diếp (thuộc bộ ba của Phật giáo Tiểu
thừa).
- Tượng Niết
Bàn: Trong đạo Phật nguyên thủy, Niết Bàn được xem là đoạn triệt luân hồi
và đi vào một thể tồn tại khác, không còn chịu sự tác động của nghiệp, không
còn chịu quy luật nhân duyên, vô vi, không còn sự sinh, thành, hoại, diệt.. Đó
là sự tận diệt gốc rễ của ba nghiệp bất thiện là tham, sân và si.
Tượng diễn tả Thích Ca
Mâu Ni đang nhập Niết bàn. Thông thường tượng Niết Bàn ở tư thế nằm nghiêng
sườn bên phải xuống thoải mái, tay phải co lại chống lên đầu, mắt lim dim.
Tượng Niết Bàn phổ biến
ở các chùa thờ Phật theo Nam Tông, nhưng ít thấy ở các ngôi chùa thờ Phật theo
Bắc Tông.
4. Tượng Phật Di Lặc:
Phật Di Lặc được diễn tả
bằng một pho tượng có dáng thư thái, thanh thản, hết ưu phiền của bậc tu hành
sắp đắc đạo thành Phật. Vì có thân hình đẫy đà, miệng cười lạc quan, nên dân
gian quen gọi là ông “Nhịn mặc để ăn”.
Thông thường hai bên
tượng Phật Di-Lặc là hai tượng Pháp hoa lâm Bồ tát và Đại diện tướng Bồ tát,
nên còn gọi là Di-Lặc Tam Tôn.
*. NHÀ BÁI ĐƯỜNG:
Thông thường nhà Bái
Đường (còn gọi là Tiền Đường) được xây dựng trước cửa Chính điện. Các tượng bày
ở nhà Bái Đường gồm:
1. Tượng Hộ pháp:
Hai bên ở Bái đường đặt
tượng hai vị Hộ pháp. Hai vị Hộ pháp là ý nghĩa khuyến Thiện và trừng ác để hộ
trì Phật pháp.
Tượng Hộ pháp thường
được tạc rất to, theo kiểu võ sĩ cổ, mình mặc áo giáp, đầu đội mũ, một vị tay
cầm viên ngọc, một vị tay cầm binh khí, trong tư thế đứng hoặc ngồi trên lưng
một con sân (một loại giống sư tử).
2. Tượng Thần Thổ Địa - Thánh Tăng:
Thường thì các chùa miền
Bắc thờ Đức Ông (còn gọi là Đức Chúa) một bên, và Đức Thánh Hiền (còn gọi là
Thánh Tăng) một bên.
Nhưng cũng có ít chùa
thờ một bên là Thần Thổ Địa, một bên là Thánh Tăng. Đặc biệt, ở chùa giữa (Tây
Phương) lại thờ cả Thần Thổ Địa và Đức Ông (một trẻ râu ngắn, một già râu
dài) ở gian Tiền Đường.
Tượng râu dài là Long
Thần, hay Già Lam Chân Tể, có thể hiểu là người coi sóc chùa. Tượng râu ngắn có
thể hiểu là Thổ địa, người canh giữ Đất.
*. NHÀ HÀNH LANG:
Tượng bày ở nhà hành
lang là 18 vị La Hán được tạc kích thước bằng người bình thường với các tư thế
khác nhau: Vị ngồi trên tảng đá, vị ngồi trên gốc cây, vị ngồi lưng ngựa, vị
ngồi lưng tê giác… vẻ mặt suy nghĩ trầm mặc.
Phật giáo Tiểu thừa cho
rằng La Hán là vị quả thánh cao nhất nhưng còn phiền não luân hồi sinh tử, vâng
lệnh của Phật ở mãi trên thế gian để cứu độ chúng sinh, không nhập diệt.
*. NHÀ TĂNG:
Nếu thờ Tổ gọi là Nhà
Tổ, dùng trai tăng gọi là Nhà Trai.
Nhà Tăng thường được xây
dựng sau chính điện nên còn gọi là hậu đường. Trên cao của gian giữa thờ hai
tượng Thánh tăng là A Nan Đà (Phật giáo Đại thừa thì thờ Văn Thù Bồ Tát) và Sư
Tổ Bồ Đề Đạt Ma (là tổ sư truyền đạo thiền sang Trung Hoa và các nước Đông Nam
Á).
Dưới là các vị sư tổ đã
tu tại chùa. Các vị sư tổ có thể tạc tượng hoặc không tạc tượng. Có chùa xây
dựng một điện riêng để thờ các vị thần thánh này. Ngoài ra, ở nhà tăng trong
một số chùa còn thờ tượng Quan Âm Tổng Tử, Quan Âm toạ sơn….
6. THẮP HƯƠNG SỐ LẺ HAY SỐ CHẴN
Khi làm lễ dâng hương,
người Việt ta thường chọn số lẻ (1, 3, 5, 7, 9) cho số nén hương thắp lên cúng
tổ tiên hay cúng dường chư Phật, Bồ Tát, Thánh Tăng... hoặc người ta có
thể đốt cả nắm hương chứ không chọn số chẵn (2, 4, 6, 8, 10) để thắp hương cúng
lễ.
Theo thói quen là vậy,
còn theo lý giải của nhà Phật thì cho rằng, số lẻ mang nhiều ý nghĩa linh
thiêng. Hơn nữa, đối với Phật Giáo, quan niệm cuộc sống không có gì là tuyệt
đối nên không có gì có thể “chẵn” được, tất cả đều phải chuyển biến theo quy
luật tự nhiên không thể không bất biến nên việc thắp hương cũng phải có ý nghĩa
linh thiêng, phải theo quy luật (luôn luôn chuyển biến) của cuộc sống.
Có nhiều quan niệm khác
nhau về ý nghĩa các nén hương khi thắp. Ví dụ, 5 nén hương là tượng trưng cho 5
phương trời đất, 5 hướng thần linh. Còn 7 nén hương tượng trưng cho “7 vía” của
người nam và 9 nén hương được tượng trưng cho “9 vía” của người nữ. Nhưng con
số thường hiện diện nhất trong cách cắm hương của Phật tử là số 1 hoặc số 3.
Nếu thắp một nén hương là chúng ta đang tưởng thưởng đến đời Phật trong hiện
tại - Phật Thích Ca, còn nếư thắp ba nén hương là sự tượng trưng cho ba đời Chư
Phật: Quá Khứ (A Di Đà) - Hiện Tại (Thích Ca) - Tương Lai (Di Lặc), sự tượng
trưng cho ba ngôi Tam Bảo: Phật, Pháp và Tăng.
Theo đúng lễ nghi cúng
dường chư Phật thì đồ lễ dâng Phật chỉ cần hương, hoa, đèn và nước trong là đủ.
Dù thắp hương là 1, 3, hay 5, 7 nén hương thì việc thắp hương đều chính là dâng
tâm mình (tâm hương) giữa trần gian với đấng tối cao, với những bậc tâm kính và
những người đã khuất.
7. NHỮNG KIÊNG KỴ KHI ĐỐT VÀNG MÃ
Tín ngưỡng dân gian tin
rằng người đã chết, khi về cõi âm sẽ có cuộc sống như khi ở trần gian nên mỗi
khi giỗ tết, hoặc những khi đi chùa lễ Phật, Mẫu, Thánh, Thần ở đình, chùa,
miếu, phủ... người ta thường dâng đồ hàng mã (tiền, vàng, quần áo, nhà, xe...)
để biếu người đã khuất, hoặc biếu Phật, Mẫu, Thánh, Thần... Cũng lưu
ý rằng: việc cúng dường Gia tiên, Phật, Mẫu, Thánh, Thần đồ vàng mã là do xuất
phát từ tín ngưỡng văn hóa Á Đông, không phải là quan điểm của nhà Phật.
Theo tín ngưỡng dân
gian, sau khi cúng lễ xong, các đồ vật vàng mã được đem đi đốt, gọi là hóa
vàng.
Trong khi đốt vàng mã,
người thực hành tín ngưỡng cần lưu ý:
- Kiêng đốt không hết: Quần áo, mũ ngựa, vàng thoi, vàng lá, tiền
giấy... không cháy hết sẽ bị thủng khiến người cõi âm không dùng, không tiêu
được.
- Kiêng làm rách vàng mã trước khi đốt: Nếu vàng mã đã bị rách thì
Gia tiên, Thổ công, Thổ địa cũng không dùng được. Vì vậy phải nhẹ tay, giữ gìn
không để rách.
- Kiêng sắm thiếu, khấn sai: Trước khi đốt vàng mã, người ta còn ghi
tên trên từng đồ vật và chia thành từng cỗ cho từng vị. Trước và trong khi đốt
vàng mã, người ta khấn gia tiên, thần linh mời nhận đồ vật được con cháu kính
biếu. Nếu không khấn thì gia tiên, thần linh không nương theo khói hương về
nhận.
- Khi đã đốt xong vàng
mã, người thực hành tín ngưỡng sẽ lấy chén rượu hoặc chén nước sạch tưới đều
lên đống tro vì tín ngưỡng dân gian quan niệm làm như thế thì người được biếu
mới nhận được đồ vật cháu con kính biếu.
- Tro vàng mã đã đốt
được đem thả xuống sông, hồ cho mát mẻ.
8. MỘT SỐ BÀI VĂN
KHẤN CHƯ PHẬT, BỒ TÁT, THÁNH TĂNG...
- VĂN KHẤN LỄ PHẬT
Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
Hôm nay là ngày: tháng:
năm: Đệ tử con là: Ngụ tại:
Cùng toàn thể gia đình thành tâm
trước Đại Hùng Bảo Điện, nơi chùa. Chúng con kính thưa: Đức
Phật Thích Ca, Đức Phật Di Đà, Mười phương chư Phật, Vô thượng Phật pháp, Quan
Âm Đại sỹ, cùng hiền Thánh Tăng.
Đệ tử lâu đời lâu kiếp
Nghiệp chướng nặng nề
Nay đến trước Phật đài,
Thành tâm sám hối
Thề tránh điều dữ
Nguyện làm việc lành,
Ngửa trông ơn Phật,
Quán Âm Đại sỹ,
Chư Thánh hiền Tăng,
Thiên Long Bát bộ,
Hộ pháp Thiên thần,
Từ bi gia hội.
Cúi xin các vị phù hộ cho chúng con
và cả gia đình tâm không phiền não, thân không bệnh tật, hàng ngày an vui làm
việc theo pháp Phật nhiệm màu, để cho vận đáo hanh thông, muôn thuở nhuần ơn
Phật pháp.
Đặng xin cứu độ cho các bậc Tôn
Trưởng cha mẹ, anh em, thân bằng quyến thuộc, cùng cả chúng sinh đều thành Phật
đạo.
Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin
được phù hộ độ trì.
Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
- VĂN KHẤN CẦU TÀI LỘC Ở
BAN THỜ TAM BẢO
Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
Đệ tử con thành tâm kính lạy Mười
phương chư Phật, chư vị Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng, Hộ pháp Thiện thần, Thiên
Long Bát Bộ.
Hôm nay là ngày: tháng:
năm: Đệ tử con là: Ngụ tại:
Thành tâm dâng lễ bạc cùng sớ trạng
(nếu viết sớ đặt trên mâm lễ vật) lên cửa Mười phương Thường trụ Tam Bảo.
Chúng con xin dốc lòng kính lễ:
- Đức Phật A Di Đà giáo chủ cõi Cực
Lạc Tây phương.
- Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo chủ
cõi Sa Bà.
- Đức Phật Dược Sư Lưu Ly giáo chủ
cõi Đông phương.
- Đức Thiên thủ, Thiên nhãn, Ngũ
bách danh tầm thanh cứu khổ cứu nạn, linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát.
- Kính lạy Đức Hộ Pháp thiện thần
Chư Thiên Bồ Tát.
Kính xin chư vị rủ lòng từ bi, phù
hộ độ trì cho con, nguyện được:.. (công danh, tài lộc, giải hạn, bình an…).
Nguyện xin chư vị, chấp kỳ lễ bạc,
tâm thành (sớ trạng) chứng minh, chứng giám cho con được tai quan nạn khỏi,
điều lành đem đến, điều dữ tiêu tan, phát lộc phát tài, gia trung mạnh khoẻ,
trên dưới thuận hoà an khang thịnh vượng.
Chúng con người phàm trần tục lầm
lỗi còn nhiều. Cúi mong Phật, Thánh từ bi đại xá cho con (và gia đình) được tai
qua nạn khỏi, mọi sự tốt lành, sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm.
Tín chủ chúng con lễ bạc tâm thành,
cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
- VĂN KHẤN PHẬT BÀ QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT
Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
Nam mô Đại từ Đại bi Linh cảm Quán
Thế Bồ Tát.
Kính lạy Đức Viên Thông giáo chủ
thuỳ từ chứng giám. Chúng con có nghe Đức
Phật dạy trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa phẩm Phổ Môn rằng "Dù chỉ nghe tên Quán Thế Âm
Hay dù chỉ thấy bức chân dung, Nhất tâm trì niệm hồng danh ấy,Thoát mọi hung
tai, được cát tường".
Hôm nay là ngày: tháng:
năm: Đệ tử con là: Ngụ tại:
Thành tâm đến trước Phật đài, nơi điện
Đại bi, kính dâng phẩm vật, hương hoa kim ngân tịnh tài, ngũ thể đầu thành,
nhất tâm kính lễ dưới toà sen hồng. Cúi xin Đức Đại Sỹ không rời bản nguyện chở
che cứu vớt chúng con như mẹ hiền phù trì con đỏ. Nhờ nước dương chi, lòng trần
cầu ân thanh tịnh, thiện nguyện nêu cao. Được ánh từ quang soi tỏ, khiến cho
nghiệp trần nhẹ bớt, tâm đạo khai hoa, độ cho đệ tử cùng gia đình bốn mùa được
chữ bình an, tám tiết khang ninh thịnh vượng, lộc tài tăng tiến, gia đạo hưng
long, mầm tai ương tiêu sạch làu làu, đường chính đạo thênh thang tiến bước.
Cầu gì cũng được, nguyện gì cũng thành.
Tín chủ chúng con lễ bạc tâm thành,
cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
- VĂN KHẤN ĐỊA TẠNG
VƯƠNG BỒ TÁT
Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
Nam mô Đại bi, Đại nguyện, Đại
thánh, Đại từ Bản tôn Minh Vương cứu khổ, Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Hôm nay là ngày: tháng:
năm: Đệ tử con là: Ngụ tại:
Thành tâm đến trước Phật đài, nơi
điện Cửa hoa, kính dâng phẩm vật, hương hoa kim ngân tịnh tài, ngũ thể đầu
thành, nhất tâm kính lễ dưới toà sen báu. Cúi xin đức Đại sỹ chở
che cứu vớt chúng con và cả gia quyến như thể mẹ hiền, phù trì con đỏ. Nhờ ánh
ngọc Minh châu tiêu trừ tội cấu, trí tuệ mở mang, tâm đạo khai hoa, não phiền
nhẹ bớt. Khi còn sống thực hành thiện nguyện, noi gương Đại sỹ, cứu độ chúng
sinh. Khi vận hạn ốm đau, nhờ được đức từ hộ niệm, Thần linh bản xứ giúp yên.
Lúc lâm chung được nhờ ánh bi quang, vượt khỏi tam đồ, sinh lên cõi thiện.
Lại nguyện cho Hương kinh Gia tiên
chúng con nhờ công đức cúng dâng này thảy đều siêu thoát.
Tín chủ con lễ bạc tâm thành, cúi
xin được phù hộ độ trì.
Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
- VĂN KHẤN ĐỨC ÔNG
Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
Kính lạy Đức Ông Tu Đạt Tôn Giả,
Thập Bát Long Thần, Già Lam Chân Tể.
Hôm nay là ngày: tháng:
năm: Đệ tử con là: Ngụ tại:
Cùng cả gia đình tới cửa chùa trước
điện Đức Ông, thành tâm kính lễ, (nếu có đang lễ vật thì khấn thêm “hiến dâng
phẩm vật, kim ngân tịnh tài”), chúng con tâu lên Ngài Tu Đạt Tôn Giả từ cảnh
trời cao soi xét.
Chúng con kính tâu lên Ngài Già Lam
Chân Tể cai quản trong nội tự cùng các Thánh Chúng trong cảnh chùa đây.
Thiết nghĩ chúng con sinh nơi trần
tục, nhiều sự lỗi lầm, hôm nay tỏ lòng thành kính, cúi xin Đức Ông thể đức hiếu
sinh, rủ lòng tế độ che chở cho chúng con, ba tháng hè chín tháng đông, tiêu
trừ bệnh tật tai ương, vui hưởng lộc tài may mắn, cầu gì cũng được, nguyện gì
cũng thành.
Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin
được phù hộ độ trì.
Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
- VĂN KHẤN ĐỨC THÁNH
HIỀN
Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
Con cúi lạy Đức Thánh Hiền, Đại
Thánh Khải Giáo A Nan Đà Tôn Giả.
Hôm nay là ngày: tháng:
năm: Đệ tử con là: Ngụ tại:
Thành tâm tiến dâng lễ bạc, oản quả,
hương hoa. Cầu mong Tam Bảo chứng minh, Đức Thánh Hiền chứng giám, rủ lòng
thương xót phù hộ cho con được mọi sự tốt lành, sức khỏe dồi dào, an ninh khang
thái, gia đạo hưng long, thịnh vượng.
Cúi mong Ngài soi xét tâm thành, phù
hộ cho gia đình chúng con được sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm.
Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
- VĂN KHẤN THÀNH HOÀNG
Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
- Con lạy chín phương trời, Mười
phương chư Phật, chư vị Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng, Hộ pháp Thiện thần, Thiên
Long Bát Bộ.
- Con kính lạy Hoàng Thiên Hậu Thổ
chư vị Tôn thần.
- Con xin kính lạy ngài Kim Niên
Đương cai Thái tuế chí đức Tôn thần.
- Con xin kính lạy ngài Bản cảnh
Thành Hoàng chư vị Đại Vương.
Hôm nay là ngày: tháng:
năm: Hương tử con là: Ngụ tại:
Thành tâm kính nghĩ: Đức Đại Vương
nhận mệnh Thiên đình giáng lâm ở nước Việt Nam làm Bản cảnh Thành Hoàng chủ tể
một phương bấy nay ban phúc lành che chở cho dân. Nay hương tử chúng con thành
tâm dâng lên lễ bạc, hiến tế hương hoa, phẩm oản…
Cầu mong đức Bản cảnh Thành hoàng
chư vị Đại Vương chứng giám, rủ lòng thương xót, phù hộ che chở cho chúng con
sức khoẻ dồi dào, mọi sự tốt lành, sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm.
Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
.
9. KINH ĐIỂN PHẬT GIÁO NÓI VỀ CÔNG ĐỨC NIỆM PHẬT
*. 10 công đức niệm Phật của Phật tử:
1.- Thường được chư Phật
ngày đêm hộ niệm, Đức A-Di-Đà phóng quang nhiếp thọ.
2.- Thường được các vị
Đại Bồ Tát như Đức Quán Thế Âm thủ hộ.
3.- Ngày đêm thường được
chư Thiên cùng Đại lực Thần tướng ẩn hình ủng hộ.
4.- Tất cả Dạ Xoa, ác
quỉ, rắn độc, thuốc độc đều không thể làm hại.
5.- Không bị những tai
nạn: nước, lửa, đao, tên, gông, xiềng, lao ngục, giặc cướp, oan gia, cùng các
thứ chết dữ.
6.- Những tội mình đã
làm hết thảy đều được tiêu diệt, những kẻ chết oan vì mình đều được giải thoát,
không còn kết oán ràng buộc.
7.- Ban đêm nằm ngủ
thường thấy điềm lành, hoặc thấy sắc thân thắng diệu của Phật A-Di-Đà.
8.- Tâm thường vui vẻ,
sắc thường tươi nhuận, khí lực đầy đủ, việc làm có kết quả tốt đẹp lợi ích.
9.- Mọi người trông thấy
đều vui mừng, cung kính hoặc lễ bái cũng như kính Phật.
10.- Khi mạng chung tâm
không sợ hãi, chính niệm hiện ra, được Tây phương Tam-Thánh tiếp dẫn sanh về
Tịnh-Độ hưởng sự an vui không cùng.
*. 10 công đức lạy Phật của Phật tử:
1.- Được sắc thân tốt
đẹp.
2.- Nói ra điều chi ai
cũng tin dùng.
3.- Không sợ sệt giữa
đông người.
4.- Được chư Phật giúp
đỡ.
5.- Đầy đủ oai nghi lớn
lao.
6.- Mọi người đều nương
theo mình.
7.- Chư Thiên cung kính.
8.- Đủ phúc đức lớn.
9.- Lúc lâm chung được
vãng sinh.
10.- Mau chứng quả Niết
Bàn.
10. KINH ĐIỂN PHẬT
GIÁO VỀ 10 CÔNG ĐỨC CỦA VIỆC IN, ẤN, QUẢNG BÁ GIÁO LÝ, KINH PHẬT, TẠC TƯỢNG
PHẬT
1. Đã lỡ phạm tội, nếu
tội nhẹ thì liền được tiêu tan, nếu tội nặng thì được chuyển thành tội nhẹ.
2. Thường được thiện
thần ủng hộ, tránh khỏi tất cả ôn dịch, đao binh, giặc cướp, tù tội, lửa cháy,
nước trôi .…
3. Nhờ chính pháp mà
những kẻ đã có oán thù với mình trong kiếp trước được giải thoát nên tránh được
sự khổ sở về tội báo thù.
4. Ác Quỷ Dạ Xoa không
thể xâm phạm, cọp đói, rắn độc không thể hại được.
5. Tâm được yên ổn, ngày
không có sự nguy hiểm, đêm không có ác mộng, nhan sắc sáng sủa tươi tắn, khí
lực dồi dào, việc làm tốt, lợi.
6. Hết lòng phụng sự
chính pháp, tuy không mong cầu nhưng cơm ăn áo mặc tự nhiên đầy đủ, gia đình
hòa thuận phúc thọ miên trường.
7. Lời nói và việc làm,
trời, người đều hoan hỷ; đến nơi nào cũng được nhiều người kính mến.
8. Nếu ngu si thì chuyển
thành trí huệ, bệnh tật chuyển thành lành mạnh, nguy hiểm chuyển thành yên ổn,
nếu là đàn bà sau khi chết sẽ chuyển thành đàn ông.
9. Xa lìa các đường dữ
(địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh), được sinh vào các cõi thiện (người, trời) tướng
mạo đoan chánh, thông minh, xuất chúng phúc lộc hơn người.
10. Đủ năng lực để gây
căn lành cho chúng sinh, lấy tâm chúng sinh làm ruộng phúc sẽ thu hoạch được
nhiều quả tốt. Sinh vào chỗ nào cũng được thấy Phật, nghe pháp; ba thứ trí huệ
(văn huệ, tư huệ, tu huệ) mở rộng, chứng được sáu thần thông (thiên nhãn, thiên
nhĩ, tha tâm, túc mạng, thần túc và lậu tận thông).
11. KINH ĐIỂN PHẬT
GIÁO NÓI VỀ CÔNG ĐỨC KHI THÀNH TÂM THỰC HÀNH 10 THIỆN NGHIỆP
*. 10 thiện nghiệp của
Phật tử:
1. Không giết hại.
2. Không tà dục.
3. Không trộm cắp.
4. Không nói dối.
5. Không nói thêu
dệt.
6. Không nói lưỡi
hai chiều.
7. Không nói lời
hung ác.
8. Không tham muốn.
9. Không giận hờn.
10. Không si mê.
*. Những lợi ích khi
thực hành 10 điều thiện nghiệp
Phật tử thành tâm thực
hành mười điều thiện, sẽ được những lợi ích sau đây:
Cải tạo thân tâm: Trước
nhất chúng ta cải tạo thân tâm của chúng ta, nếu một người dốc lòng chí nguyện
thì trong vòng 7 năm, thân tâm người ấy sẽ hoàn toàn thay đổi.
Cải tạo hoàn cảnh: Một
người thực hành theo mười điều thiện, người ấy sẽ cảm hóa được những người
chung quanh, người ấy ăn hiền, ở lành sẽ được những người khác yêu mến, không
có những cuộc tranh đua, hóa giải những tị hiềm, đố kỵ, tạo ra sự an lạc cho
mọi người.
Chính nhân thiên giới:
Tu theo mười điều thiện là gieo nhân chân chính, để kiếp sau sẽ sinh về cõi
Trời, hưởng phúc lạc đầy đủ, tốt đẹp.
Căn bản Phật quả: Ba đời
mười phương chư Phật đều phải trải qua công hạnh tu tập theo mười điều thiện,
nó là cửa ngỏ dẫn người ta đi dần lên Phật quả.
12. TRUYỀN THUYẾT
LỄ VU LAN
Theo truyền thuyết Phật
Giáo, hơn 25 thế kỷ về trước, sau khi đắc đạo Mục Kiền Liên Bồ Tát nhìn xuống
cõi khổ, thấy mẹ là bà Thanh Đề đang lâm kiếp Ngạ Quỷ, bị treo ngược, đày đoạ
cùng quỉ đói. Quá thương cảm, Mục Kiền Liên Bồ Tát dùng thần thông dâng chén
cơm cho mẹ. Nhưng lòng tham của bà Thanh Đề thấy cơm thì bộc phát, khiến chén
cơm hóa lửa than đỏ rực, thiêu cháy cả miệng lẫn tay.
Mục Kiền Liên Bồ Tát vô
cùng đau xót ruột gan, nước mắt ròng ròng, lạy mẹ, trở về gặp Phật. Mục Liên lễ
Phật, kể rõ đầu đuôi câu chuyện, mong Phật chỉ bày phương cách cứu mẹ.
Phật bảo:
- Mẹ ông khi còn sống
thì tham lam, ích kỷ, khinh khi Tam Bảo, đố kỵ các bậc chân tu và gây nhiều tội
ác nặng nề; vì thế phúc đức môt mình ông không thể cứu độ được, mà phải thêm uy
lực của chư tăng. Vậy, nhân ngày rằm tháng Bảy, ngày chư tăng tròn 3 tháng an
cư, thân tâm thanh tịnh, ngày chư tăng tự tứ, ngày chư Phật mười phương hoan
hỉ. Ông nên ngày đó mà thiết lập chay đàn, nhờ công đức của các vị chân tăng
đồng tâm nhất niệm mà nguyện cầu thì sẽ cảm hoá mẹ ông, cảm thông đến mười
phương chư Phật; như thế mới mong giải thoát được tôi khổ. Mẹ ông tội căn nặng
như tảng đá lớn mà công đức tu hành của ông như chiếc thuyền nhỏ, nên phải cần
nhiều chiếc thuyền kết lại thành bè mới có thể đưa được tảng đá to nặng kia qua
sông ngạ quỉ, thoát vòng trầm luân...
Mục Kiền Liên Bồ Tát tập
trung tài lực để chuyên tâm lo việc trai tăng. Nhờ công đức đó mà bà Thanh Đề
được chuyển thành thiện tâm, thoát khỏi cảnh đọa đày kiếp Ngạ Quỷ, được lên cõi
Trời.
Từ đó, hàng năm đến ngày
rằm tháng Bảy, con thảo, cháu hiền làm lễ Vu Lan cầu siêu cho thân nhân quá
vãng.
13. NGHI THỨC LÀM
LỄ LẠY PHẬT
Nghi thức làm lễ lạy
Phật như sau:
Trước khi lạy Phật thì
Phật tử phải phải tắm rửa cho sạch sẽ; nếu sáng sớm dậy, phải đánh răng, rửa
mặt, tay, chân; tóc chải gọn gàng, ăn mặc sạch sẽ; nếu có áo tràng phải mặc vào
rồi mới thực hành lễ Phật.
Khi lạy Phật, đứng ngay
ngắn chỉnh tề trước ban thờ Phật, chắp hai tay trước ngực, vái 3 vái rồi mới
lạy. Còn nếu nguyện hương, thì đốt 3 nén hương rồi thỉnh 3 tiếng chuông,
quỳ xuống lấy hương, hai tay cầm 3 nén hương đưa ngang trán để khấn nguyện, mỗi
nguyện một vái, nguyện xong vái 3 vái rồi cắm hương vào lư hương (hoặc bát nhang).
Trước khi lạy, đứng
thẳng người, hai tay chắp ngang ngực, vái 3 vái rồi quỵ hai đầu gối, sau đó để
hai bàn tay xuống, lật hai lòng bàn tay ngửa lên, rồi cúi đầu xuống, trán chạm
xuống nền nhà chỗ khoảng trống giữa hai bàn tay, gọi là "ngũ thể đầu địa"
tức là 2 tay, 2 chân và trán chạm đất. Khi đứng lên, ngẩng đầu và nâng
thân mình lên rồi lật úp hai bàn tay lại, dùng hai bàn tay chống xuống sàn nhà
để nâng cả thân mình lên cùng lúc, khi đã đứng ngay thẳng rồi vái 1 vái, xong
lạy lần thứ ba, rồi lại vái ba vái.
Lạy hay vái Phật thì
Phật tử đều phải làm từ tốn, chậm rãi để tỏ lòng cung kính. Trong khi vái,
lạy Phật thì tâm phải thành kính tưởng nhớ đức Phật, không tưởng nghĩ đến
chuyện khác, đó chính là tâm ta trong sạch, trong ý nghĩa thân tâm ta trong
sạch.
Trong khi lạy Phật nếu
có chuông thì khi nghe tiếng chuông đánh, người thực hành tín ngưỡng sẽ cúi
xuống lạy, khi nghe tiếng chuông dập (dùi chuông đánh vào và giữ lại ở miệng
chuông), mới cất đầu và đứng lên.
14. CỜ PHẬT GIÁO VÀ
Ý NGHĨA BIỂU TƯỢNG
Cờ Phật Giáo, trước hết
là biểu trưng cho niềm chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình, tinh thần thống
nhất của Phật tử trên toàn thế giới.
Ngoài ra, cờ Phật Giáo
còn có ý nghĩa cắt bỏ quan niệm cố chấp các ranh giới địa phương, gia tăng niềm
hăng hái đoàn kết để phụng sự cho Ðạo Pháp và dân tộc.
Người phác họa ra lá cờ
Phật Giáo Thế Giới là ông Henry Steel Olcott, sinh ngày 2-8-1832 tại New Jersey
- Hoa Kỳ và mất ngày 17-2-1907 tại Adgar, Ấn Ðộ.
Năm 1889, ông cùng
Thượng tọa Susmangala phỏng theo sáu mầu hào quang của Ðức Phật (xanh đậm,
vàng, đỏ, trắng, cam và mầu tổng hợp của năm mầu này), đã phác họa ra mẫu cờ
Phật Giáo, với ý nghĩa: "Nó có thể được các quốc gia Phật Giáo chấp nhận
như một biểu tượng quốc tế cho tín ngưỡng của họ, giống như cây thánh giá đối
với tín đồ Thiên chúa giáo".
Ý nghĩa của màu sắc phân
biệt là:
1.- Xanh đậm: Tượng trưng cho
Ðịnh căn. Màu xanh tượng trưng cho sự rộng lớn, sáng suốt.
2.- Vàng lợt: Tượng trưng cho
Niệm căn, vì có Chánh Niệm mới sanh Ðịnh và phát Huệ.
3.- Ðỏ: Tượng trưng cho Tinh
Tấn căn. Có tinh tấn mới khắc phục được mọi trở ngại, nghịch cảnh.
4.- Trắng: Tượng trưng cho
Tín căn, niềm tin không lay chuyển, và có tín căn là có Nhân Duyên với chư Phật
và nguồn gốc sanh ra muôn hạnh lành.
5.- Da cam: Tượng trưng cho
Huệ căn. Khi có Tín, Tấn, Niệm, Ðịnh đầy đủ thì Tuệ sẽ phát sanh.
6.- Màu tổng hợp: Tượng trưng
cho tinh thần đoàn kết của Phật giáo đồ trên toàn thế giới.
15. BỔN PHẬN VÀ MỘT
SỐ NGHI THỨC CẦN THIẾT CỦA TÍN ĐỒ PHẬT GIÁO VỚI CHƯ TĂNG VÀ THIỆN HỮU TRÍ
THỨC
Đối với chư Tăng và
thiện hữu tri thức, bổn phận của tín đồ (Phật tử) cần tuân thủ 5 điều:
- Thành thật đối với chư Tăng và thiện hữu tri
thức.
- Cung kính và vâng lời
dạy bảo của quí vị minh sư và các thiện hữu.
- Chăm chỉ nghe lời
giảng dạy của các vị Tăng già đức độ, thẩm xét cho kỹ lưỡng rồi như pháp mà tu
hành.
- Cầu học với chư Tăng
và thiện hữu.
- Cầu thỉnh các vị minh
sư chỉ dạy cho mình những pháp môn cần yếu, để ngày đêm chuyên tâm tu trì,
không gián đoạn.
Bên cạnh đó, tín đồ Phật
Giáo cũng tuân thủ một số nghi thức và cách xưng hô với chư Tăng:
- Khi gặp một vị hay
nhiều vị Tăng tại chùa hay ngoài đường, nên chắp tay kính cẩn chào, bằng cách
niệm: “Nam mô A Di Ðà Phật”, với vẻ mặt hoan hỷ.
- Khi giao tiếp với các
vị Bổn sư, các vị Tăng già nên kêu bằng thầy là phải cách và đầy đủ ý nghĩa
nhất vì thầy là có ý tôn kính như cha (quân, sư, phụ) và là người thường dạy
bảo mình trên đường tu tập. Chỉ đối với những vị sư có đạo hạnh, nhiều tuổi
Ðạo, mới nên dùng chữ Thượng Tọa hay Ðại Ðức.
- Trước khi vào Chánh
điện lễ Phật, phải rửa mặt, súc miệng, rửa tay cho sạch sẽ, để giầy dép ngoài
thềm cửa. Khi vào Chánh điện thì đi ở phía trái, khi ra thì đi về phía phải.
- Khi tụng kinh, phải
chắp hai tay ngang ngực, mười ngón tay từng cặp bằng nhau, không so le, hai
lòng bàn tay khít lại, đừng để trống giữa. Chân đứng ngang bằng, hình chữ
“bát”, mắt ngó xuống, chăm chỉ tụng cho các câu rành mạch, ăn nhịp, theo tiếng
mõ và tiếng tụng của ông Duy na (dẫn đầu).
- Khi lễ Phật, năm vóc
phải sát đất, nghĩa là đầu, hai tay, hai gối, phải sát chiếu, hết lòng thành
kính mà lễ. Khi lễ Phật xong, đi ra phải bước lui, mắt ngó tượng.
- Trước khi cầm kinh hay
tụng kinh phải rửa tay. Cầm sách kinh đi đâu, nên ôm trên ngực. Nếu cầm kinh mà
muốn chào người, thì phải để kinh trên bàn trước khi chào. Gặp trường hợp không
có chỗ để kinh, thì ôm vào ngực mà chào: “A Di Ðà Phật” là được.
16. TÍN NGƯỠNG THỜ
MẪU Ở VIỆT NAM
Tín ngưỡng thờ Mẫu là sự
tin tưởng, ngưỡng mộ tôn vinh và thờ phụng những vị nữ thần gắn với các hiện
tượng tự nhiên, vũ trụ được dân gian cho là có chức năng sáng tạo, bảo trợ và
chở che cho sự sống của con người (như trời, đất, sông, nước, núi rừng…); hoặc
thờ phụng các vị thái hậu, hoàng hậu, công chúa là những người khi sống tài
giỏi, có công với dân với nước, khi mất hiển linh phù trợ cho người an vật
thịnh. Các vị nữ thần này được tôn vinh với các chức vị: Thánh Mẫu (Thánh Mẫu
Liễu Hạnh, Chúa xứ Thánh Mẫu, Linh Sơn Thánh Mẫu), Quốc Mẫu (Quốc Mẫu Âu Cơ),
Vương Mẫu....
Tục thờ Mẫu ra đời trên
cơ sở tục thờ nữ thần. Các Thánh Mẫu đều là nữ thần, được thờ trong đền, chùa,
miếu, điện, phủ. Do ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Quốc, tín ngưỡng thờ Mẫu ở
nước ta đã phát triển và hình thành tín ngưỡng Tam Phủ (Thiên Phủ - miền Trời
có Mẫu Cửu Trùng cai quản; Sơn Phủ - miền núi rừng có Mẫu Thượng Ngàn cai quản;
Thủy Phủ - miền sông nước có Mẫu Thoải cai quản), Tứ phủ gồm ba phủ trên (tức
Tam phủ) và Phủ trần gian, có Mẫu Liễu Hạnh cai quản.
Đến thế kỷ XVI, trên cơ
sở tín ngưỡng Tam Phủ, Tứ Phủ, với sự ra đời của Thánh Mẫu Liễu Hạnh, một tôn
giáo bản địa sơ khai được hình thành, đó là đạo Mẫu (còn gọi là đạo Nội).
So với tín ngưỡng thờ nữ
thần, thờ Mẫu, đạo Mẫu đã có bước phát triển, bước đầu hình thành một hệ thống
tương đối nhất quán về điện thần với các phủ, các hàng Điện Thần của Đạo Mẫu có
hàng chục vị thần linh nhưng đều quy tụ dưới sự điều chỉnh của Tam Tòa Thánh
Mẫu. Trong đó có một vị thần Mẫu cao nhất, mang tư cách là một vị giáo chủ -
Thánh Mẫu Liễu Hạnh, được xem như là hoá thân của Mẫu Thượng Thiên. Những nghi
lễ của Đạo Mẫu đã bước đầu được chuẩn hoá, trong đó nghi lễ hầu bóng là một
điển hình.
17. CÁCH NHẬN BIẾT
BAN THỜ MẪU Ở ĐỀN, PHỦ, CHÙA
Điện thờ Mẫu có ở khắp
mọi nơi, từ đồng bằng lên miền núi và cả ở trong khu cư trú của cộng đồng người
Việt ở nước ngoài. Ở một số nơi, ban thờ Mẫu chỉ là một ban thờ nhỏ khiêm tốn
đặt tại một góc trong ngôi chùa, hoặc một điện thờ nhỏ trong gia đình,
nhưng có nơi lại tồn tại như một điện phủ nguy nga. Cho nên, người ta chỉ nhận
diện trong từng kiến trúc tổng thể của điện (ban) thờ, nhất là ở sự bày bố điện
(ban) thờ và nghi lễ thờ cúng, chứ không căn cứ vào chi tiết cụ thể của tín
ngưỡng thờ Mẫu. Chính những nét riêng ấy đã làm nên những đặc trưng của tín
ngưỡng thờ Mẫu khiến cho tín ngưỡng này là một hình thức tín ngưỡng thuần phát
đặc biệt của người Việt Nam.
Cấu trúc nơi thờ Mẫu:
Trong tâm thức dân gian
của cư dân nông nghiệp: Dòng sông, con suối, hồ nước... là những nơi có nước
mang tính nữ (Âm). Vì vậy hầu hết các điện mẫu thường được xây dựng cạnh sông,
suối, hồ, biển (cửa biển)... Và các cửa điện (ban thờ) Mẫu bao giờ cũng được
đặt quay về phía nguồn nước - những nơi tụ thuỷ, tụ phúc, hàm chứa những mong
ước làm ăn phát đạt. Vì vậy, nếu như không chọn được thế đất lành tự nhiên có
sông, hồ ôm bọc thì bao giờ trong khuôn viên dựng điện Mẫu người ta cũng làm
hồ, ao, giếng... để dựng lại một không gian cần phải có, ứng với thuật phong
thuỷ của người xưa.
Cũng để tạo tính âm,
nhiều điện mẫu ở vùng cao thường được dựng trong các hang động hoặc xây dựng
theo các hòn non bộ với những ngọn đá mọc lên từ đất hoặc dầm chân trong nước.
Cấu trúc không gian
trong điện thờ Mẫu:
Vị trí chư vị Thánh được
sắp xếp theo 3 tầng: Tầng trên không, tầng ngành trên ban, bệ thờ và tầng trệt.
Ở tầng không là sự hiện
diện của đôi mãng xà (còn gọi là ông Lốt), tượng trưng cho quan lớn Tuần Tranh.
Một con màu trắng, một con màu sẫm quấn trên sà ngang phía trái bên trên bàn
thờ.
Ở tầng ngang bên trên
ban (bệ) thờ có khi chỉ có một bàn, có khi là một dãy bàn từ ngoài vào cao dần
(tùy từng nơi), là nơi ngự của các thánh Mẫu (cũng có khi chỉ là một tượng Mẫu)
và các chư vị Thánh.
Ở hạ ban (tầng trệt) bao
giờ cũng thờ ông Năm Dinh hay Ngũ Hổ tướng quân, với biểu trưng là tượng hoặc
bức tranh hổ; phía trước tượng hoặc tranh, đặt một bát hương.
Trước ban thờ Mẫu bao
giờ cũng treo tầng lớp những đồ vàng mã, nhưng phổ biến và không thể thiếu là
nón, hài, thuyền rồng, đèn lồng đủ màu, với nhiều kích cỡ khác nhau. Sở dĩ có
treo những đồ vật ấy vì trong đạo thờ Mẫu, từ Thánh Mẫu tới hàng quan, hàng
chầu, ông Hoàng, các Cô, các Cậu đều gồm các vị thần linh có gốc gác từ chốn
rừng núi cao, nơi ven biển xa xôi, ở mọi miền của đất nước.
Tam Tòa Thanh Mẫu:
Trong các điện thờ,
người ta thờ cúng rất nhiều thần linh, nhưng đều quy tụ dưới sự điều chỉnh của
Tam Toà thánh Mẫu. Vì vậy, nơi điện thờ chính thường có ba pho tượng thờ, mà
tín ngưỡng gọi tôn kính là Tam Tòa Thánh Mẫu.
- Tượng Mẫu Đệ Nhất, mặc
áo đỏ, trùm khăn đỏ tức Thánh Mẫu Liễu Hạnh được đặt ở giữa.
- Bên trái là mẫu Đệ Nhị
(mẫu Thượng Ngàn), bà chúa của Sơn Lâm, mặc áo xanh, khăn xanh.
- Bên phải là mẫu Đệ
Tam, tức mẫu Thoải, mặc áo trắng, trùm khăn trắng.
Văn khấn lễ Tam Tòa
Thánh Mẫu:
Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
- Con kính lạy Đức Hiệu Thiên chí
tôn kim quyết Ngọc Hoàng Huyền cung cao Thượng đế.
- Con kính lạy Hoàng Thiên Hậu Thổ
chư vị Tôn thần.
- Con xin kính Cửu trùng Thanh Vân
lục cung công chúa.
- Con kính lạy Đức thiên tiên Quỳnh
Hoa Liễu Hạnh Mã Hoàng Công chúa, sắc phong Chế Thắng Hoà Diệu đại vương, gia
phong Tiên Hương Thánh Mấu.
- Con kính lạy Đức đệ nhị đỉnh
thượng cao sơn triều mường Sơn tinh công chúa Lê Mại Đại Vương.
- Con kính lạy Đức đệ tứ khâm sai
Thánh Mẫu, tứ vi chầu bà, năm tòa quan lớn, mười dinh các quan, mười hai Tiên
cô, mười hai Thánh cậu, ngũ hổ Đại tướng, Thanh Hoàng Bạch xà đại tướng.
Hôm nay là ngày: tháng:
năm: Đệ tử con là: Ngụ tại:
Đến nơi Điện (Phủ, Đền) .........
chắp tay kính lễ khấu đầu vọng bái, lòng con thành khẩn, thiết tha, kính dâng
lễ vật, cúi xin các Ngài xót thương phù hộ độ trì cho gia chung chúng con sức khỏe
dồi dào, phúc thọ khang ninh, đắc tài, đắc lộc, vạn sự hanh thông, gặp nhiều
may mắn.
Đệ tử con lễ bạc tâm thành, trước án
kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
18. TÍN NGƯỠNG THỜ
TAM PHỦ, TỨ PHỦ LÀ GÌ?
Nói đến tín ngưỡng thờ
Mẫu, người ta thường nhắc tới một loại hình tín ngưỡng rất độc đáo xuất phát từ
đồng bằng Bắc bộ và lan tỏa khá phổ biến trên toàn quốc, đó là tín ngưỡng thờ
Mẫu Tam phủ - Tứ phủ.
Vào thời kỳ đầu của tín
ngưỡng Tam phủ thì quan niệm, “Tam phủ” vốn để chỉ ba miền Thiên phủ, Địa phủ
và Thoải phủ. Ba phủ này đều có vua cha và chư vị thần linh cai quản.
Khi ấy, Tam phủ gồm:
- Thiên phủ (màu xanh) là
nơi các chư vị thần linh cai quản bầu trời ngự trị với người đứng đầu là Ngọc
Hoàng thượng đế.
- Địa phủ (màu vàng) là nơi
chư vị thần linh cai quản vùng đất ngự trị, người đứng đầu là Diêm Vương.
- Thủy phủ còn gọi là Thoải
phủ (Màu trắng) do vua Bát Hải cùng chư vị quan thần cai quản miền sông nước.
Về sau này, khi đạo Mẫu phát triển và có những
biến đổi phù hợp với xã hội thì hầu hết mọi người khi nghe nói tới Tam phủ
thường nghĩ tới 3 vị Thánh Mẫu trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt.
Tam tòa Thánh Mẫu gồm có: Thượng Thiên
Thánh Mẫu (Thánh Mẫu đệ nhất) cai quản miền trời, Thượng Ngàn Thánh Mẫu (Thánh
Mẫu đệ nhị) cai quản miền rừng núi và Mẫu Thoải Phủ (Thánh Mẫu đệ tam) cai quản
vùng sông nước.
Tuy nhiên, Tam Phủ hay
Tam Phủ Công Đồng còn có vua cha và chư vị quan thần được tôn thờ với trật tự
chặt chẽ. Trật tự này thường được thể hiện rất rõ trong trật tự các giá hầu
đồng. Điều này lý giải tại sao trong các bài văn khấn ta vẫn thấy khấn: “Con lạy Tam Phủ Công Đồng, Tứ phủ Vạn linh”
ở đầu.
Còn Tứ Phủ thì sao?
Như đã nói ở trên, trong
thời kỳ khởi nguyên, “Tam phủ” vốn là để chỉ ba miền Thiên Phủ, Địa Phủ và
Thoải Phủ, lúc bấy giờ khái niệm Nhạc Phủ chưa có
Khái niệm Nhạc Phủ được
ra đời gắn liền câu chuyện Mẫu Thượng Ngàn hiển linh giúp vua Lê Thái Tổ trong
trận đánh Xương Giang, Chi Lăng. Chuyện dã sử truyền rằng, có một đàn đom đóm
kết đèn dẫn đường trong đêm Lê Thái Tổ hành quân đánh trận Xương Giang, Chi
Lăng giết chết Liễu Thăng. Khi ca khúc khải hoàn, ban thưởng công lộc cho tướng
sĩ, sắc phong cho các vị linh thần âm phù xã tắc. Lê Thái Tổ không quên hình
ảnh đàn đom đóm kết đèn dẫn đường. Trước ngày sắc phong ban thưởng nhà vua mộng
thấy một quản chưởng mặc áo trắng nói rằng: "Ta là quản chưởng sơn lâm. Ta biến thành đom đóm dẫn đường cho nhà Vua
giết giặc". Vua Lê Thái Tổ đã sắc phong bà là "Nhạc
Phủ Lê Mại Đại Vương hiệu Viết Bạch Anh Chưởng Lâm Công Chúa". Từ
đó nhạc Phủ ra đời chính thức hình thành Tứ Phủ
Lúc này Tứ phủ bao gồm :
- Thiên
phủ: Gồm các vị thần linh cai quản bầu trời, làm chủ các quyền mây mưa
gió bão, sấm chớp.
- Nhạc
phủ: Gồm các vị thần linh trông coi miền rừng núi, ban phát của cải
cho chúng sinh.
- Thủy
Phủ: Gồm các vị thần linh trị vì các miền sông nước, giúp ích cho nghề
trồng lúa nước và ngư nghiệp.
- Địa
phủ: bao gồm các vị thần linh vùng đất đai, là nguồn gốc cho mọi sự
sống.
Nhưng khi nhắc tới Tứ
Phủ, thì hầu hết mọi người thường chỉ nghĩ đến các Thánh Mẫu trong tín ngưỡng
thờ Mẫu:
- Thiên phủ (miền trời): Mẫu đệ nhất (mẫu Thượng Thiên) cai quản bầu
trời, làm chủ các quyền năng mây mưa, gió bão, sấm chớp.
- Nhạc phủ (miền rừng núi): Mẫu đệ nhị (mẫu Thượng Ngàn) trông coi miền
rừng núi, ban phát của cải cho chúng sinh.
- Thuỷ phủ (miền sông nước): Mẫu đệ tam (mẫu Thoải) trị vì các miền
sông nước, giúp ích cho nghề trồng lúa nước và ngư nghiệp.
- Địa phủ (miền đất): Mẫu đệ tứ (mẫu Địa Phủ) quản lí vùng đất đai,
là nguồn gốc cho mọi sự sống.
Trong các đền, điện thờ
Tứ phủ, tam toà thánh mẫu được xếp theo thứ tự:
- Mẫu đệ nhất: Mẫu Liễu
- Mẫu đệ nhị: Mẫu Thượng
Ngàn
- Mẫu đệ tam: Mẫu Thoải.
Mẫu đệ tứ các đền thờ ít
hơn và thường thờ nơi quàn các vong linh.
19. THỜ MẪU VÀ CÁC
HÌNH THỨC MÚA BÓNG, HẦU BÓNG Ở NAM BỘ (Ngô Đức Thịnh - Nguồn:
vanhoanghethuat.org)
“Trong công trình về Đạo Mẫu (Mẫu Tam phủ, Tứ
phủ) xuất bản năm 1993, chúng tôi đã có dự cảm về mối quan hệ bản chất giữa thờ
Mẫu Tam phủ, Tứ phủ với các hình thức thờ Nữ thần và Mẫu thần, do vậy đã dành
một chương để nói về từ thờ nữ thần, mẫu thần đến thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ.
Đến Hội thảo khoa học
quốc tế về Đạo Mẫu và các hình thức Shaman ở Việt Nam và châu Á, tổ chức năm
2001 tại Hà Nội, chúng tôi đã tiến đến một quan niệm về tín ngưỡng thờ Mẫu ở
Việt Nam một cách đầy đủ và toàn diện hơn. Đó là, tục thờ Mẫu (hay Đạo Mẫu)
không chỉ là một hình thức tín ngưỡng đơn nhất, mà là một hệ thống các tín
ngưỡng bao gồm ba dạng thức cơ bản: Thờ Nữ thần, thờ Mẫu thần và thờ Mẫu Tam phủ,
Tứ phủ. Quá trình hình thành và phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu này cũng mang
tính đa chiều: Từ thờ Nữ thần là nền tảng dần hình thành nên tục thờ Mẫu thần
và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ; ngược lại, sau khi Mẫu Tam phủ, Tứ phủ đã hình thành
khoảng thế kỷ XVI - XVII (từ tục thờ nữ thần bản địa và ảnh hưởng của Đạo giáo
Trung Hoa) thì nó ảnh hưởng trở lại, “Tam phủ, Tứ phủ” hóa tục thờ Mẫu thần và
Nữ thần nguyên thủy.
Từ mô hình tổng quát về
tín ngưỡng thờ Mẫu này, chiếu vào thực tế Nam Bộ, chúng ta thấy những có sự
thống nhất và sai biệt gì?
1. Hiện nay, ở Nam Bộ
chúng ta đều quan sát thấy sự hiện diện của cả ba lớp thờ Mẫu: Lớp thờ Nữ thần,
lớp Mẫu thần và lớp Mẫu Tam phủ, Tứ phủ. Tuy nhiên, nếu như ở Bắc Bộ, tục thờ
Nữ thần và Mẫu thần có sự phân biệt nhất định, mà biểu hiện rõ rệt nhất là
thông qua tên gọi và xuất thân của các vị thần. Thí dụ Vương Mẫu, Quốc Mẫu,
Thánh Mẫu... và phần lớn là nhân thần có nguồn gốc từ hoàng tộc (hoàng hậu,
cung phi, công chúa...), để phân biệt với các nữ thần khác, như Mẹ Lúa, Tứ
pháp..., thì ở Nam Bộ, sự phân biệt giữa hai lớp Nữ thần và Mẫu thần thường ít
rõ ràng hơn.
Thí dụ, nếu như ở Nam
Bộ, Bà Chúa Xứ, Bà Chúa Ngọc (Thiên Ya Na), Linh Sơn Thánh Mẫu - Bà Đen được
coi như là những Mẫu thần và được tôn xưng là Thánh Mẫu, thì Bà Ngũ hành (Kim,
Mộc, Thủy, Hoả, Thổ) trong đó đặc biệt là Bà Thủy Long, Bà Hoả thì là Nữ thần
hay Mẫu thần? Hay trường hợp thờ cúng Bảy Bà (bà Chúa Tiên, Chúa Ngọc, Chúa Xứ,
Cửu Thiên huyền nữ, Thiên Hậu, Bà Thủy, Bà Hồng, Nữ Oa) thì lại vừa có Mẫu thần
và Nữ thần. Tình trạng khó phân lớp giữa Nữ thần và Mẫu thần ở Nam Bộ so với
Bắc Bộ hoàn toàn có thể giải thích được vì Nam Bộ là vùng đất mới của người
Việt, khi di cư vào đây, họ vừa mang các truyền thống tín ngưỡng cũ lại vừa
tiếp nhận những giao lưu ảnh hưởng của cư dân sinh sống từ trước, tạo nên bức
tranh không chỉ đa dạng văn hóa nói chung mà còn cả tín ngưỡng nữa. Theo tôi,
đây cũng là một trong các đặc thù của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ.
Do vậy, trên những nét
đại lược nhất, có thể chọn ra trong những nữ thần được thờ phụng ở Nam Bộ các
vị nữ thần được tôn xưng là Mẫu thần, như Bà Chúa Ngọc (Thiên Ya Na), Bà Chúa
Xứ, Bà Đen - Linh Sơn Thánh Mẫu, Bà Thiên Hậu, Cửu Thiên huyền nữ (trong đó kể
cả các biến dạng của các Mẫu thần trên). Còn lại, các vị thần khác, như Bà Ngũ
hành, Bà Thủy Long, Bà Hồng, Tứ vị nương nương, Trinh nữ nương nương, Bà Chúa
Động, tổ Cô... đều là các Nữ thần. Sự phân biệt kể trên xuất phát từ hai tiêu
chí, đó là:
a) Các vị nữ thần được
coi là Mẫu thần là do vị trí được tôn vinh trong tâm thức dân gian cũng như hệ
thống nghi lễ hàng năm nhân dân dành cho họ và
b) Danh xưng của các vị
nữ thần này thường được gọi là Thánh Mẫu.
2. Các vị thần được coi
là Nữ thần hay Mẫu thần vừa nêu trên đều là kết quả của quá trình giao lưu, hỗn
dung văn hóa của nhiều lớp dân cư của người Khơme, Việt, Chăm, Hoa. Đơn cử
trường hợp Bà Chúa Ngọc vốn gốc là vị nữ thần Pô Inư Nagar - Bà Mẹ Xứ Sở của
người Chăm, mà nơi thờ tự chính là Tháp Bà Nha Trang. Sau này, khi người Việt
đặt chân vào Trung và Nam Trung Bộ với truyền thống thờ Mẫu sẵn có từ quê hương
nên đã Việt hóa vị thần Chăm này với tên gọi mang chút chữ nghĩa là Thánh Mẫu
Thiên Ya Na, còn dân gian vẫn gọi là Bà Chúa Ngọc, phổ biến từ Nha Trang ra tới
Huế. Trong đó Huế, với điện Hòn Chén, được coi là nơi gặp gỡ giữa Thánh Mẫu
Liễu Hạnh từ Bắc vào và Bà Mẹ Pô Inư Nagar của người Chăm từ Nam ra. Hiện nay,
người Chăm không đến Tháp Bà Nha Trang để thờ phụng Bà Mẹ Xứ Sở của mình nữa,
mà di chuyển nơi thờ chính của vị nữ thần này về Hữu Đức (Ninh Thuận). Người
Việt từ Trung Bộ vào Nam Bộ mang theo vị nữ thần Chăm đã Việt hóa này vào thờ
phụng khá rộng rãi ở đây với linh tượng Bà Chúa Ngọc và hai người con trai là
Cậu Tài, Cậu Quý phối thờ hai bên.
Bà Chúa Xứ và Linh Sơn
Thánh Mẫu - Bà Đen lại là kết quả giao lưu và hỗn dung tín ngưỡng giữa người
Việt và Khơme. Với tâm thức thờ Mẫu từ quê hương Bắc Bộ và Trung Bộ, người Việt
vào Nam Bộ đã bắt gặp tục thờ nữ thần của người Khơme, đó là Bà Neang Khmau,
một nữ thần Đất để tạo nên hình tượng bà Chúa Xứ mà ngày nay ngoài nơi thờ
chính ở Núi Sam (An Giang), còn được dân gian thờ phụng ở hầu khắp Nam Bộ trong
phạm vi vùng, làng và thậm chí trong gia đình nữa. Đây là vị Mẫu thần có phạm
vi ảnh hưởng rộng khắp nhất ở Nam Bộ ngày nay.
Có một sự hỗn dung khác
giữa tín ngưỡng Việt và người Khơme bản địa, đó là hình tượng Bà Đen - Linh Sơn
Thánh Mẫu. Ai cũng rõ rằng, tiền thân của Bà Chúa Xứ, Bà Đen của Khơme và kể cả
bà Pô Inư Nagar của Chăm đều thấy hình tượng thấp thoáng của Ấn Độ giáo, trong
đó vai trò của thần Siva là nổi bật. Tuy nhiên, quá trình bản địa hóa văn hóa
Ấn Độ của người Khơme và Chăm trên địa bàn Trung Bộ và Nam Bộ đã diễn ra trước
khi người Việt đầu tiên có mặt. Và sau đó, khi người Việt tới đây, họ lại Việt
hóa các vị nữ thần Chăm và Khơme này thành các vị nữ thần tôn kính của mình.
Trong công trình trước kia, chúng tôi đã có dịp bàn đến quá trình Việt hóa vị
nữ thần Khơme này qua các chuỗi chuyển tiếp Kali - Bà Đinh - Bà Chúa Động - Bà
Đen - Linh Sơn Thánh Mẫu. Tất nhiên cần tiếp tục quá trình nhận thức sự chuyển
tiếp này nhưng thực tế trên thần điện ở đền Bà Chúa Xứ, vốn gốc là nữ thần
Khơme, không thấy có hiện tượng phối thờ Bà Đen. Nhưng ở đền - chùa Linh Sơn
Thánh Mẫu tại núi Bà Đen, nơi chính điện, người ta thấy Bà Đen và Bà Chúa Xứ
ngồi ngang nhau, một bà mặt đen (Bà Đen) và mặt trắng (Bà Chúa Xứ). Hơn nữa
theo quan niệm dân gian ở đây, người ta coi Bà Đen và Bà Chúa Xứ là hai chị em.
Còn một móc xích nữa mà
nhân đây xin nêu chứ chưa có dịp trả lời là tại một ngôi đền lớn thờ Bà Rá mà
dân gian quen gọi là Bà Đen ở Phước Long (Bình Phuớc) lại phối thờ linh tượng
Bà Linh Sơn Thánh Mẫu ở núi Bà Đen và coi Bà Rá và Bà Đen - Linh Sơn Thánh Mẫu
là hai chị em, trong khi đó ở đền Linh Sơn Thánh Mẫu (Tây Ninh) lại không phối
thờ Bà Rá. Xa hơn nữa, hé mở cho chúng ta mối quan hệ giữa Bà Chúa Xứ (An
Giang) - Bà Đen (Tây Ninh) - Bà Rá (Phước Long) với tục thờ Muk Juk (Bà Đen)
của người Chăm ở phía đông nam trên địa bàn Ninh Thuận, Bình Thuận. Và cũng
không loại trừ khả năng phía sau những hiện tượng “Bà Đen” này là một ảnh hưởng
xa hơn của văn hóa Ấn Độ.
Còn Thiên Hậu với rất
nhiều đền, miếu, cung thờ Bà ở khắp Nam Bộ và Trung Bộ thì do người Hoa di dân
mang tới khoảng thế kỷ XVII. Ở đây không có sự Việt hóa Thiên Hậu của người
Hoa, tuy nhiên, khi vào Việt Nam thì Thiên Hậu không chỉ là vị thần bảo hộ của
những người buôn bán trên biển mà đã mang đa chức năng hơn, khiến không chỉ
người Hoa đến cầu cúng mà còn cả người Việt, thậm chí có đền thờ Thiên Hậu ở Cà
Mau lại do toàn người Việt địa phương đến hương khói, cầu xin sự phù hộ của Bà.
Tính đa lớp trong tín
ngưỡng thờ Mẫu là một đặc trưng chung trên phạm vi cả nước, tuy nhiên, đặc
trưng này thể hiện rất rõ, rất đậm trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ. Ví dụ:
Trong đền thờ Bà Chúa Xứ ở Núi Sam hay Linh Sơn Thánh Mẫu ở núi Bà Đen đều có
những miếu nhỏ nằm ngoài điện thờ chính. Nhìn vào không gian chật hẹp trong am
miếu đó ta thấy hình tượng trụ đá tròn, trên đỉnh có phủ tấm khăn đỏ, biểu
tượng của linga nguyên thủy, hai bên có tượng hay hai bát hương mà dân gian quan
niệm đó là thờ Cậu (Cậu Tài, Cậu Quý). Bên ngoài, người ta ghi đó là nơi thờ
ông Tà hay Tà thần. Nhìn vào hiện tượng thờ cúng dân gian này chúng ta thấy ít
nhất cũng có 4 lớp văn hóa - biểu tượng tiềm ẩn:
a) Lớp thờ thần Siva của
Ấn giáo biểu tượng bằng linga nguyên thủy, tồn tại ít nhất từ thời vương quốc
Phù Nam đã bị Ấn Độ hóa.
b) Người Khơme đã dân
gian hóa linh tượng này thành biểu tượng của vị thần Nieak Tà, mà sau này người
Việt Việt hóa tên gọi thành ông Tà, vị thần mang lại mưa thuận, gió hoà, tránh
rủi ro, dịch bệnh và cả cầu mong tình yêu nữa...
c) Linh tượng này còn
tiềm ẩn lớp tín ngưỡng Chăm, với việc đồng nhất linga với Pô Inư Nagar, mà hai
bên Bà luôn có linh tượng của hai con trai là cậu Tài và cậu Quý và
d) Người Việt khi vào
đây đã Việt hóa thành hình tượng thờ Cậu của đạo Mẫu, với tâm thức lưỡng nguyên
đực - cái / núi Bà - núi Cậu, mang lại sự phồn thực sinh sôi.
3. Cũng như người Việt ở
Bắc Bộ, trên cái nền thờ Nữ thần và Mẫu thần với việc tiếp thu ảnh hưởng của
Đạo giáo dân gian Trung Quốc đã ra đời đạo Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, hình thức phát
triển cao nhất của tín ngưỡng thờ Mẫu nói chung. Nhất là từ thế kỷ XVI - XVII,
trong điều kiện xã hội Việt Nam thời đó, xuất hiện Thánh Mẫu Liễu Hạnh và bà đã
trở thành vị thần chủ cao nhất của Đạo Mẫu Việt Nam. Và cũng từ đây, đạo Mẫu
trở thành một tín ngưỡng tôn giáo gắn với đời sống dân gian, thoả mãn ước vọng
về sức khoẻ, tài lộc và may mắn của con người.
Những lớp cư dân Việt
sớm nhất từ Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ vào Trung, Nam Trung Bộ và Nam Bộ, khi mà ở
Bắc Bộ đạo Mẫu Tam phủ, Tứ phủ chưa thật hình thành và định hình, do vậy họ
mang theo chủ yếu là tâm thức thờ Nữ thần, Mẫu thần và khi vào vùng đất mới,
nơi có người Chăm và Khơme sinh sống, đã hỗn dung và tiếp thu tín ngưỡng người
dân bản địa để hình thành nên các lớp thờ Nữ thần và Mẫu thần như đã nói ở
trên.
Hiện tại, ở miền Trung,
nhất là Trung và Nam Trung Bộ chúng tôi chưa quan sát thấy cơ sở đền phủ thờ
Mẫu Tam phủ, Tứ phủ và kèm theo nó là nghi lễ Hầu bóng, mặc dù ở đó không ít
nơi thờ Nữ thần và Mẫu thần, mà tiêu biểu là thờ Thiên Ya Na - Bà Chúa Ngọc.
Nhưng ở Nam Bộ thì lại khác, bên cạnh tín ngưỡng thờ Nữ thần và Mẫu thần, nhiều
nơi đã thấy các đền, điện thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ và kèm theo là nghi lễ Hầu
bóng. Theo điều tra bước đầu và có lẽ còn xa với sự thật thì ở Sài Gòn có 11
đền, điện, Bình Dương có 7 đền, điện, Đồng Nai có 4 đền, điện. Ngoài ra còn
thấy rải rác ở Bà Rịa - Vũng Tàu, Đà Lạt... Vấn đề đặt ra là ai và khi nào
người Việt đã mang đạo Mẫu và kèm theo đó là nghi thức Hầu bóng vào Nam Bộ?
Thời kỳ Pháp thuộc, đặc
biệt là từ sau năm 1954, Đạo Mẫu Tam phủ, Tứ phủ phát triển ở Nam Bộ do người
Việt từ Bắc Bộ trực tiếp di cư mang vào. Cùng với việc du nhập đạo Mẫu từ Bắc
Bộ, hình thức thờ phụng các anh hùng dân tộc, đặc biệt là thờ Đức Thánh Trần,
một “cặp bài trùng” với đạo Mẫu cũng du nhập theo, khiến cho nhiều nơi ở Nam
Bộ, nhất là phía Đông Nam Bộ, phát triển hình thức tín ngưỡng này. Tất nhiên,
cùng với đạo Mẫu Tam phủ, Tứ phủ và thờ Đức Thánh Trần, thì nghi lễ Hầu bóng và
lễ hội “tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ”, mà ở đây Mẹ là Thánh Mẫu, còn Cha
là Đức Thánh Trần, một thứ Ngọc Hoàng của Đạo giáo dân gian Việt Nam, cũng dần
phổ biến ở Nam Bộ.
Diêu Trì Thánh Mẫu vốn
là một vị thần của Đạo giáo, từ lâu đã thâm nhập vào Phật giáo (Phật Mẫu) và cả
đạo Cao Đài. Gần đây, vị Thánh Mẫu Diêu Trì này đã xuất hiện trong tín ngưỡng
thờ Mẫu và và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ. Hai năm trước đây, khi tới Linh Sơn Thánh
Mẫu - Bà Đen, tôi chưa thấy bức tượng Thánh Mẫu Diêu Trì, thế mà năm 2003 đã
thấy vị thánh này xuất hiện trước cửa đền thờ Bà Đen. Hay khi đến thăm đền thờ
Mẫu ở Bình Hoà (thành phố Hồ Chí Minh), tôi thấy có ban thờ Diêu Trì Thánh Mẫu
ở ngay cạnh nơi đặt các bát hương thờ bản mệnh của con nhang đệ tử. Hiện tượng
này chưa thấy ở các đền phủ thờ Mẫu thần hay Mẫu Tam phủ, Tứ phủ ở Bắc Bộ.
4. Về phương diện nghi
lễ, ở Nam Bộ, nếu nơi nào có tục thờ Nữ thần và Mẫu thần thì thường có diễn
xướng múa bóng, còn nơi có đền phủ thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ thì có diễn xuớng
hầu bóng (lên đồng). Diễn xướng nghi lễ hầu bóng ở Bắc Bộ và Nam Bộ đã được
nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới. Đó là nghi lễ nhập hồn nhiều lần của
các thần linh vào thân xác các ông, bà đồng nhằm cầu sức khoẻ, tài lộc, một
dạng thức của shaman giáo, tồn tại ở nhiều nước trên thế giới. Để thực hiện
nghi thức mang tính shaman này, các hiện tượng văn hóa nghệ thuật, như hát văn
và nhạc chầu văn, múa thiêng... đã được sản sinh và tích hợp tạo nên một thứ
sân khấu tâm linh, tượng trưng cho sự tái sinh và hiện diện của thần linh Tam
phủ, Tứ phủ thông qua thân xác các ông đồng, bà đồng.
Đối với múa bóng Nam Bộ
có lẽ chúng ta chưa có được những nghiên cứu đi sâu vào bản chất tín ngưỡng tôn
giáo của nó. Nếu múa trong hầu bóng là múa của thần linh, biểu tượng sự tái
hiện của thần linh trong thân xác các ông đồng, bà đồng, thì múa bóng là múa
của thần linh hay múa của con người dâng lễ trước thần linh? Có hay không hình
thức nhập hồn hay thoát hồn trong múa bóng? Nguồn gốc của tục múa bóng rỗi ở
Nam Bộ? Trong hoàn cảnh xã hội nào mà múa bóng Nam Bộ phát triển theo hướng
giảm dần tính nghi lễ, tính thiêng để trở thành diễn xướng mang tính tạp kỹ?
Những giá trị văn hóa nghệ thuật của múa bóng rỗi là gì?... Cũng như các hiện
tượng thờ Nữ thần và Mẫu thần ở Nam Bộ, phải chăng hiện tượng múa bóng cũng là
kết quả giao thoa văn hóa Chăm - Việt, tức người Việt đã Việt hóa múa Pajao của
các Bà Bóng của người Chăm để tạo ra múa bóng chăng? Đó là những vấn đề đặt ra
đòi hỏi phải trả lời.
Nếu như hầu bóng của Huế
mang những sắc thái riêng địa phương thì hầu bóng của Nam Bộ về cơ bản giống
với hầu bóng Bắc Bộ. Nhìn vào gốc tích các ngôi đền và những người hầu bóng thì
phần lớn đều có nguồn gốc từ Bắc Bộ. Tuy nhiên, khi du nhập vào vùng đất mới,
đạo Mẫu và hầu bóng ở Nam Bộ cũng có những sắc thái riêng, thể hiện qua điện
thần đạo Mẫu có thêm các vị thần địa phương, như Lê Văn Duyệt, các vị thánh
hàng chầu, hàng quan nguồn gốc từ người Chăm, Khơme, người Tây Nguyên... Hình
thức diễn xướng hầu bóng có bớt phần quy chuẩn nghi lễ, tăng thêm chất giao lưu
sinh hoạt văn hóa... Tất cả đó tạo nên sắc thái riêng của hầu bóng Nam Bộ so
với hầu bóng ở Bắc Bộ và ở Huế. Nhiều nhà nghiên cứu đã đánh giá cao các giá
trị văn hóa nghệ thuật của hầu bóng, coi nó là sinh hoạt tín ngưỡng - văn hóa
của dân gian, là “hình thức sân khấu tâm linh”, là “kho tàng sống của di sản
văn hóa dân tộc”.
Như vậy, trên miền đất
Nam Bộ, hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu hiện diện với cả ba tầng bậc: Thờ Nữ thần,
Mẫu thần và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, tương đồng với thờ Mẫu ở miền Bắc, tuy nhiên,
rõ ràng là nguồn gốc, con đường hình thành và sắc thái của chúng có nhiều nét
khác biệt, trong đó thờ Mẫu ở Nam Bộ không phát triển tuần tự như ở miền Bắc,
mà yếu tố giao lưu ảnh hưởng giữa các tộc người cùng chung sống vốn có nhiều
nét đồng văn giữ vai trò quan trọng. Và cũng do vậy, diễn xướng nghi lễ hầu
bóng và múa bóng luôn đi liền với các tín ngưỡng này cũng khác biệt nhau, khiến
cho các hình thức tín ngưỡng - văn hóa này trở nên đa dạng và phong phú hơn.”
20. CÁCH NHẬN BIẾT
BAN THỜ TỨ PHỦ CÔNG ĐỒNG
Trong dân gian Việt Nam thờ
phổ biến nhất là "Tứ phủ công đồng" (chư linh của bốn miền trụ: Trời,
Rừng, Nước, Đất), với trung tâm là "Tam Tòa Thánh Mẫu".
Mẫu là quyền năng sáng
tạo vũ trụ duy nhất nhưng lại hoá thân thành tam vị, tứ vị Thánh Mẫu cai quản
các miền khác nhau của vũ trụ: Mẫu Thiên, Mẫu Địa, Mẫu Thoải và Mẫu Thượng
Ngàn. Tam tòa là bộ tượng các Thánh Mẫu trong các đền thuộc tín ngưỡng Tứ Phủ
và thường được đặt ở nơi thâm nghiêm, sâu nhất (hậu cung có cửa ngăn).
Các Mẫu trở thành một
hợp thể thần linh hỗ trợ cho cuộc sống đời thường.
Trong điện thần Tứ Phủ,
Mẫu Liễu Hạnh là vị Thánh xuất hiện khá muộn (vào thời hậu Lê - khoảng thế kỷ
XVI) nhưng nhanh chóng trở thành vị thần chủ của Đạo Mẫu (Đạo Nội) và được tôn
vinh cao hơn tất cả các Thánh Mẫu khác.
Thánh Mẫu Liễu Hạnh vừa
là thiên thần (tiên) vừa là nhân thân với đời sống trần gian, với cha mẹ, chồng
con, chu du khắp nơi trừ ác, diệt bạo, ban lộc khiến cho người đời vừa sợ, vừa
trọng.
Mẫu Liễu Hạnh với tư
cách là Mẫu Thượng Thiên luôn được thờ ở vị trí trung tâm, mặc trang phục màu
đỏ. Dân gian cho rằng Mẫu Liễu còn có thể hoá thân vào Mẫu Thượng Ngàn trông
coi miền rừng núi. Mẫu Liễu Hạnh còn hoá thân thành Địa Tiên Thánh Mẫu - bà mẹ
đất, cai quản mọi đất đai và đời sống của các sinh vật.
Cấu trúc thờ tự của Tứ
Phủ rất phong phú, với nhiều ban thờ, nhiều tượng thờ, thể hiện tinh thần hoà
đồng tôn giáo.
Cấu trúc thờ tự đơn giản
nhất ở phủ bao gồm các ban thờ sau:
1. Hậu cung:
Là nơi thâm nghiêm nhất
đặt bàn thờ Mẫu, thường là "Tam tòa Thánh Mẫu" bao gồm:
- Một tượng Mẫu ở vị trí
cao nhất, toạ ở vị trí chính giữa, thường mặc áo màu đỏ (có nơi dùng sắc phục
màu vàng). Đó là tượng bà Chúa Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
- Ở bên trái thấp hơn
tương ứng là Mẫu Đệ Nhị, có sắc phục màu xanh, đó là Mẫu Thoải.
- Phía bên phải thấp hơn
tương ứng là Mẫu Đệ Tam, có sắc phục màu xanh, đó là Mẫu Thượng Ngàn.
2. Phía trước hậu cung
là một ban thờ lớn:
Gồm 3 lớp thờ tự (tính
từ trong ra ngoài).
- Lớp thứ nhất gồm: Vua
cha Ngọc Hoàng ở chính giữa, bên trái là Bắc Đẩu, bên phải là Nam Tào.
- Lớp thứ hai gồm: Năm
vị quan lớn gọi là Ngũ vị Thái tử.
* Đệ Nhất: Áo đỏ -
Quan Thượng Thiên.
* Đệ Nhị: Áo xanh -
Quan Giám Sát
* Đệ Tam: Áo trắng
- Quan Thuỷ Phủ.
* Đệ Tứ: Áo vàng -
Quan Khâm Sai.
* Đệ Ngũ: Áo đen
(đôi khi áo màu tím, lam) - Quan Tuần Tranh.
Năm màu áo này tượng
trưng cho năm màu của Ngũ hành: Kim (trắng), Mộc (xanh), Thuỷ (đen), Hoả (đỏ),
Thổ (vàng).
3. Hai bên tả hữu của
ban thờ lớn:
Bên trái là Động Sơn
Trang. Bên phải là ban thờ Đức Thánh Trần (Hưng Đạo Đại
Vương Trần Quốc Tuấn). Chính giữa lớp thứ hai
và thứ ba là hai dãy đồ tự khí ở 2 bên (bát bửu, tàm lọng).
Tiếp theo hai lớp trên,
ở giữa là bát hương to, bên trái là thờ ông Hoàng Bảy, bên phải là thờ ông
Hoàng Bơ.
Ngoài cùng ban thờ giữa
phủ là 1 hương án.
4. Ngoài cùng:
Là những ban thờ Thần
Hoàng, Thổ Địa, Thủ Đền tại vị, ban thờ Cô, Cậu...
Cũng có phủ đặt ban thờ
ông Hoàng Bảy, ông Hoàng Mười bên trái, và ban thờ cô Ba, cô Chín bên phải ban
thờ Tam Tòa Thánh Mẫu ở trong hậu cung, nhưng nhìn chung thì đa số các phủ có
cấu trúc thờ tự như trên.
21. ĐẠO MẪU VÀ TÍN
NGƯỠNG THỜ TAM PHỦ, TỨ PHỦ QUA TRẬT TỰ CÁC GIÁ HẦU
Đạo thờ Mẫu là một tín
ngưỡng dân gian có từ lâu đời và rất thuần Việt. Nói đến Đạo Mẫu người ta có
thể liên tưởng ngay đến việc tôn vinh những vị nữ thần tối cao mà người ta tôn
là Thánh Mẫu hay Quốc Mẫu, tuy nhiên trong đạo thờ Mẫu, người ta không chỉ thờ
riêng các vị Mẫu mà còn tôn thờ cả một hệ thống các vị thánh với một trật tự
chặt chẽ (thể hiện trong các giá hầu đồng khi thỉnh các vị Thánh Mẫu, Chúa Bà,
Quan Lớn, Chầu Bà, Quan Hoàng, Tiên Cô, Thánh Cậu...).
Trong các đền phủ
của Đạo Mẫu, luôn có rất nhiều ban thờ các vị thần thánh, nhất là NGỌC
HOÀNG (thờ cúng với hai vị quan ở hai bên là Nam Tào và Bắc Đẩu), tuy
nhiên khi thỉnh đồng người ta không thỉnh NGỌC HOÀNG mà người ta chỉ thỉnh các
vị thánh sau:
A. TAM TÒA THÁNH
MẪU:
Nếu không kể đến Ngọc
Hoàng thì ba vị Thánh Mẫu là ba vị Thánh tối cao nhất của đạo Mẫu. Khi hầu đồng
người ta phải thỉnh ba vị Thánh Mẫu trước tiên rồi mới đến các vị khác, tuy
nhiên khi thỉnh Mẫu người hầu đồng không được mở khăn phủ diện mà chỉ đảo bóng
rồi xa giá, đó là quy định không ai được làm trái, và sau giá Mẫu, từ hàng Trần
Triều trở đi mới đựoc mở khăn hầu đồng. Theo tín ngưỡng cổ thì ba giá Mẫu hóa
thân vào ba giá Chầu Bà từ Chầu Đệ Nhất đến Chầu Đệ Tam, nên coi như Ba giá
Chầu Bà là hóa thân của Ba giá Mẫu.
Ba giá Mẫu trong Tứ Phủ
gồm:
1.Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên: Cửu Trùng Thanh
Vân Công Chúa hay chính là Công Chúa Liễu Hạnh. Đền thờ Mẫu Liễu có ở khắp mọi
nơi nhưng quần thể di tích lớn nhất là Phủ Dày, Vụ Bản, Nam Định (Mở hội ngày
3/3 âm lịch), tương truyền là nơi Mẫu hạ trần với các đền phủ như Phủ Chính,
Phủ Công Đồng, Phủ Bóng, ngoài ra còn có Đền Sòng ở Thanh Hoá, Phủ Tây Hồ ở Hà
Nội.
2. Mẫu Đệ Nhị Thượng
Ngàn: Đông Cuông Công Chúa. Tương truyền là vị
Thánh Mẫu cai quản Thượng Ngàn (rừng núi). Đền thờ chính Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn
là Đền Đông Cuông, Tuần Quán thuộc tỉnh Yên Bái
3. Mẫu Đệ Tam Thoải Cung: Xích Lân Long Nữ.
Tương truyền là vị Thánh Mẫu, con Vua Bát Hải Động Đình, cai quản các sông
suối, biển, các mạch nước trên đất Nam Việt. Người ta thường lập đền thờ bà ở
các cửa sông, cửa biển để cầu cho biển lặng sóng yên.
B. CHƯ VỊ
TRẦN TRIỀU
Dân gian ta có câu
"Tháng tám hội Cha, tháng ba hội Mẹ"
Mẹ ở đây là Mẫu Liễu
Hạnh, còn Cha là Đức Thánh Trần Hưng Đạo, cùng với một số giá gọi là hàng Trần
Triều. Tuy nhiên theo tín ngưỡng dân gian thì bên Đạo Mẫu (Tam Tòa Thánh Mẫu)
và bên Trần Triều rất kị nhau, vì thế phải là người đồng nào có căn mạng thì
khi hầu đồng mới thỉnh và hầu về các giá Trần Triều sau giá Mẫu, còn không thì
thông thường người ta không thỉnh về hàng Trần Triều.
Chư vị Trần Triều
gồm:
1.Đức Thánh Ông Trần
Triều: Hưng Đạo Đại Vương, được tín ngưỡng dân gian
tôn làm Đức Thánh Trần, giúp dân sát quỷ trừ ma, trừ dịch bệnh, thế nên ở đâu
có giặc dã dịch bệnh thì đều cầu đảo Ngài tất đựoc linh ứng. Khi hầu đồng về
giá này, thanh đồng (người hầu đồng) mặc áo bào đỏ thêu rồng, tay cầm thanh
đao, ngoài ra theo một tục cổ, khi hầu về giá Đức Thánh Trần Triều, người hầu
đồng còn cầm dải lụa đỏ rồi mô phỏng động tác thắt cổ. Đền thờ Ngài cũng có ở
rất nhiều nơi nhưng lớn nhất vẫn là đền Kiếp Bạc, Chí Linh, Hải Dương với hội
mở ngày 20/8 âm lịch.
2. Đệ Nhất Vương Cô: Cô là con gái lớn
của Hưng Đạo Đại Vương. Khi về đồng hay mặc áo đỏ thêu rồng, đội khăn đóng, vấn
khăn đỏ phủ lên, tuy nhiên có ít người hầu giá này mà chỉ hay hầu về Đức Thánh
Trần và Đệ Nhị Vương Cô.
3. Đệ Nhị Vương Cô: Cô là con gái thứ
của Hưng Đạo Đại Vương. Khi về đồng hay mặc áo xanh thêu rồng, đội khăn đóng, vấn
khăn xanh phủ lên, có kiếm cờ giắt sau lưng, hai tay cũng cầm kiếm và cờ, theo
quan niệm, cô cũng là người có phép sát quỷ trừ tà, người hầu về giá này thường
đốt một bó hương rồi cho vào miệng ngậm tắt lửa gọi là tiến lửa hay ăn lửa để
tróc tà.
C. TAM VỊ CHÚA
MƯỜNG
Trên Toà Sơn Lâm Sơn
Trang có 18 Chúa Bói, 12 Chúa Chữa, nhưng khi hầu đồng, chỉ thỉnh ba vị tối
thượng gọi là Tam Vị Chúa Mường, ba vị Chúa này là những người phụ nữ nhân đức,
cả đời làm việc phúc giúp dân chúng và triều đình nên được người đời nhớ ơn và
lập đền thờ.
Tam vị Chúa Mường gồm:
1. Chúa Đệ Nhất Thượng
Thiên: Bà là người giúp vua trị quốc an
dân, (Chúa Đệ Nhất Tây Thiên) hơn nữa theo quan niệm tín ngưỡng thì
bà là người nắm giữ sổ Tam Tòa, trông coi mọi việc nên được tôn làm Chúa Thượng,
ngoài ra thì những người có tài cúng lễ đều là do bà dạy và ban lộc nên đều
phải do bà Chúa Thượng dạy đồng. Tuy nhiên Chúa Đệ Nhất rất ít khi ngự đồng.
Thông thường, trong lễ khai đàn mở phủ mà có dâng đàn Chúa Bói thì người ta
thường thỉnh bà về chứng tòa Chúa Đệ Nhất. Khi ngự đồng, chúa mặc áo
đỏ (áo lụa thêu phượng hoặc áo gấm), cầm quạt khai quang. Chúa Tây Thiên
không có đền thờ chính mà chỉ được thờ trên Đền Hùng thuộc tỉnh Phú Thọ và bà
cũng được thờ cận bên Mẫu Tây Thiên ở Tam Dương, Tam Đảo, Vĩnh Phúc. Ngày hội
chính của Chúa Đệ Nhất Tây Thiên là ngày 10 tháng 05 âm lịch (tương truyền
là ngày Chúa giáng hạ trần phàm).
2. Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ (Chúa Nguyệt
Hồ): Bà là người có tài xem bói, tương truyền, mỗi khi đức vua ra trận đều
nhờ người đến thỉnh bà bấm đốt tay xem xét. Trong Tam Vị Chúa Mường thì bà Chúa
Nguyệt là bà Chúa Bói danh tiếng bậc nhất và rất hay ngự đồng. Thông thường,
khi có mở đàn Chúa Bói mà không thỉnh được cả Tam Vị Chúa Mường về ngự thì
người ta thường hay thỉnh bà về chứng cả ba tòa Chúa (màu đỏ, màu xanh và
màu trắng) còn bình thường thì Chúa về chứng tòa Chúa Đệ Nhị. Khi ngự
đồng, chúa mặc áo xanh, múa mồi. Đôi khi Chúa về ngự còn dùng lá trầu quả cau
để xem bói, phán bảo trần gian. Chúa Nguyệt Hồ được thờ chính tại Đền Nguyệt Hồ
ở gần ga Kép, chợ Bố Hạ, tỉnh Bắc Giang (tương truyền là nguyên quán của
Bà Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ). Ngày hội chính của Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ là ngày 15
và 16 tháng 02 âm lịch.
3. Chúa Đệ Tam Lâm Thao: Dân gian thành
kính gọi bà là Chúa Chữa, Chúa Ót: - Tương truyền, bà là công chúa, con gái
ruột của Vua Hùng, từ bé đã bị hỏng một bên mắt. Tuy vậy bà vẫn một lòng giúp
vua cha trị quốc, bà là người lo việc quân nhu quân lương trong các cuộc chiến
trận, ngoài ra bà còn là người có tài bốc thuốc nam. Bà đi khắp vùng đem tài
năng của mình để cứu giúp dân lành. Bà Chúa Đệ Tam Lâm Thao cũng là một người
có lòng mộ đạo, thường xuyên ăn chay niệm phật để cầu cho quốc thái dân an. Như
hai vị chúa trên, khi người ta dâng đàn Chúa Bói thì thường thỉnh Chúa về chứng
tòa Chúa Đệ Tam. Khi về đồng bà thường mặc áo trắng, có nơi khi hầu bà thì múa
mồi như Chúa Bà Đệ Nhị Nguyệt Hồ, nhưng có nơi hầu Chúa lại chỉ dùng quạt khai
quang. Chúa Lâm Thao được thờ chính tại Đền Lâm Thao ở Cao Mại, Việt Trì, Phú
Thọ (tương truyền là nơi khi xưa chúa lập kho quân nhu quân lương và bốc
thuốc cứu dân). Ngày hội chính của Bà Chúa Đệ Tam Lâm Thao tương truyền là 25
tháng 12 âm lịch.
D. NGŨ VỊ TÔN ÔNG -
CÔNG ĐỒNG QUAN LỚN
Là các vị quan lớn trong
Tứ Phủ, cai quan bốn phương và đều là các vị hoàng tử, danh tướng, có công với
quốc gia. Gọi là Ngũ Vị Tôn Ông vì theo hàng chính là gồm 5 vị quan lớn, nhưng
ở một số nơi khi hầu đồng người ta thỉnh 6 vị sau:
1. Quan Đệ Nhất: Tương truyền là
Tôn Quan Đại Thần, sắc phong tước Công Hầu, ngôi Thượng Thiên. Khi ngự đồng mặc
áo đỏ thêu rồng và chỉ làm lễ tế và chứng sớ điệp.
2. Quan Đệ Nhị: Quan Thanh Tra
Giám Sát, sắc phong Thái Hoàng. Tương truyền là người cai quản sơn lâm thượng
ngàn, thông tri thiên địa, có thể lệnh sai Hà Bá, Thủy Thần làm mưa làm gió.
Khi ngự đồng mặc áo xanh thêu rồng. Đền thờ Quan Đệ Nhị là đền Quan Giám, Lạng
Sơn. Chính hội là ngày 10 tháng 11 âm lịch.
3. Quan Đệ Tam: Quan Tam Phủ, Bơ
Phủ Vương Quan, sắc phong Thái Tử Đệ Tam, con Vua Bát Hải Động Đình, là người
nắm giữ kỉ cương nơi Long Cung, cai quản các con sông trên khắp nước Nam. Theo
tương truyền thì ông giáng trần cứu dân, trở thành vị tướng thủy quân tài ba,
trong một trận quyết chiến bên sông Lục Đầu, ông hy sinh, bị giặc chém mất đầu,
chiếc đầu bay sang bờ bên kia con sông Lục Đầu, vì thế mới có hai đền thờ quan
hai bên bờ sông Lục Đầu (Hưng Yên) là Đền Lảnh Giang - nơi thờ mình
và Đền Xích Đằng - nơi thờ đầu. Chính hội là ngày 24 tháng 6 âm lịch. Khi ngự
đồng mặc áo trắng thêu rồng, tay cầm song kiếm.
4. Quan Đệ Tứ: Là Quan Khâm Sai,
sắc phong Thái Tử Thiên Cung, là người cai quản Tam Giới Tứ Phủ, mười phương
trời đất, kiêm cả đạo phật thiền gia.
Khi ngự đồng mặc áo vàng
thêu rồng, cũng chỉ làm lễ và chứng điệp sớ. Tuy nhiên, ít người hầu đồng về
giá này.
5. Quan Đệ Ngũ: Là Quan Tuần
Tranh, sắc phong Công Hầu, là vị tướng tài dưới thời Hùng Vương 18 cai quản
miền duyên hải sông Tranh, giúp vua dẹp giặc Triệu Đà, tuy nhiên do bị oan
khuất nên Ông bị đày về vùng Kì Cùng, Lạng Sơn. Tương truyền, quan Tuần
Tranh là người cai quản thiên binh nhà trời, được nhân dân thờ phụng ở khắp các
cửa sông mà hai ngôi đền lớn nhất là Đền Quan Lớn Tuần Tranh tại Ninh Giang,
Hưng Yên (là nơi quê nhà) ở bên bờ sông Tranh và Đền Kì Cùng, Lạng Sơn (là
nơi ông bị đày) bên bờ sông Kì Cùng có cây cầu Kì Lừa. Khi ngự đồng mặc áo
lam thêu rồng cầm long đao để giúp dân tróc quỷ trừ tinh, tế độ sinh linh. Ngày
mở hội là ngày 25 tháng 5 âm lịch, là ngày Ông bị đi đày.
6. Quan Điều Thất: Là hàng Quan thứ
7, giá Quan này chỉ một số nơi mới thỉnh về ngự đồng (như Hải Phòng, Hưng
Yên, Bắc Ninh). Tương truyền, Ngài cũng là con vua Bát Hải Động Đình, giáng thế
giúp dân. Khi ngự đồng mặc áo đỏ điều, thêu rồng.
E. TỨ PHỦ CHẦU BÀ
Các vị Chầu Bà trong Tứ
Phủ là những phụ nữ nhân đức hay các nữ tướng có công với dân với nước nên khi
từ trần được nhân dân thờ phụng và được tôn thành các vị Chầu Bà trong Tứ Phủ,
được Vua Mẫu giao cho cai quản sông núi và mọi việc nhân gian.
Hàng Tứ Phủ Chầu Bà có
12 vị tuy nhiên cũng như ở một số nơi có sự khác nhau, thêm 2 vị nữa vào hàng
thứ 3 và thứ 5.
Các vị Chầu Bà gồm:
1. Chầu Đệ Nhất Thượng
Thiên: Được coi là hóa thân của Mẫu Đệ Nhất khi
thỉnh đồng. Là vị Chầu tối thượng, đứng đầu hàng Chầu, ngự tại Ngọc Điện,
Thượng Giới. Tuy nhiên cũng ít người mở khăn phủ diện để hầu Chầu Đệ Nhất.
2. Chầu Đệ Nhị Thượng
Ngàn: Được coi là hóa thân của Mẫu Đệ Nhị. Bà vốn
là Công Chúa Thiên Thai, giáng hạ để cai quản thượng ngàn và tam thập lục châu.
Khi ngự đồng Chầu mặc áo xanh thêu hoa, đầu vấn khăn xanh, cài trâm hoa, tay
cầm mồi tượng trưng cho bó đuốc. Đặc biệt khi hầu về giá này còn có nghi thức
Trình Trầu: Các đệ tử ai có căn mạng hoặc đã tôn nhang bản mệnh, vào ngày hầu
đồng trong lễ Thượng Nguyên (đầu năm mới), ngồi phủ khăn đỏ, đầu đội mâm trầu
cau để "trước trình Phật Thánh sau trình Vua Cha, trình lên Tứ Vị Vua Bà,
trình đồng Tiên Thánh, trình tòa Sơn Trang, trình lên Thập Vị Quan Hoàng, Tiên
Cô, Thánh Cậu chứng mâm trầu trình". Khi Trình Trầu người ngồi lễ phải đặt
lên mâm trầu cau 12 tờ tiền đồng, tượng trưng dâng lên 12 giá chính của
hàng Chầu Bà là những vị giúp mình được đội trầu. Đền thờ Chầu Đệ Nhị là Đền
Đông Cuông, Tuần Quán, Yên Bái.
3. Chầu Đệ Tam Thoải
Cung: Được coi là hóa thân của Mẫu Đệ Tam, là Lân
Nữ Công Chúa, Ngọc Hồ Thần Nữ, vốn là con vua Thủy Tề, ngự tại Thủy Phủ Thiên
Thai chốn Thoải Cung, Tam Phủ. Bà được coi là người cai quản các sông suối biển
hồ mạch nước trên đất Việt.
(Có nơi còn đưa Chúa Thác Bờ vào hàng Chầu Bà và người ta thỉnh Chúa
Thác Bờ sau giá Chầu Đệ Tam hoặc không thỉnh Chầu Đệ Tam mà thỉnh luôn Chúa
Thác Bờ. Tương truyền Chúa Thác Bờ vốn là tiên nữ giáng sinh tại nơi thắng
tích, dạy người Mường biết trồng trọt, đánh bắt cá dưới sông Đà. Khi ngự đồng
có lúc Chúa mặc áo trắng và khăn choàng trắng, có khi lại mặc váy đen áo trắng
đai xanh, bên hông có xà tích bạc, túi dao quai, một tay cầm mồi, một tay cầm
mái chèo. Đền thờ Chúa Thác Bờ là Đền Thác Bờ ở Kim Bôi, Hoà Bình.)
4. Chầu Đệ Tứ Khâm Sai: Bà được phong
danh là Chiêu Dung Công Chúa, giáng thế là Chầu Bà Khâm Sai giúp dân, có quyền
tra sổ Thiên Đình để đổi số nhân sinh... Khi ngự đồng bà mặc áo vàng thêu rồng,
một tay cầm kiếm, một tay cầm cờ để đi cứu dân. Đền thờ bà là Đền Khâm Sai
hay Phủ Bà Đệ Tứ (đền Cây Thị) ở Quý Hương, An Thái, Vụ
Bản, Nam Định.
5. Chầu Năm Suối Lân: Bà là vị Chầu trên
Sơn Trang Thượng Ngàn, trấn cửa rừng Suối Lân dưới thời Lê Trung Hưng. Khi ngự
đồng mặc áo xanh hoặc áo lam thêu hoa đỏ, đầu vấn khăn chàm tím. Đền Chầu là
đền Suối Lân, ngay bên cầu Sông Hóa 2 ở Lạng Sơn, bên cạnh đền là suối Suối
Lân.
(Chúa Bà Năm Phương thường đựoc hầu ở Hải Phòng và được thỉnh trước giá
Chầu Năm Suối Lân. Tương truyền, Chúa vốn là Bạch Hoa Công Chúa, bị trích giáng
vào nhà họ Vũ ở cửa Cấm Giang, được giao là người cai quản bản cảnh ngũ phương
trong trời đất. Khi ngự đồng, có lúc mặc cả bộ trắng, có khi chỉ phủ chiếc khăn
phủ diện đỏ làm khăn choàng... Người ta thường dâng Chúa bộ nón hài và đĩa hoa
trắng, trong đàn mã mở phủ phải có một cỗ xe trắng dâng Chúa Bà. Đền Chúa bà là
Đền Cấm, Phố Cấm, Lê Lợi, Hải Phòng.)
6. Chầu Lục Cung Nương: Bà là Lê Triều
Lục Cung Công Chúa trên Thượng Ngàn, cũng như Chầu Năm, bà trấn cửa rừng Chín
Tư. Tương truyền bà có phép hô thần chú làm cả núi rừng chuyển động, tà ma
phách tán hồn xiêu, người trần gian ai không biết mà làm điều trái luân thường đạo
lý, độc ác, sẽ bị Chầu hành cho điên dại. Khi ngự đồng Chầu thường mặc trang
phục gần giống với Chầu Năm Suối Lân. Đền Chầu lập tại rừng Chín Tư, Hữu Lũng,
Lạng Sơn, gọi là đền Lũng, ngày mở hội là 20 tháng 9 âm lịch.
7. Chầu Bảy Kim Giao: Tương truyền bà
cũng là vị Chầu Bà của dân tộc “Mọi”, bà giúp tộc “Mọi” biết làm ăn buôn bán
nên được nhân dân nhớ ơn lập đền thờ. Khi ngự đồng Chầu mặc áo gấm tím. Đền
Chầu là Đền Kim Giao, Mỏ Bạch, Thái Nguyên.
8. Chầu Tám Bát Nàn: Bà tên thật là Vũ
Thục Nương, quê ở Tiên La, Đông Hưng, Thái Bình. Bà là Nữ Tướng dưới thời Hai
Bà Trưng, phất cờ khởi nghĩa tại quê nhà để trả thù cho tướng công là Phạm
Hương và cứu dân thoát khỏi Bát Nạn (8 nạn) nên nhân dân suy tôn làm
Bát Nàn Đại Tướng Quân (Bát Nàn là đọc chệch đi của từ Bát Nạn), sau
này (năm 43 SCN) bà hy sinh tại thị trấn Đồng Mỏ, Lạng Sơn. Nhân dân
thương tiếc và lập đền thờ bà ở 2 nơi là Đền Tiên La, Đông Hưng, Thái Bình và
Đền Đồng Mỏ, Lạng Sơn. Khi ngự đồng Chầu Bà mặc áo vàng, đội khăn đóng, sau
lưng giắt kiếm cờ, hai tay cũng cầm kiếm và cờ lệnh xông pha một mình phá mấy
vòng vây. Ngày mở hội lễ bà là ngày 17 tháng 3 âm lịch.
9. Chầu Chín Cửu Tỉnh: Bà là Chầu
Cửu (âm Hán: Cửu Tỉnh là Chín Giếng) cai quản giếng âm dương điều hòa
định thái. Khi ngự đồng Chầu mặc áo hồng, cầm quạt khai quang. Đền Chầu ngự
cũng là đền Sòng ở Bỉm Sơn, Thanh Hóa.
10. Chầu Mười Mỏ Ba: Bà là Nữ Tướng
trấn giữ ải Chi Lăng, giúp vua Lê Thái Tổ giết được tướng giặc Liễu Thăng, sau
lại giúp dân lập ấp lên vùng Mỏ Ba, được triều đình phong công, nhân dân nhớ
ơn... Khi ngự đồng Chầu mặc áo vàng, đeo vòng bạc đai xanh mĩ miều, chân quấn
xà cạp, tay cầm kiếm, tay cầm cờ hoặc mồi. Đền Chầu là Đền Mỏ Ba, lập ngay sát
ải Chi Lăng, Lạng Sơn.
11. Chầu Bé Thượng Ngàn: Đây là tên gọi
chung các vị Chầu Bà người Thổ Mường, hầu hàng thứ 11, được coi là các vị Chầu
Bé đành hanh nhưng tài phép, cai quản Tòa Sơn Trang, có Thập Nhị Bộ Tiên Nàng
hầu cận. Khi ngự đồng mặc quầy (váy) xám; áo (dân tộc thiểu số), đầu
chít khăn thổ cẩm, chân quấn xà cạp, vai đeo gùi tay cầm mồi soi đường.
Có rất nhiều vị Chầu Bé
ở các Đền khác nhau, nhưng người ta hay thỉnh nhất là các vị sau: Chầu Bé Bắc
Lệ, Chầu Bé Đông Cuông, Chầu Bé Đồng Đăng và Chầu Bé Tam Cờ.
12. Chầu Bé Thoải Cung: Bà cũng là chầu
Bé nhưng là ở dưới Thoải chứ không phải trên Thượng như các Chầu Bé ở hàng thứ
11 nên được thỉnh riêng đứng hàng thứ 12. Tuy nhiên cũng có rất ít người hầu về
giá này.
G. TỨ PHỦ ÔNG HOÀNG
Cũng như hàng Quan Lớn,
các Ông Hoàng cũng là những hoàng tử hay danh tướng có tài giúp dân giúp nước nên
được nhân dân thờ phụng.
Hàng Ông Hoàng gồm:
1. Ông Hoàng Cả: Vốn là con Đức
Vua Cha, giáng trần mang vẻ lịch sự tươi tốt, độ cho dân chúng ấm no, hạnh
phúc. Khi ngự đồng ông mặc áo đỏ thêu rồng kết thành hình chữ thọ, đầu đội khăn
xếp, có phủ vỉ lép màu đỏ.
2. Ông Hoàng Đôi: Còn gọi là Quan
Triệu Tường. Ông là danh tướng họ Nguyễn, thời phù Lê dẹp Mạc, có công lớn với
nhà Lê. Khi ngự đồng mặc áo xanh thêu rồng kết thành hình chữ thọ, đầu đội khăn
xếp, có phủ vỉ lép xanh, tay cầm lá cờ lệnh to may bằng vải ngũ sắc. Đền thờ
ông là Đền Quan Triệu ở Thanh Hóa.
3. Ông Hoàng Bơ: Vốn là con vua
Bát Hải Động Đình, thường phù trợ cho người làm ăn buôn bán và những ngư dân
đánh cá...
Khi ngự đồng ông mặc áo
trắng thêu rồng kết thành hình chữ thọ, đai vàng, đầu đội khăn xếp có phủ vỉ
lép trắng, tay cầm đôi hèo hoa, cũng có khi một tay cầm quạt, một tay cầm mái
chèo. Đền thờ ông thường được lập ở các cửa sông.
4. Ông Hoàng Bơ Bắc Quốc: Ông vốn là thương
gia bên Trung Quốc, từ nước Đại Yên sang Nam Việt bán buôn và cứu giúp người
nghèo khổ lên được suy tôn làm Ông Bơ nhưng là Ông Bơ Bắc Quốc để phân biệt với
Ông Hoàng Bơ Thoải của Việt Nam. Khi ngự đồng ông mặc áo tàu đội mũ ô sa. Đền
thờ ông là Đền Quan trên Bắc Giang.
5. Ông Hoàng Bảy Bảo Hà: Ông vốn là con
vua Thượng Đế Ngọc Hoàng, giáng vào nhà họ Nguyễn, người Tày Nùng làm người con
thứ 7. Ông là người có công giúp vua Lê dẹp giặc trên vùng biên giới và giúp
dân chúng khai hoang lập ấp, nên sau khi ông hy sinh trôi dạt vào nơi bên phà
Trái Hút, người dân lập đền thờ ông. Khi ngự đồng ông mặc áo lam thêu rồng kết
thành hình chữ thọ, đầu đội khăn xếp phủ vỉ lép xanh lam, tay cầm đôi hèo hoa
phi ngựa đi chấm đồng, nếu người nào được ông ném cây hèo vào người thì coi như
người đó đã được chấm đồng và phải ra hầu Tứ Phủ, khi ông ngồi ngự có điệu hát
dâng trà, rồi cả điệu hát miểu tả khi thanh nhàn ông ngồi đánh tổ tôm, tam cúc.
Đền thờ ông là Đền Bảo Hà, bên bến phà Trái Hút, thị xã Lào Cai.
6. Ông Hoàng Mười Nghệ
An: Còn gọi là Ông Mười Củi, vốn là thần tiên
trong chốn Đào Nguyên, giáng trần trở thành vị tướng tài dưới thời nhà Lê.
Không chỉ giỏi cầm quân ông còn là người có tài năng về văn chương thơ phú ...
Khi ngự đồng ông mặc áo vàng thêu rồng kết thành hình chữ thọ, đầu đội khăn xếp
có vỉ lép vàng trên đầu, các đệ tử thường lấy tờ tiền cài vào que hương tượng
trưng cho việc dâng ông lá cờ. Những người muốn xuất ngoại, làm ăn buôn bán
hoặc học hành thành công đều đến cửa ông để xin lộc. Đền ông là Đền Chợ Củi,
qua cầu Bến Thủy, bên dòng sông Lam, Nghệ An.
H. TỨ PHỦ TIÊN CÔ
Tứ Phủ Tiên Cô là một
hàng gồm các cô tiên nàng theo hầu cận các Thánh Mẫu, Chúa Mường, Chầu Bà. Các
Tiên Cô là những cô gái đoan trang, liệt nữ, có công với giang sơn xã tắc nên
được nhân dân lập đền thờ phụng.
Tứ Phủ Tiên Cô gồm:
1. Cô Nhất Thượng Thiên: Cô là Tiên Nữ
trên Ngọc Điện, hầu Vua Mẫu, thường giúp trần gian có lời kêu cầu tấu thỉnh với
các Tòa các giá trong Tứ Phủ. Có khi cô giáng trần làm phép hóa ra thuốc trị
bách bệnh, cũng có Cô Nhất rong chơi khắp chốn từ Hà Nội, Hải Phòng đến Quảng
Bình, Quảng Trị .... Khi ngự đồng cô mặc áo lụa đỏ thêu hoa phượng, đội khăn
đóng phủ vỉ lép đỏ, cài hoa, tay cầm đôi quạt ngà như để quạt mát cho thế gian.
Đền Cô Nhất thuộc tỉnh Nam Định.
2. Cô Đôi Thượng Ngàn: Cô là Công Chúa
Sơn Tinh, là vị Tiên Cô hầu Vua Mẫu ba tòa. Cô đại tài, tiếng tăm lừng lẫy được
Vua Bà yêu thương. Cô có rất nhiều đệ tử. Khi ngự đồng cô mặc áo lá xanh, đầu
vấn khăn kết thành hình hoa, có vấn vỉ lép xanh, tay cầm mồi. Đền Cô nằm gần
Đền Đông Cuông, trước cửa Đền Cô có giếng nước quanh năm trong vắt.
(Có nơi thờ Cô Đôi Cam Đường thay Cô Đôi Thượng Ngàn với truyền thuyết:
Cô là tiên nữ xinh đẹp, giáng sinh ở đất Đình Bảng, Bắc Ninh, gia đình nối đời
buôn bán vải tơ. Cô bán vải từ đường Quan Lộ, Chợ Dầu, Đình Bảng với đủ các
loại tơ lụa, vải sồi, lĩnh tía, chàm xanh, nâu non. Khi ngự đồng cô mặc áo tứ
thân xanh, chít khăn mỏ quạ, đội nón quai thao (nón ba tầm), trên vai là chiếc
đòn gánh cong với hai đầu là đôi túi đẫy đựng vải. Tuy cô quê ở Bắc Ninh nhưng
lại hiển thánh tại thị xã Cam Đường, Lào Cai nên nhân dân nhớ ơn đã lập đến cô
là Đền Cô Đôi Cam Đường.)
3. Cô Bơ Hàn Sơn: Còn gọi là Cô Bơ
Bông. Cô là con Vua Thủy Tề hầu trong Cung Quảng Hàn,rất xinh đẹp, lại đàn hát
cũng hay nên được Đức Vương Mẫu phong là Công Chúa Ba Bông hay Công Chúa
Thủy Cung, cùng quan sứ giả chọn ngày lành để giáng hiện thần tôn thành cô
thiếu nữ đất Hàn Sơn. Khi cô ngự đồng mặc áo trắng pha màu tuyết, đầu đội khăn
đóng, vấn khăn ngang ba màu, tay cầm đôi mái chèo để vân du khắp nơi, cũng có
khi cô cầm dải lụa để đi đo đất đo mây.
Đền thờ cô là Đền Cô Ba
Bông ở Hà Trung, Thanh Hóa, ngay cửa sông. Mở hội vào ngày 12 tháng 6 âm lịch.
4.Cô Tư Ỷ La: Theo tài liệu cổ
thì cô Tư là Tiên Nữ theo hầu Mẫu Thượng. Cô xinh đẹp dịu dàng, được Mẫu hết
mực yêu quý. Khi thanh nhàn cô thường dạo chơi cảnh Tây Hồ với chiếc áo lụa
vàng tha thướt thêu hoa lá. Cô được thờ trên đền Ỷ La (Tuyên Quang).
5. Cô Năm Suối Lân: Cô là Tiên Nàng
người dân tộc theo hầu Chầu Năm Suối Lân. Cô ở Thượng Ngàn, là người cai quản
con suối Suối Lân. Khi ngự đồng cô mặc áo xanh hoặc áo lam, đầu vấn khăn hình
củ ấu và tay cầm đôi mồi lửa. Đền cô là ngôi đền nhỏ cạnh đền Chầu Năm, bên bờ
sông Hóa ở Lạng Sơn.
6. Cô Sáu Sơn Trang: Cô là Tiên Nàng
hầu cận Mẫu Thượng Trang Châu, cũng có nơi nói cô là người kề cận Chầu Lục Cung
Nương và gọi cô là Cô Sáu Lục Cung, nhưng các tài liệu đều thống nhất cô Sáu là
người có tài bốc thuốc cứu người, cô rất ghét người ăn nói quanh co, điêu ngoa.
Khi giáng đồng cô mặc áo lam ngắn vạt, dài tay, chít khăn xanh, trâm cài, lược
dắt, tay cầm bó mồi.
7. Cô Bảy Kim Giao: Cô theo hầu Chầu
Bảy Kim Giao trên đất Thanh Liên, Mỏ Bạch, Thái Nguyên, cũng là người dân tộc
“Mọi”. Cô hiển ứng, đêm đêm mắc võng đào cùng các bạn tiên ngồi ca hát. Khi về
đồng cô mặc áo lụa tím.
8. Cô Tám Đồi Chè: Cô là thiếu nữ
hái chè đất Hà Trung, cũng một lòng giúp vua, tuy chưa được đền đáp nhưng cô
được dân lập đền thờ là đền Phong Mục, Hà Trung, Thanh Hóa, cách đền Cô Bơ Bông
một con sông. Khi ngự đồng cô mặc áo xanh váy xanh, đầu kết khăn xanh, cô múa
mồi rồi múa dáng điệu hái chè.
9. Cô Chín Sòng Sơn: Còn gọi là cô
Chín Giếng, Chín Rồng, Chín Suối, theo hầu Mẫu Sòng, có tài xem bói và có phép
thần thông quảng đại…. Nhân dân cầu đảo linh ứng liền lập đền thờ là Đền Cô
Chín ở Thanh Hóa, cách đền Sòng Sơn khoảng 30km. Khi ngự đồng cô mặc áo hồng
phớt màu đào phai, có khi cô múa quạt tiến Mẫu, múa cờ tiến Vua, cũng có khi cô
thêu hoa dệt lụa, rồi lại múa cánh tiên. Lễ vật dâng cô: Nón đỏ hài hoa vòng
hồng...
(Có nơi thờ cô Chín Tít Mù thay cô Chín Giếng nhưng khác ở điểm: Cô Chín
Tít Mù ở trên Thượng Ngàn, có tài trị bệnh bằng nước suối, tuy nhiên cũng rất
ít người hầu về giá này. Đền cô Chín Tít Mù lập ở đường lên Chầu Mười Mỏ Ba,
ngôi miếu nhỏ có suối nước thiêng, ai kêu cầu cô thì dâng cô nón đỏ hoặc nón
xanh để xin thuốc chữa bách bệnh.)
10. Cô Mười Mỏ Ba: Cô theo hầu Chầu
Mười Mỏ Ba, giúp vua đánh giặc Ngô. Khi ngự đồng cô mặc áo vàng cầm cung kiếm,
cưỡi trên mình ngựa theo Chầu Bà xông pha trận mạc. Cô cũng được thờ tại đền
Chầu Mười.
11. Cô Bé Thượng Ngàn: Cũng như Chầu Bé,
các vị cô bé đều là những bộ nàng trên Tòa Sơn Trang, hầu Mẫu Thượng Ngàn. Có
rất nhiều cô bé trên khắp các cửa rừng lớn nhỏ. Các cô về mặc quần áo thổ cẩm,
chân quấn xà cạp, đeo kiềng bạc, tay cầm ô, vai đeo gùi. Các cô bé gồm: Cô Bé
Thượng Ngàn (Thị Xã Lạng Sơn), Cô Bé Suối Ngang (Hữu Lũng), Cô Bé Đèo
Kẻng (Thất Khê), Cô Bé Đông Cuông (Yên Bái), Cô Bé Tân An(Lào
Cai), Cô Bé Cây Xanh (Bắc Giang), Cô Bé Nguyệt Hồ (Bắc Giang), Cô Bé
Minh Lương (Tuyên Quang), Cô Bé Cây Xanh (Tuyên Quang) và
Cô Bé Thác Bờ (Hòa Bình)
12.Cô Bé Thoải Phủ: Cô Bé ngự dưới
tòa Thoải Phủ, chỉ tráng bóng chứ không mở khăn, đứng hàng 12 trong các cô.
K. TỨ PHỦ THÁNH CẬU
Là các vị cậu chết trẻ,
tinh nghịch, thường phù hộ cho các gia đình buôn bán cũng như những người muốn
cầu học hành.
Tứ Phủ Thánh Cậu gồm:
1. Cậu Hoàng Cả
2. Cậu Hoàng Đôi
3. Cậu Hoàng Bơ
4. Cậu Bé
a,
Cậu Bé Đồi Ngang (Cậu Hoàng Quận)
b,
Cậu Bé Đồi Non
Ngoài ra ở mỗi bản đền
lại có một cậu bé coi giữ gọi là cậu bé bản đền, trong đó thường hay ngự đồng
như: Cậu Bé Phủ Bóng, Cậu Bé Đông Cuông....
Các cậu về (ngự đồng)
thường mặc áo cánh các màu ứng với mỗi giá, đầu vấn khăn, hai bên tay thường có
hoa cài, chân quấn xà cạp, đi giày thêu. Các cậu về thường làm lễ tấu rồi đi
hèo hoặc múa lân.
22. CÁCH NHẬN BIẾT
BAN THỜ NGŨ HỔ TRONG CÁC NGÔI CHÙA Ở VIỆT NAM
Trong điện thờ đạo Mẫu,
ban thờ Ngũ Hổ thường đặt ở phía trước, dưới ban thờ Tam Tòa Thánh Mẫu, nhưng
cũng có nơi tách riêng ban thờ Ngũ Hổ như đền Mẫu Ba Cây (Sơn Tây), đền Mơ Táo
(Hà Nội), đền Cửa Ông (Quảng Ninh)… hoặc đặt ban ngũ hổ phía dưới động Sơn
Trang như phủ Tây Hồ (Hà Nội), đền Cô bé Tân An (Lào Cai), đền Đồng Bằng (Thái
Bình)…
Ban thờ Ngũ Hổ bài trí
giống một hang động, có những phiến đá nhấp nhô, tượng trưng cho rừng núi với
sức mạnh thiên nhiên thần bí. Thờ Ngũ Hổ có thể là 5 tượng Thần Hổ hoặc tranh
vẽ 5 Thần Hổ được sắp xếp theo hướng mà các “ngài” trấn giữ, tuân theo quy luật
Ngũ Hành. Hoàng Hổ (màu vàng - hành Thổ) ở vị trí chính điện, giữ vai trò
trưởng trung cung, có nhiều quyền phép, trấn giữ điều lệnh các phương, thâu tóm
mọi uy quyền, quyết định âm phù dương trợ cho dân gian. Thanh Hổ (màu xanh -
hành Mộc) ứng với phương Đông. Bạch Hổ (màu trắng - hành Kim) ứng với phương
Tây. Xích Hổ (màu đỏ - hành Hỏa) ứng với phương Nam, hắc hổ (màu xám đen - hành
Thủy) ứng với phương Bắc.
Đồ lễ cúng Thần Hổ,
ngoài trầu rượu phải có trứng, gạo, muối hoặc thịt mồi (một miếng thịt lợn
khoảng vài lạng)... còn sống và tiền, vàng mã.
Việc thờ Thần Hổ xuất
phát từ niềm tin Hổ là thần linh, là chúa tể muôn loài, có năng trừ tà, ban
phát tài lộc, công danh cho mọi người.
23. THỤ LỘC SAU KHI
DÂNG LỄ Ở ĐỀN, CHÙA, MIẾU PHỦ... NHƯ THẾ NAO
Dân gian quan niệm: “Lộc bất hưởng tận”, có nghĩa phải “tản
lộc” đi càng nhiều càng tốt, mới mong tiếp tục được Phật, Mẫu, Thánh, Thần che
chở, ban thêm tài lộc. Người nào hưởng lộc một mình là vô phúc, sẽ bị cô quả cô
độc. Vì thế, mỗi khi đi chùa lên đình về mà có lộc thì các cụ đều chia cho con
cháu hoặc người thân quen. Càng chia lộc cho nhiều người thì người đó càng được
phúc.
Việc “thụ lộc” sau khi
dâng lễ lên Phật, Mẫu, Thánh, Thần... thường được dân gian tâm niệm: “Một miếng lộc thánh bằng cả gánh lộc trần”
nên dù “lộc” đó có không ngon, không hợp khẩu vị thì mọi người vẫn vui vẻ “thụ
lộc”. Thậm chí, có người còn mê tín đến mức dù đồ lễ đó đã bị thiu, đã hỏng
cũng cố ép con cháu ăn để “được lộc”. Tín là ở tâm, không nên vì mê tín mà ép
con cháu ăn những đồ lễ đã bị thiu hỏng. “Lộc” đâu chẳng thấy chỉ thấy con cháu
mất tiền mua thuốc chữa bệnh thì thật tội.
24. KHÔNG ĐƯỢC TÙY
TIỆN LẤY TÀI SẢN CỦA ĐỀN, CHÙA, MIẾU, PHỦ... LÀM VẬT SỞ HỮU CỦA MÌNH
Khi đến những nơi thờ tự
như: đền, chùa, miếu, phủ… thì tâm phải trong sáng, mọi tham-sân-si phải tự
diệt nên tất cả tài sản, đồ vật ở những nơi thờ tự đó, dù chỉ là cành cây, viên
gạch... cũng không ai được phép nhặt làm của riêng cho mình. Chỉ trừ khi được
sư cụ trụ trì hoặc những người chức trách quản lý nơi thờ tự cho phép thì mới
được lấy đồ thuộc sở hữu của những nơi thờ tự đó.
Đồ được phép lấy thường
là hoa, quả, bánh, kẹo hay các loại “lộc” khác. Người nào chưa được phép của sư
cụ trụ trì hoặc người có trách nhiệm quản lý nơi thờ tự mà tự tiện lấy thì sẽ
bị Thần, Thánh, Phật, Mẫu giáng tai họa xuống không chỉ đời mình mà còn di lụy
đến tận đời con, đời cháu. Có khi đời mình chưa bị Thần, Thánh trừng phạt mà
tới đời con đời cháu mới chịu sự trừng phạt của Thần, Thánh. Vì thế dân gian
mới có câu: “Đời cha ăn mặn đời con khát nước” để lý giải chuyện đó.
Dân gian cũng lưu truyền
khá nhiều câu chuyện về sự trừng phạt của Thần, Thánh với những kẻ dám cả gan
ăn cắp đồ vật, tài sản ở nơi thờ tự. Dù những câu chuyện đó có thật là do sự
trừng phạt của Thánh, Thần hay chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên do “ác giả ác
báo” thì những câu chuyện đó vẫn là những lời cảnh tỉnh, là lời răn dạy cần
thiết của dân gian để con người hướng tới cuộc sống thánh thiện, tốt đẹp hơn.
25. THÁI ĐỘ KHI ĐI
QUA NHỮNG NƠI THỜ TỰ
Tín ngưỡng dân gian quan
niệm những nơi thờ tự Phật, Mẫu, Thánh, Thần, Tổ tiên... là những nơi tôn
nghiêm, thanh tịnh vì vậy khi đến những nơi thờ tự hoặc đi ngang qua những nơi
đó thì mọi người phải tỏ sự thành kính, trang nghiêm, không được cười cợt, nói
bậy, làm huyên náo hoặc khạc nhổ, phóng uế bừa bãi... cũng không được có những
suy nghĩ, lời nói, hành động dâm tục hoặc trái với thuần phong mỹ tục... Nếu
phạm phải thì tùy theo mức độ nặng nhẹ sẽ bị Phật, Mẫu, Thánh, Thần quở trách
hay trừng phạt.
Khi đi qua những nơi thờ
tự linh thiêng này, mọi người đều phải ngả nón mũ, đi chậm rãi, tỏ sự thành
kính. Người đang ngồi trên xe, ngựa hoặc võng, kiệu thì phải xuống đi bộ đoạn
phải đi qua những nơi thờ tự đó. Nếu không làm như vậy sẽ bị Thần, Phật, Thánh,
Mẫu... quở trách, trừng phạt vì đã có thái độ bất kính với các Ngài.
26. MƯỜI BỐN ĐIỀU
PHẬT DẠY PHẬT TỬ
Khi còn tại thế, Đức
Phật Thích Ca răn dạy các Phật tử, tín đồ với 14 điều sau:
1. Kẻ thù lớn nhất của
đời người là chính mình.
2. Ngu dốt lớn nhất của
đời người là dối trá.
3. Thất bại lớn nhất của
đời người là tự đại, ngạo mạn.
4. Bi ai lớn nhất của
đời người là ganh tỵ, đố kỵ.
5. Sai lầm lớn nhất của
đời người là đánh mất mình.
6. Tội lỗi lớn nhất của
đời người là bất hiếu
7. Đáng thương lớn nhất
của đời người là tự ty.
8. Đáng khâm phục lớn
nhất của đời người là vươn lên sau khi vấp ngã.
9. Phá sản lớn nhất của
đời người là tuyệt vọng.
10. Tài sản lớn nhất đời
người là sức khỏe và trí tuệ.
11. Món nợ lớn nhất của
đời người là tình cảm.
12. Lễ vật lớn nhất của
đời người là khoan dung.
13. Khiếm khuyết lớn
nhất đời người là kém hiểu biết.
14. An ủi lớn nhất của
đời người là từ bi và bố thí.
27. BA MƯƠI ĐIỀU
CẦN NHỚ CỦA PHẬT TỬ TẠI GIA
*. Mười điều tâm niệm của Phật tử
1. Nghĩ đến thân thể
đừng cầu không bệnh khổ, vì không bệnh khổ thì tham dục dễ sinh.
2. Ở đời đừng cầu không
khó khăn hoạn nạn, vì không khó khăn hoạn nạn thì kiêu xa nổi dậy.
3. Tự xét tâm tính đừng
cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu đáo.
4. Xây dựng đạo hạnh
đừng mong không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên
cường.
5. Việc làm đừng mong dễ
thành, vì việc làm dễ thành thì lòng khinh thường kiêu ngạo.
6. Giao tiếp đừng mong
lợi cho mình, vì lợi cho mình thì mất đạo nghĩa.
7. Với người đừng mong
tất cả đều thuận theo ý mình, vì được thuận theo ý mình thì lòng tất kiêu căng.
8. Thi ân đừng cầu được
đền đáp, vì cầu được đền đáp là có ý mưu đồ
9. Thấy lợi lộc thì đừng
nhúng vào, vì nhúng vào thì ắt si mê phải động.
10. Oan ức không cần
biện bạch, vì biện bạch là nhân ngã chưa xả.
*. Mười đức tin chân chính của Phật tử
1. Chớ vội tin điều gì,
chỉ vì điều đó là truyền thuyết.
2. Chớ vội tin bất cứ
điều gì, chỉ vì điều đó thuộc về truyền thống.
3. Chớ vội tin điều gì,
chỉ vì điều đó được nhiều người nhắc đến hay được tuyên truyền.
4. Chớ vội tin điều gì
chỉ vì điều đó được ghi trong sách vở hay kinh điển.
5. Chớ vội tin điều gì,
chỉ vì điều đó lý luận siêu hình.
6. Chớ vội tin điều gì,
chỉ vì điều đó phù hợp với lập trường của mình.
7. Chớ vội tin điều gì,
chỉ vì điều ấy phù hợp với định kiến của mình.
8. Chớ vội tin điều gì,
khi điều đó được căn cứ trên những dữ kiện hời hợt.
9. Chớ vội tin điều gì,
chỉ vì điều ấy được sức mạnh và quyền uy ủng hộ.
10. Chớ vội tin điều gì,
chỉ vì điều ấy được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình tuyên thuyết
*. Mười điều hạnh phúc của Phật tử
1.- Được thân cận với
những người hiền đức, có khả năng xa lánh được những kẻ đang đi trên con đường
sa đọa.
2.- Được sống trong một
môi trường thuận tiện cho sự tu học và sự tạo tác những nhân lành.
3.- Được có cơ hội thêm
về giáo pháp, về giới luật, về công nghệ và về ngôn ngữ văn chương.
4.- Được phụng dưỡng mẹ
cha và có thời giờ để ý săn sóc vợ chồng con cái của mình.
5.- Được chia xẻ thì
giờ, tài vật và hạnh phúc với kẻ khác.
6.- Được có cơ hội vun
trồng đạo đức, xa lánh hẳn rượu chè cờ bạc.
7.- Được thực tập hun
đúc các đức khiêm nhượng, biết ơn và tri túc của đạo giác ngộ.
8.- Được thân cận với
các vị khất sĩ mà học hỏi đạo lý.
9.- Được sống một cuộc
sống trong sạch theo nguyên tắc Bốn Sự Thật.
10.- Được học cách thiền
quán để tháo bỏ những phiền não và ưu sầu trong cuộc sống.
28. LỄ PHẬT ĐẢN LÀ
GÌ?
Phật Đản là ngày kỷ niệm
Đức Phật đản sinh (sinh ra) tại vườn Lâm-tì-ni, năm 624 trước công nguyên, diễn
ra vào ngày 15 tháng 4 âm lịch
hàng năm. Theo truyền thống Phật giáo Đông Á ngày này chỉ là ngày kỉ niệm Phật
đản sinh; tuy nhiên, theo Phật giáo Nam truyền và Phật giáo Tây Tạng thì ngày
này là ngày Tam hiệp (Phật đản, Phật thành đạo và Phật nhập Niết-bàn).
Trước năm 1959 các nước Đông Á,
thường tổ chức ngày lễ Phật đản vào ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch. Nhưng Đại hội
Phật giáo thế giới lần đầu tiên, tại Colombo,
Tích Lan,
25 tháng 5 đến 8 tháng 6 năm 1950, 26 nước là thành viên thống nhất ngày Phật
đản quốc tế là ngày rằm tháng Tư âm lịch.
Còn theo quy tắc của
Phật Giáo Tiểu thừa thì họ tổ chức ngày Phật đắc đạo (theo truyền thống thì đây
là ngày Phật viên tịch vào cõi Niết Bàn). Ngày Phật Đản của phái Tiểu Thừa
thiến hành sau ngày Phật Đản của phái Đại Thừa khoảng sau một tháng nhưng là
vào ngày trăng tròn của tháng 5 âm lịch.
Vào ngày lễ Phật Đản,
người ta tổ chức các nghi thức suốt cả ngày đêm. Ban ngày các tín đồ vào chùa
dâng lên sư sãi những lễ vật và tụng kinh Đức Phật ra đời. Sau đó mọi người đọc
kinh suốt đêm, ca ngợi công ơn của Đức Phật.
Sáng ngày 16 âm lịch,
tín đồ Phật giáo dâng cơm mời sư sãi một lần nữa rồi kết thúc lễ Phật Đản.
29. LỄ MỘC DỤC LÀ
GÌ
Lễ Mộc Dục là một nghi lễ
truyền thống, được tiến hành tại các hội đền, hội chùa. Lễ Mộc Dục được hiểu là
lễ tắm rửa cho các tượng thờ hoặc tắm rửa cho các bài vị thần.
Trước khi làm lễ Mộc
Dục, người chủ tế phải cầu xin sự cho phép của thần linh rồi mới tiến hành. Lễ
Mộc Dục thường được tiến hành ở điện thờ hoặc quán thờ với 2 bước chủ yếu: Bước
1à dùng nước giếng hoặc nước sông tinh khiết để lau sạch tượng hoặc bài vị
thần. Bước 2 là dùng nước trầm hương để lau.
Ở một số lễ lớn người ta
thường tổ chức nghi lễ rước nước về tắm cho Thần.
Người Khơ Me ở Nam Bộ
lại chọn ngày thứ ba của Tết (âm lịch) của năm là ngày lễ tắm Phật, cụ thể:
Lễ này được diễn ra sau
khi các tín đồ dâng cơm sáng và trưa cho các vị sư sãi. Lễ được tổ chức theo
nghi lễ là dùng nước tinh khiết có ướp nước hoa cùng hương đèn cúng Phật. Họ
dùng những nhành hoa vẩy những giọt nước hoa lên tượng Phật, sau đó là tắm cho
các nhà sư cao niên.
Kế tiếp, các nhà sư đến
những ngôi tháp dựng hài cốt, các nghĩa trang, làm lễ cầu siêu cho vong linh
người đã khuất và cuối cùng là lễ tắm tượng Phật tại gia.
Sau nghi lễ, các con
cháu mời ông bà, cha mẹ đến để tạ lễ, xin tha thứ những lỗi lầm, những thiếu
sót trong năm cũ, để sang năm mới mọi người trong gia đình phấn đấu tốt hơn.
30. HỘI LỄ QUAN THẾ
ÂM THẾ NÀO
Hội lễ Quan Thế Âm được
tổ chức tại chùa Quan Thế Âm ở núi Kim Sơn trong dãy Ngũ Hành Sơn, thuộc địa
phận tỉnh Đà Nẵng. Hội lễ Quan Thế Âm được tổ chức vào 3 ngày: 17, 18 và 19
tháng 2 âm lịch với nghi lễ rất long trọng và có quy mô lớn...
Vào lễ hội, người ta cử
hành các nghi thức theo truyền thống Phật Giáp như sau:
Lễ rước ánh sáng cầu
mong ánh sáng soi đường cho chúng sinh; Lễ khai kinh cầu nguyện cho quốc thái
dân an, chúng sinh an lạc; Lễ trai đàn chẩn tế cầu siêu, cúng thập loại chúng
sinh; Lễ thuyết giảng về Bồ tát Quan Thế Âm và cầu nguyện cho dân tộc an bình,
thịnh vượng…
Ngoài các nghi lễ truyền
thống, vào dịp lễ hội người ta còn tổ chức các sinh hoạt văn hóa như thi cờ,
thi hóa trang, thi hát dân ca, thi điêu khắc, thi hát tuồng...
Trong những ngày lễ hội,
dân làng và những người làm từ thiện thường ban phát lòng hảo tâm rộng rãi đến
những người nghèo khổ.
31. TÍN NGƯỠNG THỜ
TỨ PHÁP TẠI ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
Tứ pháp là danh từ để
chỉ các nữ thần trong tín ngưỡng Việt Nam gồm: Mây, Mưa, Sấm, Chớp, đại
diện cho các hiện tượng tự nhiên có vai trò quan trọng trong xã hội nông
nghiệp. Sau này khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam thì nhóm các
nữ thần này được biến thành Tứ pháp với truyền thuyết về Phật Mẫu Man Nương.
Liên quan đến tín ngưỡng
thờ nữ thần còn có hệ thống các chùa gọi là Tứ Pháp, hiện chỉ thấy trong vùng
Đồng bằng Bắc Bộ. Các vị nữ thần đó gồm: Pháp Vân (thần mây), Pháp Vũ (thần
mưa), Pháp Lôi (thần sấm) và Pháp Điện (thần chớp)
Trong các chùa thờ
những nữ thần này, tượng của các nữ thần được tạc với kích thước to lớn hơn rất
nhiều so với các tượng Phật. Hệ thống chùa Tứ pháp là chứng tích cho sự kết hợp
giữa Phật giáo với các tín ngưỡng dân gian có nguồn gốc nguyên thủy ở
Việt Nam.
Tương truyền:
Hơn hai nghìn năm trước, có nhà sư Khâu Đà La lập am
truyền đạo ở bờ sông Đuống. Khi ấy ở làng Mãn Xá, kề bên sông Dâu, có vợ chồng
ông Tu Định hiền lành phúc hậu sinh hạ được một con gái đầu lòng đặt tên
là Man Nương. Khi Man Nương 15 tuổi, ông bà Ta Định cho con tới thụ giáo nhà sư
họ Khâu. Một hôm, sau khi hành pháp trở về, Khâu Đà La thấy Man Nương ngủ trước
cửa phòng, nhà sư bước qua người nàng mà vào phòng, và cũng từ đấy Man Nương có
thai. Đúng giờ ngọ ngày mùng 8, tháng Tư âm lịch, Man Nương sinh được một con
gái và bế sang chùa trả cho nhà sư.
Nhà sư ẵm đứa bé đến một cây dung thụ già, gõ vào thân
cây đọc một bài kệ. Cây dung thụ bỗng nứt ra làm hai và nhà sư đặt đứa bé vào
thân cây. Cây liền khép lại và nở hoa.
Mấy chục năm sau, cây dung thụ bị bão đổ, trôi ra bến
sông Dâu, đến huyện Thuận Thành (Bắc Ninh) nơi nàng Man Nương ở thì dừng lại.
Trai làng gọi nhau ra kéo cây vào bờ, nhưng cây đứng yên không nhúc nhích. Đến
khi Man Nương ra sông thì cây tự rẽ sóng vào bờ. Dân làng lấy làm lạ, gọi thợ
làm 4 khúc pho tượng Phật.
Khi xin duệ hiệu cho pho tượng thứ nhất, thấy mây ngũ
sắc, mới đặt là Pháp Vân rước thờ ở chùa Thiền Định (chùa Dâu), nên
gọi là bà Dâu.
Đến khi xin duệ hiệu cho pho tượng thứ hai, thấy mưa mới
gọi là Pháp Vũ, rước thờ ở chùa Thành Đạo (chùa Đậu), nên gọi là bà
Đậu.
Đến khi xin duệ hiệu cho pho tượng thứ ba, thấy sấm mới
gọi là Pháp Lôi, rước về chùa Phi Tương (chùa Tướng), nên gọi là bà Tướng.
Đến khi xin duệ hiệu cho pho tượng thứ tư, thấy chớp mới
gọi là Pháp Điện rước về thờ ở chùa Phương Quan (chùa Dàn), nên gọi là bà
Dàn.
Còn Man Nương được tôn là Phật Mẫu, thờ ở chùa Phúc
Nghiêm. Từ đó thành lệ, hàng năm cứ đến ngày mùng 8/4 âm lịch, các chùa Tứ Pháp
lại mở hội, gọi là Hội Dâu, là một hội lớn ở tỉnh Bắc Ninh.
Ngoài ra, hệ thống chùa
thờ Tứ Pháp còn ở một số vùng Bắc Bộ như:
Ở Hà Nội:
- Chùa Keo (Sùng
Nghiêm) Gia Lâm thờ Pháp Vân, nên gọi là bà Keo
- Chùa Nành (Ninh
Hiệp) xã Ninh Hiệp thờ Pháp Vân, gọi là bà Nành
- Chùa Sét (Đại Bi) thờ
cả Tứ pháp
- Chùa Pháp Vân, chùa
Pháp Vũ ở Thanh Trì.
Ở Hưng Yên:
- Xã Lạc Hồng, huyện Văn
Lâm: Chùa Thái Lạc thờ Pháp Vân, chùa Hồng Cầu thờ Pháp Vũ, chùa Nhạc Miếu thờ
Pháp Lôi, chùa Hồng Thái thờ Pháp Điện.
- Xã Lạc Đạo, huyện Văn
Lâm: Chùa Lạc Đạo thờ Pháp Vân, chùa Hoằng thờ Pháp Vũ, chùa Hướng Đạo thờ Pháp
Lôi, chùa Tân Nhuế thờ Pháp Điện.
Ở Hà Tây:
(Nay thuộc về Hà Nội)
- Chùa Pháp Vân thờ Pháp
Vân
- Chùa
Đậu (chùa Thành Đạo) thờ Pháp Vũ
Ở Hà
Nam:
- Chùa Quế Lâm (chùa
Bến, nên gọi là bà Bến), chùa Do Lễ, chùa Thôn Bốn, chùa Tiên thờ Pháp
Vân.
- Chùa Trinh Sơn, chùa
Bảo Sơn (chùa Bà Đanh nên gọi là bà Đanh) thờ Pháp Vũ.
- Chùa Đặng Xá, chùa Nứa
thờ Pháp Lôi
- Chùa Bầu thờ Pháp Điện
(gọi là bà Bầu)
32. THỜ NỮ THẦN MÂY
Ở CHÙA THÁI LẠC (HƯNG YÊN)
Chùa Thái Lạc tọa lạc
tại thôn Thái Lạc, xã Lạc Hồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, phía Bắc quốc lộ
5, cách thị trấn Bần Yên Nhân chừng 7km. Chùa xây bằng gạch hoa đời Trần và bên
trong có những tác phẩm chạm trổ rất đẹp. Ngoài thờ Phật, chùa còn thờ thần
Pháp Vân (Nữ thần Mây) nên còn có tên gọi là Pháp Vân tự, hay chùa Pháp Vân.
Kiến trúc chùa hiện nay
gồm tiền đường năm gian, ba gian thượng điện, hai dãy hành lang mỗi bên chín
gian, và nhà tổ bẩy gian.
Chùa Thái Lạc còn giữ
được bộ vì gỗ ở gian giữa tòa thượng điện, kiến trúc từ thời Trần, còn khá
nguyên vẹn. Loại hình này ở nước ta rất hiếm, ngoài chùa Thái Lạc chỉ còn thấy
ở chùa Dâu, chùa Bối Khê. Bộ vì kiến trúc kiểu giá chiêng, dựa trên kết cấu bốn
hàng chân cột. Trên bộ vì được kết hợp hài hòa giữa kiến trúc và trang trí.
Trên các cốn, các đố của bộ vì và trên các cột, đấu có nhiều mảng chạm khắc
lớn. Nếu nguyên vẹn, có khoảng 20 bức chạm nổi các đề tài khác nhau, hiện nay
chùa “lưu giữ” 16 bức. Trên ván bưng chạm tiên nữ đầu người mình chim. Trên
thân cột trụ chạm hình các ông phỗng giơ tay đỡ bệ sen phía trên. Còn trên ván
nong trang trí đề tài các tiên nữ: Nơi tiên nữ đang cưỡi phượng, người thổi
tiêu, người kéo nhị; Nơi khác, tiên nữ đang thổi sáo, đánh đàn; Có cả cảnh tiên
nữ đầu người mình chim đang giơ tay dâng hoa. Độc đáo hơn còn có cảnh chạm dàn
nhạc ba người đang sử dụng những nhạc cụ dân tộc.
Chùa Thái Lạc còn giữ
được tượng Pháp Vân, ba bệ thờ và ba tấm bia đá ghi quá trình trùng tu tôn tạo
chùa. Tất cả đều có niên đại thế kỷ 16, 17.
Năm 1964, chùa Thái Lạc
được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật đặc biệt quan
trọng.
33. THỜ TỨ BẤT TỬ
GỒM NHỮNG VỊ THẦN NÀO
Ngoài việc thờ Thành
Hoàng, thờ Phật, tín ngưỡng cổ truyền Việt Nam còn tục thờ Tứ Bất Tử. Đó là các
vị thần: Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử và Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
1. Tản Viên
Tản Viên là thần núi Sơn
Tinh dựa theo truyền thuyết Sơn Tinh, Thuỷ Tinh. Là vị thần biểu thị cho sức
mạnh đoàn kết của người Việt Nam xưa, nhằm ứng phó với thiên tai như: lũ lụt,
gió mưa…
Theo truyền thuyết thì
Thục An Dương Vương là người đầu tiên lập đền thờ Thánh Tản Viên. Nhà Lý đã
phong Thánh Tản Viên là "Thượng đẳng tối linh thần" và "Đệ nhất
phúc thần". Đền chính thờ Ngài là Đền Thượng núi Ba Vì, ngoài ra ở các nơi
khác đều có đền thờ Thánh Tản Viên và các bộ tướng, tập trung nhiều ở các tỉnh
Vĩnh Phú, Hà Tây, Hà Nam, Ninh Bình...
Để tưởng nhớ công đức
Thánh Tản Viên, ở Đền Và (Ba Vì) cứ ba năm một lần nhân dân mở hội lớn với lễ
thức rước bài vị Thánh qua sông Hồng, lễ tắm ngai, đánh cá thờ... Đặc biệt ở lễ
hội là tục làm cỗ thờ 99 đuôi cá...
Trong tâm thức dân gian
thì Thánh Tản Viên là biểu tượng của sức mạnh liên kết giữa đất và núi, giữa
các bộ lạc, giữa con người và thánh thần... đã tạo nên sức mạnh xẻ núi, khơi
sông, dời non, lấp bể, khẳng định sức mạnh của con người trước thiên nhiên hùng
vĩ...
2. Thánh Gióng
Nhân vật Thánh Gióng gắn
liền với truyền thuyết Thánh Gióng. Việc thờ cúng Thánh Gióng thể hiện mơ ước
về một cuộc sống hoà bình của nhân dân ta.
Tương truyền từ thời
Hùng Vương, để ghi nhớ công lao của “chàng trai làng Gióng”, nhà vua đã lập đền
thờ Thánh Gióng và tôn là Phù Đổng Thiên Vương. Đến thời nhà Lý, sau lần được
chứng kiến Thánh Gióng linh ứng, vua Lý Công Uẩn đã cho tu bổ đền thờ, tạc
tượng, truy phong Thánh là Xung Thiên Thần Vương.
Từ thời Nhà Trần trở về
sau đều phong tặng sắc thần cho Thánh Gióng như: Thượng đẳng phúc thần, Nhất Vị
Tế Cương Nghị, Hiểu Hựu Anh Linh...
Ngoài đền thờ chính ở
làng Phù Đổng, huyện Gia Lâm, tỉnh Hà Nội, còn có đền thờ ở Sóc Sơn, ở núi Vệ
Linh nơi mà Thánh Gióng đánh giặc xong, cởi áo giáp sắt treo lên cây, bay về
trời.
Nhiều địa phương cũng
thờ Thánh Gióng cùng với các vị anh hùng cứu nước khác như: Hai Bà Trưng, Trần
Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão...
Để tưởng nhớ công lao
của Thánh Gióng, hàng năm nhân dân ta mở hội vào ngày mồng 9 tháng 4 âm lịch.
Trong những ngày hội có các nghi lễ như: rước nước, tập trận, săn hổ, cờ tướng,
múa hát, chèo tuồng...
3. Chử Đồng Tử
Chử Đồng Tử là một nhân
vật truyền thuyết biểu trưng cho người nông dân nghèo khó với hai bàn tay trắng
đã tạo dựng nên cơ nghiệp.
Người Việt Nam ta thờ
Thánh Chử Đồng Tử như ông tổ của đạo thờ tiên. Tiên, theo quan niệm dân gian là
người ở cõi trời giáng trần, hoặc là người trần giới có đức độ tài ba, đạo cốt
qua tu luyện thành tiên, sau đó dùng phép lạ của mình để cứu nhân độ thế, được
dân gian tôn thờ, ngưỡng mộ.
Chử Đồng Tử và Nhị vị
phu nhân được thờ ở nhiều nơi thuộc tỉnh Hưng Yên như thôn Đa Hoà, thôn Dạ
Trạch, đều thuộc huyện Khoái Châu ..., ngoài ra, Thánh Chử Đồng tử và Nhị vị
phu nhân được dân gian thờ phụng ở xã Tự Nhiên, thuộc tỉnh Hà Tây.
4. Liễu Hạnh
Trong hệ thống điện thần
Việt Nam, Mẫu Liễu Hạnh là một trong Tứ Bất Tử, là vị Thánh của tín ngưỡng Tứ
Phủ, một tín ngưỡng có cội nguồn lâu đời và độc đáo của Việt Nam.
Trong truyền thuyết, Mẫu
Liễu Hạnh là con gái của Ngọc Hoàng, vì phạm lỗi nên bị đầy xuống trần gian. Bà
được dân gian tôn là Nữ hoàng Công chúa, trở thành bậc siêu nhân, luôn ban ân
đức cho mọi người, trừng phạt kẻ phản nghịch, góp phần đánh giặc ngoại xâm....
Bà được nhân dân tôn là Thánh Mẫu. Đền thờ của bà được lập ở nhiều nơi, trong
đó Phủ Giầy (Vụ Bản), Thạch Thành (phố Cát) và Hà Trung (Đền Sòng).
Trong tiềm thức của nhân
dân, Mẫu Liễu Hạnh là một vị thần, là một nhân vật bình thường nhưng thật phi
thường.
34. NHỮNG ĐỀN, CHÙA
CHÍNH TRONG QUẦN THỂ CHÙA HƯƠNG
Khu di tích quần thể
chùa Hương gồm rất nhiều ngôi chùa cổ kính được xây dựng theo kiến trúc Phật
Giáo thuộc xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội), kéo dài từ
bến đò Yến Vĩ, dọc theo suối Yến qua đền Trình, núi Mâm Xôi, núi Oản, núi Voi
Phục, bến Thiên Trù ...
*. Đền Trình:
Theo suối Yến đi vào
điểm đầu tiên du khách bắt gặp chính là đền Trình, còn gọi là đền Quan Lớn hoặc
đền Ngũ Nhạc, nằm bên phải suối Yến. Nơi đây được gọi là đền Trình vì tất cả
khách hành hương trước khi đi vãn cảnh Hương Tích đều phải vào đây để trình lễ
với Sơn Thần.
Đền Trình thờ ông Hiển
Quang - một bộ tướng của Hùng Vương thứ 16 - đã có công trừ giặc giúp dân.
*. Chùa Thiên Trù:
Chùa Trò, tức chùa
Ngoài, tên chữ là Thiên Trù (Bếp Trời) là được đặt từ thời Lê Thánh Tông. Tương
truyền khi vua Lê Thánh Tông đi tuần phủ qua đây đã cho quân lính nghỉ ở một
thung lũng rất đẹp và nấu cơm ăn. Vốn là người biết xem thiên văn, địa lý, ngay
lập tức vua nhận ra vùng đất hữu tình này thuộc địa phận sao Thiên Trù - sao
chủ về sự ăn uống nên vua đặt tên chùa là chùa Thiên Trù.
Xưa chùa được xây dựng
công phu và đồ sộ với hơn 100 nóc. Trong kháng chiến chống Pháp, chùa đã bị phá
huỷ gần như hoàn toàn. Hiện nay tại khu vực chùa xưa vẫn còn một vườn tháp,
trong đó đáng chú ý là hai công trình nghệ thuật đất nung thế kỷ XVII: Thiên
Thủy Tháp và Viên Công Bảo Tháp.
*. Chùa Tiên Sơn:
Chùa Tiên Sơn được xây
dựng vào năm Chính Hoà thứ 7 (1687) trên núi Tiên Sơn và nằm trong một động đá
rất đẹp nên chùa còn gọi là động Tiên Sơn.
Hiện trong động Tiên Sơn
vẫn còn bút tích cũ của chúa Trịnh Sâm đề thơ và 5 pho tượng đá trắng. Trên
vách động có rất nhiều nhũ đá và phía sau chùa là một tượng voi cũng bằng đá.
*. Chùa Giải Oan:
Chùa có niên đại với
chùa Tiên Sơn (năm Chính Hoà thứ 4- 1687). Trong chùa có giếng Giải Oan nước trong
và mát.
Theo truyền thuyết thì
giếng Giải Oan chính là nơi Đức Phật Bà Quan Âm đã tắm để tẩy sạch bụi trần
trước khi vào cõi Phật.
*. Đền Cửa Võng:
Là đền thờ Bà chúa
Thượng Ngàn - người cai quản toàn bộ rừng núi của vùng Hương Sơn này. Đền
cũng là nơi ở của những Ngọc nữ, những người thường xuyên mang tin tức từ chùa
Thiên Trù (chùa Ngoài) vào động Hương Tích (chùa Trong).
*. Động Hương Tích:
Đây là điểm chính của
toàn thể khu di tích và được mệnh danh là "Nam thiên đệ nhất động". Hình dáng của động như miệng của
một con rồng lớn đang há.
Trên vách động có toà
Cửu Long bằng nhũ đá và tượng Phật Bà Quan Âm bằng đá xanh được tạc từ thời Tây
Sơn. Hiện nay trên vách núi trước cửa động vẫn còn có dòng chữ "Nam thiên đệ nhất động".
Hội chùa Hương bắt đầu vào
ngày 6 tháng Giêng và kéo dài đến hết tháng 3 âm lịch.
35. CHÙA TRẤN QUỐC
- NGÔI CHÙA CỔ NHẤT HÀ NỘI
Chùa Trấn Quốc có lịch
sử lâu đời nhất của Hà Nội, cũng là một trong những ngôi chùa cổ nhất
Việt Nam, được xây dựng từ thời Lý Nam Đế (544 - 548), thuộc
phường Yên Hoa (nay là Yên Phụ) với tên là chùa Khai Quốc (mở nước).
Vị Quốc sư của triều Lê
là Ngô Chân Lưu Khuông Việt đã tu hành ở đây một thời gian. Đến triều Lê Thái
Tông (thế kỷ 15), chùa được đổi tên là chùa An Quốc.
Năm 1615, bãi sông Hồng
bị lở, chùa được di dời về đảo Kim Ngư (đảo Cá Vàng) trên nền cũ của cung Thúy
Hoa nhà Lý và điện Hàm Nguyên thời Trần. Sau đó, người ta cho đắp đê Cố Ngự
(sau đọc chệch ra Cổ Ngư) và tạo đường nối từ đê với đảo Cá Vàng.
Chùa được trùng tu quy
mô lớn nhất là vào đời vua Lê Thần Tông năm 1639. Trạng
nguyên Nguyễn Xuân Chính đã soạn văn bia dựng ở chùa vào
năm 1639 về công việc tôn tạo này.
Đến niên hiệu Chính
Hòa (1680-1705) đời vua Lê Hy Tông, chùa đổi tên là Trấn Quốc.
Năm 1821, vua Minh
Mạng đến thăm chùa, ban 20 lạng bạc để tu sửa.
Đến năm 1842,
vua Thiệu Trị tuần du ra Bắc, ban 1 đồng tiền vàng lớn và
200 quan tiền, đổi tên chùa là Trấn Bắc, nhưng nhân dân vẫn giữ nguyên tên
gọi cũ là chùa Trấn Quốc có từ đời vua Lê Hy Tông cho đến ngày nay.
Chùa Trấn Quốc có kiến
trúc thẩm mỹ của kiến trúc phương Đông: Uy nghiêm ở bên trong nhưng giản dị,
khiêm nhường bên ngoài, cân bằng tuyệt đối giữa công trình kiến trúc với cảnh
quan hồ nước, cây xanh. Ngay con đường dẫn vào cổng chùa là khu Vườn tháp, với
nhiều ngôi tháp cổ từ thời Vĩnh Hựu và Cảnh Hưng thế kỷ 18. Qua cổng chùa - có
ba chữ “Phương tiện môn”, là đến nhà Bái đường, sau đến Tam bảo, sau nữa là
hành cung thập điện và gác chuông. Trong chùa có nhiều tượng đẹp, đặc biệt là
có tượng Phật Thích Ca nhập Niết Bàn bằng gỗ thếp vàng lộng lẫy.
Chùa Trấn Quốc có ba nếp
nhà chính là tiền đường, nhà thiêu hương và thượng điện nối thành hình chữ
Công. Hai bên nhà thiêu hương và thượng điện là hai dãy hành lang. Sau thượng
điện là gác chuông. Bên phải là nhà tổ và bên trái là nhà bia. Trong chùa còn
lưu giữ 14 tấm bia. Tấm bia năm 1815 có bài văn của tiến sĩ Phạm
Quý Thích về việc trùng tu chùa sau một thời gian dài đổ nát. Đặc biệt, ở
khuôn viên chùa có cây bồ đề, là quà tặng của Tổng thống Ấn
Độ khi ông đến thăm Hà Nội năm 1959.
Năm 1998, Hòa thượng Kim
Cương Tử - Viện chủ Tổ đình chùa Trấn Quốc, đã cho xây bảo tháp lục độ đài sen
trong khuôn viên chùa gồm 11 tầng, cao 15 mét, diện tích mặt sàn 10,5 m vuông.
Mỗi tầng tháp gồm 6 ô cửa vòm, có tượng Phật A Di Đà bằng đá quí. Tổng số tượng
của tháp là 66 pho và trên đỉnh có 9 tầng đài sen cũng bằng đá quí (cửu phẩm
liên hoa).
36. CHÙA HÀ - LINH
THIÊNG VỀ CẦU TÌNH DUYÊN
Chùa Hà có tên chữ là
Thánh Đức tự, trước kia thuộc làng Dịch Vọng (tên nôm là làng Vòng), huyện Từ
Liêm, nay thuộc phố Chùa Hà, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Có hai truyền thuyết về
chùa Hà.
Truyền thuyết thứ nhất:
Vào thời Lý, khi vua Lý
Thánh Tông trị vì,lúc đã 42 tuổi mà vẫn chưa có con nên đã cầu tự ở một ngôi
chùa mà sinh ra Thái tử Càn Đức, do đó ngôi chùa này gọi là chùa Thánh Chúa để
kỷ niệm sự kiện này. Trên đường đi vua còn ghé qua một ngôi chùa khác và ban
tiền bạc cho chùa để trùng tu lại, vì vậy chùa này (chùa Hà) còn có tên là
Thánh Đức tự.
Truyền thuyết thứ hai:
Chùa Hà được xây dựng
lên để vua Lê Thánh Tông bày tỏ lòng nhớ ơn các đại thần như Nguyễn Trãi,
Nguyễn Xí, Đinh Liệt đã phế bỏ Lê Nghi Dân để phò tá ông lên ngôi vua vào năm
1460.
Trải qua bao phen binh
hỏa, chùa Thánh Đức đã bị phá hủy nhiều lần. Đến năm 1680 chùa vẫn còn lợp lá
gồi, tường xây bằng gạch vồ nên người dân gọi là chùa Vồi. Đến đời vua Lê Hy
Tông (1675-1705) có hai người quê làng Thổ Hà tỉnh Bắc Giang sang ở chùa để bán
các đồ gốm sứ ở chợ trong và ngoài thành Thăng Long. Nhờ buôn bán phát đạt, hai
gia đình này tình nguyện công đức số tiền lớn cùng nhân dân trong xóm xây dựng
lại chùa với quy mô lớn bằng gạch ngói vào năm Chính Hòa (1680). Từ đó hai làng
Thổ Hà và Dịch Vọng Trung kết nghĩa, đặt tên xóm có ngôi chùa là Bối Hà và chùa
có tên nôm là chùa Hà.
Kiến trúc của chùa được
quy hoạch trong một khoảng không gian rộng thoáng. Ngoài cùng là cổng Tam quan
xây hai tầng có hệ thống cầu thang lên ở phía trái. Tầng trên xây kiểu chồng
diêm, giữa bờ đinh mái thượng đắp nổi hình mặt trời lửa đặt trên hình hổ phù, hai
đầu kìm đắp hình rồng đuôi xoắn, miệng ngậm bờ nóc, mái lợp giả ngói ống. Tầng
dưới chia làm ba gian, với 12 cột trụ xây nổi trên mặt tường. Tam quan có ba
vòm cửa, cửa giữa rộng hơn.
Tầng hai Tam quan treo
chuông đồng Thánh Đức tự, niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 7 (1799), một di vật thời
Tây Sơn còn bảo quản nguyên vẹn. Chuông cao 1m20, chu vi đáy 1m80 được đúc tinh
tế, phần trên bốn múi chuông được khắc nội dung văn chuông, phần dưới được khắc
tứ linh: long ly quy phượng cách điệu mà rất sống động. Phía trên là hai con bồ
lao đầu nhìn về hai phía, bốn chân gắn chặt vào chuông
Chùa Hà nhìn ra hướng
tây, kết cấu kiểu chữ Đinh có Tiền đường và Thượng điện, tam bảo năm gian rộng.
Tòa phật điện của chùa được bố trí theo nhiều lớp. Lớp cao nhất là ba pho Tam
thế. Lớp thứ hai: là ba pho tượng Tam Thánh. Phía dưới tượng A Di Đà: tượng A
Nan Đà, Đức Ông.
Phía ngoài chính điện
giáp với đại bái là tượng Thích Ca sơ sinh. Lớp tượng ở nhà bái đường nổi bật
nhất là tượng Thiên Tướng Hộ Pháp cao lớn mặc áo giáp vàng ngồi trên con sấu.
Hai bên đầu hồi còn đặt 8 vị Thần Vương Hộ Pháp.
Phía sau chính điện của
chùa là Điện Mẫu. Kiến trúc Điện Mẫu bao gồm phía trước là phương đình, phía
sau là Thần điện. Trong phương đình có đặt đỉnh hương và đôi hạc lớn. Phía sau
phương đình là nhà bái đường gồm 5 gian làm theo kiến trúc cổ. Gian chính giữa
đặt Mẫu Thượng Thiên trang phục màu đỏ, bên trái là tượng Mẫu Thượng Ngàn trang
phục màu xanh, bên phải là tượng Mẫu Thủy trang phục màu trắng, ngoài ra còn có
tượng các ông hoàng, bà chúa, tượng các cô, các cậu. Đặc biệt là bức phù điêu
Bát Tiên treo bên trái hồi rất sống động.
Bàn thờ phía dưới cùng
của Điện Mẫu là Ngũ Hổ thần quan, hay gọi nôm là Quan Năm Dinh, biểu tượng bằng
5 mãnh hổ với màu sắc khác nhau.
Nếu như những ngôi chùa
khác tập trung nhiều tầng lớp trung niên, các cụ ông cụ bà, đến lễ bái, thì
chùa Hà được đông đảo học sinh, sinh viên tìm đến để cầu tình yêu.
Dân gian tín rằng chùa
Hà rất linh nghiệm với những cầu nguyện về thi cử, học hành và tình duyên. Rất
nhiều nam thanh nữ tú (nhất là những người đang cô đơn, lẻ bóng, những
người không may trong chuyện gia đình) đầu xuân đến chùa Hà để cầu xin sớm
gặp được người chồng (vợ) như ý, hoặc cầu xin tình yêu sớm đơm hoa kết trái,
hạnh phúc gia đình được viên mãn.
Dân gian cũng tín rằng:
Đức Ông chùa Hà rất linh thiêng nên dân quanh vùng có câu “Đức Ông chùa Hà, Đức Bà chùa Hương”.
37. CHÙA LÁNG (HÀ
NỘI) THỜ THIỀN SƯ TỪ ĐẠO HẠNH
Chùa Láng, hay còn gọi
là Chiêu Thiền tự, thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh, tọa lạc ở cuối phố Chùa Láng,
phường Láng Thượng, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Theo sách "Thiền
Uyển tập anh", thiền sư Đạo Hạnh là con ông Từ Vinh và bà Tăng Thị ở làng
Yên Lãng (tục gọi là làng Láng), là người thông minh, hiếu học, có chí lớn,
tính tình phóng khoáng. Sau khi cha mất, Từ Đạo Hạnh chọn con đường đi Tây Vực
để học đạo. Tuy không đến được Ấn Độ nhưng ông đã học được những phép thuật ở
phái Mật Tông của Phật giáo. Khi trở về, ông đến tu tại núi Phật Tích (Hà Tây).
Tại đây ông cho xây am Hương Hải, viện Phổ Đà, sau này trở thành chùa Thiên
Phúc (còn gọi là chùa Thầy). Ông là người có kiến thức sâu rộng về đạo Phật,
thường giảng đạo, làm thơ về cuộc sống, nay còn lại 4 bài in trong tập
"Thơ văn Lý - Trần". Thiền sư còn được tôn là Tổ sư nghề hát chèo,
nay còn lại bài giáo trò mà các vở chèo dân gian nào cũng hát ở phần mở đầu.
Ông mất năm 1117 tại chùa Thiên Phúc, thân pháp còn được lưu giữ tại chùa và bị
quân Minh đốt huỷ vào thế kỷ 15.
Theo truyền thuyết, sư
Từ Đạo Hạnh đầu thai làm con trai Sùng Hiền hầu, em vua Lý Nhân Tông. Vì
vua Lý Nhân Tông không có con, nên con trai của ông Sùng Hiền hầu
được nối ngôi, tức vua Lý Thần Tông (trị vì
từ 1128 đến 1138).
Do sự tích ấy mà con của
Lý Thần Tông là Lý Anh Tông đã cho xây cất chùa Chiêu Thiền để thờ vua cha và
tiền thân của Người là thiền sư Từ Đạo Hạnh. Chùa được trùng tu nhiều lần, nhất
là vào các năm 1656, 1901 và năm 1989.
Chùa Láng (Chiêu Thiền
tự) được xây dựng thời Vua Lý Anh Tông (1138 - 1175) là một quần thể kiến trúc
rộng lớn, được xây dựng theo kiểu "nội công ngoại quốc", tính đủ 100
gian. Cổng chùa bao gồm bốn cột vuông với ba mái cong không chùm lên cột mà gắn
vào sườn cột. Mái giữa cao hơn hai mái bên, giống như kiến trúc cổng ở cung vua
phủ chúa ngày xưa.
Qua cổng là
sân gạch Bát Tràng, giữa sân là chiếc sập đá, nơi đặt kiệu trong các
ngày lễ hội. Cuối sân có cửa tam quan, có đường lát gạch dẫn đến cổng thứ ba.
Qua cổng này có ngôi nhà bát giác là nơi đặt tượng Từ Đạo Hạnh. Tương
truyền, tượng này có từ thời Lý, đến thời Lê (khoảng 1644 - 1646) được tu bổ cơ
bản và đến tháng 01 năm 2005, bức tượng lần nữa được tu bổ toàn diện. Qua
nhà bát giác mới đến các công trình chính trong chùa: Bái đường, nhà thiêu
hương, thượng điện, các dãy hành lang, nhà tổ và tăng phòng...
Động thập điện Diêm
Vương ở hai dãy hành lang, miêu tả những hình phạt ở các tầng địa
ngục.
Hội chùa Láng cử hành
vào ngày mồng bảy tháng ba âm lịch, là ngày sinh của Thiền sư Từ Đạo Hạnh.
Trong ngày hội, kiệu của Thiền sư Từ Đạo Hạnh được rước đến chùa Hoa Lăng ở xã
Dịch Vọng, nơi thờ bố mẹ ông.
Chùa Thầy ở Sơn Tây
cũng thuộc hệ thống chùa thờ Từ Đạo Hạnh nên dân gian có câu rằng:
Nhớ ngày mồng bảy tháng ba,
Trở về hội Láng, trở ra hội Thầy.
38. CHÙA PHÚC
KHÁNH - NGÔI CHÙA LINH THIẾNG ĐẤT HÀ THÀNH
Chùa Phúc Khánh thường
được gọi là chùa Sở, tọa lạc tại số 382 Tây Sơn, phường Thịnh Quang, quận
Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Tương truyền chùa Phúc
Khánh được xây dựng vào cuối thời Trần, trên nền đất làng Sở (ban đầu chỉ là
một ngôi chùa nhỏ để dân làng thờ Phật, sau nhiều lần trùng tu, mở rộng, chùa
mới có khuôn viên như ngày nay). Sang đến thời Lê sơ, nhất là vào thời Hậu Lê,
chùa Sở trở thành một trường học, đào tạo tăng ni, phật tử cho cả nước. Sau đó,
vào năm 1776, chùa Phúc Khánh bỗng nhiên gặp cơn binh hỏa, phật đài, tịnh xá,
nền móng bị đổ nát. Có vị tăng đồ của chùa Trấn Quốc đi qua, được dân làng Sở
ái mộ mời ở lại để trụ trì. Dân làng Sở đã bỏ công sức, cúng tiền, khuyến cáo
thập phương hợp sức xây lại chùa. Nhưng cũng có tài liệu cho rằng chùa nằm
trong khu vực diễn ra trận đánh Đống Đa năm 1789 nên bị đổ nát, sau được nhà sư
Chiếu Liên xây dựng lại với sự hỗ trợ của Đô đốc Trần Văn Lễ (thời Tây Sơn).
Tam quan chùa Phúc Khánh
được làm theo kiểu hai tầng, cửa giữa lớn, cửa bên nhỏ hơn, phía bên trên làm
kiểu gác chuông. Hai bên tam quan xây hai trụ biểu, phía bên trên mỗi biểu đắp
hình con sấu chầu vào nhau. Thân trụ trang trí ô hộc, đắp chữ Hán.
Chùa Phúc Khánh có kết
cấu kiểu chữ Công không cân xứng. Qua tam quan đến sân chùa lát gạch và nơi thờ
tự bao gồm tiền đường và hậu cung.
Tiền đường 5 gian làm
theo kiểu “đầu hồi bít đốc”. Chính giữa bờ nóc đắp nổi một hình cuốn thư, bên
kiếm, bên bút lông.
Hậu cung 3 gian.
Nhà tổ 4
gian.
Trong chùa hiện còn lưu
giữ được hiện vật quý là quả chuông đúc từ thời Tây Sơn, do đô đốc Trần Văn Lễ
cúng tiến. Ngoài ra còn có 20 pho tượng trong chùa, có nhiều pho được làm từ
thời Tây Sơn có giá trị nghệ thuật cao.
Bên cạnh các pho tượng,
chùa còn giữ được những hiện vât nghệ thuật giá trị như 21 tấm bia đá, tấm cổ
nhất là năm 1698; 14 bộ bao lam (cửa võng); 3 đại hồng chung và các đồ thờ rất
quý khác như bát hương đồng, long ngai, nhang án, chuông cổ (đúc năm 1796)...
Chùa đã được Bộ Văn hóa
và thông tin xếp hạng di tích kiến trúc, nghệ thuật ngày 16 tháng 11 năm 1988
Chùa Phúc Khánh là ngôi
chùa linh thiêng có tiếng ở Hà Nội, năm nào người đến đây lễ cũng đông. Sau
những lời cầu khấn cho một năm mới làm ăn sung túc, nhiều người đến ban thờ Đức
ông để rút quẻ đầu năm. Nhiều người tín rằng, chùa Phúc Khánh rất linh thiêng,
cầu gì được đấy, nên khách thập phương đến dâng lễ tại chùa Sở vào những ngày
lễ, tết, sóc vọng năm nào cũng nườm nượp như trẩy hội.
Đặc biệt, những người
trắc trở về tình duyên thường đến chùa Phúc Khánh nhờ nhà chùa làm lễ cắt tiền
duyên (vì tin có người âm quá lưu luyến với mình không muốn mình được hạnh
phúc bên người khác), cầu mong cắt được duyên âm để duyên phận sẽ sớm được tốt
đẹp.
Loại hình sinh hoạt tâm
linh tiêu biểu của chùa Phúc Khánh là lễ cầu an (tổ chức vào ngày rằm tháng
giêng), lễ cầu siêu và lễ dâng sao giải hạn.
Lễ cầu an và lễ dâng sao
giải hạn từ lâu đã trở thành một “thương hiệu” gắn liền với tên tuổi chùa Phúc
Khánh. Nhiều người tin rằng các nghi lễ cầu an và dâng sao giải hạn của chùa
Phúc Khánh thật sự có hiệu quả.
Cùng với lễ cầu an đầu
năm và lễ dâng sao giải hạn diễn ra hàng tháng, chùa Phúc Khánh còn là một điểm
thu hút phật tử nhiều nơi đến làm lễ cầu siêu, đưa rước vong linh người thân
của mình gửi lên chùa. Cầu siêu, nói một cách ngắn gọn là một khóa lễ mà ở đó
người ta cầu cho các chân linh, vong hồn sau khi từ giã dương gian được siêu
sinh tịnh độ.
Đối tượng người hành lễ
tại chùa Phúc Khánh rất đa dạng, trong đó có một bộ phận là giới trí thức cũng
như các quan chức từ trung ương tới địa phương. Có lẽ là do ngôi chùa này nổi
tiếng là linh thiêng chăng?!
39. ĐỀN THỜ TỐNG
TRÂN - CÚC HOA Ở PHÙ CỪ, HƯNG YÊN
Tục truyền rằng, vào
thời nhà tiền Lý (bia Văn Miếu ở Hưng Yên ghi là thời Trần) ở xã An Đô, tổng
Võng Phan, huyện Phù Dung (nay là thôn An Cầu, xã Tống Trân, huyện Phù Cừ) có
một người họ Tống, tên gọi Thiệu Công thuộc dòng dõi thi thư, lấy vợ người xã
Phù Oanh cùng huyện Phù Dung, tên là Đào Thị Cuông. Vợ chồng sống rất nhân từ,
hay làm điều thiện... nên nhà Trời đã sai thiên sứ xuống đầu thai. Mang thai 11
tháng, bà Đào Thị Cuông mới sinh một cậu bé khôi ngô, tuấn tú vào ngày rằm
tháng Tư năm Bính Ngọ.
Lên 3 tuổi, Tống Trân đã
rất giỏi âm luật, cha mẹ rất yêu thương nên đặt tên là Trân. Lên 5 tuổi, Tống
Trân đã có khí chất thông minh, thiên tư sáng suốt, học một biết mười, trên từ
thiên văn, dưới đến địa lý đều am hiểu tinh tường.
Khi Tống Trân cùng mẹ
lang thang hành khất, đến Sơn Tây vào một gia đình trưởng giả giàu có ăn xin,
được Cúc Hoa (con gái ông trưởng giả) đem lòng yêu mến vì tài đối đáp thông
minh của Tống Trân. Ba người đưa nhau trở về quê hương làm ăn.
Đến năm Tống Trân 7 tuổi
vua Lý Nam Đế mở khoa thi để tuyển chọn nhân tài và đến ngày 29 tháng 9, Tống
Trân vào kinh ứng thí, cả ba kỳ đều đỗ thủ khoa. Đến ngày mồng 1 tháng 2 năm
Quý Sửu, ông đỗ Trạng Nguyên. Vua khen rằng: Kẻ sĩ cả nước chỉ có một Tống Trân
là tướng tài mà không có người thứ hai.
Ngày mồng 10 tháng 4,
vua ban cho cờ biển, một nghìn vuông gấm và mười đĩnh vàng cho về vinh quy bái
tổ.
Trở về làng bái yết tổ
tông, thăm hai bên nội ngoại, khao vọng làng xã trong một tháng, rồi cưới nàng
Cúc Hoa làm vợ. Tống Trân làm nhà ở làng Phù Oanh, cho vợ trông coi rồi trở lại
kinh thành. Được ba tháng, vua cử ngài đi sứ sang Bắc quốc. Vua Trung Quốc dùng
đủ mọi cách để thử tài Tống Trân, nhưng quan Trạng đều ứng đối trôi chảy, xử thế
mưu trí. Vua Trung Quốc khen là nhân tài thứ nhất trong 18 nước chư hầu và
phong làm "Lưỡng quốc trạng nguyên". Vua Tầu muốn gả con gái cho
nhưng Ngài từ chối, vì thế bị giam vào chùa Linh Long trong một trăm ngày,
không cho thức ăn, nước uống. Tại đây, ông đã nảy ra sáng kiến bẻ ăn tượng phật
(được làm bằng chè lam để thử tài trạng nước Nam) và uống nước lã, nên một lần
nữa, vua Tàu phục tài bèn phong làm "Phụ quốc thượng tể Đẩu Nam Tống đại vương".
Mười năm đi sứ, khi Tống
Trân trở về thì Cúc Hoa đang bị ép lấy chồng khác. Tống Trân giả dạng người
hành khất để dò la tình ý, biết Cúc Hoa vẫn thủy chung với mình, khen Cúc Hoa
đủ tam tòng, tứ đức, thực là nữ trung Nghiêu, Thuấn. Tống Trân đón vợ về, cùng
nhau đoàn tụ. Vua biết chuyện, đã phong cho Cúc Hoa làm "Quận
phu nhân".
Khi Lý Nam Đế băng hà,
Triệu Quang Phục lên ngôi hiệu là Triệu Việt Vương, có vời Tống Trân ra làm
"Phụ chính đại thần". Được hơn mười năm, Tống Trân ngoài 60 tuổi, mới
dâng biểu cao quan về quê dạy học. Cúc Hoa không có con, lại mắc chứng bệnh đau
bụng, ba hôm sau thì mất (ngày 3 tháng 3). Năm năm sau, Tống Trân bị chứng bệnh
"mã đao" (hạch ở cổ) và mất ngày mồng 5 tháng 5 năm Tân Hợi.
Ngài được phong sắc
"Thượng đẳng tối linh phụ quốc Tống Trân đại vương" và về
sau được truy phong làm "Thượng đẳng phúc thần".
Theo quy định hàng năm,
lễ hội làng được tổ chức từ ngày 10 đến ngày 17 tháng 4 âm lịch, trong đó ngày
13 và 14/4 là ngày hội chính. Ngày 13/4 tiến hành rước kiệu từ các đền, chùa
trong làng. Trong ngày chính hội (tức ngày 14/4) dân làng rước kiệu quan Trạng
đi vòng quanh làng với đoàn tuỳ tùng, cờ xí, võng lọng trông rất uy nghi. Và
đến ngày 16/4 lại rước kiệu về các đình, đền, chùa để an vị. Ngày 17/4 làm lễ
bế hội. Lễ hội đền Tống Trân là một trong những lễ hội lớn nhất của huyện Phù
Cừ.
40. ĐỨC THÁNH CHỬ
ĐỒNG TỬ VÀ LỄ HỘI ĐA HÒA
Cách Hà Nội chừng 25km
dọc theo đê sông Hồng, có hai ngôi đền thờ Đức Thánh Chử Đồng Tử. Một ngôi đền
nằm ở địa phận thôn Đa Hòa, xã Bình Minh, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên bên
dòng sông Hồng nhìn ra bãi Tự Nhiên nơi nàng công chúa Tiên Dung xinh đẹp, con
gái vua Hùng thứ 18 kỳ ngộ và nên duyên với chàng Chử Đồng Tử nghèo khó. Một
ngôi đền nữa thuộc địa phận thôn Yên Vĩnh, xã Dạ Trạch, huyện Khoái Châu, tỉnh
Hưng Yên, nơi chàng Chử Đồng Tử cùng nhị vị phu nhân hóa về trời.
Bài viết này giới thiệu
ngôi đền thờ Đức Thánh Chử Đồng Tử cùng Nhị vị Phu nhân ở thôn Đa Hòa và những
nghi thức cơ bản trong lễ hội Đa Hòa.
Ngôi đền Ða Hòa nằm trên
một khu đất cao rộng, bằng phẳng, hình chữ nhật có diện tích 18.720m², mặt đền
quay về hướng chính tây nhìn thẳng sang bãi Tự Nhiên. Tổng thể kiến trúc có 18
ngôi nhà mái ngói cổ như 18 con thuyền mũi cong, tượng trưng cho 18 đời vua
Hùng.
Ngọ Môn gồm 3 cửa. Cửa
chính là tòa nhà 3 gian cao rộng, trên đỉnh nóc đắp Lưỡng Long Chầu Nguyệt, chỉ
mở cửa vào ngày đại lễ. Hai cửa bên mở vào các ngày lễ hội, Sóc Vọng... để đón
khách thập phương.
Qua sân Ðại là đến Ðại
Tế, tòa Thiêu Hương, cung Ðệ Nhị, cung Ðệ Tam và cuối cùng là Hậu Cung. Tòa
Thiêu Hương có kiến trúc cao, thoáng, trang nghiêm. Các đầu đao, bờ nóc chạm
trổ tinh vi, đắp gọt tỉ mỉ, màu sắc rực rỡ với trang trí nhiều hình rồng, sư
tử.
Cửa võng ở cung Ðệ Nhị
được sơn son thiếp vàng, chạm hình chim phượng, hoa cúc và các loại quả.... Các
pho tượng Đức Thánh Chử Ðồng Tử và Nhị vị phu nhân được đúc bằng đồng rất đẹp.
Đền Dạ Trạch nằm cạnh
đầm Dạ Trạch với không gian thoáng đãng. Kết cấu chính từ ngoài vào trong gồm
có lầu Chuông, hồ Bán Nguyệt, qua sân là đến điện thờ gồm ba tòa nhà. Trong đền
thờ còn có ban thờ Triệu Việt Vương (Tương truyền do Triệu Việt Vương từng đóng
quân ở đây). Toàn bộ nội, ngoại thất, kiến trúc ngôi đền toát lên nét cổ kính,
linh thiêng.
Hằng năm vào ngày 10
đến 12 tháng 2 âm lịch, lễ hội Chử Đồng Tử được diễn ra tại các đền
Đa Hòa (xã Dạ Trach, Khoái Châu) và đền thờ Hồng Vân công chúa
(xã Đông Tảo, Khoái Châu) để tỏ lòng ghi nhớ công ơn của Tam vị với
dân quanh vùng, đồng thời cũng để nhắc nhở tô đậm thêm thiên tình sử
muôn đời của Tam vị Đức Thánh Chử Đồng Tử - Tiên Dung và Hồng Vân.
Sáng ngày khai hội (mồng
10 tháng 2 âm lịch), từ sáng sớm các cụ phụ lão trong làng khăn áo chỉnh tề ra
đền thắp hương làm lễ. Sau lễ khai mạc sẽ ôn lại truyền thuyết về cuộc đời và
những hoạt động của Đức Thánh Chử Ðồng Tử và nhị vị phu nhân, rồi thực hành
nghi lễ rước nước.
Đúng giờ quy định, đoàn
rước kiệu khởi hành ra bến sông Hồng lấy nước. Ði đầu là 2 con rồng vàng lộng
lẫy do 10 người điều khiển uốn lượn theo nhịp trống phách. Đoàn rước kiệu là
đội tế nữ với xiêm y đủ màu sắc. Ðám rước có ban nhạc lễ, kiệu thánh, bát bửu,
kíp chấp, ché đựng nước. Ðoàn rước nước ngồi trên hàng chục chiếc thuyền bơi ra
giữa sông Hồng múc nước đổ vào ché rồi quay về đền để làm lễ tắm tượng.
Theo sau là đoàn “rước
du”, đưa kiệu thờ các Đức Thánh lên thuyền rồng dạo trên sông với nhiều nghi
thức tế lễ, múa hát trên thuyền. Dọc bờ sông có các đội múa hát, chiêng trống,
cờ quạt, võng lọng theo hầu.
Sau khi nghi lễ rước
nước, rước du kết thúc, chóe nước thiêng và kiệu Thánh được rước trở lại đền
thì tổ chức lễ dâng hương và khai hội.
Theo tục lệ, nước được
dùng để cúng phải là nước ở giữa sông Hồng. Người đại diện cho dân làng lấy
nước là cụ già có đức độ trong làng. Dâng nước là hình thức tâm linh cầu nguyện
một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, bội thu.
Sau khai hội, diễn ra
rất nhiều trò chơi dân gian, nhiều tiết mục biểu diễn văn nghệ truyền thống
như: hát ca trù, hát trống quân; các trò chơi đi cầu kiều, bắt vịt, đánh đu…
Đặc biệt, lễ hội Ða Hòa
được gọi là Lễ Hàng Tổng Mễ, với thông lệ cứ 3 năm diễn ra một lần với sự tham
gia của nhân dân hai xã Bình Minh (huyện Khoái Châu) và Mễ Sở (huyện Văn
Giang): Sáng ngày 10 tháng 02 âm lịch, 8 làng thuộc tổng Mễ (tức 8 làng của 2
xã Bình Minh và Mễ Sở) đồng loạt tiến hành lễ rước kiệu về đền Đa Hòa.
Khi vào đền, ở mỗi đám
kiệu lại diễn ra các trò khác nhau như múa rồng, múa phượng, múa sinh tiền…
Các đoàn rước khi gặp
nhau còn có nghi thức chào hỏi độc đáo. Khi đã rước đủ 8 kiệu về đền thì tổ
chức đại lễ dâng hương và khai hội.
41. CHÙA TÂY PHƯƠNG
- NGÔI CHÙA THỜ TỰ NHIỀU VỊ PHẬT TỔ NHẤT Ở VIỆT NAM
Chùa Tây Phương được xây
dựng lần đầu vào đời Cao Biền (865-875). Sang niên hiệu Chính Hòa (1680-1705),
Tây Vương Trịnh Tạc cho sửa lại chùa và xây thêm tam quan. Sau lần trùng tu này
chùa bị phá. Đến triều Tây Sơn, vào 2 năm 1788, 1789, chùa được xây dựng lại
trên nền cũ, tọa lạc tại núi Tây Phương, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà
Tây (cũ).
Chùa được xây hình chữ
Tam với 3 tòa, mỗi tòa có 2 tầng, 8 mái và 8 đầu đao cong vút, trong đó tòa ở
giữa cao hơn nhưng lại nhỏ hơn so với tòa thượng và tòa hạ. Nội thất của các
tòa nhà đều được chiếu sáng vì thềm của các tòa cách nhau tới 1,6m. Các tòa nhà
được xây bằng gạch theo hình chữ Công, còn các cửa được chạm trổ theo kiểu bán
âm bán dương. Các kèo, cột, xà trong chùa đều được trang trí hình rồng, phượng,
hoa, lá bằng kỹ thuật chạm bẹt hoặc còn gọi là chạm nông.
Chùa có 72 pho tượng,
được tạc bằng gỗ mít sơn son thếp vàng.
Nhiều pho tạc cao hơn người thật như 8 pho tượng Kim Cương và Hộ Pháp, cao
chừng 3m, trang nghiêm phúc hậu. Phần lớn các tượng đều được coi là có niên đại
cuối thế kỷ 18. Một số tượng khác được tạc vào giữa thế kỷ 19.
Hệ thống tượng ở chùa
Tây Phương gồm:
Bộ tượng Tam Thế Phật:
với ba pho tượng Phật: Quá khứ, Hiện tại, Vị lai (còn gọi là Tam Thân: Pháp
thân, Ứng thân và Hóa thân) ngồi ở tư thế tọa thiền, y phục gập nếp đơn giản
phủ kín cơ thể.
Bộ tượng Di Đà Tam Tôn:
gồm tượng đức Phật A-di-đà, đứng hai bên là Quan Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát.
Tượng Tuyết Sơn miêu tả
đức Phật Thích ca
trong thời kỳ tu khổ hạnh: mỗi ngày ăn một hạt kê, một hạt vừng, tự hành xác để
vươn lên thế giới tinh thần sáng láng. Tượng màu đen thẫm khoác áo cà sa mỏng,
tay chân gầy khẳng khiu, xương nổi lên trước ngực. Toàn bộ cơ thể chìm trong
suy tưởng, mắt trũng sâu, hướng về nội tâm. Hai bên tượng Tuyết Sơn có tượng A
Nan Đà và Ca Diếp đứng hầu.
Tượng đức Phật Di Lặc
tượng trưng cho vị Phật của thế giới cực lạc tương lai. Người mập mạp, ngồi hơi
ngả về phía sau, toàn thân toát ra sự thỏa mãn, sung sướng.
Tượng Văn Thù Bồ Tát:
đứng chắp tay, chân đi đất, các ngón chân bấm móng xuống mặt bệ.
Tượng Phổ Hiền Bồ Tát:
chắp tay trước ngực, khuôn mặt sáng rộng nổi lên trên tấm thân phủ đầy y phục.
Tượng Bát bộ Kim Cương,
thể hiện trình độ rất cao về nghệ thuật lắp ghép gỗ và cách bố cục, chuyển động
của một thân thể mang giáp trụ trong các thế võ.
Mười sáu pho tượng Tổ
với phong cách hiện thực: Đó là Ưu-ba-cầu-đa, Đê-đa-ca, Di-trà-ca, Bà-tu-mật,
Phật-đà Nan-đề, Phục-đa-mật-đa, Hiếp Tôn giả, Thương Na Hòa Tu, Mã Minh,
Ca-tỳ-ma-la, Long Thụ Tôn giả, La-hầu-la-đa, Tăng-già Nan-đề,
Già-gia-xá-đa, Cưu-ma-la-đa, Chà-dạ-đa. Theo một danh sách tên các nhân vật
được tạc tượng trong một tài liệu còn lưu truyền ở chùa thì đây là tượng các vị
tổ Ấn Độ trong quan niệm của Thiền tông Trung
Quốc.
42. CHÙA BÁI ĐÍNH,
QUẦN THỂ CHÙA LỚN NHẤT ĐÔNG NAM Á
Chùa Bái Đính là một
quần thể chùa được báo giới tôn vinh là một quần thể chùa lớn nhất Đông Nam Á.
thuộc địa phận xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Chùa Bái
Đính cũng chính là nơi Đinh Tiên Hoàng Đế lập đàn tế trời cầu mưa
thuận gió hòa, sau này tiếp tục được vua Quang Trung chọn để làm lễ
tế cờ động viên quân sĩ trước khi ra Thăng Long đại phá
quân Thanh... Nơi đây nằm ở vùng đất hội tụ đầy đủ yếu tố nhân kiệt theo
quan niệm dân gian Việt Nam, đó là đất sinh Vua, sinh Thánh,
sinh Thần.
Quần thể chùa Bái Đính
gồm một khu chùa cổ và một khu chùa mới được xây dựng từ năm 2003.
Khu chùa Bái Đính cổ tự,
nằm cách điện Tam Thế của khu chùa mới khoảng 800 m men theo sườn núi Đính. Khu
chùa này nằm gần trên đỉnh của một vùng rừng núi khá yên tĩnh, gồm có một nhà
tiền đường ở giữa, rẽ sang bên phải là hang động sáng thờ Phật, rồi đến đền
thờ thần Cao Sơn ở sát cuối cửa sau của hang sáng; rẽ sang bên trái
là đền thờ thánh Nguyễn rồi đến hang động tối thờ mẫu.
Hang sáng, hang tối
Lên thăm hang động ở núi
Bái Đính phải bước trên 300 bậc đá, qua cổng tam quan ở lưng chừng núi. Lên hết
dốc là tới ngã ba: bên phải là động thờ Phật, bên trái là động thờ Mẫu. Phía
trên cửa động Phật có 4 chữ đại tự "Minh Đỉnh Danh Lam" khắc trên đá
do Lê Thánh Tông ban tặng.
Động dài 25m, rộng 15m,
cao chừng 2m, nền và trần của động bằng phẳng. Đi tiếp theo ngách đá bên trái
cuối động sẽ dẫn tới một cửa hang sáng và rộng, một thung lũng xanh hiện ra.
Nếu đi tiếp xuống các bậc đá sẽ đến đền thờ thần Cao Sơn. Quay trở lại ngã
ba đầu dốc, theo đường rẽ trái khoảng 50m là tới hang Tối.
Hang Tối lớn hơn hang
Sáng, gồm 7 buồng, có hang trên cao, có hang ở dưới sâu, các hang đều thông
nhau qua nhiều ngách đá, có hang nền bằng phẳng, có hang nền trũng xuống như
lòng chảo, có hang trần bằng, có hang được tạo hóa ban tặng cho một trần nhũ đá
rủ xuống muôn hình vạn trạng...
Trong động tối có
giếng ngọc tạo thành do nước lạnh từ trần động rơi xuống...
Đền thờ thần Cao Sơn
Đi hết hang sáng có một
lối dẫn xuống sườn thung lũng của rừng cây xưa là đền thờ thần Cao Sơn.
Theo như thần phả
của đền Núi Hầu (xã Yên Thắng, huyện Yên Mô, Ninh Bình) thì
Cao Sơn đại vương là Lạc tướng Vũ Lâm, con thứ 17 vua Lạc Long Quân, khi
vâng mệnh vua anh (Hùng Vương thứ nhất) đi tuần từ vùng Nam Lĩnh đến vùng Thiên
Dưỡng, đã tìm ra một loài cây thân có bột dùng làm bánh thay bột gạo, lấy tên
mình đặt tên cho cây là Quang lang. Thần đã dạy bảo và giúp đỡ người dân
làm ăn sinh sống đồng thời bảo vệ khỏi các thế lực phá hoại vì vậy đã được nhân
dân lập đền thờ.
Thần Cao Sơn cùng
với thần Thiên Tôn và thần Quý Minh là ba vị thần trấn ngự ở ba cửa
ngõ phía tây, đông và nam của cố đô Hoa Lư.
Đền thờ thánh Nguyễn
Lý Quốc Sư Nguyễn
Minh Không là người sáng lập chùa Bái Đính. Ông là một thiền sư, pháp sư tài
danh được nhân dân tôn sùng gọi là đức thánh Nguyễn. Khu vực núi Đính nằm cách
quê hương đức thánh Nguyễn Minh Không gần 5 km.
Tương truyền khi ông đến
đây tìm cây thuốc chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tông đã phát hiện
ra các hang động đẹp liền dựng chùa thờ phật và tạo dựng một vườn thuốc quý để
chữa bệnh cho dân. Đền thánh Nguyễn nằm ngay tại ngã ba đầu dốc, xây theo kiểu
tựa lưng vào núi, trong đền có tượng của ông được đúc bằng đồng.
Giếng ngọc
Giếng ngọc của chùa Bái
Đính cổ nằm gần chân núi Bái Đính. Tương truyền cách đây gần 1.000 năm Thiền
sư Nguyễn Minh Không đã lấy nước để sắc thuốc chữa bệnh cho dân và
chữa bệnh cho Thái tử Dương Hoán. Giếng xây lại hình mặt nguyệt, rất rộng,
có đường kính 30 m, độ sâu của nước là 6 m, không bao giờ cạn nước.
Miệng giếng xây lan can đá. Khu đất xung quanh giếng hình vuông, có diện tích
6.000 m², 4 góc là 4 lầu bát giác.
Lễ hội chùa Bái Đính là
một lễ hội xuân diễn ra từ ngày mùng 6 tết đến hết tháng 3, khởi đầu cho những
lễ hội hành hương về vùng đất cố đô Hoa Lư tỉnh Ninh Bình.
Về phần lễ ở chùa Bái
Đính diễn ra tương đối trang trọng vì ở đây không chỉ thờ các vị sơn thần, phật
tổ, bà chúa thượng ngàn mà còn gắn với nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của dân
tộc với các danh nhân đức Lý Quốc Sư, Quang Trung, Đinh Bộ Lĩnh.
Như vậy, phần lễ gồm tổng hòa toàn thể hệ thống tín ngưỡng tôn giáo ở
Việt Nam; có sự sùng bái tự nhiên, có Đạo, có Phật và có cả Nho.
Trẩy hội chùa Bái Đính
là hành động giải tỏa hòa hợp giữa thực và mơ, tiên và tục - thực là nền tảng,
mơ là uất vọng - trên cái nền mùa xuân tươi sáng mà con người Việt
Nam chất phác, nhân ái thuở xưa cảm nhận hành động và trao truyền.
43. TRUYỀN
THUYẾT NGÔI CHÙA LÀNG ĐÁ
Cách thị trấn Ân Thi
(Hưng Yên) chừng 1km về phía thị trấn Kẻ Sặt (Hải Dương), thuộc thôn Đỗ Hạ, xã
Quang Vinh, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên có một ngôi chùa được gọi là chùa Đá.
Tương truyền vào thời
Lý, có cô thôn nữ đẹp người đẹp nết của làng được hoàng cung tuyển chọn làm
thiếp yêu cho vua. Vào ngày cô dời làng lên xa giá về cung, bỗng xuất hiện đám
mây ngũ sắc, hình dáng tựa con rồng xanh, như đang ngồi che chở cho cô, theo cô
về triều. Dân làng cho đó là điềm lành nên hoan hỷ lắm, liền lấy điềm đó đổi
tên làng thành làng Đỗ Xá.
Sau khi sinh cho triều
Lý một hoàng tử, cô thôn nữ làng Đỗ Xá không bệnh mà tự dưng hóa. Đêm đó, trời
đổ mưa như trút nước. Sáng ra, dân làng thấy trên khúc sông đầu làng nổi lên
những phiến đá, cột đá, kèo đá... đủ xây dựng một ngôi chùa. Dân làng cho rằng trời
đất cảm thương bà liền dùng những đồ đá đó dựng lên ngôi chùa, để thờ cúng bà,
gọi đó là chùa Đá. Và làng Đỗ Xá được triều đình đổi tên là làng Đá từ đó.
Trước kia, khu chùa làng
Đá rất rộng. Nhiều gian thờ được xây dựng bằng cột đá, trụ đá, có chạm trổ rồng
phượng và những hoa văn tinh tế.
Khuôn viên chùa nằm trên
diện tích rộng vài hecta Bắc Bộ nhưng những năm phong trào Cần Vương, ngôi chùa
bị thực dân Pháp kéo quân về đốt phá vì chùa Đá là nơi dân làng nuôi giấu các
chiến sĩ Cần Vương.
Các cụ bô lão trong làng
kể rằng, con sông đầu làng ngày xưa rất rộng, trai tráng khỏe mạnh, bơi giỏi
nhất vùng cũng chỉ đủ sức bơi sang bên kia bờ, chứ đâu nhỏ bé như bây giờ,
không đủ để tưới tiêu cho một cánh đồng.
Ngày trước, bao quanh
khuôn viên chùa là những cây nhãn cổ thụ, đến mùa sai trĩu quả, nay dấu tích
nhỏ cũng không còn vì đất của chùa đã dùng xây sân kho, xây nhà văn hóa, làm
nhà dân ở...
Ngôi chùa ngày nay rất
nhỏ, được dựng lại trên nền gian Cửa Trình của khu chùa ngày trước. Do ngôi
chùa bị thực dân Pháp đốt phá nhiều lần nên những dấu tích về ngôi chùa, nhất
là sự tích về ngôi chùa không còn.
Dấu tích chùa xưa chỉ
còn lưu lại ở một số cột đá, chạm trổ hoa văn và những con rồng đang vươn mình
bay lên cao... ở gian chính điện.
Trước cửa chùa là con
rùa to bằng đá, đội bát nhang để du khách thập phương thắp hương trước khi vào
lễ Phật.
Việc thờ tự ở ngôi chùa
Đá cũng giống các ngôi chùa khác ở Bắc Bộ, cũng theo tín ngưỡng tứ phủ.
Gian chính điện thờ
Phật. Hai bên chính điện thờ Đức Ông, Đức Thánh Hiền, Thành Hoàng và Hồ Chủ
Tịch.
Gian thờ Mẫu nằm bên
cạnh, hơi chếch về phía sau chính điện. Ngoài việc thờ Tam tòa Thánh Mẫu, Quan
Ngũ Hổ, gian thờ Mẫu còn thờ Bà Chúa Sơn Trang, Đức Thánh Trần Triều...
Những ngày đầu tháng,
đầu năm âm lịch, dân trong vùng đến lễ Phật, lễ Mẫu.... để cầu xin tài lộc.
Người dân trong vùng kể
nhiều chuyện về sự linh ứng khi thành tâm dâng lễ: Nào là chuyện vợ chồng nhà
nọ lấy nhau đã nhiều năm, chữa chạy đã nhiều thầy nhiều thuốc mà vẫn không có
con, vậy mà chỉ sau vài tháng năng đến chùa dâng lễ, giờ đã có con nối dõi tông
đường; nào là chuyện nhà kia vợ ốm nặng, chạy chữa mãi không khỏi, khi người
chồng thành tâm dâng lễ, liền có người “mách” mà gặp được thầy, được thuốc, vài
tuần sau khỏi bệnh...
Người dân trong vùng
cũng nói rằng: Sự ứng nghiệm chỉ đến với những ai thành tâm, thật lòng hướng
thiện, còn những ai sống không có thiện tâm, không thành tâm hướng thiện sẽ
không nhận được sự linh ứng, thậm chí còn bị Phật, Mẫu trừng phạt.
44. ĐỀN PHÙ ỦNG VÀ
TƯỚNG QUÂN PHẠM NGŨ LÃO
Đền Phù Ủng toạ lạc tại
làng Phù Ủng, xã Phù Ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Là đền thờ tướng quân
Phạm Ngũ Lão - danh tướng đời Trần - người có công lớn, giúp Trần Hưng Đạo
trong kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông và Ai Lao.
Theo sách Tông phả kỷ yếu
tân biên của Phạm Côn Sơn dẫn gia phả họ Phạm, ông là cháu 8 đời của
tướng Phạm Hạp thời nhà Đinh.
Năm 1285, trong cuộc
kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai ông cùng với Trần Quang
Khải tiến đánh Chương Dương, Hàm Tử, đập tan đội binh thuyền khổng lồ của
giặc và diệt quân Nguyên chiếm đóng Thăng Long. Sau đó, Phạm Ngũ Lão
được lệnh mang 3 vạn quân phục kích đánh địch ở Vạn Kiếp, chặn đường địch rút
chạy lên biên giới phía bắc và diệt được hai phó tướng địch là Lý Quán và Lý
Hằng.
Trong cuộc kháng chiến
chống quân Nguyên lần ba, Phạm Ngũ Lão cùng các tướng bày trận phục kích đường
rút lui của giặc trên sông Bạch Đằng. Trong trận này. quân nhà Trần bắt
sống các tướng giặc Phàn Tiếp, Áo Lỗ Xích, Ô Mã Nhi. Sau đó, Phạm Ngũ Lão tiếp
tục truy kích cánh quân của Thoát Hoan trên đường bộ.
Phạm Ngũ Lão đã bốn lần
theo lệnh vua Trần, cất quân đi trừng phạt sự xâm chiếm, quấy nhiễu của quân Ai
Lao, hai lần Nam chinh đánh thắng quân Chiêm Thành, buộc vua Chiêm
Thành là Chế Chí phải xin hàng.
Ông được Trần Hưng
Đạo gả con gái nuôi là quận chúa Anh Nguyên.
Năm 1290, vua Trần
Nhân Tông giao cho ông cai quản quân Thánh Dực, phong chức Hữu Kim ngô Đại
tướng quân. Đến đời vua Trần Anh Tông, ông được thăng tới chức Điện súy
Thượng tướng quân, tước Quan nội hầu.
Không chỉ có tài về quân
sự, mà ông còn để lại nhiều bài thơ về chí trai, lòng yêu nước. Hiện nay tác
phẩm của ông chỉ còn lại hai bài là Thuật hoài (Tỏ Lòng) và Vãn
Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương (Viếng Thượng tướng quốc công
Hưng Đạo Đại Vương).
Năm 1320, Phạm Ngũ
Lão mất, hưởng thọ 66 tuổi. Nhân dân xã Phù Ủng dựng đền thờ ngay trên nền nhà
cũ của gia đình ông. Đáng tiếc ngôi đền đã bị thực dân Pháp phá hoại năm 1948,
chỉ còn lại dấu vết nền móng xưa và hai cột đồng trụ ở hai bên. Từ năm 1990,
nhân dân phục hồi lại ngôi đền, kiến trúc gồm năm gian tiền bái, ba gian hậu
cung. Ông cũng được phối thờ tại đền Kiếp Bạc, Chí Linh, Hải
Dương tại đền thờ Trần Hưng Đạo.
Trong quần thể di tích
thờ danh tướng Phạm Ngũ Lão tại Phù Ủng, có lăng Phạm Tiên Công (thân sinh ra
danh nhân Phạm Ngũ Lão), đền Nhũ Mẫu (mẹ nuôi tướng quân Phạm Ngũ Lão), đền
Tĩnh Huệ công chúa (con gái tướng quân Phạm Ngũ Lão), theo lối kiến trúc thời
Nguyễn. Ngoài ra còn có lăng Vũ Hồng Lượng (quan dưới triều Lê), kiến trúc nghệ
thuật điêu khắc đá thời Hậu Lê (thế kỷ 17).
Hàng năm, từ 11 - 15
tháng Giêng âm lịch, dân làng thường mở hội, để tưởng nhớ công lao của vị danh
tướng yêu nước. Đây cũng là lễ kỉ niệm ngày ra quân của tướng quân Phạm Ngũ Lão
năm xưa.
Khu vực ngoài đền, trước đây thường
được tổ chức vật cù, nhưng những năm gần đây, ban tổ chức lễ hội không đưa vật
cù vào hoạt động trong lễ hội. Tương truyền vật cù được Phạm Ngũ Lão dùng để
quân sỹ rèn luyện sức khỏe và vui chơi. Cù hình tròn, làm bằng gỗ vuông sơn đỏ.
Sân chơi là một bãi rộng chia làm 2 bên đông và tây, giữa sân kẻ một vạch
ngang, chính giữa vạch đào một lỗ đặt quả dầu, hai đầu sân mỗi bên đào một lỗ.
Mỗi đội có 8 quân và 1 tổng, đầu chít khăn, đóng khố. Mỗi đội đóng khố một màu
khác nhau. Trước khi chơi, hai đội xếp thành hai hàng làm lễ trước cửa đền.
Trọng tài cầm quả cầu đặt ở hố giữa sân, phát hiệu lệnh, hai bên giành nhau
cướp bỏ vào lỗ của đối phương, bên nào cho vào lỗ của bên kia là thắng cuộc.
Ngày 11 tháng Giêng (âm
lịch) hàng năm, là ngày tướng quân Phạm Ngũ Lão ra quân đánh giặc, là ngày khai
hội, dân làng tổ chức lễ tế Phạm Tiên Công - thân sinh tướng quân Phạm Ngũ
Lão rồi mới tế tướng quân Phạm Ngũ Lão. Đến tối mọi người tập trung tại đền thờ
công chúa Thủy Tiên (con gái tướng quân Phạm Ngũ Lão và là cung phi của vua
Trần Anh Tông) để làm lễ Mộc Dục.
Sang ngày 12 người ta tổ
chức lễ tế ở đền công chúa.
Đặc sắc nhất trong hội,
là đám rước quận chúa Thủy Tiên - con gái duy nhất của Ông với những nghi thức
đặc biệt. Buổi sáng ngày 13 tượng công chúa được rước về đền thờ tướng
quân Phạm Ngũ Lão. Tham gia cuộc rước là các chàng trai cô gái áo quần chỉnh
tề. Người ta quan niệm rằng các cô gái đội quần áo, mũ, giầy của công chúa sẽ
được Bà phù hộ.
Vào các ngày hội, mọi
người sắm lễ vào dâng hương, cầu xin tướng quân phù hộ cho gia đình có được may
mắn, sức khỏe. Người ta tin rằng mọi lời khấn cầu sẽ được linh nghiệm. Người ta
cũng thành tâm xin thẻ để biết được cửa nhà, gia sự trong một năm như thế nào.
Thường thì người ta hay xin thẻ ở gian thờ Mẫu, hy vọng sẽ được Mẫu linh ứng,
chở che cho cả năm được tai qua nạn khỏi, sức khỏe dồi dào, tài lộc sung túc...
Một nét đặc sắc ở lễ hội
đền Phù Ủng là khi rước, nhân dân thường chen nhau chui qua gầm kiệu với ý
nghĩa cầu mong sẽ thực hiện được những điều mong muốn lớn lao trong đời.
Các ngày hội chính kéo
dài đến hết ngày 14 tháng Giêng âm lịch. Đến tối ngày 15 những người trên
50 tuổi trong làng tổ chức 1 lễ tế...
Ngoài ra còn có đền thờ
Ông ở 25 phố Lý Quốc Sư - Quận Hoàn Kiếm - Thành phố Hà Nội. Đền do dân làng
Phù Ủng từ Hưng Yên ra làm ăn tại Hà Nội lập nên để thờ
tướng quân Phạm Ngũ Lão, gọi là Phù Ủng vọng. Đồng thời để tôn vinh người
đã thu dụng và đào tạo tướng quân Phạm Ngũ Lão thành một tướng giỏi
nên đền Phù Ủng vọng còn thờ cả danh tướng Trần Hưng Đạo.
45. ĐỀN KIẾP BẠC
THỜ ĐỨC VUA CHA TRẦN HƯNG ĐẠO
Đền Kiếp Bạc thuộc địa
phận hai thôn Dược Sơn và Vạn Kiếp, xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh,
tỉnh Hải Dương, là nơi thờ phụng Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Đây là di tích quan trọng thuộc
khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc.
Vào thế kỷ 13,
đây là nơi Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn lập căn cứ,
tích trữ lương thực, huấn luyện quân sĩ trong các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược.
Sang thế kỷ 14, đền thờ ông được xây dựng tại nơi đây và là nơi tổ
chức các lễ hội hàng năm để dâng hương tưởng niệm vị anh hùng của dân tộc,
người có công lớn với đất nước, được nhân dân tôn sùng, thành kính là Đức vua cha, Đức Thánh Trần.
Khu vực đền Kiếp Bạc có
dãy núi Rồng và Lục Đầu Giang bao bọc, tạo thành thế rồng chầu, hổ phục, lại
được sông tạo thành minh đường rộng rãi. Đây đúng là thế đất linh kiệt!
Phía trước đền có cổng
lớn, có ba cửa ra vào nguy nga, đồ sộ, được khắc phía trên trán cổng mặt ngoài bốn
chữ "Hưng thiên vô cực", và dưới có 5 chữ "Trần Hưng Đạo Vương
từ".
Tòa điện ngoài cùng thờ Phạm Ngũ Lão, tòa điện thứ hai thờ Hưng Đạo Vương, tòa điện
trong cùng thờ phu nhân Hưng Đạo Vương là công chúa Thiên Thành và hai con gái
được gọi là Nhị vị Vương cô.
Trong đền hiện còn 7 pho
tượng bằng đồng: tượng Trần Hưng Đạo, tượng công chúa Thiên Thành, tượng Nhị vị
Vương cô, tượng con rể là Phạm Ngũ Lão, tượng Nam Tào, tượng Bắc Đẩu và 4 bài
vị thờ các con trai của ông cùng 2 gia tướng là Yết Kiêu
và Dã Tượng.
Gần đền là một quả núi
nhỏ cây cối mọc um tùm, có tên là Viên Lăng. Một số người cho rằng đây là nơi
an táng Trần Hưng Đạo.
Lễ hội chính được tổ
chức từ ngày 15 đến ngày 20 tháng 8 âm lịch.
Do tính chất địa và lịch sử, lễ hội Côn Sơn (gắn liền với Nguyễn Trãi)
và lễ hội đền Kiếp Bạc (gắn liền với Trần Hưng Đạo) thường được tổ chức trùng
nhau để nhân dân tưởng nhớ tới hai vị anh hùng dân tộc. Ngoài ra, tại đền Kiếp
Bạc, hình thức sinh hoạt tín ngưỡng lên đồng
diễn ra thường xuyên.
Lễ hội được tổ chức rất
long trọng vào ngày 20/8 âm lịch. Sau lễ dâng hương là đại lễ với nghi thức tế
uy nghiêm. Sau lễ tế là đến lễ rước. Bài vị Ðức Thánh Trần được rước trên Kiệu
sơn son thiếp vàng, đi qua Tam Quan hướng tới bờ sông. Từ đây kiệu được rước
lên thuyền rồng. Cuộc rước kéo dài khoảng 2 giờ, sau đó lại rước Ngài trở lại
đền để làm lễ tạ, đồng thời kết thúc ngày hội lớn.
46. ĐỀN KIẾP
BẠC VÀ NIỀM TIN CẦU PHÚC, TRỪ TÀ, BAN CON, BAN CHỨC
Trong tâm thức dân gian,
Hưng Đạo Đại Vương được vinh danh là đức Thánh Trần và đồng nhất Ngài với Ngọc
Hoàng thượng đế, từ đó tạo nên một dòng Đạo Nội - đạo Thanh Đồng, mà đức Thánh
Trần là giáo chủ.
Suốt mấy trăm năm
qua, Đức Thánh Trần đã thực sự có ảnh hưởng sâu đậm tới đời sống tâm linh của
người dân Việt. Nhất là tín ngưỡng hầu đồng, ban ấn... ở đền Kiếp Bạc.
Hầu đồng là một nghi thức
trong hoạt động tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Về bản chất, đây là
nghi thức giao tiếp với thần linh thông qua các ông đồng, bà đồng. Người ta tin
các vị thần linh có thể nhập hồn vào thân xác các ông đồng, bà đồng
nhằm phán truyền, diệt trừ tà ma, chữa bệnh, ban phúc, ban lộc cho các con
nhang, đệ tử. Khi thần linh nhập vào đồng thì lúc đó các ông đồng, bà đồng
không còn là mình nữa mà là hiện thân của vị thần nhập vào họ. Người đứng giá
hầu đồng gọi chung là Thanh Đồng, Thanh Đồng là nam giới thì được gọi là
"Cậu", nữ giới được gọi là "Cô hoặc Bà đồng".
Ngoài việc lên đồng để
giao tiếp với thần linh, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam còn tin
rằng sau khi chết, linh hồn người chết vẫn còn và theo dõi cuộc sống của
người thân đang sống.
Do đó, khi lên đồng,
linh hồn của người chết có thể nhập vào Đồng Cô, Đồng Cậu để trò chuyện với
thân nhân đang sống. Thông qua cuộc trò chuyện này, người sống sẽ biết được
những yêu cầu của người thân đã quá cố và người sống cũng biết được vận mạng
tương lai của mình.
Trong ngày hội, những
người đàn bà mắc chứng vô sinh, hiếm muộn hoặc mắc các chứng bệnh của phụ nữ...
đến Đền cúng bái. Thầy cúng sẽ dùng roi dâu đánh vào người “bệnh nhân” và “bệnh
nhân” ấy lăn lộn, thậm chí lăn xuống sông, thì coi như tà ma đã được diệt trừ
(xuất phát từ truyền thuyết Hưng Đạo Đại vương chém Phạm Nhan). Người ta tin
rằng, với uy danh của đức Thánh Trần trừ diệt được Phạm Nhan thì mọi tà ma đều
được trừ diệt.
Ngoài ra, trong hội đền
Kiếp Bạc, nhân dân còn đến Đền mua thuốc ở Nam Tào (Dược Sơn) về uống rất là
hiệu nghiệm.
Dân trong vùng có tục lệ
đầu năm đến đền Kiếp Bạc để cầu được bình an, học hành hiển đạt, làm ăn phát
tài, tránh được mọi điều xui xẻo và phổ biến nhất là việc cầu được có con nối
dài hương hỏa.
Tục truyền, người đến
cầu con khi đến Đền, phải tuân thủ: "Vào
cửa cha, ra cửa mẹ" (Dưới pho tượng đồng của Đức Thánh Trần và Đức
Quốc mẫu có cửa chui qua) hay xin một ít đất ở mô cao sau Đền thì thế nào cũng
sẽ được thỏa nguyện. Dân gian còn tín: nhà nào "hữu sinh vô
dưỡng" hoặc con sinh phạm vào giờ quan sát, thiết tỏa... khó nuôi
thì làm lễ bán khoán vào Đền. Đến năm đứa trẻ 12 tuổi thì gia đình biện lễ
chuộc con về, làm như thế đứa trẻ sẽ được bình yên vô sự.
Theo lệ cổ, đêm 18 tháng
8 (Âm lịch), trước ngày ngày giỗ Đức Thánh Trần, chính quyền sở tại cùng với
thủ từ làm lễ đóng ấn vào một tấm lụa màu vàng để đến hội ban cho khách thập
phương.
- Ấn thứ nhất, kích
thước 10cm x 10cm, khắc chữ Trần triều Hưng Đạo vương chi ấn (ấn của Hưng Đạo
vương triều Trần).
- Ấn thứ hai, kích thước
5,5cm x 5,5cm, khắc 4 chữ Quốc pháp Đại vương (Đại vương nắm (giữ) phép nước).
- Ấn thứ ba, kích thước
4,3cm x 4,3cm, khắc 4 chữ Vạn Dược linh phù (Bùa thiêng Vạn Dược).
- Ấn thứ tư, kích thước
5,2cm x 7,8cm, khắc 6 chữ Phi thiên thần kiếm linh phù (Bùa thiêng phi thiên
thần kiếm).
Muốn cầu được
thăng quan tiến chức thì xin ấn Triều triều Hưng Đạo vương chi ấn, hoặc Quốc
pháp Đại vương; cầu được sinh con, cầu xin việc trừ tà sát quỷ, diệt giặc dã,
giữa bệnh, thì xin ấn Phi thiên thần kiếm linh phù.
Sau khi làm lễ ban ấn,
nhân dân xin ấn về treo ở nhà để gặp nhiều may mắn.
47. NGHI LỄ “BÁN
CON” CHO ĐỨC THÁNH TRẦN
Gắn liền với việc thờ
phụng Đức Thánh Trần là tục “bán con”, còn gọi là bán khoán con vào cửa Thánh.
Thường những trẻ phạm
vào giờ sinh như giờ Kim Xà Thiết Tỏa, giờ Quan Sát hoặc Mệnh tuổi của đứa trẻ
xung khắc với Mệnh tuổi của bố mẹ, nhất lại là trẻ trai thì người ta mở tục bán
khoán con vào cửa Thánh để cầu sự bình an, tốt đẹp đến với đứa trẻ, giúp đứa
trẻ khỏe mạnh, lớn khôn bình thường như bao đứa trẻ khác. Tín ngưỡng dân gian tín
rằng những trẻ như thế rất khó nuôi, cần “ly tổ” mới hóa giải được.
Người ta sắm lễ gồm: mâm
xôi, con gà, vàng nhang hoa quả cùng hai tờ sớ xin bán khoán con cho Đức Thánh
Trần bảo bọc nuôi dưỡng trong một số năm (thường thì đến năm 13 tuổi) rồi đem
đứa trẻ đến đền Kiếp Bạc làm nghi lễ bán khoán con vào cửa Thánh Trần Triều.
Sau khi đã hoàn thành
nghi lễ bán con, người ta đổi họ tên cho đức trẻ, ví dụ đứa trẻ tên theo giấy
khai sinh là Nguyễn Thế Luân thì đổi thành Trần Quốc Thảo ngay tại chùa. Đứa
trẻ sẽ dùng tên mới ngay từ đó và cha mẹ đứa trẻ sẽ không được tùy tiện mắng
chửi đứa trẻ.
Đến thời hạn bán khoán đã
hết, gia đình đứa trẻ lại sắm mâm xôi con gà, rượu trà hoa quả vàng nhang và tờ
sớ đến đền, khấn xin được đưa con về nhà cha mẹ đẻ nuôi dạy. Lúc này đứa trẻ
mới được gọi bằng tên thật, và gia đình dạy dỗ chúng như những đứa trẻ bình
thường khác.
48. NHỮNG ĐỨA TRẺ
NÀO NÊN GỬI LÀM CON NƠI CỬA PHẬT, CỬA THÁNH
Tính giờ cho trẻ sơ sinh
người ta không theo như thông lệ là chọn giờ Hoàng đạo, tránh giờ Hắc đạo mà
chỉ cần biết đứa trẻ sinh có phạm vào giờ Kim Xà Thiết Tỏa hay giờ Quan Sát hay
không. Vì đó là những giờ tối độc với đứa trẻ.
Theo quan niệm dân gian,
đứa trẻ sinh vào những giờ này rất khó nuôi, nhất là những đứa trẻ phạm vào giờ
Kim Xà Thiết Tỏa, thì tuổi thọ thấp, hay đau ốm, thậm chí khó sống nổi qua 13
tuổi nếu mệnh tuổi của đứa trẻ lại bị mệnh tuổi của cha mẹ xung khắc.
Cách tính giờ Kim Xà
Thiết Tỏa:
Trước hết phải biết giờ,
ngày, tháng, năm sinh của đứa trẻ.
Cách tính được bắt đầu
từ năm Tý ở cung Tuất trên bàn tay, tính thuận đến năm sinh, đến cung nào thì
kể cung đó là tháng Giêng, đếm theo chiều nghịch đến tháng sinh, rồi từ
cung đó tính là ngày mùng một, đếm theo chiều thuận đến ngày sinh, kể
cung đó là giờ Tý, đếm theo chiều nghịch đến giờ sinh thì dừng lại
ở cung này.
Nếu là trai, mà cung
này là cung Thìn hoặc Tuất thì phạm giờ Kim Xà. Còn nếu cung này
là cung Sửu hay Mùi thì phạm vào Bàng giờ.
Nếu là gái, mà cung
này là cung Sửu hoặc Mùi thì phạm giờ Kim Xà, còn nếu rơi vào cung
Thìn hay Tuất thì chỉ phạm Bàng giờ.
Trường hợp phạm giờ
Kim Xà, trai hay gái đều dễ yểu mệnh trước 13 tuổi. Còn nếu chỉ phạm
Bàng giờ thì có cơ may tồn tại, nhưng sẽ hết sức khó nuôi.
Còn với trẻ phạm giờ
Quan Sát thì sao?
Với trẻ sinh phạm giờ
Quan Sát thì trẻ đó hoặc hay đau yếu, hoặc bị tai nạn bất ngờ đe dọa đến sinh
mệnh. Muốn biết trẻ có phạm giờ Quan sát hay không thì căn cứ vào tháng sinh và
giờ sinh của trẻ đem đối chiếu với bảng lập sẵn cho cả trẻ nam trẻ nữ dưới đây:
Tháng Giêng |
Sinh vào giờ Tỵ |
Tháng Hai |
Sinh vào giờ Thìn |
Tháng Ba |
Sinh vào giờ Mão |
Tháng Tư |
Sinh vào giờ Dần |
Tháng Năm |
Sinh vào giờ Sửu |
Tháng Sáu |
Sinh vào giờ Tý |
Tháng Bảy |
Sinh vào giờ Hợi |
Tháng Tám |
Sinh vào giờ Tuất |
Tháng Chín |
Sinh vào giờ Dậu |
Tháng Mười |
Sinh vào giờ Thân |
Tháng Một |
Sinh vào giờ Mùi |
Tháng Chạp |
Sinh vào giờ Ngọ |
Ví dụ, đứa trẻ sinh vào
tháng Giêng, giờ Tỵ thì phạm vào giờ Quan Sát.
Khi trẻ phạm vào những
giờ Kim Xà Thiết Tỏa và Quan Sát thì bố mẹ nên làm lễ gửi con nơi cửa Phật cửa
Thánh để cầu bình an, mạnh khỏe, được độ trì sinh mệnh.
Trước hết viết tên đứa
trẻ vào tờ khoán, làm lễ đóng dấu son của nhà chùa. Đức trẻ bán vào cửa Phật
thì lấy họ Mâu, ở cửa Thánh thì lấy họ Trần. Tờ khoán làm thành 2 bản, một bản
để ở bàn thờ Phật, Thánh, một bản gia đình mang về nhà giữ.
Nghi lễ gửi con nơi cửa
Phật, cửa Thánh chỉ được tiến hành khi đứa trẻ đã được 100 ngày tuổi vì theo
quan niệm dân gian lúc đó đứa trẻ hết ô uế lúc mới sinh. Đến khi trẻ 13 tuổi
(hoặc hơn) thì sẽ làm lễ chuộc con về.
49. XIN CON THẦN,
THÁNH NHƯ THẾ NÀO?
Xin con cầu tự là một
tập tục có từ lâu đời. Đây là một yếu tố tâm lý nhằm giải tỏa vấn đề nối dõi
tông đường của các cặp vợ chồng muộn con hoặc không sinh được con trai.
Để xin con cầu tự, người
ta hành hương về chùa Hương, Yên Tử, hoặc những đền chùa có tiếng linh thiêng
về cầu con vào các dịp lễ hội để làm lễ cầu tự. Người ta cho rằng, những ai
muốn sinh con trai thì xoa tay vào núi Cậu, ai muốn sinh con gái thì xoa tay
vào núi Cô, Người xưa tín rằng, sau khi lễ bái thành kính Trời, Phật sẽ cho các
Cậu, các Cô theo người cầu tự ấy về. Vì vậy khi ra về, người cầu tự phải có
phần lễ cho Cô, Cậu. Phần lễ này gồm: quà bánh, bát đũa trên mâm cơm, đồ mã và
thêm tiền, vé tàu xe để Cô, Cậu về làm con cho người cầu tự.
Người xin con cầu tự cần
nhớ:
1. Chuẩn bị lễ vật: 13
tờ tiền, 13 loại quả khác nhau, 13 đồ chơi trẻ con.
2. Tạ lễ 3 lễ - 5 lạy.
3. Sau khi lễ mỗi lễ lấy
về 1 thứ.
4. Trên đường về nhà mua
thêm 1 xuất đò (nếu đi đò), mua thêm 1 xuất ăn (nếu vào quán ăn)
Trước khi đến chùa làm
lễ cầu tự, các cặp vợ chồng phải giữ tâm hồn trong sáng, luôn nghĩ và làm việc
thiện... Tóm lại, vợ chồng phải tu tâm, tu đức để Phật, Thánh chứng giám cho
lòng thành. Thời gian chay tịnh phải ít nhất là 7 ngày.
Những người có con cầu
tự, trong xưng hô thường gọi con là “cậu”, là “cô”. Khi vào đình, đền, miếu,
phủ,… khấn xin tài lộc thì người có con cầu tự xưng là “anh sinh chị đẻ” của
“ún tiểu” tên là:... chứ không xưng là bố mẹ của đứa trẻ. Người xưa làm vậy vì
sợ phạm húy tới Thần, Thánh mà bị quở trách, sẽ bắt “cô”, “cậu” về trời, không
cho ở lại là người cầu tự, nối dõi tông đường cho dòng tộc nữa.
Những đứa trẻ cầu tự dù
nghịch ngợm hay làm điều gì sai trái thì thường không bị cha mẹ mắng như những
đứa trẻ khác mà chỉ nhẹ nhàng khuyên giải vì sợ “cô”, “cậu” giận sẽ bỏ về Trời,
không ở với họ nữa.
50. ĐỀN CỬA
ÔNG - NƠI THỰC HÀNH TÍN NGƯỠNG VỀ CÔNG DANH, SỰ NGHIỆP
Đền Cửa Ông là nơi thờ Hưng Nhượng vương Trần Quốc
Tảng, một tướng lĩnh thời Trần đã lập nhiều công lớn trong cuộc chiến chống
quân Nguyên xâm lược. Ông là con trai của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn và
Thiên Thành công chúa.
Tương truyền, trước khi thờ tướng Hưng Nhượng vương
quân Trần Quốc Tảng, đền Cửa Ông là miếu thờ ông Hoàng Cần, người địa phương có
nhiều công đánh phá giặc cướp, được các triều đại phong kiến phong "Khâm
sai Đông Đạo Tiết chế".
Đền tọa lạc trên một
ngọn đồi cao khoảng 100 mét, thuộc phường Cửa Ông, thị xã Cẩm Phả, tỉnh
Quảng Ninh, cách thành phố Hạ Long hơn 40 km về phía đông bắc, nhìn xuống
vịnh Bái Tử Long ở phía nam, hai bên có hai ngọn đồi nhỏ hộ vệ, phù hợp với quy
tắc Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ, sau lưng là dãy núi xanh chạy dài qua Cẩm Phả,
Mông Dương.
Đền được xây dựng thành
ba khu, đền Hạ, đền Trung và đền Thượng, nhưng đền Hạ và đền Trung đã bị bom
Mỹ phá hủy.
Phía trước đền Thượng có
một tam quan, bên trái là khu nhà để khách thập phương sắp lễ vào đền, bên phải
là một ngôi chùa, phía sau là lăng Trần Quốc Tảng. Bên trong đền Thượng có rất
nhiều tượng thờ các nhân vật nối tiếng của triều Trần, được phân bổ làm 3 lớp:
- Tiền đường: có Đỗ
Khắc Chung, Lê Phụ Trần, Nguyễn Địa Lô.
- Bái Đường: có Trần
Quốc Tảng, Trần Thì Kiến, Hà Đặc, Phạm Ngộ, Trần Khánh Dư.
- Hậu Cung: có Trần
Quốc Tuấn, Yết Kiêu, Nguyễn Quyên, Nguyễn Tiễn, Huyền Du, Quyên Thánh Công
Chúa, Đỗ Hành.
Lễ hội đền Cửa Ông được
tổ chức 2 năm một lần vào năm chẵn, nhằm tôn vinh công đức của Hưng Nhượng
Vương Trần Quốc Tảng (Thần chủ đền Cửa Ông, là con trai thứ 3 của Hưng Đạo
vương Trần Quốc Tuấn) và nhiều tướng lĩnh nhà Trần có công đánh thắng giặc
Nguyên Mông, bảo vệ biên cương vùng Đông Bắc của Tổ quốc.
Hội đền Cửa Ông chính
thức mở vào ngày 3 tháng 2 âm lịch và kéo dài cho đến hết tháng 3 nhưng thường
thì từ đêm 30 và sáng Mồng Một Tết đã nườm nượp du khách từ khắp mọi miền đã
đến lễ đền.
Đền Cửa Ông nổi tiếng về
tín ngưỡng tâm linh như cầu công danh, tài lộc... Mỗi khi xuân về, không chỉ
người dân Quảng Ninh mà khách thập phương náo nức hành hương về dự lễ hội đền
Cửa Ông để du xuân, để tưởng nhớ vị anh hùng của dân tộc và thực hành tín
ngưỡng tâm linh, cầu xin Đức Ông phù hộ cho con đường công danh, sự nghiệp được
hanh thông, phát đạt.
51. PHỦ
GIÀY VÀ TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU
Phủ Giầy là tên gọi của
quần thể di tích tín ngưỡng truyền thống của người Việt thuộc xã Kim Thái,
huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Phủ Giầy trước có tên cổ
là Kẻ Giầy, cho tới khi bà Chúa Liễu Hạnh được suy tôn là Mẫu nghi Thiên hạ thì
Kẻ Giầy được đổi thành Phủ Giầy.
Trong quần thể di tích
Phủ Giầy có 2 đền (Phủ) lớn, gắn chặt với tín ngưỡng thờ Mẫu là: Phủ Tiên Hương
(Chính phủ) và phủ Vân Cát.
- Đền (Phủ) Tiên Hương:
Trước Phủ là một giếng
tròn ở giữa có cột cờ, rồi đến một sân rộng nối với hệ thống nghi môn trụ, trên
đỉnh đắp chim phượng và lân. Tiếp đến là ba tòa nhà ngang: nhà bia, nhà trống,
nhà chiêng. Một hồ bán nguyệt có lan can thấp bao quanh, có bình phong và hai
cầu vượt đều bằng đá.
Điện thờ chính, thờ
hệ thống Mẫu Tứ Phủ. Mẫu Thượng Thiên (trời) ớ giữa, Mẫu Địa (đất) ở bên phải,
Mẫu Thoải (nước) ở bên trái, Mẫu Thượng Ngàn (núi, rừng) ở phía trước.
Theo tầm phả thì Tiên
Hương là quê chồng của bà chúa Liễu Hạnh.
- Đền (Phủ) Vân Cát:
Phía trước Phủ Vân Cát
là hồ bán nguyệt, rồi tới ngũ môn uy nghi. Trung tâm là nơi thờ Chúa Liễu
Hạnh. Khu vực bên trái là chùa thờ Phật, bên phải là đền thờ
Lý Nam Đế.
Ngoài hai phủ chính
trên, còn một loạt đền miếu khác như đền Khâm Sai, đền Thượng, đền Đức Vua. đền
Công Đồng, đền Giếng Gàng, đền Cây Đa, đình Ông Khổng, Phủ Tổ, làng Mẫu…
Thánh Mẫu Liễu Hạnh là
một nhân vật vừa là thiên thần, vừa là nhân thần với những huyền thoại dày đặc
yếu tố kỳ ảo. Theo thần tích hay các gia phả, tầm phả còn chép thì bà Chúa Liễu
Hạnh sinh năm 1557 tại làng Vân Cát, xã Vân Cát, huyện Vụ Bản, phủ Nghĩa Hưng
(nay là xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) là con của ông Lê Công Chính
và bà Trần Thị Phúc. Năm 18 tuổi bà lấy ông Đào Long ở làng Tiên Hương gần kề
với làng Vân Cát. Bà mất năm 1577, không rõ lý do, để lại một con thơ.
Miếu thờ bà hiện nay
được lập ở hai làng Vân Cát và Tiên Hương thuộc xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh
Nam Định.
Theo truyền thuyết về
Thánh Mẫu Liễu Hạnh thì đời thứ nhất Mẫu giáng sinh tại thôn Quảng Nạp, xã Vỉ
Nhuế, huyện Thái An, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam, trong nhà thái ông họ Phạm,
hiệu là Huyền Viên, thái bà hiệu là Thuần. Ở đời này mẫu luôn giữ chữ Trinh
hiếu thảo thờ phụng cha mẹ, sau trở về chốn linh tiêu. Mẫu tại thế từ năm Giáp
Dần niên hiệu Thiệu Bình nguyên niên (1434) cho tới năm Quí Tỵ niên hiệu Hồng
Đức thứ 4 (1473). Đời thứ hai, mẫu giáng sinh vào nhà thái công họ Lê tại xã
Vân Cát, huyện Vụ Bản, phủ Nghĩa Hưng. Thái công họ Lê tên húy là Đức Chinh.
Tới tuổi trưởng thành, Mẫu được gả cho Trần Đào Lang ở thôn An Thái (sau đổi là
Tiên Hương), sinh được một con trai tên là Nhâm. Ở kiếp này, Mẫu tại thế từ năm
Đinh Tỵ niên hiệu Thiên Hựu nguyên niên (1555) cho tới năm Đinh Sửu niên hiệu
Gia Thái thứ 5 (1577). Đời thứ ba, Mẫu giáng sinh tại xã Tây Mỗ, huyện Nga Sơn,
tỉnh Thanh Hóa, lấy chồng họ Mai (là tái hợp với hậu thân của Đào Lang), sinh
được một con trai tên là Cổn, được hơn một năm, Mẫu quay gót trở về đế hương.
Sau Ngọc hoàng chuẩn cho mẫu được trắc giáng xuống cõi trần thường xuyên tiêu
dao khắp nơi, được miễn vòng sinh tử luân hồi.
Thánh Mẫu Liễu Hạnh được
tôn vinh trong hệ thống tứ bất tử, được thờ ở rất nhiều nơi như phủ
Giầy (Nam Định), phủ Tây Hồ (Hà Nội), đền Dâu Tam
Điệp (Ninh Bình), đền Sòng (Thanh Hóa), đền Phủ Giày (Thành phố
Hồ Chí Minh) ... trong đó, phủ Giầy ở Vụ Bản Nam Định là nơi
quan trọng nhất.
Lễ hội Phủ Giầy được tổ
chức hàng năm từ ngày mồng 1 đến mồng 10 tháng 3 âm lịch. Ngoài những hình thức
lễ thông thường như ở các di tích tôn giáo khác thì lễ ở các di tích thờ Mẫu
nói chung và Phủ Giầy nói riêng còn có thêm hình thức đặc biệt là hầu đồng (hầu
bóng).
Hầu bóng gắn với hát văn
và múa thiêng là hình thức lễ phổ biến nhất ở Phủ Giầy. Người ta quan niệm rằng
một số người thuộc số “căn” sẽ có khả năng giao tiếp với thần linh, có thể được
Thánh nhập vào thân xác của họ để trừ tà, ban lộc, ban phúc hoặc phán truyền
cho “con nhang đệ tử” những lời giáo huấn, răn dạy... Để chuẩn bị cho một buổi
hầu đồng, họ phải chuẩn bị khá kỹ và khá tốn kém từ việc chọn ngày tốt chọn
người hầu dâng và cung văn đến việc mua sắm trang phục, mua đồ lễ... Tùy điều
kiện kinh tế mà quần áo, đồ lễ sang trọng hay bình dân, nhiều hay ít.
Hầu bóng diễn ra liên
tục trong năm, nhưng có thể nói, hình thức lễ bái, đội bát nhang, trình đồng,
lên đồng diễn ra đặc biệt sôi nổi trong các ngày hội.
Trong những ngày lễ hội
Phủ Giầy, những hoạt động như: Rước kiệu Mẫu Liễu, kéo chữ, hát chầu văn (là
một nghi thức không thể thiếu trong các nghi lễ chính của tục thờ Mẫu, phục vụ
cho lễ lên đồng).... thu hút được rất nhiều tham gia và cổ vũ tán thưởng.
Lễ rước được diễn ra khá
náo nhiệt với sự tham gia của các nam nữ thanh đồng. Đám rước diễn ra trong
không khí hào hứng, đầy nhiệt tình của dòng người náo nhiệt trải dài. Trong đám
rước còn có sự xuất hiện của các đội múa rồng, múa sư tử, múa tứ linh, múa võ
rất đẹp mắt. Đặc biệt, trong đám rước từ Phủ Tiên Hương còn có 3 con rồng được
kết bằng hàng nghìn quả bóng bay với ba màu đỏ, xanh, vàng tượng trưng cho Tam
tòa Thánh Mẫu trông rất sinh động.
Ngày 7 tháng 3 (âm lịch)
là ngày chính hội Phủ Giầy, cũng là ngày giỗ Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
52. CHÙA CHUÔNG, ĐỆ
NHẤT DANH LAM PHỐ HIẾN
Chùa Chuông có tên chữ
là Kim Chung Tự, được xây dựng từ thời Hậu Lê
và trùng tu quy mô lớn vào năm 1707, được mệnh danh là "Phố Hiến đệ nhất
danh thắng".
Theo truyền thuyết, vào
một năm đại hồng thủy, có một quả chuông vàng trên một chiếc bè trôi vào bãi
sông thuộc địa phận thôn Nhân Dục, tổng An Tảo, huyện Kim Động, phủ Khoái Châu
(nay thuộc phường Hiến Nam, thành phố Hưng Yên), tỉnh Hưng Yên. Dân làng cho là
trời Phật giúp bèn góp công góp của dựng chùa, xây lầu treo chuông. Mỗi lần
đánh chuông, tiếng vang xa hàng vạn dặm. Do vậy chùa có tên gọi là Kim Chung Tự
(chùa chuông vàng), tên thường gọi là chùa Chuông.
Chùa Chuông có kết cấu:
Tiền đường, Thượng điện, Nhà tổ, Nhà mẫu và 2 dãy hành lang.
Mặt tiền chùa quay hướng
Nam. Qua cổng Tam quan là tới ba nhịp cầu đá xanh, bắc ngang qua ao (mắt rồng).
Tiếp đến là con đường độc đạo được lát đá xanh dẫn đến nhà tiền đường.
Nhà Tiền đường có quy mô
năm gian hai chái, kết cấu kiểu con chồng đấu sen.
Nối giữa tiền đường và
Thượng điện là khoảng sân, giữa sân có cây hương đá còn gọi là "Thạch
trụ", bốn mặt khắc chữ Hán ghi công đức của nhân dân đóng góp tu sửa chùa.
Thượng điện cũng kết cấu
gồm năm gian hai chái, mang đậm nét kiến trúc thời Hậu Lê. Hệ thống tượng ở
thượng điện được bài trí theo thứ tự: trên cùng là 3 pho Tam Thế; tiếp đến là A-di-đà và tứ Bồ-tát;
lớp dưới là Văn Thù và Phổ Hiền;
tiếp theo là Ngọc Hoàng và Nam Tào, Bắc Đẩu;
tiếp nữa là Địa Tạng Vương và Phạm Thiên, Đế Thích; sau cùng là tòa Cửu Long và
tượng Thích Ca
sơ sinh.
Nối nhà Tiền đường và
nhà Mẫu là hai dãy hành lang, kiến trúc kiểu kèo cầu quá giang đơn giản. Hai
dãy hành lang được bài trí đối xứng các lớp tượng khác nhau. Đầu tiên là động
"Thập điện Diêm Vương", diễn tả cảnh nhục hình mà con người phải trải
qua nơi âm giới. Tiếp đến là tượng Bát Bộ Kim Cương, sau đó là 18 pho
"Thập Bát La Hán", 18 vị được tạo tác trong tư thế ngồi rất sinh
động, rất đời thường. Cuối dãy hành lang là tượng Đức Ông đứng cạnh có Già Lan
- Chân Tể và tượng Đức Thánh Hiền, đứng cạnh có Diệm Nhiên - Đại Sỹ.
Hằng năm, vào dịp đại lễ
Phật Đản, dịp xuân về, Chùa Chuông lại tổ chức lễ hội, thu hút
đông đảo nhân dân trong vùng và khách thập phương. Chùa Chuông cùng các danh
thắng khác trong quần thể di tích Phố Hiến là một điểm đến không thể bỏ qua của
du khách đến Hưng Yên.
53. MẪU ĐÀO NƯƠNG:
VỊ SƯ TỔ CỦA MÔN HÁT CHÈO
Đền Mẫu hay còn gọi là
đền Đào Nương, nằm bên đường 39B, thuộc địa phận xã Đào Đặng, tổng Cao Cương,
huyện Tiên Lữ, phủ Khoái Châu, nay là làng Đào Đặng, xã Trung Nghĩa, thành phố
Hưng Yên.
Sự tích kể rằng, vào
cuối đời nhà Hồ, khoảng cuối thế kỷ XV, ở làng Đào Đặng có một ca nữ họ Đào tên
Huệ, nổi tiếng khắp vùng là người xinh đẹp, hát hay múa khéo. Năm ả Đào 18
tuổi, quân giặc phương Bắc (nhà Minh) lúc bấy giờ đã mượn cớ "phù Trần
diệt Hồ" xâm lược nước ta. Khi giặc kéo đến làng Đào Đặng, nàng ca nữ họ
Đào và mấy chị em chậm chân không trốn được đành chịu ở lại. Chúng bắt nàng phải múa hát, hầu hạ trong các dịp
yến tiệc. Nhờ có tài nghệ xuất sắc, các nữ nhi làng Đào Đặng đã biến nhà ca lâu
thành nơi đi lại, nghỉ ngơi của bọn giặc. Rượu tiệc no say, chúng lăn ra ngủ.
Vừa sợ lạnh, vừa sợ muỗi đốt, chúng nảy ra "sáng kiến" làm những
chiếc túi bằng bao tải gai. Đêm đến là chui vào ngủ, buộc túi lại sáng mai mở
túi ra. Đào Thị nhiều lần được chúng tin tưởng giao cho việc thắt và mở túi.
Quen với việc, nàng đã
nghĩ ra kế để giết giặc. Nàng bí mật tìm các bô lão và trai tráng đang ẩn nấp
trong làng, ước hẹn cứ đêm khuya khi giặc đã ngủ say, anh em đến khiêng từng
túi vất xuống sông Mai Nguyên. Khi vất xuống sông lại buộc thêm đá, nút thắt
chặt phía ngoài, dù chúng có tỉnh dậy cũng chịu chết đuối, làm mồi cho cá. Cứ
như thế, quân số của giặc ngày càng hao hụt mà không biết duyên cớ tại đâu,
cuối cùng chúng tin rằng vùng đất này "động", "nghịch",
"linh thiêng".. không thể ở được, chúng sợ hãi liền nhổ trại kéo đi.
Dân làng Đào Đặng được trở về làm ăn sinh sống.
Sau khi bà Đào Nương
mất, dân làng đã lập đền thờ Bà ngay trước chợ làng Đào Đặng (nay là làng Đào
Xá) để bà con qua lại hàng ngày tưởng nhớ công lao to lớn của người liệt nữ tài
hoa, mưu trí.
Đất nước thanh bình, vua
Lê Thái Tổ xét công trạng dùng mưu giết giặc cứu dân giữ nước của bà đã phong
bà làm "Phúc thần", sai trích tiền kho, tu tạo lại đền thờ cho thêm
tráng lệ và ban ruộng Tự Điền để dân làng đèn hương cúng tế hàng năm.
Lễ hội hàng năm được tổ
chức từ ngày mồng 1 đến mồng 6 tháng 2 âm lịch. Lễ hội được tổ chức tưng bừng,
nhộn nhịp với nhiều cuộc vui như đấu vật, ném vòng... đặc biệt là hội chọi gà
và thi hát chèo.
Bà được suy tôn là một
trong những vị sư tổ nghề hát chèo của nước ta, nên trong những ngày hội làng
không thể thiếu được những làn điệu chèo truyền thống cùng những tiếng
"tom, chát" của tiếng trống đế chèo.
54. ĐỀN MẪU HOA
DƯƠNG - LINH THIÊNG VỀ CẦU DUYÊN, CẦU CON
Đền Mẫu, còn gọi là đền
Hoa Dương, toạ lạc ở phố Bãi Sậy, phường Quang Trung, thành phố Hưng Yên, được
xây dựng vào thời Trần Nhân Tông, niên hiệu Thiệu Bảo nguyên niên (1279),
được dân gian tín là linh thiêng có tiếng.
Theo truyền thuyết, vào
thế kỷ XIII khi quân Nguyên xâm lược nhà Tống, vua và hoàng tộc nhà
Tống (Trung Quốc) xuống thuyền tháo chạy về phương Nam lánh nạn.
Vì không chịu khuất phục trước sự truy bức của quân Nguyên, vua Tống và một số
người trong hoàng cung nhảy xuống biển tự vẫn. Thi thể của Dương Quý Phi trôi
dạt về vùng cửa sông Phố Hiến, được người dân nước Việt Nam chôn cất chu đáo.
Người nội thị của triều đình Bắc quốc là quan thái giám họ Du trong cơn loạn
lạc tới Phố Hiến, được nhân dân địa phương giúp đỡ đã tập hợp những người Hoa
lánh nạn hưng công xây dựng đền thờ, lập nên làng Hoa Dương. Khi thái giám họ
Du mất, dân làng tôn làm Thành Hoàng làng, mộ ông được giữ gìn trong khuôn viên
của đình Hiến.
Tam quan của đền được
xây theo kiến trúc kiểu chồng diêm hai tầng tám mái, xây cửa vòm cuốn, có một
cửa chính và hai cửa phụ. Trên vòm cuốn có bức đại tự ghi kiểu chữ triện:
“Dương Thiên Hậu - Tống Triều” và bức chữ Hán: “Thiên Hạ Mẫu Nghi”.
Đền Mẫu có năm cung thờ.
Cung thứ nhất là cung thờ Phật, được xây dựng vào những năm 90 của thế kỷ XX do
yêu cầu của người dân muốn bái Phật. Cung thứ hai thờ Quan lớn Đệ Nhất. Cung
thứ ba thờ vọng Quan lớn Đệ Tam cùng với ban thờ Công Đồng. Cung thứ tư thờ
Mẫu, tại cung này có bức hoành phi Mẫu Nghi Thiên Hạ. Cung thứ năm là cung cấm,
còn gọi là hậu cung, cung này thờ Dương phi, một bà phi nhà Tống, cùng hai
người hầu là Kim Thị và Liễu Thị. Dưới ban thờ có dấu tích một cái giếng nhỏ.
Tương truyền giếng vốn là “rốn biển”, khi biển lùi xa để lại dấu tích cùng với
hồ Bán Nguyệt cho nên nước giếng luôn đầy vơi theo nước hồ. Bên trái trục dọc
này có ban thờ Mẫu Thượng Ngàn, bên phải có ban Cô, ban Cậu.
Trong đền lưu giữ nhiều
di vật quý như kiệu võng, long đình, long sàng, long kỷ có niên đại thế kỷ 18,
19 và 15 đạo sắc phong từ triều Lê đến triều Nguyễn, cùng nhiều bức hoành phi,
câu đối, đại tự ca ngợi tấm gương trung trinh tiết liệt của Dương Quý Phi.
Giữa sân đền có cây cổ
thụ. Theo truyền thuyết, cây được kết hợp bởi ba cây sanh, đa, si quấn quýt lấy
nhau tạo thế chân kiềng vững chắc bao trùm toàn bộ ngôi đền. Đây là cây cổ thụ
độc đáo nhất ở Bắc Bộ, đã có tuổi gần bảy trăm năm.
Đền Mẫu thờ Dương Quý
Phi ở thành phố Hưng Yên được dân gian ca tụng là một trong những ngôi đền linh
thiêng ở miền Bắc về cầu tình duyên, cầu con cái và cầu của cải.
Lễ hội đền Mẫu diễn ra
từ ngày 10 đến 15 tháng 3 âm lịch. Trong ngày hội, sân đền tổ chức thi đấu cờ,
thi đấu tổ tôm, chọi gà; buổi tối hát chầu văn, hầu đồng.
55. ĐỀN CỜN
- NGÔI ĐỀN LINH THIÊNG BẬC NHẤT ĐẤT NGHỆ AN
Đền Cờn được dân gian
truyền tụng là một ngôi đền linh thiêng bậc nhất ở đất Nghệ An. Đền tọa lạc tại
làng Phương Cần, xã Quỳnh Phương, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, cách
thành phố Vinh khoảng 75km.
Đền được dựng từ thế kỷ
thứ XIII, thờ đức Thánh Mẫu và tứ vị thánh Nương - Nữ thần bảo vệ, phù hộ những
người làm ăn trên sông nước, đã từng ngầm giúp quân đội nhà Trần rồi nhà Lê
vượt biển bình an, chiến thắng Chiêm Thành.
Truyền thuyết vùng Phố
Hiến (Hưng Yên) kể rằng, sau khi nhà Tống thất thủ bởi nhà Nguyên thì thái hậu,
phi cùng công chúa và thị nữ đã nhảy xuống sông tự tận. Xác của thái hậu, công
chúa và thị nữ trôi dạt vào vùng Cửa Càn ở Quỳnh Lưu (Nghệ An). Người dân xã
Quỳnh Phương (Quỳnh Lưu, Nghệ An) vớt xác thái hậu, công chúa và thị nữ lên lập
đền thờ, gọi là đền Cờn. Còn xác của phi trôi ngược ra bắc, dạt về vùng cửa
sông Phố Hiến (nay thuộc thành phố Hưng Yên), được nhân dân chôn cất chu đáo.
Người nội thị của triều đình Bắc quốc là quan thái giám họ Du trong cơn loạn
lạc đã lưu lạc tới vùng Xích Đằng - Phố Hiến, một đêm nằm mộng thấy Thái Hậu
hiện về và nói: “Chị em ta sau khi nhảy
xuống biển, thượng đế khen là trinh tiết, phong cho làm Hải Thần, các cửa biển
ở Châu Hoan, Sơn Nam đều thuộc chị em ta cai quản. Ông là tôi con của bản triều,
nay lưu lạc đất khách quê người, nên đến cửa Càn ở Hoan Châu thăm hỏi 1 lần rồi
đến thượng lưu Đằng Giang, hạ lưu Hoàng Giang huyện Kim Động, phủ Khoái Châu,
trấn Sơn Nam Thượng mà phụng thờ Quý phi”. Tỉnh mộng, viên thái giám tìm
đến hai nơi thì quả nhiên như lời đã báo mộng. Ông ta trở lại Phố Hiến tập hợp
những người Hoa lánh nạn hưng công xây dựng đền thờ Mẫu và lập nên làng Hoa
Dương.
Tương truyền, đền được
xây dựng vào năm 1235 đời nhà Trần và năm 1312, đền được vua Trần Anh Tông cho
xây dựng lại và ban sắc chỉ hàng năm tổ chức quốc tế.
Dưới triều nhà Lê, rồi
đến triều nhà Nguyễn, ngôi đền được nhiều lần trùng tu, sửa chữa và xây dựng
mới nên mặc dù đền được xây dựng từ thời nhà Trần nhưng kiểu dáng kiến trúc,
cách bài trí đồ tế khí, chạm hoa văn rồng, phượng... mang phong cách văn hoá
cuối Lê đầu Nguyễn.
Hiện nay đền còn lưu giữ
142 hiện vật quý hiếm, đặc biệt có 28 pho tượng đá và nhiều tượng gỗ cùng đồ tế
khí là những tác phẩm nghệ thuật có niên đại thừ thời Lê, có giá trị lịch sử
văn hoá, tín ngưỡng.
Đền Cờn với những mẩu
chuyện huyền thoại linh thiêng được lưu truyền trong nhân dân và lễ hội mang
đậm bản sắc văn hoá Việt Nam, đang ngày càng thu hút du khách thập phương về
đây tham quan, nghiên cứu và sinh hoạt tín ngưỡng.
Trước đây, lễ hội mở từ
ngày 15 tháng chạp đến 30 tháng giêng âm lịch hàng năm. Nay lễ hội được tổ chức
trong ba ngày 19, 20 v à 21 tháng giêng (âm lịch) hàng năm.
58. ĐỀN BẠCH MÃ -
THÀNH HOÀNG CỦA THỦ ĐÔ HÀ NỘI
Đền Bạch Mã tọa lạc tại
phường Hà Khẩu, tổng Đông Thọ, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức (nay thuộc phố
Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội),
được xây dựng vào cuối thế kỷ thứ IX, thờ thần Long Đỗ
- vị thần gốc của Hà Nội cổ.
Theo Việt
Điện U Linh tập của Lý Tế Xuyên, viết về sự tích đền Bạch Mã như sau:
“Vào đời Đường Hàm Thông, quan đô hộ của nhà Đường ở nước ta là Cao Biền
đã cho đắp thành Đại La. Một hôm, Cao Biền ra chơi ngoài cửa Đông của thành,
chợt thấy trong chỗ mây mù tối tăm, có bóng người kì dị, mặc áo hoa, cưỡi rồng
đỏ, tay cầm thẻ bài màu vàng, bay lượn mãi theo mây. Cao Biền kinh sợ, định lấy
bùa để trấn yểm. Bỗng đêm hôm ấy thấy thần báo mộng rằng: - Ta là tinh anh ở
Long Đỗ, nghe tin ông đắp thành nên đến để hội ngộ, việc gì mà phải trấn yểm?
Cao Biền lấy làm kỳ lạ, bèn lấy vàng, đồng và bùa chôn
xuống để trấn yểm. Chẳng dè, ngay đêm đó mưa gió sấm sét nổi lên dữ dội, sáng
ra xem, thấy vàng, đồng và bùa trấn yểm đều đã tan thành cát bụi. Cao Biền sợ
hãi, bèn lập đền thờ ở ngay chỗ ấy và phong cho thần là thần là Long Đỗ.
Đến đời Lý Thái Tổ (húy là Lý Công Uẩn, làm vua từ năm
1010 đến năm 1028), dời kinh đô đến đấy, đổi gọi Đại La là Thăng Long. Nhà vua
sai đắp lại thành, nhưng hễ thành đắp xong lại lở, bèn sai người đến cầu đảo (ở
thần Long Đỗ). Chợt người cầu đảo thấy có con ngựa trắng từ trong đền đi ra,
dạo quanh thành một vòng, đi tới đâu, để vết chân rành tại đó, và cuối cùng,
vào đền rồi biến mất. Sau nhà vua cứ theo vết chân ngựa mà đắp thành thì thành
không lở nữa, bèn nhân đó, phong làm thành hoàng của Thăng Long. Các vua đời
sau cũng theo đó mà phong tới Bạch Mã Quảng Lợi Tối Linh Thượng Đẳng Thần”.
Đền Bạch Mã được tu bổ
lớn vào đời Lê Chính Hòa (1680-1705),
đến năm Minh Mệnh thứ 20 (1839) lại được tu bổ thêm: sửa lại đền, dựng
riêng văn chỉ, xây Phương đình, qui mô rộng rãi, cảnh quan tôn nghiêm, nổi
tiếng ở chốn đất thiêng.
Đền được xây dựng theo
hình chữ Tam, bên ngoài là phương đình tám mái, có một tam bảo và có hơn 13
hoành phi, văn bia nói về thần Long Đỗ và Bạch Mã, nghi lễ cúng thần, các lần
trùng tu tôn tạo.
Hiện nay đền vẫn giữ
nguyên cấu trúc, gồm: Nghi môn, phương đình, đại bái, thiêu hương, cung cấm và nhà hội
đồng ở phía sau... Tất cả đều bố trí theo chiều dọc, trong một không gian khép
kín, chủ yếu mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn nhưng được sắp xếp theo cấu trúc "tam nguyên
đồng hoá" tức là thêm điện thờ Phật và Mẫu
Trong đền hiện còn lưu
giữ nhiều di vật quý hiếm, có giá trị cao về nghệ thuật như: nhà vàng, nhà bạc,
bộ lục lạc bằng đồng (38 cái), bia đá, sắc phong,
kiệu thờ, hạc thờ, tượng chim Phượng sơn son thiếp vàng...
Lễ hội đền Bạch Mã hàng
năm được tổ chức vào hai kỳ: lễ tế Bạch thần vào ngày 15 tháng 3 âm lịch và lễ
tế Điển vào ngày 13 tháng 6 âm lịch.
57. CÔNG ĐỨC CỦA
TRÌ GIỚI (trích
từ: Kinh Điển Phật Giáo)
“Xưa ở nước Xá Vệ, có một huyện nhân
dân đều quy Tam Bảo, phụng trì năm giới và thực hành mười thiện nghiệp của Phật
dạy. Khắp huyện không bao giờ sát sanh, người uống rượu nấu rượu cũng không có.
Trong huyện, có một
người con dòng dõi, sắp đi buôn tha phương. Trước khi đi, cha mẹ cặn kẽ dặn
rằng: - Con nên cố gắng siêng năng, giữ gìn 5 giới cấm, thực hành mười điều
thiện và cẩn thận chớ uống rượu, phạm đến trọng giới của Phật.
Người con vui vẻ ra đi,
khi qua tới xứ khác vừa gặp người bạn đồng học cùng nhau chuyện trò tương đắc
vui vẻ lắm. Bạn mời về nhà, đem rượu ra đãi. Người ấy cười nói rằng: - Nước tôi
giữ năm giới cấm của Phật, không một ai dám uống rượu, vì nếu uống rượu thì đời
sau phải ngu si đần độn không thấy được Phật. Vả lại khi ra đi, cha mẹ tôi
khuyên không nên uống rượu. Bây giờ tôi phạm giới cấm, thời trái mệnh lệnh của
cha mẹ, tội ấy chẳng gì lớn bằng. Chúng ta là bạn thâm giao lâu ngày, được gặp
nhau không gì mừng rỡ hơn nữa. Nhưng bạn chớ làm tôi phạm giới cấm của Phật và
trái lời dạy của song thân tôi.
Người bạn tiếp lời: -
Chúng ta là bạn đồng học, coi như anh em ruột; cha mẹ tôi cũng như cha mẹ anh,
với cha mẹ, chúng ta có bổn phận kính thờ, không được trái đạo. Tôi nếu ở bên
nhà anh là phải tuân theo ý muốn của cha mẹ anh, nhưng nay anh ở nhà tôi anh
nên tùy thuận ý của cha mẹ tôi mới phải.
Trước sự khẩn khoản của
lòng bạn, anh ta phải uống rượu, uống xong anh ta say luôn trong ba ngày, không
biết gì, khi tỉnh anh ta ăn năn lo sợ vô cùng.
Công việc xong, người ấy
trở về nhà trình lỗi của mình cho cha mẹ rõ. Cha mẹ tức giận mắng rằng:
- Ngươi trái lời ta,
phạm giới cấm thật là loạn pháp, không phải đứa con thảo.
Tự nghĩ làm gương trước
cho mọi người trong xứ, cha mẹ bèn thu hết đồ đạc của đứa con, rồi đuổi ra khỏi
nhà.
Người con bị đuổi bèn đi
qua nước khác, xin ở đậu trong một cái nhà. Chủ nhà ấy là người thờ phụng quỷ
thần, thứ quỉ thần rất khôn ngoan, hay hiện ra thân người, ăn uống nói chuyện,
chủ nhà ấy hết lòng tin tưởng với quỷ thần. Vì phải thờ phụng lâu năm mệt nhọc,
của tiền hết sạch, trong nhà người đau chết xảy ra luôn, quỷ thần không cứu gì
cả. Quỷ thần hiểu ý chủ nhà, liền bảo với nhau: "Nhà này của tiền hết sạch
cũng chính vì ta. Ðã lâu ta chưa làm gì được lợi ích cho chủ, nên chủ chán nản
là phải lắm. Bây giờ chúng ta phải kiếm đồ trân bảo đem về biếu chủ, để chủ vui
lòng". Nói rồi, cùng nhau đi lấy trộm vàng bạc trong kho nhà vua của nước
khác, đem về giấu ở sau vườn rồi bảo chủ rằng: "Ngươi có công nhọc, nay ta
muốn ban phước cho ngươi được giàu có. Sau vườn nhà ngươi có một tráp vàng bạc,
ta cho ngươi đó". Chủ nhà ra vườn tìm thấy tráp vàng, sung sướng lắm, sáng
sớm thiết tiệc rất long trọng mời thần tạ ân.
Thần vừa đến cửa, thấy
trong nhà có bóng người ở nước Xá Vệ, liền tránh không đi vào. Chủ nhà chạy
theo cố mời trở lại. Thần trả lời:
- Trong nhà ngươi có vị
Tôn khách ta đâu dám vào.
Nói xong tỏ vẻ sợ hãi
rồi bỏ chạy. Chủ nhà nghĩ trong nhà chỉ có một mình người khách này thôi, liền
kính cẩn đến thưa rằng:
- Xin mời ngài đến dự
tiệc với chúng tôi cho vui.
Ăn uống xong chủ nhà hỏi
vị Tôn khách rằng:
- Ngài có công đức gì mà
vị thần của tôi thờ phụng sợ hãi ngài mà phải tránh đi?.
Vị Tôn khách trả lời:
- Tôi chỉ có công đức
thọ trì 5 giới và mười điều thiện của Ðức Phật. Tôi vi phạm một giới uống rượu,
bị cha mẹ đuổi, qua trọ tại đây. Nhưng còn giữ được bốn giới nên thiên thần ủng
hộ, còn thần của ngươi thờ phụng là thứ tà thần ác quỷ làm sao sánh kịp.
Chủ nhà thưa rằng: -
“Tôi thờ các vị thần đã lâu rồi, không có lợi ích gì nên tôi chán quá, mong
ngài hoan hỷ dạy cho". Nói rồi bèn theo vị Tôn khách thọ trì Tam quy Ngũ
giới và pháp thập thiện. Thọ xong một lòng tinh tấn siêng năng phụng trì không
hề hủy phạm.
Một hôm hỏi vị Tôn khách
rằng:
- Ðức Phật hiện nay ở
đâu? Tôi có thể đến yết kiến Ngài được không?
Tôn khách trả lời:
- Ðức Phật hiện nay ở
nước Xá Vệ trong vườn Cấp Cô Ðộc, qua đó sẽ được yết kiến Ngài.
Nghe vậy, người chủ nhà
rất sung sướng, quyết qua Xá Vệ để yết kiến Phật.
Giữa đường trời tối ghé
lại xin trọ một nhà thiếu nữ xinh đẹp. Thiếu nữ ấy chính là vợ của một con quỷ
ăn thịt người. Thiếu nữ liền can rằng: "Ông chớ ở lại đây nên đi gấp tốt
hơn". Người ấy hỏi có gì nguy hiểm chăng? Thiếu nữ tỏ ý không bằng lòng
nói rằng: "Tôi đã nói với ông như vậy, ông còn hỏi làm gì nữa". Người
kia tự nghĩ: "Người ở nước Xá Vệ chỉ giữ 4 giới của Phật còn khiến cho quỹ
thần sợ hãi thay, huống chi ta đã thọ trì chắc chắn pháp Tam quy Ngũ giới và
Thập thiện của Phật". Nghĩ vậy, nhất định ở lại không chịu đi. Ðêm ấy con
quỷ ăn thịt người về nhà thấy có khách oai thần và công đức trì giới nên phải
lẩn quẩn ngoài hè, rồi đi trọ một đêm nơi nhà hàng xóm cách xa tới bốn mươi
dặm. Sớm mai người ấy lên đường để qua Xá Vệ. Ra khỏi cửa ngõ, thấy thây chết
xương máu đầy đường, do quỷ ăn thịt người đã để lại.
Cảnh tượng ấy khiến
người kia quá sợ hãi và hối hận rằng: "Nước ta sẵn đủ áo mặc, cơm ăn, nhà
ở, không thiếu món chi ở trong nhà chẳng sướng hơn sao? Ta tưởng đến được yết
kiến Phật và coi sự kỳ diệu của Ngài, ngờ đâu lại gặp hài cốt rùng rợn như
vậy". Nghĩ xong chàng sinh ác ý, trở về khuyên người thiếu nữ kia theo
mình trở về nước, cùng nhau chung sống trăm năm. Khi về ngay nhà thiếu nữ xin ở
lại. Thiếu phụ hỏi: "Sao ông phải trở lui vậy?". Người kia đáp:
"Hành kế không thành nên tôi phải trở lui, mong thiếu nữ cho tôi ở tạm một
đêm". Thiếu nữ nói: "Ông ở đây chắc chắn phải chết vì chồng tôi.
Chồng tôi là quỷ ăn thịt người và sắp về đến. Ông nên đi gấp tốt hơn".
Người ấy không tin, năn
nỉ xin ở lại cho được và trước sắp đẹp của thiếu nữ, người ấy khởi nhiều ý niệm
không tốt đẹp, không còn tin pháp Tam quy Ngũ giới và thập thiện của Phật. Vị
thiện thần hộ giới liền bỏ đi không ủng hộ cho người ấy nữa.
Quỷ ăn thịt người được
dịp thuận tiện trở về. Thiếu phụ sợ chồng ăn thịt người kia tội nghiệp nên đem
lòng thương hại, giấu người kia trong một cái lu. Quỉ bắt hơi người bảo vợ:
"Mình có kiếm được thịt người phải không? Bây giờ ta thèm lắm". Vợ trả
lời: "Tôi không đi đâu cả làm chi có thịt, sao hôm qua không thấy anh
về?". Con quỷ nói: "Hôm qua trong nhà có vị Tôn khách nên ta phải đi
tránh". Người ở trong lu nghe vậy càng thêm sợ hãi, đến nỗi không nhớ gì
đến pháp Tam qui Ngũ giới của mình thọ. Người vợ hỏi tiếp: "Vì lẽ gì anh
không kiếm được thịt?". Quỷ trả lời: "Vì trong nhà có đệ tử của Phật
ở lại, nên thiên thần đuổi ta đi xa ngoài bốn mươi dặm, phải ngủ trống giữa
trời một đêm rất là sợ hãi, đến bây giờ vẫn chưa hoàn hồn, cho nên không kiếm
thịt được". Người vợ nghe vậy rất mừng thầm, mới hỏi chồng làm thế nào
được nghe và phụng trì giới cấm của Phật?". Quỷ trả lời: "Bây giờ ta
đói lắm, lấy thịt cho ta ăn đã, không nên hỏi việc ấy vội. Giới là pháp vô
thượng chân chánh của Ðức Như Lai, ta đâu dám nói đến". Người vợ cố năn
nỉ: "Anh hãy vì tôi nói đi, tôi sẽ lấy thịt anh ăn". Giống quỷ tham
ăn đã sẵn, thèm ăn lắm, lại thêm vợ cố hỏi, buộc phải nói Tam quy Ngũ giới cho
vợ nghe.
Pháp Tam quy là:
1/ Quy y Phật
2/ Quy y Pháp
3/ Quy y Tăng
Ngũ giới là:
1/ Không sát sinh
2/ Không trộm cắp
3/ Không tà dâm
4/ Không nói dố
5/ Không uống rượu.
Khi quỷ vừa nói giới
đầu, người vợ nghe liền định tâm lĩnh thọ, lần lượt nói hết 5 giới, thì vợ quỷ
rất sung sướng nhất tâm chấp trì, và miệng đọc tụng không nghỉ. Người dấu ở
trong lu nghe lại được pháp Tam quy Ngũ giới rất lấy làm hổ thẹn và vui mừng,
tự tâm lãnh thọ trở lại.
Thiên Ðế Thích biết hai
người này đã phát tâm quy y Phật, thọ trì 5 giới, bèn lựa 50 vị thiên thần đến
ủng hộ hai người ấy. Quỷ ăn thịt người sợ hãi phải trốn đi nơi khác.
Ðến sáng, vợ quỷ hỏi
người dấu ở trong lu: "Những chuyện vừa qua ông có sợ không?". Người
kia trả lời: "Sợ lắm, nhưng được cái may là nhờ ơn ân giả, mà tôi ngày nay
được hiểu biết oai thần và công đức giới pháp của Phật!".
Vợ hỏi quỷ tiếp:
- Hôm qua ông trở lui
làm gì vậy?
- Vì tôi thấy hài cốt
đầy đường nên quá sợ hãi phải trở lui.
Vợ quỷ mới nói rằng:
"Hài cốt đó chính tôi bỏ đấy". Tôi đây vốn con nhà lương thiện, không
may bị quỷ bắt đem về làm vợ, tôi buồn khổ vô cùng, nhưng chẳng biết tỏ cùng
ai. Nhờ ơn nhân giả tôi được thọ năm giới cấm của Phật và được xa lánh con quỷ
ác độc này thật là hạnh phúc cho tôi. Bây giờ nhân giả còn đi đâu nữa?
- Tôi cần qua nước Xá Vệ
đế yết kiến Phật. Thiếu nữ nghe lấy rất làm sung sướng khen rằng: "Hay lắm
thay! Tôi sẽ về nhà đem cha mẹ tôi theo nhân giả đi yết kiến Phật". Nói
xong, cùng nhau lên đường. Ði được nữa đường thì gặp một đoàn 498 người ở bên
nước Xá Vệ đi về. Người kia và thiếu nữ mới hỏi: "Các hiền giả đi đâu đông
thế?".
- Chúng tôi đi yết kiến
Phật về đây.
- Chúng tôi sắp qua nước
Xá Vệ, chúng tôi nhờ thọ trì Tam quy Ngũ giới và mười điều thiện của Phật nên
mới thoát khỏi nạn quỷ ăn thịt. Nay chúng tôi muốn qua yết kiến để tạ ơn và
nghe thuyết pháp. Các hiền giả được thấy Phật rồi còn đi đâu làm gì nữa?
- "Phật thuyết pháp
suốt ngày, nhưng chúng tôi ngu độn chưa hiểu được rõ. Nay trở về nước được gặp
hai hiền giả và được nghe hai hiền giả cho biết công đức của người trì giới
pháp của Phật. Chúng tôi xin theo hai hiền giả trở lui một lần nữa để yết kiến
Phật".
Phật ở xa trông thấy
đoàn người kéo đến liền mĩm cười chói tỏa hào quang năm sắc, tôn giả A Nan liền
bước ra quì sát đất, trong tâm nghĩ ngợi, chắc Phật sắp dạy điều gì đây.
Phật bảo A Nan:
- Ngươi có hiểu không,
ngươi có thấy 498 người khi nãy trở về đây không?
A Nan thưa: "Bạch
Ðức Thế Tôn, con có thấy".
Ðức Phật thuật lại tất
cả việc xảy ra và bảo: "498 người đó ngày nay đã gặp được thầy và đã được
thấy Phật, rồi đây họ sẽ đắc đạo không lâu".
Cả 500 người đến trước
Phật đảnh lễ một cách rất thành kính và nhất tâm thính Pháp, mọi người đều được
tâm ý thông suốt thành các bậc Sa môn và chứng được đạo quả A La Hán.
Phật dạy A Nan và chúng
hội rằng: "Các người nên biết người phạm giới kia với thiếu nữ vợ con quỷ
ăn thịt người là anh em trong nhiều đời vậy. Hai người này đời trước chính là
thầy của 498 người kia đó, chớ không phải ai xa
Người đời phát tâm tu
hành cầu đạo, thọ trì giới pháp, cần gặp được thầy hiền bạn tốt sự tu hành mới
mong kết quả.
Phật dạy đến đây, các vị
Tỳ kheo, 500 người ấy; và tất cả chúng hội đều sung sướng vui mừng, đảnh lễ
Phật, và nguyện nhất tâm giữ gìn tịnh giới.”
58. CÔNG ĐỨC CỦA
SÁM HỐI (trích từ: Kinh
Điển Phật Giáo)
“Thuở xưa, đời nhà Lương, vua Võ Ðế,
có quen với một vị Hòa thượng, hiệu là Chí Công, hằng ngày trò chuyện với nhau
rất thân thiết.
Hoàng hậu tên là Hy Thị,
thấy vậy, bèn can gián vua đừng chơi với người ngu tăng ấy, nhưng vua Võ Ðế
chẳng hề nghe, cứ giao du như thường. Hoàng hậu giận lắm, toan lập mưu hại ngài
Chí Công, bèn lén dùng thịt chó làm nhân bánh, rồi sai người đem bánh ấy đến
chùa mà trai tăng. Ai ngờ Hòa thượng Chí Công đã biết trước, nên dự sắm áo
tràng rộng tay, làm bánh chay bỏ vào, rồi khi trai Tăng lén bỏ bánh mặn trong
tay áo, lấy bánh chay ra ăn.
Bà Hi Thị đợi tin Hòa
thượng ăn rồi, tức thì tâu với vua rằng: "Bánh ấy thiếp dùng thịt chó làm
nhân, ông Chí Công ăn mà không biết, thật là người phàm ngu muội, không có đạo
đức trí tuệ gì cả, nay bệ hạ còn làm bạn nữa chăng?". Vua nghe nói nổi
giận, liền mang gươm đến chùa mà giết Hòa thượng. Khi ấy, ngài Chí Công cũng
biết trước, nên ra cửa chùa đứng đợi.
Lúc vua ngự đến trông
thấy Hòa thượng thì hỏi rằng:
- Ông ra đứng đây mà làm
chi?
Ngài Chí Công đáp rằng:
- Bần tăng biết bệ hạ
đến giết bần tăng, nên bần tăng ra đây đứng đợi. Nếu Bệ hạ mà vào chùa mà giết
hại, thì ô uế chốn Già lam càng tội nghiệp lắm!
Vua nghe nói kinh hồn
chấp tay niệm Phật và sám hối, rồi liền mời Hòa thượng vào chùa mà hỏi rằng: -
Ngài đã tiên tri được như vậy, vì sao còn ăn lầm bánh thịt chó mà không biết?
Ngài Chí Công bèn đáp
rằng: - Muôn tâu Bệ hạ! Bần tăng có ăn đâu! Tâu rồi Ngài liền thỉnh vua ra sau
vườn, dạy người đào lấy bánh thịt chó lên, thấy vẫn còn đủ 120 cái. Hòa thượng
bèn lấy nước Tịnh thuỷ phun vào, tức thì mỗi mười bánh hiệp lại thành một con
chó, hình thể vận động như thường.
Vua thấy vậy thất kinh,
mới biết pháp lực thần thông của Ngài Chí Công thiệt là cao cường quảng đại,
liền trở vào chùa hết lòng lễ sám hối những sự lỗi lầm. Từ ấy Võ Ðế càng yêu
mến Hòa thượng Chí Công hơn ngày trước nữa; trái lại bà Hy Thị thấy thế lại
càng giận thêm, nên khiến kẻ hầu hạ đến chùa lấy kinh sách đem ra đốt hết.
Ðến niên hiệu Thiên
Giám, bà mang bệnh nặng rồi phải từ trần, rồi bào thai làm con rắn mãng xà ở
sau hậu cung ẩn mình không cho ai thấy, thừa khi ban đêm, bà lại mách điềm
chiêm bao cho vua Võ Ðế hay rằng:
- Khi thiếp còn sống ăn
ở bất nhân, tổn vật hại người, làm điều tham độc. Vì cớ ấy nên nay thiếp phải
làm thân mãng xà, thân đã dài, vóc lại lớn, bò lết không nổi, đói không có chi
ăn, khát chẳng có chi uống, cực khổ nhiều bề, còn mỗi trong chân vảy lại có thứ
độc trùng đeo vào cắn rứt da thịt, đau thắt ruột gan thật là khó chịu! Thiếp
nghĩ vì thiếp cùng Bệ hạ vẫn là tơ duyên chỉ nợ, tình vợ nghĩa chồng, mà nay
thiếp bị đọa ra thân súc sanh thế này, Bệ hạ nỡ nào hưởng thọ phú quý một mình
mà không tìm phương chi cứu thiếp, nên xin Bệ hạ từ bi thỉnh thầy làm chay độ
giải cho thiếp, may nhờ Phật pháp hộ trì, để thiếp thoát ra được khỏi vòng ác
báo, thì thiếp cảm ơn đời đời.
Vua Võ Ðế nghe rồi, bèn
thức dậy rầu rĩ khóc lóc một hồi; sáng ra liền truyền lệnh rước các thầy Sa môn
nhóm tại điện mà hỏi rằng:
- Vậy trong hàng chư
tăng, ai có phép chi cứu giải Hoàng hậu khỏi điều tội khổ chăng?.
Hòa thượng Chí Công tâu
rằng:
- Muôn tâu Bệ hạ! Tội
của Hoàng hậu rất nặng, xin Bệ hạ hãy thiết lập đàn tràng lễ bái sám hối, thì
mới cứu được.
Vua Võ Ðế bằng lòng,
liền cầu Hòa thượng Chí Công soạn ra mười quyển sám văn, rồi thiết đàn trong
cung là chay ba tháng, cầu sám cho Hoàng hậu.
Có một hôm kia, khi trai
đàn gần mãn có mùi hương nồng nã bay khắp trong cung điện. Vua Võ Ðế ngước mắt
ngó lên trời, thấy có một nàng con gái, nhan sắc tuyệt trần, đứng giữa hư không
mà chấp tay tâu cùng vua rằng:
- Thiếp nhờ công đức của
Bệ hạ cầu sám hối đã thoát được thân mãng xà mà sinh về cõi trời Ðao Lợi. Nên
thiếp phải hiện thân ra cho Bệ hạ thấy để làm chứng nghiệm vậy - Thôi, mấy lời
cảm tạ, kính chúc Bệ hạ ở lại bình an.
Bà nói rồi liền ẩn mình
không thấy nữa.
Khi ấy vua Võ Ðế nửa
mừng nửa khóc, khôn xiết sự tình bèn lui vào cung mời Hòa thượng Chí Công mà
hỏi rằng:
- Hoàng hậu của Trẫm
buổi còn sống, hết sức thù ghét Hòa thượng là túc duyên làm sao mà gây ra cừu
oán như vậy?
Ngài Chí Công tâu rằng:
- Muôn tâu Bệ hạ! Sự cừu
oán duyên do kiếp trước có một vị Trú trì và một vị Giám tự ở chung một chùa.
Trong chùa ấy có cái đôn để nước, dưới chân cái đôn có con thiện trùng thường
thường kêu trong khi ban đêm; tiếng kêu của nó inh ỏi như thể tiếng con dế hay
con vạt sành vậy. Thường khi ông Trú trì tới đó lấy nước súc miệng, rửa mặt thì
cũng chú nguyện cho con ấy mau mau thoát đặng cái thân súc vật, mà sinh về
đường nhân luân.
Một bữa kia ông Trú trì
đi khỏi, ông Giám tự ghét con thiện trùng đêm nào cũng kêu, và làm cho lòng ông
không được thanh tịnh và chẳng cho ông ngủ thẳng giấc, nên ông bèn bắt con ấy,
lấy dao cắt ngang giữa lưng làm hai, rồi cũng bỏ lại dưới chân đôn như cũ.
Qua bữa sau ông Trú trì
về, trót đêm không nghe tiếng con thiện trùng kêu nữa, bèn kiếm dưới chân đôn,
thì thấy nó đã chết rồi. Ông thương khóc, niệm Phật chú nguyện cho nó và lấy
một miếng vải đỏ buộc vào chỗ lưng bị cắt, rồi đem chôn sau vườn chùa.
Muôn tâu Bệ hạ! Con
thiện trùng ấy tức là kiếp này làm thân Hoàng hậu; còn vị Giám tự là kiếp này
làm thân của Bần Tăng đây. - Vì vậy oan gia gặp nhau toan đòi nợ trước, nếu tôi
kiếp này tu hành lơ láo, thì có thể nào thoát ra khỏi tay của Hoàng hậu!.
Vua Võ Ðế nghe nói liều
gật đầu mà đáp rằng:
- Hèn gì Hoàng hậu của
Trẫm thường thường buộc sợi dây đỏ ngang lưng, không khi nào rời bỏ, mà Trẫm
không biết cớ làm sao. Có một đêm Hoàng hậu ngủ mê, Trẫm lén mở sợi dây ấy ra,
thì Hoàng hậu nói rằng đau lưng, rồi lấy dây ấy buộc lại vào, tức thì không đau
nữa. Nay Hòa thượng bày tỏ sự túc trái như vậy, thì biết Phật nói "NHÂN
QUẢ" thật là không sai
Từ đấy, vua Võ Ðế lại
càng tin tưởng Phật pháp, trọng đãi Chúng Tăng và nguyện một lòng phụng sự Tam
Bảo...”
59. NHỮNG HÀNH VI
THUỘC VỀ THÂN NGHIỆP
Có 3 hành vi thuộc về
Thân Nghiệp như sau:
Không giết hại: Không tự hủy hoại
mình, không hủy hoại hoặc sai người khác hủy hoại cuộc sống của mọi loài, không
mừng vui khi thấy người khác thực hiện hành vi giết hại. Phải tìm mọi cách để
cứu sống chúng sinh, thả cho chúng sống đời tự do, không bị cảnh cá chậu, chim
lồng.
Không trộm cắp: Không dùng sức mạnh
hoặc những phương tiện xảo trá để lừa đảo, chiếm đoạt về phần mình những của
cải của người khác dù chỉ là vật nhỏ như cây kim, sợi chỉ đến đất đai, nhà cửa,
ruộng vườn, xe cộ.
Không tà dục: Không sống trác táng,
ăn chơi, cờ bạc, rượu chè, hút sách. Phải tu hạnh tiết dục thanh tịnh, tu sĩ
cấm hẳn tà dục, hàng cư sĩ lập gia đình phải tiết dục, chỉ sống một vợ một
chồng, trong sạch từ thể chất đến tinh thần.
60. NHỮNG HÀNH VI
THUỘC VỀ KHẨU NGHIỆP
Khẩu Nghiệp là những lời
nói thô, có 4 cách như sau:
Không nói dối: Nghĩa là không nói sai
sự thật như :
- Không thấy lại
nói thấy, thấy lại nói không thấy.
- Nghe lại nói
không nghe, không nghe lại nói nghe.
- Biết lại nói
không biết, không biết lại nói biết.
- Biết trái lại nói
phải, biết phải lại nói trái.
Gặp trường hợp đặc biệt
phải nói không đúng sự thật để cứu mạng chúng sinh, buộc lòng phải nói, chẳng
hạn như người A đòi giết người B, ta biết chỗ người B trốn chạy, khi người A
hỏi có thấy người B không, để cứu người B, ta có thể nói không thấy. Như vậy,
ta đã thực hành được hạnh Từ Bi.
Không nói lời hung ác: Không nên chưởi rủa
người khác, dù mình là bậc trên trước, có quyền thế, như ông bà, cha mẹ cũng
không nên ỷ vào quyền thế ấy mắng chửi người hay con cháu, dù người đó có lầm
lỗi, trái lại nên dùng lời dịu dàng, chỉ dạy cho người ta thấy những lỗi lầm,
để lần sau tránh.
Không nói thêu dệt: Không nên thêm bớt để
chuyện không nói có, chuyện có nói không, dùng lời lẽ làm cho câu chuyện sai
với sự thật trắng thành đen, đen thành trắng, hoặc dùng lời văn hoa, bóng bẩy
để mê hoặc làm hại người, mà trái lại nên nói lời đúng đắn, chân thật với lòng
mình.
Không nói lưỡi hai chiều: Không nên nói đòn xóc,
đến bên A nói xấu bên B, đến bên B nói xấu bên A, mục đích gây chia rẽ, làm cho
hai bên thù địch nhau mà trái lại nên dùng lời lẽ về đạo lý để hóa giải mọi sự
thù nghịch.
61. NHỮNG HÀNH VI
THUỘC VỀ Ý NGHIỆP
Ý Nghiệp được tạo thành
bởi những suy nghĩ, tưởng tượng.
Có 3 cách tạo Ý Nghiệp:
Không tham muốn: Không tham muốn năm
món dục lạc ở đời: Sắc đẹp, của cải, danh vọng, ngủ nghỉ, ăn uống.
Tham sắc làm hao tiền
của, phải dùng mưu chước tồi tệ làm mất nhân phẩm, khi không thỏa mãn thì sinh thù
hận, dẫn đến cảnh giết chóc, tù đày.
Tham của sẽ tự đày đọa bản
thân để thêm tiền của, thậm chí còn dùng mưu sâu, chước độc để hại người đoạt
của.
Tham danh phải ra vào
luồn cúi, phải dùng mưu chước hèn hạ để có danh hão.
Tham ăn cao lương mỹ vị
làm cho thân thể dễ sinh bệnh tật.
Tham ngủ nghỉ làm cho
trí não trở nên đần độn.
Năm món dục lạc làm cho
con người bị tù đày, tội lỗi, là nguyên nhân chính trói buộc người ta trong
sinh tử luân hồi nên người tu phải biết tiết dục, biết tri túc, không đua chen
với đời, không bị vật chất ràng buộc, sẽ mau được giải thoát.
Không giận hờn: Giận hờn là một tính
xấu, tai hại như một ngọn lửa đốt cháy cả mình lẫn người. Trong kinh Phật có
dạy: Một niệm giận hờn nổi lên, thì trăm nghìn cửa nghiệp chướng đều mở. Lửa
tức giận một phen phát ra, liền đốt tất cả rừng công đức" .
Trong kinh Thập Thiện
Nghiệp Đạo, người nào không giận tức, sẽ được tám món tâm pháp sau đây:
1. Không tâm khổ
não.
2. Không tâm giận
hờn.
3. Không tâm tranh
giành.
4. Tâm nhu hòa ngay
thẳng.
5. Tâm từ bi như
Phật.
6. Thường làm lợi
ích yên ổn cho các chúng sinh.
7. Thân tướng trang
nghiêm, chúng sinh tôn kính.
8. Có đức tính nhẫn
nhục tất được sinh lên cõi Phạm Thiên.
Nhờ quán từ bi, tâm sinh
lòng từ bi, chúng ta mới không giận hờn, mới bao dung, tha thứ được lầm lỗi của
kẻ khác.
Không si mê: Si mê là nguồn gốc của
mọi tội lỗi, vì si mê người ta không phân biệt phải trái, đúng sai, che lấp sự
thật, chân lý. Người không si mê là người có trí huệ, tu tập thiện nghiệp, nên
quán nhân duyên sinh tử để diệt trừ vô minh, tinh tấn trên đường giải thoát.
62. PHÚC ĐỨC CÓ
PHẢI LÀ BIẾN THỂ CỦA THUYẾT LUÂN HỒI - NHÂN QUẢ
Du nhập vào Việt Nam từ
rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật Giáo đã được tín ngưỡng truyền
thống của người Việt tiếp nhận, dung hòa và uyển chuyển phát triển qua thời
gian, trở thành một tôn giáo có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong đời sống dân tộc.
Xưa tới nay, không ít
người Việt Nam ta quan niệm Phúc Đức được hình thành từ thuyết Luân
Hồi - Nhân Quả của Phật giáo. Nhiều người cho rằng Phật khuyên chúng sinh sống
nhân đức để phúc ấm truyền đời cho con cháu, vì thế, người Việt ta mới thường
nói: Gieo nhân nào gặt quả ấy.
Thực ra, quan niệm Phúc
Đức đã manh nha hình thành từ thời An Tiêm với bãi An Tiêm ở Thanh Hóa. Người
Việt xưa tin như bây giờ chúng ta tin là có nhân có quả nhưng nhân quả chỉ được
hiểu đơn giản là “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”, “ác giả ác báo” và quan
niệm Nhân - Quả chỉ được xem như là một lời khuyên về luân thường đạo lý.
Chúng ta đều biết phúc
và đức là hai phạm trù khác nhau: Phúc là cái ta đang được hưởng, đức là những
điều tốt đẹp ta đang làm để (sẽ) được hưởng phúc ở mai sau. Phúc lớn có thể ảnh
hưởng tích cực tới số phận của con người, thậm chí tới nhiều đời, đến khi phúc
cạn thì cuộc sống sẽ sảy ra những họa hoạn liên tiếp, bất khả kháng trên nhiều
lĩnh vực.
Mối quan hệ giữa phúc và
đức như một quy luật tất yếu nên nhiều khi người ta gộp hai khái niệm này vào
làm một mà đương nhiên hiểu nôm na rằng: Nếu anh sống có đức thì đời anh sẽ
được hưởng phúc. Quan niệm như thế rất đúng về giá trị giáo dục đạo đức, nhưng
có những trường hợp nếu quan niệm như vậy sẽ “lý giải” không được thỏa đáng. Chảng
hạn, có người gian tham, độc ác mà cả đời vẫn gặp may mắn, hạnh phúc, trong khi
có người suốt đời chỉ lo làm việc thiện lại gặp nhiều oan trái, cơ cực. Trong
những trường hợp như thế, người ta lại tách phúc và đức ra làm hai phạm trù để
thốt lên câu than: “Ông ấy sống có đức mà không được hưởng phúc” hoặc “Bà ấy ăn
ở thất đức nhưng được hưởng phúc nên đời sướng vậy.”... Những câu than kiểu
giải thích như thế nghe vẫn chưa được “hợp lý”, chưa được “thỏa đáng”, nên cổ
nhân mới chua thêm rằng:
“Cây xanh thì lá cũng xanh
Cha mẹ hiền lành để phúc cho con”
Hay:
“Phúc đức tại Mẫu”
“Mồ mả làm khá người ta.”
Khi Nho Giáo thâm nhập
vào nền văn hóa Việt Nam (Nho giáo là một hệ thống đạo đức, triết lý và tôn
giáo do Khổng Tử (Trung Quốc) phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị, du
nhập vào Việt Nam những năm Bắc thuộc.), đứng trước những trường hợp trên đã
không đưa ra một lời giải thích, lại “đổ tuột” là do ông Trời đã an bài số mệnh
nên con người mới gặp phải những nghịch cảnh trớ trêu như vậy. Nếu căn cứ vào thuyết
Thiên Mệnh của Nho Giáo thì “Ông Trời” đã được đẩy lên vị trí toàn năng, có
quyền chi phối và quyết định mọi diễn biến của cuộc đời. Con người chỉ là “đồ
chơi” trong bàn tay của tạo hóa: Phải chịu sự sắp đặt của ông Trời, dù chỉ là
những điều nhỏ nhặt nhất, con người cũng phải “y án tuân theo số mệnh”, không
được tự do hành động, càng không được phép “cãi lại Mệnh Trời”:
“Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao”
(Nguyễn Du - Truyện
Kiều)
Nho giáo đã không đi tìm
căn nguyên của sự “bất công” đó mà dùng thuyết Thiên Mệnh để trốn trách trách
nhiệm, cho rằng Trời đã quyết định mọi sự thành công hay thất bại của con
người, dù cố gắng đến đâu, muốn “cải số” thế nào thì con người cũng không thể
vượt ra ngoài “khuôn thiên của số mệnh.”. Tất tật mọi chuyện, dù là sức khỏe,
tuổi thọ hay hạnh phúc gia đình, công danh, tài lộc.... đều do ông Trời cầm cân
nảy mực.
Quan điểm “tại Trời” của
Nho giáo đã làm “tê liệt” ý chí phấn đấu vươn lên của con người, “ru ngủ” con
người trong tư tưởng an phận, trông chờ sự đổi thay của số mệnh vào đấng thần
linh tối cao là thượng đê (ông Trời). Đây là quan điểm tiêu cực, thụ động,
triệt tiêu mọi nỗ lực phấn đấu của con người, gián tiếp làm nhụt tính hướng
thiện, tiến thủ trong bản tính của con người. Và đấy cũng là điều trái ngược
với nếp sống tình cảm của người Việt, đối lập với quan niệm về phúc - đức trong
tín điều của người Việt, vì thế ông cha ta mới có câu: “Đức năng thắng số” hay “Xưa
nay nhân định thắng thiên cũng nhiều” (Nguyễn Du) để gián tiếp phủ định
phần nào tư tưởng Thiên Mệnh của Nho giáo.
Trong khi Nho giáo đề
cao yếu tố Trời và khẳng định con người bị chi phối tuyệt đối bởi số mệnh, thì
Phật giáo lại không chấp nhận việc con người chịu sự an bài của số phận, mà cho
rằng sự chuyển hóa của con người đều do Nghiệp mà ra: “Con người là chủ nhân của Nghiệp, là kẻ thừa tự Nghiệp...” (Kinh
Tiểu Nghiệp phân biệt - Trung Bộ III), nên đương nhiên con người sẽ không thể
và không bao giờ thoát được những Nghiệp do mình tạo ra.
Lý giải về sự khác biệt
giữa quan niệm Nghiệp - Báo của Phật giáo với quan điểm Thiên Mệnh của Nho
giáo, sách Phật giáo viết: “Điểm khác
nhau cơ bản giữa Nghiệp và Số mệnh ở chỗ, Nghiệp do chính con người tạo tác, có
tính chất duyên sinh, bất định tính và vô ngã nên Nghiệp có thể chuyển hóa
được. Do đó, con người có thể thay đổi, chuyển hóa Nghiệp báo của chính mình từ
xấu thành tốt, từ ác thành thiện hoặc ngược lại.”. Như thế, quan điểm về
Phúc - Báo của Phật giáo là do tự mình làm tự mình chịu, dẫu là cha con cũng
không ai chịu thay cho ai được, càng không liên quan gì đến tổ đức (Kinh Nê
Hoàn). Việc tích đức của tổ tiên chỉ có thể tạo được nghiệp đồng cảm khiến cho
người có phúc sẽ sinh làm quyến thuộc chứ không truyền được phúc đức cho con
cháu mà con cháu muốn được hưởng lâu dài cái phúc của mình thì phải tự chăm lo,
gieo trồng nhân thiện, luôn tạo nghiệp lành, từ bi, hỉ xả...
Luật Nhân Quả của Phật
giáo không bị thời gian hạn chế, có khi đời trước gieo nhân, đến đời này gặp đủ
nhân duyên thì kết thành quả, có khi gieo nhân ở đời này nhưng phải tới mấy
kiếp sau, khi hội đủ nhân duyên mới kết thành quả (Kinh Nhân Quả). Đây chính là
câu trả lời, là cách lý giải cho những nghịch cảnh: “Ông ấy ăn ở hiền lành, đức độ nhưng toàn gặp phải chuyện oan trái”
hoặc “Bà ấy gian tham, độc ác mà cuộc đời
lại toàn may mắn, hạnh phúc”...
Như vậy, thuyết Luân Hồi
- Nhân Quả của Phật giáo ngoài việc đã đáp ứng được bản tính hướng thiện của
người Việt, lý giải những “bế tắc” mà văn hóa bản địa “bất lực”, còn khúc xạ và
hóa thân vào với tín điều của người Việt nên không ít người mới tin rằng Phúc -
Đức là một biến thể của thuyết Luân Hồi - Nhân Quả.
Xét về giá trị giáo dục
đạo đức thì quan niệm Phúc - Đức của người Việt và thuyết Luân Hồi - Nhân
Quả của Phật giáo xem ra khá gần gũi, tương đồng và cả 2 đều đề cao tính hướng
thiện của con người, nhưng không vì thế mà cho rằng: Phúc Đức là biến thể của
thuyết Luân Hồi - Nhân Quả. Bởi lẽ quan niệm “đời cha ăn mặn, đời con khát
nước”, “mồ mả làm khá người ta” là nếp nghĩ truyền thống của người Việt, và
phúc đức ấy chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, nhiều mối quan hệ, trong khi
thuyết Luân Hồi - Nhân Quả của Phật giáo khẳng định Phúc - Báo là do tự mình
làm, tự mình chịu.
Do đặc tính nổi bật của
Phật giáo là tính tổng hợp và tính linh hoạt nên khi Phật giáo được truyền vào
Việt Nam, được các thiền sư người Việt bản địa hóa, Phật giáo đã sớm uyển
chuyển hòa quyện vào văn hóa truyền thống của người Việt, cùng song hành với sự
phát triển của dân tộc, nhưng vẻ tinh khiết vốn có của kinh điển Phật giáo vẫn
giữ được và chưa từng gián đoạn trong việc truyền thừa nên Phật giáo (Việt Nam)
ngày càng cắm rễ sâu chắc trong văn hóa tín ngưỡng của người Việt và trở thành
tôn giáo có sức ảnh hưởng sâu rộng nhất ở Việt Nam.
Phải chăng chính vì thế
mà không ít người mới cho rằng Phúc Đức là một biến thể của thuyết Luân Hồi -
Nhân Quả.
63. MỘT TRƯỜNG HỢP
TÁI SINH Ở VỤ BẢN (nguồn: Thích Tâm Hiệp ; 2005)
“Như bao nhiêu lần về Bắc
khác, mỗi khi ghé thăm Nho Quan là chúng tôi lại lên chơi ở Vụ Bản. Vụ Bản, một
thị trấn nghèo thuộc vùng núi tỉnh Hòa Bình, cách Nho Quan 40 km. Thị trấn nằm
trên trục đường Tây bắc - quốc lộ 12, nối từ ngã ba Gián Khẩu lên các tỉnh
Điện biên - Lai châu…
Chúng tôi đến đó
vào một chiều cuối tuần tháng 2 âm lịch. Lâu ngày gặp nhau, Thầy trò, anh em
quây quần bên tách trà, ngồi ngắm dòng sông hàn huyên trò chuyện. Chúng tôi lại
nói đến Thiền sư Nhất Hạnh và chuyến hoằng hóa của Ngài. Câu chuyện về trai đàn
chấn tế. Và thế là đề tài dẫn đến chuyện người quá cố, chuyện oan khúc, kẻ còn
người mất. Nhân đó anh Toàn thuật cho chúng tôi nghe một trường hợp đang gây
xôn xao ở Vụ Bản. Chuyện một đứa bé chết cách đây 10 năm, nay tái sinh và đòi
về với cha mẹ kiếp trước.
Không xa nơi chúng
tôi đang ngồi bên dòng sông là chỗ đứa bé chết đuối
khi lên năm tuổi. Anh Toàn kể, ở đó mọi người đều biết và chứng kiến câu chuyện
tái sinh của cháu bé.
Câu chuyện thật
xúc động và hấp dẫn gây sự tò mò muốn tìm hiểu. Tôi
ngỏ lời muốn anh Toàn dẫn chúng tôi đến gặp cháu bé và bố mẹ cháu. Khẽ
gật đầu, anh nhắc điện thoại… Và thế là năm phút sau chúng tôi thấy một
người trạc tuổi anh Toàn bước vào. Anh Toàn giới thiệu với chúng tôi: -
Đây là anh Tân chồng chị Thuận bố mẹ của bé Tiến "kiếp trước".
Sau khi chào hỏi xã giao
tôi ngỏ lời muốn được anh thuật cho chúng tôi nghe chi tiết hơn về
câu chuyện con anh, cháu bé sinh ra ở gia đình khác nay nhận anh chị là bố mẹ.
Ngồi bên dòng sông yên ả
của buổi chiều núi đồi bao phủ chúng tôi cùng hướng mắt nhìn về một xóm Bản tộc
Mường sinh sống bên kia sông. Anh Tân chỉ cho chúng tôi hay là nơi đó con anh
đã sinh lại lần này, và ngồi thuật chuyện. Anh kể: - "Chuyện đến tai
tôi là qua mấy cô giáo. Ngày trước họ dạy bên này, lớp mà con tôi đi học. Nay
đổi về dạy bên đó. Chính mấy cô giáo qua đồn đại của xóm giềng, đã quan sát và
nhận ra tính tình của bé Bình giống cậu học trò Tiến trước đó là con tôi”.
Chuyện
là như vậy. Anh nghe mà không tin, nên không thèm dò xem thực hư
thế nào. Nhưng vì một hôm nhớ lại lời thầy xem quẻ năm nào, vì đau đớn lúc con
mất mà anh đã chạy đi tìm thầy. Anh nói, thầy bói phán: - "Con anh sẽ
không đi đâu xa mà buồn. Nó sẽ trở lại với anh".
Coi thì coi nhưng
anh không tin. Anh cho thầy bói nói nhảm, vì nghĩ, chết rồi thì làm gì có
chuyện trở lại?
Thế mà lời thầy bói
năm xưa đã có tác dụng. Anh nhắc lại với vợ và quyết định đi thử. Anh chở vợ,
hỏi thăm nhà và dễ dàng tìm ra nơi sinh sống của gia đình cháu bé. Họ hoàn
toàn xa lạ nhau. Cũng câu chuyện mời chào xã giao, nhưng anh Tân dấu không cho
đôi vợ chồng kia biết anh là cha mẹ kiếp trước nơi đứa bé đang muốn tìm về.
Đóng vai người tò mò đi xem chuyện, anh nói là muốn gặp và thăm đứa bé. Chủ nhà
cho người đi tìm, hơn 30 phút sau trở về mà không tìm thấy cháu. Lại nhờ một
người khác, lần này là cô giáo đi tìm.
Té ra cháu không đi
chơi xa, gặp cô giáo cháu nói:
- "Biết rồi, thấy
rồi. Hồi nãy thấy hai người đi vào".
Kể từ khi
sinh ra vào gia đình khác - năm năm - nó chưa bao giờ gặp cha mẹ kiếp trước.
Vậy mà hồi nãy nhìn hai người đi xe máy vào nhà, nó đã nhận biết (Cái biết bằng
linh cảm của cái biết kiếp trước còn lại hiện hữu trong nó). Nên khi gặp,
(trong lòng nó gợi lên cảm giác phạm lỗi của ngày trước do bỏ đi chơi mà chết
đuối) khi về nhà nó không vào cửa trước mà vào cửa sau, và bẽn lẽn đứng trong
phòng nhìn ra. Anh Tân phải dỗ ngọt và dụ ra chơi bằng cách cho nhiều bi, nó
mới chịu ra và chạy ùa đến bên anh chị như chưa bao giờ xa lạ. Anh nói:
- “Linh cảm đã cho tôi
biết đây là đứa con tôi. Nhưng tôi vẫn giữ thái độ bình thường để thử”.
Một đứa trẻ lên năm,
giữa bản Mường, cha mẹ Mường nói tiếng Kinh không rõ. Vậy mà nó phát âm tiếng
Kinh rõ mồn một. Bố mẹ nó - Anh Hoan và chị Dự kể rằng: - Lúc vừa biết nói, nó
đã nói tiếng Kinh và luôn miệng đòi về nhà cha mẹ. Nó nói: “Cho con về nhà bố
mẹ con, con không phải người Mường - con là người Kinh”.
Ban đầu cứ nghĩ con trẻ
nói bậy. Nhưng lâu ngày buộc phải chú ý vì sợ mất con. Nó đã dọa: - "Không
cho con về lại nhà bố mẹ con, con sẽ chết". Và đã một lần nó đau nặng
vì bố mẹ không chịu mang nó đi tìm nhà nó.
Một hôm cháu một mực
đòi bố mẹ đem đi về nhà cháu bằng được. Cháu bảo: “Đi đi con sẽ chỉ đường”
Nhà cháu xóm bên kia
sông, mạn dưới, muốn đi là phải qua cầu Vụ Bản, rẽ trái. Từ cầu đi đến sân vận
động có một đường rẽ phải vào một xóm khác. Mẹ cháu thử, bảo: - "Rẽ
lên đây?” Cháu không chịu và bảo tiếp tục đi.
Đó
là trục đường chính quốc lộ 12 chạy dọc theo sân vận động.
Đi khoảng 100m có một khúc quanh bao sân vận động theo hướng lên
trung tâm bưu điện của Thị trấn, và một hướng chạy thẳng là xuống đập
nước ngăn sông Vụ bản.
Mẹ nó mới bảo:
- “Rẽ phải lên hướng bưu
điện.” Nó lại bảo:
- "Phải đi thẳng,
đi qua nhà ông Lai mới đến nhà con"
Đi một đoạn, chính
cháu đã chỉ ra nhà ông Lai và tự tìm ra nhà mình ngày trước. Nhưng rủi một
điều hôm đó anh Tân và chị Thuận đi vắng. Ngồi chờ một lúc chị Dự phải cho đem
cháu về, một phần vì ngại người ta nghĩ mình lợi dụng …
Trở lại
thời điểm anh Tân đến nơi cháu sinh ra (Nhà anh Hoan). Anh Tân
xin phép bố mẹ nó được đưa cháu về nhà chơi, và họ vui vẻ chấp
thuận. Trên đường đi anh cũng thử khi đèo cháu về nhà. Gần đến nhà mình, anh
chỉ một ngôi nhà cao tầng gần đó và bảo cháu: - Nhà bác đó cháu vào đi.
Cháu không chịu và tự
mình chạy tìm đến đúng nhà. Và chính cháu cũng chỉ ra nhà ông Lai cạnh nhà
cháu. Anh chị vừa mở cổng là cháu chạy ùa vào tự mở cửa, rồi chạy lục lọi
khắp nơi. Từ phòng anh chị xuống bếp và khắp các ngõ nghách. Thấy cháu tìm
kiếm như vừa đánh mất cái gì hay để quên món gì đó ưa thích lắm. Anh mới ngạc
nhiên hỏi:
- Cháu tìm gì vậy? Cháu
bảo:
- Con tìm chiếc máy bay
và mấy chiếc xe con hay chơi. Anh mới bảo:
- “Bác đem đốt đi rồi, sợ để lâu ngày hỏng”.
Đến khi bố mẹ cháu
xin đưa cháu về, cháu không chịu và chạy đên bên anh Tân gọi bố. Từ đó cháu
nhất mực không chịu về nhà nữa. Anh Hoan mới dọa: - "Nếu con không về thì
bố mẹ sẽ đi vào Nam làm ăn và ở trong đó luôn" (anh Hoan thường đi làm ăn
xa). Cháu bảo: - “Thì cứ đi, con tìm được bố mẹ rồi, con không đi đâu nữa cả.”
Sau khi về nhà anh Tân
mấy hôm, anh tiếp tục ngạc nhiên và thêm tin cháu Bình chính là con mình
(Tiến) ngày trước tái sinh. Đó là vào một hôm, anh dẫn cháu về thăm bà nội (mẹ
anh) ở đó rất xa. Vừa vào cháu đã gọi bà. Tất nhiên là mẹ anh không dễ dàng
tin liền. Cũng giống như một lần trước khi chết cách đó 10 năm. Anh dẫn cháu
về thăm, cháu đòi bà đem cháu ra quán uống nước, lần đó cháu đòi uống bia.
(Vì thói quen mỗi lần uống bia có cháu bên cạnh, anh thường cho cháu hớp bia
nên lâu ngày thành quen). Lần này cũng vậy nhưng bà lại thử: Cháu muốn uống
thì dẫn bà đi, chứ bà không biết có quán nào quanh đây cả. Thế mà cháu đã
dẫn tay bà tới đúng quán ngày trước. Ra đến đó cháu buột miệng nói: - “Đây là
quán ngày trước bà dẫn cháu ra, và bà cho cháu uống bia đó.” Thế là bà ôm chầm
lấy cháu ngẹn ngào……..
Câu chuyện làm cho không
gian chiều càng thêm sâu lắng. Mọi người ngồi bất động chú mục vào anh
theo dõi. Tôi đặt câu hỏi: - “Khi cháu mất anh có làm 49 ngày, 100 ngày và hết
tang cháu không?” Anh trả lời đã làm đủ cả.
Câu chuyện hấp dẫn và
lôi cuốn khi nghe anh kể lại lời cháu thuật khi cháu chết. Giật mình và thêm
ngạc nhiên, chúng tôi mời anh uống nước rồi tiếp tục câu chuyện.
Anh bảo:- “Cháu nó nói
với tôi có người đạp lên mặt con. Cháu đã chỉ ra người đó. (Khi người ta hạ
quan tài, thường có người đứng lên nắp quan tài để lấp đất và họ đã dẫm đạp lên
nắp quan tài giống như đạp lên mặt nó. Hành động cứ nghĩ là bình thường, vì
dưới kia là xác chết không còn hay biết). Chính cháu bảo: - "Đêm đó con về
nhà nhưng không vào cửa được, vì có một ông to lớn dưới đập nước lên chặn đường
không cho con vào cửa - Trong cơn hoảng sợ, lúc đó có người (anh Hoan) đi đâu
về ngang qua chỗ con, thế là con bám theo cho đỡ hoảng sợ”. Và cháu ở gia đình
anh Hoan cho đến khi đầu thai.
Giờ thì bé Tiến đã
lớn tròn 5 tuổi và ở hẳn với gia đình anh Tân. Cháu đòi đi học bên
này, chính cháu đã nói tên trường mà ngày trước cháu đi học. Đi học cháu không
chịu bọn trẻ cùng lớp gọi mày tao với cháu, mà cho là mình đã mười mấy tuổi rồi
và xưng bạn bè với những đứa trẻ ngày trước cùng học.
Tôi hỏi anh là
cháu còn nhớ thêm gì nữa không, anh nói:
- Dạ, tất nhiên trí
nhớ cháu có giới hạn. Cháu chỉ nhớ chừng ấy thôi, chỉ nhớ những gì lúc cháu lên
năm. Tôi hỏi:
- Anh có thay đổi cách
nhìn, cách sống thế nào không khi câu chuyện này là sự thực và anh là người
trong cuộc?
Anh chỉ trả lời:
- Tất nhiên là có thay
đổi.
Chúng tôi yên lặng, mỗi
người miên man nghĩ ngợi theo cách nhìn và hiểu của mình. Bóng đêm xuống dần,
quán bên sông đã bắt đầu có người vào. Chúng tôi chia tay anh Tân. Dòng sông
vẫn lặng yên, tôi đưa mắt nhìn về xóm bên kia sông mà mong lung nghĩ ngợi…. Bởi
theo lời mọi người, ở đó có lắm chuyện ''Con lộn" như vậy. "Con
lộn" là một từ địa phương vùng đó, nhằm chỉ những trường hợp con mình chết
rồi sinh ra vào nhà người khác mà còn nhớ kiếp trước. Đó là sự tái sinh mà nhà
Phật gọi khi con người đi đầu thai. Tôi mỉm cười suy nghĩ: chúng ta không là
"Con Lộn" chắc. Khác chăng là chúng ta mê muội hơn nên không còn nhớ
được gì khi đi đầu thai.
Rời Vụ Bản, tôi
thầm cảm ơn chuyến về này đã may mắn cho tôi biết được
trường hợp cậu bé Tiến, để xác tín thêm về niềm tin lời Phật dạy,
niềm tin về nhân quả luân hồi.”
64. CÂU CHUYỆN TÁI
SINH Ở NƯỚC PHÁP (Trích từ NHỮNG BÍ ẨN CỦA TIỀN KIẾP, HẬU KIẾP, nguồn vinagames.org)
“Câu chuyện có thật này
xảy ra trong gia đình Traveed ở nước Pháp. Gia đình bà Traveed rất đau buồn vì
sinh con hai lần nhưng lần nào đứa con mới chào đời được vài giờ cũng đều chết
cả. Hai vợ chồng rất buồn. Họ ngày đêm cầu nguyện Chúa. May mắn là chưa đầy một
năm sau khi đứa con thứ hai qua đời, bà Traveed lại chuyển bụng. Ðây là đứa con
thứ ba. Cả hai vợ chồng đều hồi hộp. Họ chẳng mong chi con trai hay con gái,
con nào cũng được, miễn rằng đứa bé ra đời mạnh khỏe sống lâu là hai vợ chồng
vui sướng rồi.
Quả thật trời không phụ
lòng họ, đứa con sinh ra lần này trông vui vẻ, khoẻ mạnh. Hai vợ chồng đặt tên
cho con là Paul Traveed. Ðiều kỳ lạ chỉ có bà Traveed để ý theo dõi là trên
ngực Paul có cái vết giống cái vết mà đứa con thứ hai của bà lúc chào đời cũng
có. Thật ra lúc đó bà có làm một dấu chấm màu xanh như vết chàm lên ngực đứa
con đã chết này vì trong thâm tâm bà bà nghĩ rằng đứa con thứ hai này chết đi
thì đứa con kế tiếp cũng có thể là nó sẽ lại ra đời. Bà Traveed làm dấu ấn như
vậy để xem thử lần sinh thứ ba hài nhi ra đời có còn mang dấu vết ấy không, nếu
không thì điều bà nghĩ không đúng. Giờ đây khi thấy dấu chấm màu xanh hiện rõ
trên ngực đứa con thứ ba thì bà Traveed vô cùng lo lắng vội vã gọi chồng và
nói:
- Anh ơi, xem này, thằng
bé này cũng có dấu chấm xanh ở ngực giống cái dấu mà em đã làm lên ngực đứa con
bất hạnh thứ hai của mình. Vậy cái dấu chấm này là gì? Có phải là dấu trước đây
không? Hay là...Paul chính là đứa con thứ hai của mình? Ngoài ra thằng Paul lại
còn có thêm một vết sẹo dài ở bắp đùi mà lúc sinh ra mình đã thấy đó.
Người chồng nghe vợ nói
thì chạy lại nhìn chăm chăm vào ngực đứa bé. Trên bộ ngực trắng hồng mơn mởn
của Paul rõ ràng có một dấu chấm màu xanh.
Hai vợ chồng bà Traveed
từ đó sống trong lo âu hồi hộp, họ chờ đợi từng giờ từng phút sự ra đi của đứa
con. Nhưng thế rồi suốt trong 12 năm dài đằng đẵng, Paul vẫn khoẻ mạnh, ăn ngủ,
học hành, đi chơi bình thường như bao đứa trẻ khác. Ðiều kỳ lạ là mặc dầu còn
trẻ con nhưng dáng dấp, cử chỉ, lời nói của Paul lại giống như người lớn. Thỉnh
thoảng ngồi trước mặt mọi người trong gia đình, Paull thường phát biểu những
câu mà không ai có thể ngờ được rằng ở tuổi nó lại nói được những câu như thế.
Một hôm bé Paul hỏi mẹ:
- Mẹ à! Bên cạnh cửa ở
vườn nhà mình trước đây có một cây lớn tốt tươi nhưng nay lại không còn. Vậy ai
đã chặt nó?
Bà Traveed vô cùng kinh
ngạc khi nghe con nói câu đó vì thật sự cái cây mà con bà nhắc đến đã bị chồng
bà đốn ngã trước khi Paul ra đời. Tuy vậy bà Traveed cũng lấy làm tò mò, bà hỏi
Paull: - Tại sao con lại biết cây này vì lúc ba con đốn ngã nó thì con chưa ra
đời mà?
Paull nhăn mặt tỏ vẻ bực
tức và nói:
- Tại sao ba lại đốn cây
ấy đi?
Bà Traveed giải thích:
- À! là tại vì cây này
dễ trở thành chỗ thuận tiện cho kẻ trộm leo vô nhà.
Paul dằn từng tiếng rất
rõ ràng:
- Trong số những kẻ trộm
ấy có một đứa bị ba đâm chết mẹ có nhớ vụ đó không? Ðứa bị đâm chết ấy tên là
Jainqueville.
Bà Traveed vừa kinh ngạc
vừa lo sợ. Hai tay bà ôm lấy ngực mồm há hốc, bà hỏi Paul dồn dập:
- Này con! Ai đã chỉ vẽ
lời nói bậy bạ ấy cho con! Ai ? Nói cho mẹ biết đi...
Paul nói như phân bua:
- Việc này xảy ra đã lâu
rồi mẹ à! Con biết rõ điều này. Không ai kể cho con nghe hết. Con đã biết rõ sự
việc là ba đã dùng dao đâm Jainqueville chết gục ở gốc cây ấy. Jainqueville có
một vết sẹo ở đùi.
Bà Traveed quá sợ hãi
nên dùng tay che miệng con lại và nói: - Thôi đi! Con nói nghe ghê quá! Ai dạy
con nói thế? Từ nay con đừng nói bậy nữa nhé!
Paul vẫn tiếp tục nói có
vẻ hằn học:
- Con phải nói; vì đó là
sự thật. Con cũng có một vết sẹo ở bắp đùi mà ba mẹ thường thấy đó.
Sau đó, Paul đợi người
cha đi làm về và cũng nói tất cả những lời mà nó đã nói với mẹ mình. Tự nhiên
ông Traveed lo sợ thấy rõ ràng.
Ông có cảm tưởng như tên
cướp Jainqueville đã nhập vào xác thân Paul để nói chuyện với ông. Từ đó ông ít
khi tiếp xúc với đứa con. Trong khi đó Paul thường tỏ ra lầm lì. Thường ngày nó
chỉ loay hoay chơi với một con dao nó mua ở đâu đó. Hết mài lại ngắm nghía. Ông
thấy con như vậy càng thêm lo sợ.
Thế rồi một hôm, Paul từ
đâu không biết chạy bay về nhà. Bà Traveed kinh ngạc kêu lên: Paul, gì thế con,
có việc gì xảy ra thế? Paul vừa khóc vừa đưa cho mẹ xem tờ giấy nhỏ có viết
chữ. Trong thư là lời lẽ của ông Traveed thuê người đầu bếp nơi trường học tìm
cách giết Paul để phi tang mọi chuyện.
Bà Traveed thấy rõ ràng
chữ của chồng mình viết chớ không ai xa lạ. Bà sợ quá nói với Paul:
- Trời ơi! Sao lại có
chuyện xảy ra quá ghê gớm lạ lùng như vậy? Vậy con cứ ở đây với mẹ, đừng đi đâu
cả. Paul vừa khóc vừa nằm xuống chiếc ghế trường kỷ cạnh giường mẹ.
Sáng hôm sau, trời còn
tinh mơ, bà Traveed tự nhiên choàng tỉnh dậy, bà không thấy Paul đâu. Hoảng
hốt, bà xô cửa đi tìm, căn nhà vắng lặng, bà cất tiếng gọi, chỉ có người giúp
việc chạy lên. Không nghe tiếng Paul cũng như ông Traveed lên tiếng trả lời. Bà
Traveed và người giúp việc liền phá cửa buồng của Paul. Cánh cửa mở tung, một
cảnh tượng rùng rợn hiện ra: Ông Traveed và thằng Paul đều nằm chết dưới sàn
nhà, máu ra lênh láng. Nơi ngực ông Traveed, con dao mà thằng Paul thường mân
mê hằng ngày cắm sâu đến tận cán.
Câu chuyện có thật trên
đây đã được tờ báo của Pháp tên là Revua des Derx Mondes đăng tải vào năm 1889
và mới đây được tác giả Thiện Nhật lược thuật lại trong một đặc san Phật Ðản
xuất bản tại Hoa Kỳ.”
65. VẾT SẸO TỪ TIỀN
KIẾP (Trích từ NHỮNG BÍ
ẨN CỦA TIỀN KIẾP, HẬU KIẾP, nguồn vinagames.org)
“Dấu tích luân hồi là
những gì khả dĩ giúp chứng minh Luân Hồi là có thật, hay ít ra cũng là hình ảnh
của dấu ấn một thời quá vãng nào đó ở con người. Để dễ hiểu hơn chúng ta thử
đọc câu chuyện có thật sau đây đã xẩy ra ở Ấn Độ, mà báo Inda Today đã đăng tải
như sau:
Titu là một cậu bé con
mới 5 tuổi có cha mẹ là Samti và Makhavia Pratxa ở làng Varkhe... Lúc cậu bé
vừa lên năm thì người mẹ rất ngạc nhiên khi nghe cậu lập đi lập lại câu nói lạ
lùng: - "Tôi chính là người đàn ông chủ cửa hàng bán máy phát thanh ở Agrạ
Vợ tôi là Uma, tôi phải đến đó. Tôi chính là Suresh Verma".
Cha cậu bé cũng rất ngạc
nhiên khi nghe con nhắc lại câu nói này, người cha kéo con lại phía bên mình và
hỏi: - "Con có thể nói rõ thêm cho ba nghe về điều con nói không?".
Cậu bé chậm rãi ngước
mắt nhìn vào cõi xa xăm rồi nói: - Câu chuyện xẩy ra từ thưở xa xưa, nhưng tôi
nhớ rõ như mới ngày hôm qua... Hôm ấy tôi lái xe hơi về nhà. Vừa bước xuống xe,
tôi đã cất tiếng gọi vợ tôi Uma đâu! Uma đâu ra xem quà này... Bỗng nhiên tôi
thấy hai người lao về phía tôi và bắn hai phát súng vào đầu tôi. Tôi ngã nhào
ngay giữa sân... Trời ơi!...
Vừa kể đến đây, cậu bé
Titu ôm đầu kêu thét lên: - "Quân giết người! Quân khốn kiếp!". Rồi
liệng đồ đạc vào người cha với vẻ mặt hằn học lạ lùng.
Sợ quá, cha mẹ cậu bé
vội vã cùng với cậu tìm đến vùng Agra và dò hỏi xem nhà của người bán máy phát
thanh ở đâu. Dân chúng vùng đó đã chỉ cho họ một căn nhà ở dưới chân một ngọn
đồi. Hai vợ chồng liền đến ngay căn nhà ấy và gặp một người đàn bà ra mở cửa.
Vừa trông thấy người đàn bà, Titu chạy lại kêu lên vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ:
- Trời ơi! Uma!
Người đàn bà ấy chính là
Umạ Cha mẹ cậu bé sợ quá đến nổi gai ốc đầy mình. Ngạc nhiên và kinh hãi hơn
nữa là khi họ hỏi về người chồng của bà ta (bà Uma) thì bà này cho biết như
sau: - Chồng tôi đã qua đời từ lâu rồi. Lúc ấy chồng tôi lái xe về nhà thì bị
hai người đàn ôn nấp sẵn đâu đó bắn chết. Tôi sống với hai con từ đó đến nay.
Điều kỳ lạ hơn nữa là
cậu bé Titu đã bất thần hỏi bà Uma một câu khi thấy chiếc xe hơi đậu cạnh nhà:
- Chiếc xe này của ai? Còn chiếc xe của tôi đâu? Bà Uma vô cùng kinh ngạc và sợ
sệt, bà nhìn hai con và trả lời cậu bé với đôi mắt ngơ ngác: - Chiếc xe cũ bán
rồi... Nhưng sao cậu bé này lại có cử chỉ và lời nói lạ lùng quá vậy?
Sau khi cha mẹ cậu bé
Titu kể hết mọi chuyện cho người đàn bà có tên là Uma nghe thì người đàn bà này
lại càng kinh ngạc hơn nữa...
Câu chuyện có thật này
mà báo chí Ấn đã đăng tải làm xôn xao mọi người và đã gây kinh ngạc cho giới
khoa học không ít. Tại Ấn Độ , tiến sĩ Narender Chadha (đại học Delhi) là giáo
sư chuyên nghiên cứu về các vấn đề khoa học và siêu hình đã lưu ý đến câu
chuyện này. Đặc biệt giáo sư Eminde ở Đại Học Virginia Hoa Kỳ cũng đã tìm gặp
gia đình cậu bé Titụ Điều kỳ lạ được phát hiện sau đó là vết đạn ở gần thái
dương nơi đầu cậu bé. Hỏi cha mẹ cậu thì từ ngày sanh ra cho đến lúc 5 tuổi,
cậu bé Titu không có một vết thương nào trên người do té ngã hay bị đâm, bắn gì
cả. Vết sẹo tìm thấy trên, theo lời kể của cha mẹ cậu bé, có ngay từ khi cậu bé
Titu chào đời.
Để chắc chắn hơn, các
nhà nghiên cứu đã đến ngay nhà hộ sinh ở làng Varkhe để yêu cầu được xem lại hồ
sơ sinh sản của cậu bé. Trong hồ sơ có ghi một câu "Cháu bé có vết sẹo lạ
Ở thái dương khi mới lọt lòng mẹ."
Lạ lùng hơn nữa là khi
được thân nhân đồng ý để cơ quan điều tra khai quật mộ chí của người chủ tiệm
Sresh Verma để khảo nghiệm tử thi thì thấy dấu vết viên đạn xuyên qua đầu ở
ngay vị trí tương ứng với vết sẹo xuất hiện nơi đầu cậu bé Titu...”
66. GIỚI TÍNH CỦA
CON NGƯỜI HIỆN TẠI LÀ DO NGHIỆP BÁO (Trích từ NHÂN QUẢ XUẤT THẾ GIAN của Thích
Chơn Quang)
“Vũ trụ là một cơ thể sống thống nhất với
nhau, trong đó mọi vật thể đều dường như có một sức sống thầm kín ẩn dấu bên
trong dù đó là chất hữu cơ hay chất vô cơ. Ngay cả sự bùng vỡ một tinh cầu cũng
chỉ là giai đoạn cho những sự sinh hóa kế tiếp theo sau của vũ trụ. Ngay cả một
chiếc lá vàng rơi rụng cũng không nằm ngoài tiến trình sống của vạn hữu. Tất cả
đều sống, đều sinh hóa vô tận.
Tuy nhiên, sự sống biểu
hiện rõ nét nhất nơi đời sống của sinh vật qua quá trình giao phối của hai giao
tử đực cái để cho ra đời những giống con tiếp tục duy trì chủng loại. Giao tử
đực có nhiệm vụ cung cấp cho đủ điều kiện để giao tử cái nuôi dưỡng phát triển
thai mầm lớn lên. Dường như giống cái có trách nhiệm nhiều nhất trong việc sinh
sản con cái. Giống đực chỉ có nhiệm vụ hỗ trợ ban đầu qua giao phối, có khi chỉ
để tìm khoái lạc cho bản năng. Một vài giống đực có giúp đỡ nuôi nấng vợ mình
trong quá trình thai sản. Một số khác chỉ cung cấp tinh trùng rồi chuồn êm,
không một chút bận tâm vì bổn phận.
Con người cũng vậy, tình
yêu và tình dục làm cho nam nữ gần gũi nhau để duy trì nòi giống. Người mẹ mang
nặng đẻ đau. Người cha làm lụng nuôi nấng. Đó là mẫu gia đình bình thường trong
xã hội. Nhưng sự khác biệt về vai trò, năng lực, quyền hạn giữa nam và nữ đã là
một vấn đề có ý nghĩa lớn. Một số dân tộc tôn trọng phụ nữ và một số khác thì
ngược lại. Thậm chí hiện nay tại một vùng quê ở Á Châu, nếu biết được đứa con
sẽ ra đời là con gái, người ta sẽ phá thai.
Trong kinh A Di Đà của
Phật giáo Bắc Phương, hình ảnh một thế giới lý tưởng là thế giới “không có
người nữ và không có đường ác”. Quan niệm trọng nam khinh nữ trở thành phổ biến
suốt các đại lục từ Trung Đông qua Châu Á. Điều này có thể giải thích theo luật
cung cầu. Dường như tỉ lệ người nữ luôn luôn cao hơn người nam trong cơ chế
nhiễm sắc thể khi thụ tinh. Tỉ lệ nhiễm sắc thể có dạng Y để tạo thành bào thai
nam luôn luôn thấp. Thêm nữa, người nam do có sức khỏe nên phải luôn luôn dự
phần vào chiến tranh và không tránh khỏi chết chóc. Điều này càng làm cho tỉ lệ
nam nữ mất cân đối hơn. Khi nữ nhiều nam ít sự phân biệt đối xử là một hệ quả
tất yếu buộc phải xảy ra. Giá trị người nữ trở nên thấp kém so với nam giới.
Người ta thành lập ngày phụ nữ 8-3, người ta đấu tranh đòi quyền bình đẳng cho
phụ nữ... Tất cả những điều đó càng chứng tỏ rằng thực sự phụ nữ đã từng bị
ngược đãi. Ngoài lý do cung cầu để giải thích sự phân biệt đối xử giữa nam và
nữ, người ta còn đưa ra một số lý do về tính khí. Người nữ được xem là hạng
người yếu đuối, ích kỷ, gian trá, thâm hiểm... Đến nỗi chữ “gian” của Trung
Quốc được ghép bằng ba chữ “nữ” lại với nhau.
Triết gia Schopenhawer
cay cú với người nữ không biết dường nào. Ông cho rằng: “Chỉ có một người đàn
ông bị mờ mắt vì sự thúc đẩy của xác thịt mới có thể tặng danh từ phái đẹp cho
cái giống người thấp bé, vai hẹp, mông rộng, chân ngắn kia, vì toàn thể vẻ đẹp
của giống này đều luôn kết chặt chẽ với bản năng tính dục. Thay vì gọi họ là
phái đẹp, để bảo đảm hơn, nên tả đàn bà là giống thiếu thẩm mỹ...” (Luận về đàn
bà)
Chỉ có luật Nghiệp Báo
thì vô tư công bình thoát ra ngoài các định kiến của con người. Nơi này người
đàn bà phải quy phục với đàn ông thì tại một nơi khác đàn bà là nữ hoàng. Nơi
này người đàn bà phải chiều chuộng chồng thì ở nơi khác người đàn bà được
galant hết mực. Có những người đàn ông phải đi ăn xin trong khi kẻ bố thí là
một phụ nữ giàu có sang trọng. Biết bao nhiêu sinh viên nam giới phải lẳng lặng
nghe lời giảng sâu sắc của một nữ giáo sư đại học. Biết bao nhiêu quyết định
sáng suốt của một lãnh tụ là do gợi ý của vị phu nhân ở phía sau... Dựa vào một
tiêu chuẩn nào đó để đánh giá giá trị hơn kém giữa người nam và người nữ là một
điều thiên lệch bất công.
Trên bất cứ lãnh vực
nào, nữ cũng như nam đều có khả năng đạt đến như nhau. Mặc dù tỉ lệ thành công
của người nam cao hơn người nữ rất nhiều. Số lãnh tụ nam, bác học nam, nghệ sĩ
nam luôn luôn đông hơn nữ. Một lý do vô cùng đơn giản là vì người nam không bị
gián đoạn bởi quá trình thai sản. Thời gian mang thai và chăm sóc trẻ con đã
làm gián đoạn sự nghiệp của người nữ, khiến cho họ không thể nào thành công như
người nam. Nhiều công trình đang thực hiện phải dang dở. Nhiều khóa học phải bỏ
ngang. người nữ đã khiêm tốn nhận lấy trách nhiệm nuôi dạy con để cho người nam
được liên tục trong quá trình tạo nên sự nghiệp. Sự thành công của người nam
chính là phần nổi của tảng băng rất dễ trông thấy, trong khi phần chìm ở dưới
là công lao của người nữ. Chính Đức Phật , giữa một xã hội Ấn Độ trọng nam
khinh nữ, cũng nói rằng: “Có nhiều người nữ còn tốt hơn người nam”.
Tuy nhiên, một số sai
biệt căn bản sau đây vẫn là tiêu chuẩn thông thường giữa nam và nữ.
Một là sức khỏe. Tính
trung bình sức khỏe của nam giới vượt hơn nữ giới. Vì thế, tiêu chuẩn thi đấu
thể thao của nữ luôn luôn được đòi hỏi thấp hơn của nam. Hai là vóc dáng. Trung
bình vóc dáng người nữ nhỏ nhắn hơn người nam. Nếu đi sâu vào phân tích giải
phẫu cơ thể thì còn rất nhiều điểm khác biệt, bên cạnh hình thể, âm thanh người
nữ cũng khác với người nam. Ba là tâm lý. Tính chất đặc trưng của người nữ là
kín đáo, rụt rè, kiên nhẫn, dễ xúc động, đa cảm, nhẹ về lý trí, trực giác mạnh.
Đôi khi người ta còn gán cho người nữ tính ích kỷ, hẹp hòi. Bốn là sinh lý.
Sinh lý giữa nữ và nam có rất nhiều sai biệt để mỗi bên có thể thực hiện chức
năng của mình. Các nội tiết tố, các thời kỳ hành kinh, cấu tạo não, tổ chức
sinh dục... làm phân biệt rõ nét hai giới tính.
Nhưng ngoài cấu tạo sinh
lý, những tiêu chuẩn khác không lấy gì làm cố định. Có những người nam mang
nhiều tính chất của người nữ và ngược lại, cũng có những người nữ mang tính
chất của người nam. Có những người nam yếu đuối, rụt rè, ích kỷ và cũng có
những người nữ mạnh bạo, phô trương, rộng rãi. Rất là dễ dàng để cho một người
bị chuyển giới tính khi sinh sang một đời sống mới.
Nếu một người nam có tư
tưởng khinh thường người nữ, có hành vi hạ thấp nhân phẩm phụ nữ. Kiếp sau, anh
ta sẽ sinh làm người nữ trong một xã hội có truyền thống trọng nam khinh nữ để
anh ta phải chịu đựng lại những đau khổ mà anh ta từng gây ra cho nữ giới. Hoặc
một chàng trai đa tình, suốt đời dẫm lên không biết bao nhiêu cuộc đời của phụ
nữ, kiếp sau anh cũng sẽ làm được người nữ để chịu đựng sự bạc tình của người
khác. Ngay cả một người chồng tốt, chung thủy với vợ, nhưng đã làm cho vợ sinh
đẻ quá nhiều. Kiếp sau anh cũng có thể trở lại làm người nữ để chịu đựng cái
cảnh mang nặng đẻ đau đầy ý nghĩa.
Thông thường, một người
nam chuyển thân làm người nữ vẫn còn giữ lại nhiều tính chất của người nam như
cứng rắn, dạn dĩ, xốc vác. Đôi khi họ tự cảm thấy bực bội vì thân thể nữ giới
của mình. Ngược lại, có những người nữ hăng hái làm việc từ thiện xã hội, xông
xáo vào nơi nguy hiểm để cứu giúp nạn nhân, trong tâm thích được làm người nam
để tiện làm việc thiện. Đời sau họ sẽ chuyển thân nam để tiện làm việc thiện,
nhưng vẫn còn phảng phất một số tính chất của người nữ như dáng đi mềm mại,
giọng nói trong thanh.
Có một số người chuyển
giới tính ngay trong kiếp hiện tại. Đang là người nam, bỗng nhiên họ dần dần
xuất hiện tính chất của người nữ như đổi giọng nói, ngực và mông to ra, vai và
eo nhỏ lại. Hoặc một số người không bị biến dạng về hình thể nhưng luôn luôn
mang một ý nghĩ mạnh mẽ rằng mình là người nữ, và đem lòng thương yêu những
người nam (hiện tượng pede). Sự chuyển đổi giới tính này đều có nguyên nhân từ
quá khứ. Hoặc là họ đã đủ duyên để làm nữ, khiến cho nghiệp thúc đẩy tâm lý,
sinh lý (tuyến nội tiết) hoặc phẫu thuật đưa họ sang nữ giới ngay trong hiện
tại. Hoặc sự trêu chọc kẻ ái nam ái nữ cũng tạo thành quả báo lưỡng tính không
rõ rệt nơi một người.
Thường thì người nữ
nhiều tình cảm hơn người nam, do đó, dường như người mẹ thương con nhiều hơn
người cha. Tình thương của người mẹ là một hình ảnh đẹp đẽ muôn đời được loài
người ca ngợi. Chính tình thương con sâu đậm của người mẹ làm cho người mẹ được
phước rất nhiều mà đôi khi người cha không bằng được. Đó là nói trong phạm vi
gia đình. Nhưng khi bước sang lãnh vực xã hội, người nam với tính chất hào
phóng, gan dạ, xông xáo... đã chiếm ưu thế, đã đóng góp được nhiều công sức hơn
người nữ, và do vậy, phước cũng nhiều hơn.”
67. TÌNH CẢM CỦA
CON NGƯỜI VỚI NHAU LÀ DO NGHIỆP BÁO (Trích từ NHÂN QUẢ XUẤT THẾ GIAN của Thích
Chơn Quang)
“Con tim có những lý lẽ mà lý trí không hiểu
nổi” Một triết gia phương tây đã nói như vậy. Đúng! Ý thức dường như không hiểu
hết sự hoạt động của tình cảm thương ghét trong lòng mình. Tại sao vừa gặp một
người lạ, tâm ta chợt xuất hiện ác cảm. Chợt nhìn thấy một hình bóng xa xa,
lòng ta rộn lên niềm cảm xúc. Ý thức chưa kịp nói năng gì thì tình cảm đã rộn
ràng múa may quay cuồng kêu réo.
Các nhà khoa học đã tìm
thấy hoạt chất ảnh hưởng lên tình cảm của con người. Ví dụ bác sĩ Liebowitz tìm
thấy khi não bộ sản xuất ra chất Pheniletilamin thì tình yêu mến tự nhiên dâng
trào trong lòng. Một số tình cảm thù ghét, bực bội khó chịu cũng đều liên quan
đến các hoạt chất trong cơ thể. Có thể sự tương quan có tính cách hai chiều. Vì
tình cảm khởi dậy nên hoạt chất phát sinh, và ngược lại, khi hoạt chất phát
sinh (hoặc do tiêm chích) thì tình cảm khởi dậy. Người ta tiêm một hoạt chất
thúc đẩy tình thương con vào chuột mẹ thì thấy tình thương của con chuột này
tăng lên rõ rệt đối với bầy con của nó. Hoạt chất này xuất hiện rất nhiều khi
người phụ nữ sinh nở. Đó là nguyên nhân gần tác động lên tình cảm của sinh vật.
Nguyên nhân sâu xa vẫn còn dấu trong luật Nghiệp Báo.
Một nguyên nhân gần khác
đáng được lưu ý là do tâm lý phát sinh tình cảm. Ví dụ khi một chàng trai nhìn
thấy một cô gái đẹp, một minh tinh màn bạc, một cô tiểu thư nhà giàu, một cô
gái thông minh tài giỏi... Lòng anh ta cũng phát sinh một tình cảm ưu ái và
muốn chiếm đoạt về mình. Tình cảm ưu ái đó phát xuất từ tâm lý vị kỷ cố hữu của
con người luôn luôn muốn quơ quào về cho mình thật nhiều mọi cái gì tốt đẹp
trên thế gian. Tình cảm ưu ái đó là hệ quả của tâm lý tham lam mà thôi!
Trong trường hợp khác,
một số cô gái bỗng cảm thấy khó chịu với thí sinh vừa đạt danh hiệu hoa hậu
quốc gia. Tình cảm ganh ghét này là hệ quả của tâm lý đố kỵ thầm kín giữa phái
nữ với nhau, đó là chuyện thường tình. Có khi một thiếu phụ tìm cách chiếm đọat
tình cảm của một người đàn ông nhưng không thành công. Từ yêu mến, bỗng bà ta
trở nên thù hận cực điểm và tìm cách trả thù cho hả dạ. Như vậy tình cảm yêu
mến hay hận thù của người đàn bà này hoàn toàn chỉ là tâm lý ích kỷ tham lam,
không phải là tình yêu thương chân thật. Khi khảo sát về tình cảm thương ghét
của con người, chúng ta nhận thấy rằng tất cả đều xuất phát từ tâm lý vị kỷ.
Cái gì thỏa mãn được lòng tham muốn, sự ưa thích sẽ phát sinh. Cái gì ngăn cản
lòng ham muốn, sự thù ghét sẽ xuất hiện.
Tình cảm con người chỉ
là một trò lừa dối của chấp ngã bí ẩn phía sau. Chính vì nhìn thấy bản chất
thật sự của tình cảm này mà các bậc thánh nhân luôn luôn kêu gọi một tình
thương không điều kiện, một tình thương không đòi hỏi cho tự kỷ, chỉ thuần có
ban phát và hy sinh, một tình thương hoàn toàn vô ngã. Tuy nhiên để vuợt qua
được ngã chấp sâu kín từ trong bản năng vô thức (xem Năm ám là gì), chúng ta
phải khổ công thực hành thiền định đúng phương pháp. Quả thật không dễ dàng
chút nào khi một người muốn vuợt khỏi ngã chấp để đạt được một tâm đại bi vô
lượng trùm phủ thương yêu tất cả mọi người. Tâm đại bi đó mới là tình thương
yêu chân thật, hoàn toàn hy sinh cho tha nhân mà không mong mỏi điều gì trở lại
cho tự kỷ. Đối với hạng phàm phu như chúng ta, điều quan trọng là cố gắng kiểm
soát tâm lý tham lam ích kỷ của mình, phải tự xét nét kỹ lưỡng xem sự thương
yêu của mình đối với mọi người có ẩn chứa một mưu tính, một sự trục lợi nào ẩn
dấu sâu kín bên trong hay không. Bởi vì chúng ta hầu như chỉ thương yêu cái gì
đem lại lợi ích cho mình. Không có lợi ích cho mình, tình thương sẽ vắng bóng
(!) Ai mưu hại ta, ta sẽ ghét họ. Ai giúp đỡ ta, ta sẽ thương họ. Đó là quy
luật thường tình mà tất cả mọi người không thể vựợt qua nổi. Chúng ta muốn đi
tìm một chân lý cao cả, một con đường hướng thượng bao la. Hãy cố gắng thứ tha
và “thương yêu kẻ thù ghét mình” (Phúc Âm) và thương yêu kẻ tích cực giúp đỡ
mình sau khi đã gạn lọc xong tâm lý “vì họ đem lại lợi ích cho mình”. Ngoài
những nguyên nhân gần, tình cảm còn xuất phát từ nghiệp duyên trong quá khứ.
Một hòa thượng được một
gia đình thí chủ thỉnh về cung dưỡng trân trọng đầy đủ để hòa thượng yên tâm tu
hành. Sau một thời gian dài hai bên trở nên thù ghét nhau dữ dội và hoà thượng
phải ra đi. Nguyên nhân được tìm thấy là từ đời trước gia đình kia chịu ơn với
hòa thượng nên đời này phải cung phụng để đền trả. Dĩ nhiên trước khi thỉnh hòa
thượng về họ phải khởi lên tình cảm kính thương sâu đậm với hòa thượng. Sau khi
trả xong món nợ quá khứ, họ cảm thấy hòa thượng là một gánh nặng đối với gia
đình. Tình cảm ưu ái biến mất, sự ghét bỏ thế chỗ, và rồi hòa thượng phải ra
đi. Như vậy tình cảm đời này có khi xuất phát từ một món nợ của quá khứ. Khi
thấy ai tự dưng yêu mến giúp đỡ mình, chúng ta đừng vội cho mình có nhiều ưu
điểm. Có khi chỉ vì họ mắc một ân nghĩa gì đó và đang trong thời gian đền trả.
Trả xong, tình cảm sẽ biến mất. Hiểu được điều này chúng ta sẽ giữ được bình
thản khi thấy con người khi thì vồn vã với nhau, khi thì hờ hững với nhau.
Tương tự những lời nói
công kích sỉ nhục từ kiếp trước, sự giết hại chiếm đoạt từ quá khứ cũng gây ra
tâm lý thù ghét của nạn nhân trong đời này. Chúng ta lỡ lời làm mất thể diện
của một người. Rồi chuyện trôi vào quên lãng. Nhưng qua kiếp sau, vừa trông
thấy mặt nhau, tâm người kia bỗng khởi lên một sự ác cảm kỳ lạ đối với ta mà
chính họ cũng không biết tại sao. Cũng chưa hẳn là sự ác cảm của họ sẽ gây ra
phiền toái cho chúng ta, nhưng dù sao ác cảm vẫn còn đó. Vì thế trên bước đường
luân hồi vô tận này, chúng ta hãy cố gắng tránh né làm phật lòng, xúc phạm đến
người khác để tránh được oán thù về kiếp sau.
Hầu hết các nhân vật nổi
tiếng giữa xã hội như các nhà chính trị thành công được nhiều người ưa thích
hâm mộ. Nguyên nhân của sự hâm mộ này có thể bắt nguồn từ sự ban ân rộng rãi từ
những kiếp trước. Quá nhiều người đã thọ ân của họ nên đời sau buộc lòng phải
ủng hộ cho họ đạt đến địa vị trên chính trường thông qua lá phiếu hay một cách
thức vận động nào khác. Chưa hết, nếu trong thời gian làm chính trị, họ giữ
được uy tín, tình cảm của quần chúng sẽ còn kéo dài qua nhiều kiếp sau nữa.
Khi so sánh cuộc đời của
vua nhạc Rock Elvis Presley, các nhà sử học rất ngạc nhiên khi thấy gương mặt
của Elvis Presley giống hệt như bức tượng của một vị vua Ai Cập thời xưa. Vì
vua Ai Cập này đã sống ở một địa danh tên là Memphis ở Ai Cập. Trong khi Elvis
sống tại Memphis ở Mỹ. Vị vua Ai Cập này tôn thờ Thần Mặt Trời để thay thế các
thần linh khác, trong khi Elvis trở nên nổi tiếng với băng nhạc “Sun” (mặt
trời) đầu tiên. Elvis Presley được sự hâm mộ của công chúng, đến nỗi sau khi
chết, anh được mọi người yêu cầu tổng thống Carter phải tổ chức quốc tang trọng
thể. Có thể nào cái dư hưởng làm vua từ quá khứ xa xăm vẫn còn đọng lại trên
tâm tình của quần chúng, mặc dù bây giờ Elvis Presley đã trở thành một vị vua
mới, Vua nhạc Rock chăng? Trong luật Nghiệp Báo, một ông vua vẫn có thể trở
thành nghệ sĩ nếu trong thời gian trị vì ông đã từng ưu đãi giới nghệ sĩ quá
mức. Sau này ông sẽ trở thành nghệ sĩ để được ưu đãi trở lại.
Có hai nguyên nhân dẫn
đến sự thu hút tình cảm của mọi người (dành cho mình):
Một, đó là người có tâm
từ ái rộng lớn, luôn luôn biết thương yêu, đối xử tử tế, hòa nhã với mọi người.
Kiếp sau họ có khuôn mặt hiền lành, phúc hậu khả ái kỳ lạ, bất cứ ai vừa trông
thấy đều cảm mến.
Hai, đó là người siêng
năng làm việc từ thiện bằng lý trí. Tâm hồn họ không có nhiều tình cảm nhưng lý
trí họ rất sáng suốt, luôn luôn chịu khó tích lũy phước thiện, luôn luôn chịu
khó giúp đỡ mọi người. Đời sau họ cũng được nhiều người (đã thọ ân) yêu mến mặc
dù gương mặt họ có vẻ cứng cỏi khôn ngoan chứ không có vẻ hiền lành tự nhiên
như trường hợp thứ nhất.
Có một loại tình cảm
được đề cập đến nhiều nhất trong tất cả tác phẩm văn hóa của nhân loại đó là
tình yêu nam nữ. Có lẽ đây là loại tình cảm mãnh liệt hơn các loại tình cảm
khác bởi vì nó liên quan đến bản năng sâu kín của con người. Thứ nhất con người
luôn luôn muốn chiếm đoạt về mình mẫu người có thể đem lại hạnh phúc cho mình
(tâm lý vị kỷ). Đó là mẫu người đẹp đẽ, có tài năng, có tiền bạc, đối xử tế
nhị. Thứ hai, tình cảm nam nữ có sự thôi thúc âm thầm của hoạt động tính dục,
một loại hoạt động gây khoái cảm xác thịt rõ rệt nhất. Ngoài những nhu cầu về
ăn uống, tổ chức sinh lý của con người đã sắp sẵn một sự đòi hỏi để được thỏa
mãn về khoái cảm tính dục. Vì thế người nam và nữ luôn luôn tìm kiếm đối tượng
thích hợp để trao đổi khoái cảm này. Có khi tình yêu và hôn nhân dẫn đến hoạt
động tính dục. Có khi họ đến với nhau vì khoái cảm và mua bán mà thôi. Dù sao
thì duyên nghiệp từ quá khứ cũng đã chi phối cho loại tình cảm này.
Nếu quả thật có duyên
nợ, hai người sẽ yêu nhau chân thành và đi đến hôn nhân để trả xong nợ quá khứ
(và tiếp tục gây nợ mai sau) Nếu không có nợ, chỉ có duyên, họ sẽ yêu nhau qua
một giai đọan, rồi trắc trở, tình cảm phai nhạt dần theo năm tháng. Đôi khi chỉ
có tình yêu đơn phương. Người này mơ tưởng đến người kia nhưng không được đáp
lại. Họ tìm thấy người kia những tiêu chuẩn về sắc đẹp, tư cách thích hợp, muốn
người kia trở thành của mình, nhưng từ kiếp trước đã không có duyên nên họ
không nhận lại một sự đáp ứng nào cả. Nhưng rồi tình yêu cũng chỉ là bề mặt của
bản chất ích kỷ, hưởng thụ của con người. Chính bản năng hưởng thụ đã thúc đẩy
nam nữ tìm đến nhau, thì nó cũng thúc đẩy họ làm khổ lẫn nhau. Biết bao chuyện
vợ chồng gây gổ, đánh đập, bao nhiêu chuyện ngoại tình, giết hại lẫn nhau bỏ
mặc con cái bơ vơ đau khổ. Nếu bên cạnh tình yêu, họ có thêm chút tình thương chân
chính của sự hy sinh, độ lượng, vị tha, tình yêu đó khả dĩ bớt đi màu sắc ảm
đạm của bản năng ích kỷ. Họ biết tha thứ, thông cảm lẫn nhau để cùng xây dựng
hạnh phúc. Nếu thiếu tình thương chân chính, một mình tình yêu chỉ là hiện thân
của cảm xúc, tính dục và vị kỷ. Thời đại hôm nay vợ chồng dễ ly dị, dễ ngoại
tình, dễ hành hạ nhau bởi vì tình yêu của họ thiếu tình thương vị tha chân
chính. Rồi sự ngoại tình, ly dị làm khổ con cái, hành hạ làm khổ nhau sẽ gây
thành nghiệp nhân không tốt cho đời sau. Chiếm vợ người dễ bị người chiếm vợ
lại. Hành hạ vợ mình sẽ bị đọa làm người nữ để bị hành hạ trở lại. Ly dị, bỏ
rơi con cái sẽ trở thành mồ côi ở đời sau.
Có lẽ Schopenhower đã có
lý khi nói rằng: “Chỉ có những triết gia chân chính mới sống hạnh phúc trong
cuộc sống hôn nhân, nhưng tiếc thay, nếu là triết gia chân chính, họ sẽ không
bao giờ lập gia đình.”
Ngay trong gia đình
chúng ta cũng thấy tình thương của cha mẹ với con cái cũng không được đồng đều.
Có người con được cha mẹ ưu tiên thương yêu nhiều. Bên cạnh đó là người con bị
lơ là ít chú ý. Tất cả đều do ân nghĩa trong quá khứ nhiều hay ít mà thôi. Cha
mẹ mang nặng ân nghĩa với người con nào sẽ thương mến người con đó nhiều hơn.
Cũng có trường hợp trong
gia đình một đứa con bị ghét thậm tệ, bị đánh đập mắng nhiếc thường xuyên, mặc
dù nó là đứa con ruột. Đây chỉ là sự trả thù trở lại. Kiếp trước, khi từng là
cha mẹ, nó đã đối xử tàn tệ với con cái của mình. Kiếp này duyên nghiệp đưa đẩy
nó rơi vào gia đình có bậc cha mẹ thô lỗ, cộc cằn, hung bạo để nó phải chịu
đựng trở lại nỗi khổ mà nó đã gây ra cho người khác. Đi tìm sự bình đẳng đồng
đều trong cuộc đời này là việc làm không tưởng bởi vì nghiệp duyên của mọi
người không đồng nhau. Kẻ phước nhiều, người phước ít, tất cả đều sai biệt.
Người có phước luôn luôn thu hút sự chú ý thương mến của mọi người, trong khi
kẻ thiếu phước ít khi nhận được cái nhìn nồng nàn của mọi người, huống nữa là
nhận được sự đối xử ưu ái. Ngay cả một số tu sĩ cũng bị phê phán là đã vồn vã
với kẻ giàu và thờ ơ với kẻ nghèo. Họ vẫn khó giữ được sự đối xử bình đẳng với
tất cả mọi người tìm đến nguồn an ủi nơi tín ngưỡng chỉ bởi vì phước của tín đồ
đã sai biệt nhau quá nhiều. Chỉ có những tu sĩ đạt được một đạo lực thâm sâu,
đủ sức vượt lên trên nghiệp sai biệt của mọi người mới có thể đối xử bình đẳng
với tất cả mọi người. Họ sẽ không thờ ơ với kẻ này và ân cần với kẻ kia. Tất cả
đều được thương mến như nhau. Như vậy, bình đẳng là một “thái độ đạo đức” tự
giác của mỗi người chứ không phải là một cơ chế san bằng quyền lợi. Sự san bằng
quyền lợi không phải là bình đẳng. Chúng ta cần phân biệt kỹ về ý nghĩa của hai
phạm trù này.
Chúng ta kêu gọi một xã
hội bình đẳng có nghĩa là chúng ta kêu gọi con người phát huy được đạo đức cao
độ để có thể đối xử ưu ái với kẻ có phước cũng như người thiếu phước, chứ không
phải bình đẳng là san bằng quyền lợi của mọi người như nhau. Vì sao, vì kẻ đóng
góp được nhiều công sức hiệu quả cho xã hội bắt buộc phải được hưởng quyền lợi
nhiều hơn. Sự san bằng quyền lợi là sự bất công, làm giảm mất sự hứng thú lao
động của mọi người và kéo xã hội về sự thoái bộ. Không ai chấp nhận kẻ lười
biếng, kém tài năng được hưởng quyền lợi ngang với kẻ siêng năng giỏi giắn. Còn
bình đẳng là “đạo đức trong giao tiếp” nó giúp cho chúng ta lịch sự, lễ độ, tôn
trọng với tất cả mọi người.
Tuy nhiên, để thực hiện
được điều này, đòi hỏi chúng ta phải đạt được chiều sâu thiền định, tâm được
thanh tịnh để thoát khỏi sự cuốn hút bởi phước nghiệp sai biệt của mọi người.
Người có phước sẽ cuốn hút chúng ta nhiều hơn kẻ thiếu phước. Chúng ta phải đủ
đạo lực để thoát khỏi sự thu hút bí ẩn này, để giữ được tình thương bình đẳng
với tất cả mọi người.
Tình cảm cũng có khuynh
hướng lập lại. Với những người đã từng thương mến nhau từ kiếp trước, kiếp này
gặp lại, tình thương mến dễ dàng phát sinh. Đôi khi hai người đã từng là vợ
chồng. Kiếp này duyên nợ làm vợ chồng đã hết, nhưng khi gặp nhau, họ vẫn khởi
lên một tình cảm nồng nàn khó diễn tả mặc dù vẫn phải xa nhau.
Tương tự như vậy đối với
tình anh em, bạn bè, cha con và thầy trò. Có tu sĩ cảm thấy quí mến một vài tín
đồ và muốn họ trở thành đệ tử xuất gia với mình. Nhưng duyên thầy trò là duyên
nhiều đời không thể gượng ép. Không có duyên sâu dày với nhau, người đệ tử này
cũng sẽ bỏ tìm thầy khác. Hiểu được điều này, một vị thầy luôn luôn bình thản
trước các kẻ đến xin học đạo, vì trong số đó, không phải ai cũng là kẻ có duyên
làm đệ tử gắn bó suốt đời.
Tóm lại tình cảm là kết
quả của nghiệp duyên quá khứ, là hệ quả của những tâm lý ích kỷ thầm kín bên
trong. Điều chúng ta cần phải nhắm đến là loại tình thương đại bi trùm phủ tất
cả mọi người. Tình thương đó không xuất phát từ bản năng vị kỷ và vượt khỏi
duyên hệ lụy của nhiều đời. Nếu nhiều người trên cuộc đời này có thể trừ diệt
bớt bản năng vị kỷ của mình, họ sẽ là những người góp phần tạo nên một khuôn
mẫu tốt đẹp cho cộng đồng thế giới, đó là sự đoàn kết.
Do bản năng vị kỷ, con
người có tính tỵ hiềm, chia rẽ, hơn thua, luôn luôn đi tìm sự độc tôn cho mình
và đè bẹp kẻ khác. Người ta hơn thua với nhau trong từng lời nói. Các giáo phái
không tiếc lời chỉ trích lẫn nhau. Các thế lực chính trị dùng mọi thủ đoạn để
tiêu diệt lẫn nhau. Ngay trong cùng một mái nhà, anh em cũng tranh giành, trong
một hội đoàn, hội viên cũng ganh tị. Ai cũng muốn mình hơn hẳn mọi người về tài
sản, địa vị và danh tiếng.
Thế giới này là bức
tranh đậm nét của sự chia rẽ. Các tập đoàn kinh tế triệt hạ lẫn nhau. Các bang
chủng ly khai với nhau. Có khi vì vấn đề ngôn ngữ bất đồng, một vài tỉnh cũng
đòi ly khai khỏi cộng đồng quốc gia. Nước nào cũng muốn cho ngôn ngữ của nước
mình trở thành ngôn ngữ thế giới.
(…) Có một vài người mắc
loại bệnh tâm lý kỳ lạ là thích ly gián. Thấy những kẻ khác thân ái với nhau,
họ bèn tìm cách châm ra chọc vào để gây sự nghi kỵ, chia rẽ. Dường như bệnh tâm
lý này phát sinh từ một uẩn khúc sâu kín trong vô thức là mặc cảm cô độc. Họ bị
cô độc, bị bỏ quên và không muốn ai hợp đoàn vui vẻ. Nhưng càng gây nhân như
thế, họ sẽ càng bị đơn độc, lẻ loi, đau khổ nhiều hơn nữa.
Thế giới đã trở nên nhỏ
bé. Sự tương quan giữa cộng đồng nhân loại càng lúc càng chặt chẽ. Con người
cần đoàn kết, cần chấm dứt sự chia rẽ. Quả báo lành lớn lao sẽ chờ đợi những ai
đóng góp được cho tình đoàn kết.”
68. PHẬT GIÁO VỚI
QUAN NIỆM PHÙ HỘ ĐỘ TRÌ
Việt Nam là
một dân tộc lấy đạo hiếu làm đầu nên tín ngưỡng thờ cúng, nhất là thờ cúng gia
tiên được dân gian tín trọng.
Với người Việt, cái chết
chỉ chấm dứt sự tồn tại và hoạt động của thể xác con người còn linh hồn người
chết sẽ luôn hiện hữu và có “mối liên hệ vô hình” với các thành viên trong gia
đình, theo dõi và bảo trợ cho người thân tránh rủi ro, bất trắc, gặp được điều
may mắn. Vì quan niệm như thế nên người Việt lập bàn thờ để cúng lễ tổ tiên,
làm nơi trú ngụ cho linh hồn người chết, đồng thời cũng cầu mong sự phù hộ độ
trì của người đã chết cho những người còn sống; coi đấy như là thước đo về đức
hiếu - nghĩa của con người.
Tín ngưỡng trong văn hóa
của người Việt là như vậy, còn quan điểm của Phật giáo thì sao? Phật giáo có
cho rằng người đã chết sẽ phù hộ độ trì cho người còn sống gặp điều may mắn,
“thoát khỏi bể khổ trần ai” như tín ngưỡng của người Việt?
Chúng ta đều biết: Tư
tưởng của Phật giáo là tư tưởng vô thần, phủ nhận hoàn toàn thuyết
Thiên mệnh, hơn nữa, Phật giáo chủ trương: Con người và chỉ có con người
mới thực sự là người ban phúc giáng họa cho chính mình. Sự cầu cạnh, van xin ở
người khác hoặc nơi thần linh, nếu có được cũng chỉ là phần không đáng kể, chỉ
có tâm niệm, hành động hướng thiện mới mang lại hạnh phúc cho bản thân. Ngược
lại, một tâm niệm ác, một hành động xấu sẽ tự chuốc lấy kết quả đau khổ
về cho mình. Chính với quan điểm con người làm chủ mọi quả báo của
mình nên Phật giáo không chấp nhận quan điểm cho rằng linh hồn người đã chết
vẫn còn tồn tại, vẫn giữ “mối liên hệ vô hình” và phù hộ độ trì cho quyến thuộc
hiện tại (những người còn sống) được bình an, hưởng lạc.
Phật giáo cho rằng đã là
chúng sinh thì phải trải qua vòng luân - hồi - sinh - tử và cái sự “chết” kia
không phải là sự “sống gửi thác về” như quan niệm dân gian của người Việt, mà
là bước kế tiếp của sự chuyển kiếp. Sau khi chết, tùy theo nhân
thiện, nghiệp ác lúc còn sống và nhân duyên của các kiếp trước mà
người đã chết sẽ được sinh vào cõi người, cõi trời hay bị đọa vào địa ngục. Nếu
bị đọa vào địa ngục thì phải chịu quả báo của nghiệp ác khi còn sống, sự quả báo
(bị trừng phạt) ấy nặng hay nhẹ, nhanh hay lâu phụ thuộc vào nghiệp ác tạo
ra lúc còn sống ở kiếp người. Do vậy, người đã chết dù thế nào cũng không thể
trở về “dương gian” để phù hộ độ trì cho người đang sống.
Trái với quan điểm của
khá nhiều tôn giáo và đạo giáo khác (trong đó có tín ngưỡng của người Việt) là
tin vào chuyện người chết sẽ có những tác động, ảnh hưởng tới cuộc sống của
người trần tục, Phật giáo đưa ra quan điểm: Người đã chết không thể phù hộ độ
trì cho quyến thuộc còn sống mà chính những quyến thuộc (hiện tại) còn sống,
bằng nhân thiện, hành thiện của mình đang làm sẽ ảnh hưởng tới “quả
báo” của người đã khuất.
Trong Kinh Địa
Tạng, khi nói về Lợi ích người còn kẻ mất, có đoạn viết:
“Các chúng sinh đã làm ác, lúc sắp chết cha mẹ bà con nên vì những người
đó mà tu tạo Phúc Đức để giúp cho đời sau của họ. Như treo tràng phan, bảo cái
và đốt đèn, hoặc tôn kính tượng đọc kinh trang, hoặc cúng dường tượng Phật, lại
trì niệm danh hiệu Phật, danh hiệu Bồ Tát.
(...) Sau khi người đó chết rồi, trong bảy tuần bảy
ngày, lại vì người đó làm nhiều việc thiện thì có thể làm cho người ấy thoát
hẳn đường ác, được sinh lên cõi trời (...) quyến thuộc hiện tại cũng được lợi
ích vô cùng.
(...) Trong ngày có người thân sắp chết phải hết sức thận
trọng, chớ sát hại sinh vật và làm những chuyện ác như: Lễ quỷ thần, cầu cúng
yêu quái. Tại sao vậy? Vì những sự sát hại và cúng tế đó không có một mảy may
năng lực nào lợi ích cho ngwời sắp chết mà lại còn kết thêm tội duyên sâu nặng
hơn. Giả sử người sắp chết kia, đời nay lúc này còn sống hoặc ngay đời sau có
được những nhân duyên thánh thiện, đáng sinh vào cõi người hay vào cõi trời,
nhưng vì trong lúc sắp chết, bị quyến thuộc làm những nhân ác nói trên, nên
khiến cho người ấy vạ lây, phải biện bạch đối chứng mãi, thành chậm trễ sinh
vào chỗ tốt lành. Huống chi người sắp chết kia, lúc sống chưa từng có chút
thiện căn thì cứ theo nghiệp dữ đã làm mà tự chịu lấy quả khổ ở đường ác. Vậy
nỡ nào mà quyến thuộc lại làm tăng thêm tội cho họ nữa.”.
Có thể nói ở điểm này,
Phật giáo hơn hẳn nhiều tôn giáo khác về tính nhân văn và đạo lý làm người, phù
hợp với nếp sống tình cảm của người Việt. Ai trong chúng ta cũng vài lần trong
đời từng được nghe những lời ca thán: “Rõ khổ, ông ấy chết rồi mà chẳng được
yên” hay “người sống làm nhục vong linh người chết” khi thấy cảnh đau lòng:
Người còn sống làm mất gia phong do tổ tiên để lại.
Giáo lý nhà Phật không
chấp nhận việc phù hộ độ trì cho những người còn sống của những người đã khuất
mà đi vào đề cao việc người còn sống phải lo làm việc thiện, tạo ra những duyên
thiện để trước hết tạo ra thiện căn cho chính bản thân mình, sau đó làm giảm
bớt nghiệp ác mà người thân khi còn sống vướng phải. Phật giáo chỉ thừa nhận ở
một chừng mực nào đó, Phật tử sẽ nhận được sự phù hộ độ trì của Trời, Phật, Bồ
Tát... khi Phật tử là người có thiện căn.
Quan điểm của Phật giáo
về vấn đề này, dù có khắt khe đến mấy chúng ta cũng phải thừa nhận đây là quan
điểm đầy tính nhân bản. Quan điểm đó giáo dục mọi người phải không ngừng vươn
tới Chân - Thiện - Mỹ để hoàn thiện và làm đẹp thêm nhân cách của
mình. Quan điểm đó nhắc nhở mọi người không chỉ sống xứng đáng với truyền thống
của cha ông mà còn phải “phát tiết” những giá trị đạo đức, những tinh hoa mà
cha ông đã xây dựng, gìn giữ, để người đương thời phải thừa nhận: Con hơn cha
vì nhà có phúc.
.
69. 12 LOẠI QUẢ BÁO
THEO QUAN NIỆM CỦA PHẬT GIÁO
Theo phật giáo, nhân là
nguyên nhân, quả là kết quả. Nếu nhân là hạt giống thì quả là mầm cây. Nếu nhân
là mầm cây thì quả là sự đơm hoa kết trái...
Mỗi hiện tượng vừa là
nhân mà cũng vừa là quả. Tương quan nhân quả ấy gọi là tương quan duyên sinh và
đã được Đức Phật nói đến qua giáo lý duyên khởi. Từ nhân đến quả phải trải qua
một quá trình chịu sự tác động và ảnh hưởng to lớn của các yếu tố (gọi là
duyên) theo một tiến trình tất yếu (nhân - duyên - quả). Vì vậy, tùy thuộc vào
sự tác động mạnh hay yếu, thuận hay nghịch của các duyên mà cho kết quả sớm hay
muộn, xấu hay đẹp.
Do tiến trình diễn tiến
của nhân quả xảy ra không đồng nhất trong một khoảng thời gian nhất định,
nên người ta có sự phân loại tính chất của nhân quả theo thời
gian như sau :
1. Hiện báo: Ðây là quả báo
trong kiếp hiện tại, ví như anh gây gổ với người khác thì bị người khác đánh
lại, anh vi phạm pháp luật thì bị pháp luật trừng trị... có nghĩa quả báo này
mau lẹ, không đợi đến thời kỳ sinh trái, mà đã phát lộ trong thời kết bông. Quả
báo này gọi là hiện báo hoặc hoa báo. Vì thế, tục ngữ mới có câu: “Ðời xưa trả báo thì chầy. Ðời nay trả báo
một giây nhãn tiền”
2. Sinh báo: Sinh báo là gây
nhân kiếp này nhưng đến đời kế sau mới chịu quả báo. Trong kinh có câu: “Muốn biết nhân kiếp trước, hãy xem sự thọ
hưởng đời nay. Muốn rõ quả kiếp sau, nên xét sự tạo tác trong hiện tại”.
3. Hậu báo: Ðây là nói sự gây
nhân trong kiếp này, nhưng phải đến ba, bốn, trăm, ngàn, thậm chí đến vô lượng
kiếp sau, khi hội tụ đủ duyên mới thọ quả báo.
4. Ðịnh báo: Ðịnh báo là quả
báo nhất định phải gánh chịu, không ai có thể chuyển biến được. Ví dụ: Thuở xưa
vua Lưu Ly cử binh đến đánh dòng họ Thích, Ðức Thế Tôn can ngăn ba lần mà không
được. Tôn giả Mục Kiền Liên bạch hỏi sao Phật không cứu độ hàng tộc thuộc, thì
ngài bảo đó là định nghiệp. Tôn-giả không tin, dùng thần thông đem giấu năm
trăm người họ Thích trên cung trời. Nhưng khi Lưu Ly dẹp xong hàng Thích Chủng,
thì năm trăm người ấy cũng đều thành huyết mà chết.
5. Bất định báo: Bất định báo là
nghiệp báo có thể chuyển biến sửa đổi được. Ví như người kiếp trước đã tạo
nghiệp lành, đáng lẽ phải hưởng phú quý trọn đời ở kiếp này nhưng ỷ thế làm
quan, tham mê tài sắc, cưỡng hiếp, hãm hại người khác, thì phước lộc dần dần
tiêu giảm, có thể bị tù ngục, ô danh, hoặc chết bất đắc kỳ tử. Hoặc kiếp trước
kém nhân lành, nên kiếp này thân phận nghèo khổ, hèn hạ nhưng nếu người ấy gắng
sửa đổi tâm tánh, hết sức làm việc thiện, thì nghiệp chướng dần dần tiêu giảm,
bản thân hay con cháu có thể sẽ tiến đến vinh quang, phú quý.
6. Cộng báo: Cộng báo là quả
báo với nhiều người. Ví dụ khi người cha ốm nặng thì người mẹ và các con phải
lo lắng, vất vả phục dịch. Hoặc trong chiến tranh, tuy nhiều người không phải
ra trận tuyến nhưng vẫn bị ảnh hưởng bởi hậu quả của chiến tranh như nghèo đói,
bệnh tật, mất mát thân nhân.... Ðó đều là ảnh hưởng nặng nhẹ thuộc Cộng báo, do
nghiệp sát sinh từ nhiều kiếp về trước.
7. Biệt báo: Ðây là quả báo
riêng của mỗi cá thể trong chúng sinh, còn được gọi là Bất cộng báo. Ví dụ xe ô
tô mất lái lao xuống vực, hơn trăm hành khách trên xe đều thiệt mạng, chỉ duy
nhất một cháu bé còn sống và may mắn nữa là cháu chỉ bị xây xước nhẹ.
8. Cận tử báo: Là quả báo lúc
sắp chết. Khi con người già yếu sắp chết, những nghiệp thiện ác từ các kiếp dồn
lại, ảnh hưởng mạnh hơn lúc bình thường. Nếu nghiệp thiện thì khiến người ấy
vui vẻ hòa nhã, mắt tai không lờ lãng, khi lâm chung xả báo an lành. Nếu thuộc
về nghiệp ác, thì kẻ đó trở nên nóng nảy, ưa buồn giận khó khăn, lúc sắp chết
đau yếu mê man.
9. Thục vị thục báo: Ðiều này là trạng
thái của nghiệp báo lúc chưa thuần thục và đã thuần thục. Chẳng hạn, có kẻ trọn
đời làm ác nhưng cả đời vẫn gặp may mắn, tốt đẹp, có người cả đời làm việc
thiện mà trong đời thường gặp những bất hạnh, khổ đau. Lý giải về quả báo này,
Đức Phật nói: “Có người trọn đời làm lành
mà khi chết bị đọa vào ác đạo, bởi nghiệp lành đời này chưa chín muồi, song
nghiệp dữ kiếp trước đã đến lúc thuần thục. Có kẻ trọn đời làm ác nhưng khi
chết sinh lên Thiên cung, bởi nghiệp ác đời này chưa thuần thục mà nghiệp lành
kiếp trước đã đến thời kỳ chín muồi. Việc nhân quả rất phức tạp, tùy theo thế
lực mạnh yếu mà đến trước hoặc sau. Cho nên các đệ tử của ta chớ nên thờ ơ,
phải gắng chuyên tu cho đạo nghiệp được tinh thuần. Vì biết đâu, có kẻ tuy đời
nay yên ổn hưởng lạc làm lành, nhưng nghiệp ác những kiếp về trước đã sắp đến
thời kỳ thuần thục!”
10. Chuyển báo: Chuyển báo là
những biến trạng khổ vui, do sức tu thiện hay làm ác của đương sự. Ví như có
người làm đủ những điều ác, song đời sống hiện tại càng thêm an ổn vinh quang.
Trong đây có hai nguyên nhân:
1. Là do phúc của họ quá
nhiều, tuy có phần tổn giảm bởi làm ác, nhưng dư phúc hãy còn.
2. Là do thế lực của
nghiệp ác quá mạnh, khiến cho bao nhiêu phúc đời này và đời trước đều phát cho
kẻ ấy hưởng, để rồi sẽ chịu quả báo ác đạo ở kiếp sau. Sự Chuyển báo này
cơ bản thuộc về trường hợp thứ hai. Nói theo các khác, đây gọi là trạng thái
“dồn phúc” hoặc “dồn nghiệp” của đương số.
11. Thế gian báo: Ðây là những quả
báo khổ vui trong ba cõi: Dục, Sắc và Vô sắc. Nguyên nhân chính của sự lưu trệ
trong tam giới, là vì khi gây nhân chúng sinh còn chấp ngã.
Trong truyện ký nhà Phật
có chép việc một ni cô tụng kinh Pháp Hoa ba mươi năm, nhưng tâm còn nhiễm
thanh sắc, nên kiếp sau chuyển làm nàng kỹ nữ thanh sắc vẹn toàn; nơi miệng
thường bay ra mùi thơm hoa sen.
12. Xuất thế gian báo: Thế gian báo là
quả báo thuộc lục phàm. Trái lại, xuất thế gian báo là quả báo của tứ thánh:
Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát và Phật. Quả báo tứ thánh do bởi khi tu lìa ngã
chấp mà được thành tựu.
.
70. SỐNG HIỀN ĐỨC
SẼ ĐƯỢC TRỜI PHẬT PHÙ HỘ
Hồng Mại là một học giả
nổi tiếng thời Tống (Trung Quốc), kể về Hoàng Tông mộ Đạo, kính trọng Thần Phật
và được Thần Phật phù hộ như sau:
Hoàng Tông làm quan
Huyện lệnh huyện Mân Thanh, Phúc Châu (nay thuộc Phúc Kiến) vào thời vua Tống
Huy Tông (năm 1119). Ông rất kính trọng và tin tưởng Thần Phật, thích ăn chay,
nhưng hàng ngày đều làm cơm thường cho mẹ, hiếu kính với với người già cả. Ông
chính trực và uy nghiêm, không sợ những thế lực hung tàn. Ông không nhận lễ vật
của cấp dưới, cũng không đút lót quan trên. Càng không bao giờ có chuyện giao
du và săn đón những kẻ quyền quý. Vì thế bọn tham quan rất căm ghét ông.
Thời đó Đạo giáo đang
thịnh hành, có không ít Đạo sỹ đức cao vọng trọng, làm nhiều việc tốt, được mọi
người hoan nghênh và chào đón. Thượng thư trong triều lúc ấy là Hoàng Miện
Trọng đang làm quan Thái thú Phúc Châu, nghe nói các Đạo sỹ vì trăm họ mà làm
pháp sự, được người ta bố thí cho chút đỉnh, thế là sinh lòng đố kỵ và ác tâm.
Ông ta ra lệnh cho 12 viên Huyện lệnh dưới quyền của mình: thu thuế các Đạo sỹ.
Dùng thủ đoạn kinh tế để vơ vét tiền của, dùng thủ đoạn chính trị mà chèn ép
họ. 11 huyện của Phúc Châu đều chấp hành theo mệnh lệnh của Thái thú Hoàng Miện
Trọng, thu mấy trăm vạn tiền thuế từ các Đạo sỹ, chỉ có một mình Hoàng Tông
không chấp hành lệnh đó.
Hoàng Tông cho rằng: Tín
đồ của Đạo gia, tuyên dương cái Thiện truy cầu điều Chân, khơi nguồn Đức hạnh,
có ích với xã hội và hợp với lòng dân. Không thể vơ vét và chèn ép họ về kinh
tế như thế được. Hơn nữa, triều đình cũng chưa từng ban bố lệnh trưng thu thuế
của giới Đạo sỹ, nên không thể tùy tiện làm như thế. Ông kiên quyết không chịu
làm. Nhưng quan Thái thú vẫn cứ hối thúc mãi. Hoàng Tông bèn lấy lương bổng 4
tháng của mình thay thế cho tiền thu thuế của giới Đạo sỹ, giao nộp cho quan
Thái thú. Thái thú thu được tiền rồi, trong lòng vẫn chưa thỏa mãn. Nhưng cũng
chẳng có biện pháp gì để hoạch tội Hoàng Tông, bởi vì những việc ông làm đều
phù hợp với pháp lý, cho nên đành âm thầm nuôi hận trong lòng.
Sau này cơ hội để trừng
trị Hoàng Tông đã đến. Triều đình muốn phái một người làm Liêm phỏng sứ, đến
các nơi để thị sát điều tra, khảo sát thành tích của các cấp quan lại. Lúc đó
ông này được sắp đặt là sẽ tới Phúc Châu. Liêm phỏng sứ và Thái thú đều là
những kẻ chuyên ăn hối lộ và làm chuyện phi pháp, đều rất căm hận Hoàng Tông.
Liêm phỏng sứ điều tra
Phúc Châu xong, sau đó trở về kinh thành, gặp viên quan nào trong triều cũng
đặt điều nói bậy để bôi nhọ Hoàng Tông. Mọi người đều cho rằng: Chuyến này
Hoàng Tông xúi quẩy rồi!
Có một ngày, Liêm phỏng
sứ vào cung để hầu Hoàng thượng. Tống Huy Tông đột ngột hỏi: - Khanh đi Phúc
Châu thị sát, trong số 12 viên Huyện lệnh dưới quyền, thì ai là người hiền đức?
Liêm phỏng sứ không ngờ
Hoàng thượng lại hỏi câu này, sợ đến mức kinh hoàng lúng túng, trong đầu rỗng
tuếch, không biết phải trả lời ra sao. Hoàng thượng hỏi lại lần nữa, ông ta
đang quýnh quáng, thì đột nhiên nhớ ra được một cái tên: Hoàng Tông! Thế là
liên tục kêu :
- Hoàng tông hiền đức!
Hoàng tông hiền đức!
Thế là ngay trong ngày
hôm đó, Hoàng thượng hạ thánh chỉ: “Thăng cấp cho Hoàng Tông làm quan Thông
phán Chương Châu!”. (nay thuộc tỉnh Phúc Kiến).
Liêm phỏng sứ ra khỏi
triều đình, thì đầu óc bỗng nhiên tỉnh táo trở lại, miệng lưỡi cũng không còn
cứng đơ như trước. Hắn ta rất hối hận: Nhẽ ra không nên nói tốt cho Hoàng Tông.
Trở về nhà, ông ta kể
chuyện này cho người nhà nghe. Có người nói: “Chuyện này đúng là quỷ thần xui
khiến! Là chuyện mà ông không muốn làm nhất, thì cuối cùng lại phải làm“.
Không lâu sau, quan lại
trong triều cũng biết được chuyện này. Họ bàn tán với nhau:
- Hoàng Tông là người
hiền đức nên được Trời phù hộ, chuyển họa thành phúc.
Ngay cả Liêm phóng sử
cũng ngậm ngùi nói:
- Hoàng Tông thực sự là
người hiền Trời giúp!
71. HẬU QUẢ CỦA KẺ
DÁM ĐÙA BỠN VỚI THÁNH THẦN
Câu chuyện chúng tôi
trích dẫn dưới đây nằm trong sách “Di kiên bính chí”, quyển số 14, kể về Trịnh Đạo
Sỹ vì bỡn cợt với Lôi Thần mà bị thiệt mạng:
Vương Thiên Khanh là
người thành Kiến Xương (nay là Nam Thành, tỉnh Giang Tây, Trung Quốc), có đạo
thuật huyền ảo phi thường. Ông có đồ đệ là Trịnh Mỗ, người ta thường gọi là
Trịnh Đạo sỹ, theo Vương Thiên Khanh nhiều năm, học hỏi được “Ngũ lôi pháp”, có
thể thỉnh mời Lôi Thần, gọi mưa hoặc trừ yêu. Mỗi lần đều là hễ cầu là được.
Vào những năm đầu thời
Thiệu Hưng dưới triều Tống Cao Tông, Trịnh Đạo sỹ đến huyện Lâm Xuyên. Có mấy
vị khách tới thăm Trịnh Đạo sỹ. Bọn họ muốn được gặp Lôi Thần. Trịnh Đạo sỹ ban
đầu cự tuyệt, nhưng họ nhất mực thỉnh cầu mãi, cuối cùng Trịnh Đạo sỹ từ chối
không được, miễn cưỡng bằng lòng đáp ứng.
Trịnh Đạo sỹ lần nào làm
phép cũng thường giống nhau: niệm chú vẽ bùa, tay cầm bảo kiếm, lớn tiếng tuyên
hô. Sau một hồi, thấy gió lạnh gào thét, sương mù che phủ, mưa giăng đầy trời,
một vị Thần đầu đội mũ cao, tay cầm búa thần, tới trước mặt Trịnh Đạo sỹ, nói
rằng:
- Đệ tử là Lôi Thần,
nghe lời Trịnh Pháp sư triệu gọi, đến đây nghe lệnh. Xin mời sai bảo!
Trịnh Đạo sỹ nói:
- Bởi có mấy vị bằng hữu
của ta muốn được gặp ông cho nên mới triệu ông tới, chứ không có chuyện gì cả.
Lôi Thần nghe Trịnh Đạo
sỹ nói thế, rất là phẫn nộ, bảo ông ta: - Đệ tử mỗi lần được triệu gọi, đầu
tiên phải bẩm báo Thiên Đế, được phê chuẩn rồi mới tới đây. Sau khi xong việc,
trở lại Thiên Đình, lại phải hồi báo Thiên Đế. Hôm nay ngài triệu tôi tới chỉ
để mua vui, ngài làm như thế, tôi biết bẩm báo với Thiên Đế thế nào đây? Tôi
cầm búa sét trong tay, không thể đi mà không làm gì. Trịnh Pháp sư, ngài phải
chịu nhận nhát búa này.
Lôi Thần lúc này giơ búa
thần lên, nhắm đầu Trịnh Pháp sư bổ xuống. Mấy vị khách ở đó đều sợ hãi rụng
rời, ngã xuống đất bất tỉnh. Một lát sau mọi người tỉnh lại, thì thấy Trịnh Đạo
sỹ đã chết rồi.
72. ĐẠO SỸ ĐÀM LUẬN
VỀ SỐ MỆNH
Còn câu chuyện chúng tôi
trích dẫn dưới đây nằm trong cuốn “Duyệt vi thảo đường bút ký” của hiền giả Kỳ
Hiểu Lam (triều Thanh), kể về một vị Đạo sỹ tài ba đàm luận về số mệnh:
Minh Thịnh là huyện lệnh
của huyện Hiền. Ngày nọ ông tiếp nhận một vụ án oan, muốn vì dân thường mà xử
lại, nhưng lại sợ thượng cấp không vừa ý, vì thế mà rất lưỡng lự. Trong số
thuộc hạ có người tên là Môn Đấu, người này có một người bạn có công năng đặc
dị, vì vậy Minh Thịnh bèn phái Môn Đấu đi thỉnh mời vị kia để đoán trước sự
tình và chỉ cho cách làm thế nào mới tốt.
Môn Đấu tuân lệnh đến
thỉnh mời. Vị kia nghe xong trang trọng trả lời:
- Minh Thịnh huyện lệnh
thân như cha mẹ của chúng dân trong huyện, thì nên xem xét dân chúng có bị oan
hay không, hơn là dò xét thượng cấp có vừa ý hay không. Chẳng lẽ ông ấy đã quên
câu chuyện của Lý Vệ tiên sinh năm xưa?
Môn Đấu trở về, bẩm báo
lại đầu đuôi mọi sự. Minh Thịnh vừa nghe thì giật mình cả sợ, nhớ lại xưa kia
Lý Vệ tiên sinh đã từng kể cho ông ta một câu chuyện. Nhưng người này là người
như thế nào mà lại biết được chuyện ấy? Thật là thần kỳ. Nhưng dù sao đi nữa,
Minh Thịnh giờ đã biết cần xử lý vụ việc ra sao.
Trước khi trở thành quan
Tri phủ, một lần Lý Vệ lên thuyền vượt sông, thì gặp một vị Đạo nhân. Để tiết
kiệm chút tiền mọn, một hành khách đã tranh cãi với chủ thuyền. Đạo sỹ thở dài:
“Đối với một kẻ sắp bị chết đuối, ông ta vẫn còn tranh cãi chỉ vì một chuyện
tầm thường, thật là không đáng!”.
Lý Vệ nghe xong, lúc đó
không hiểu Đạo sỹ nói lời ấy là có ý gì. Một lát sau, đột nhiên một cơn gió
mạnh bắt đầu thổi trên sông. Vị hành khách kia không giữ được thăng bằng, bị
ngã xuống nước và chết đuối. Lý Vệ giờ mới biết vị Đạo sỹ có năng lực siêu
phàm. Lúc đó, gió càng ngày càng mạnh, con thuyền chòng chành muốn lật. Đạo sỹ
bước chân theo trận đồ, không ngừng niệm thần chú. Cơn cuồng phong rất nhanh
chóng dừng lại, mọi người đều được cứu sống. Lý Vệ hướng về Đạo sỹ bái ba bái,
tạ ơn cứu mạng.
Đạo sỹ bèn nói:
- Vừa rồi người kia chết
đuối, là vì mệnh của ông ta đến đó đã tận, ta không thể cứu được. Ông là quý
nhân, hôm nay gặp họa nhưng được giải cứu, cũng là trong mệnh đã định như vậy,
ta không thể không cứu. Cho nên ông không cần cám ơn ta.
Lý Vệ nghe xong, thụ
giáo được rất nhiều, lại bái tạ và nói:
- Nghe ngài dạy bảo, từ
đầu tới cuối tôi đều được lợi ích. Từ nay về sau cả đời tôi sẽ an phận mà thủ
mệnh.
Đạo sỹ nói:
- Ông nói lời này không
hoàn toàn là đúng. Một cá nhân đối với vinh nhục, thăng trầm, phú bần, đều
không truy cầu thì người đó là đang an phận, tức là an mệnh, chính là thuận
theo tự nhiên. Không an mệnh, tức là lừa đảo lẫn nhau, đấu đá với nhau, chuyện
xấu gì cũng làm. Những việc như vậy thảy đều tạo nghiệp. Ví như Lý Lâm Phủ, Tần
Cối, bọn họ nếu có thể thủ mệnh, thuận theo tự nhiên, thì sau đều được làm Tể
Tướng, bởi số mệnh đã định như thế. Nhưng bọn họ năm đó chỉ vì tranh giành địa
vị Tể Tướng, mà bài trừ những người trái ý, dùng hết tâm kế mà hãm hại trung
lương, đâu biết rằng dù có cố hay không thì sau này đều được làm Tể Tướng, vì
thế chỉ là tự mình gia tăng ác nghiệp mà thôi. Về phần quốc kế dân sinh lợi hay
hại thế nào không thể nói mệnh; đối diện với trăm họ đang trong cảnh khốn cùng,
oan ức, thì không thể để mặc như thế, nhưng cần tùy kỳ tự nhiên. Hết thảy những
người phụ trách thì đều phải chịu trách nhiệm.
Gia Cát Khổng Minh từng
nói: “Thần cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi, còn về việc thành hay bại, lợi
hay không, thì thần không rõ, nhưng cũng có khả năng lường trước được!”. Chính
là đạo lý ấy. Trời Đất dưỡng dục nên nhân tài, quốc gia thiết đặt vị trí cho
các cấp quan lại, mục đích là để ích nước lợi dân. Thân là quan lại, nắm giữ
quyền hành, mà bó tay ủy thác hết cho số mệnh, thì Trời Đất cần gì phải sinh ra
những người tài như thế, quốc gia cần gì phải thiết lập quan lại như thế? Cao
nhân thánh hiền cần phải hiểu được Mệnh, đó chính là đạo lý chân thực, hy vọng
ông có thể lĩnh hội được toàn diện.
Đạo sỹ nói xong xuống
thuyền, nhanh chóng biến mất.
73. PHÀM TÂM CHƯA
BỎ, SAO CÓ THỂ THÀNH PHẬT
Câu chuyện chúng tôi
trích dẫn dưới đây (không rõ tác giả), kể về cư sỹ Đỗ Cảnh Hành khi tâm chưa
thành mà thường khoe khoang về việc sẽ đắc Đạo:
Vào triều Thanh, khoảng
từ năm 1644 đến năm 1912 tại tỉnh Phúc Kiến có một người tên là Đỗ Cảnh Hành.
Ông ta là một cư sỹ Phật giáo rất sùng đạo, và biểu hiện ra ngoài rất mực thành
tâm. Ông ta ăn chay hằng ngày và không bao giờ uống rượu. Ông ta cũng thường
khoe khoang về việc mình đã đắc Đạo và chẳng bao lâu nữa sẽ thăng Thiên. Ông ta
lại còn trịnh trọng dặn dò người nhà hãy giữ gìn thân thể tịnh khiết, tĩnh tâm
chờ đợi sự kiện xảy ra. Người nhà ông ta đều bấm bụng cười thầm mà đáp ứng yêu
cầu đó.
Một ngày nọ, Đỗ Cảnh
Hành nằm nghỉ trưa thì ngủ thiếp đi, rồi lạc vào một giấc mơ cực kỳ rõ ràng
minh bạch sau khi tỉnh dậy. Trong mộng, Đỗ Cảnh Hành đi tới một nơi giống như chỗ
ở của Thần tiên. Có vài người ở đó, và khi trông thấy ông ta, họ đứng dậy
nghênh tiếp. Họ mời ông ta ngồi xuống và bảo ông ta đọc một quyển sách.
Khi Đỗ Cảnh Hành nhận
thấy nội dung cuốn sách ấy chỉ trích Phật giáo, ông ta trở nên khó chịu và muốn
rời đi. Mọi người bèn nói:
- Người mà hiểu rõ đạo
lý trong sách ấy sẽ sớm đến để thuyết giải cho ông, hà tất phải bỏ đi như thế?
Bỗng có một cô gái xinh
đẹp khả ái đi tới, cười nói:
- Tôi đến để giải thích
ý nghĩa của quyển sách này, sao người không ở lại thêm một lát?
Nói xong nàng ngồi xuống
bên cạnh Đỗ Cảnh Hành, tựa vào ông ta, lại vừa cầm tay ông ta cùng lật xem
quyển sách. Lúc đó Đỗ Cảnh Hành thần hồn điên đảo, tất cả tâm tư dồn hết lên
người mỹ nhân kia. Chỉ e sợ mạo phạm đến nàng ta. Do đó, mặc kệ mỹ nhân nói gì,
dù là phê phán chê bai Phật giáo, Đỗ Cảnh Hành cũng chẳng dám nói gì.
Lúc này, đột nhiên nghe
thấy mọi người cười lớn:
- Ngươi phàm tâm chưa
bỏ, sao có thể thành Phật được?
Đỗ Cảnh Hành chợt bừng tỉnh giấc, lúc đó mới
biết là vừa mới nằm mơ. Từ đó về sau ông ta hiểu ra rằng mình còn cách xa cực
kỳ xa mới với tới việc đạo thành chính quả, cảm thấy vô cùng xấu hổ. Từ đó, Đỗ
Cảnh Hành không bao giờ khoác lác chuyện Tu thành đắc đạo nữa.
74. TÍCH ĐỨC TẠO
PHÚC, HÀNH ÁC TẠO NGHIỆP
Chuyện xưa kể lại rằng:
Vào triều Minh, ở vùng Sở Trung có một thư sinh. Anh là người có tâm địa chính
trực, lại bẩm sinh có năng lực siêu nhiên là đi về qua lại giữa dương gian và
địa phủ. Anh phát hiện rằng người trên thế gian nói: “Thiện hữu thiện báo, ác
hữu ác báo” quả nhiên là hết sức đúng đắn. Một lần xuống địa phủ, anh thấy một
quyển Ký lục ghi chép toàn bộ những việc thiện việc ác mà mỗi người trên thế
gian đã làm, và phát hiện người trên nhân thế căn cứ theo nghiệp (thiện hoặc
ác) tích ít hay nhiều, thì hoặc là được phúc báo, hoặc là chịu trừng phạt. Anh
ta cảm thấy thương xót cho những kẻ đang phải chịu hình phạt leo lên ngọn núi
bằng đao kiếm, rất muốn cứu họ, nhưng họ đều không chịu để anh giúp, mà còn cố
leo nhanh hơn. Hoàn toàn chẳng có cách nào cứu được họ.
Một ngày nọ, người thư
sinh phát hiện trong quyển Ký lục ấy ghi lại việc thê tử của anh đã phạm tội
trộm một con gà của hàng xóm, con gà ấy tính cả lông thì cân nặng 1 cân 12
lượng, anh ta bèn gấp trang sách đó lại để đánh dấu.
Khi trở lại dương gian,
người thư sinh trách hỏi vợ, nhưng người vợ nhất nhất phủ định chuyện này.
Người thư sinh vì vậy bèn kể lại hết thảy sự việc tại địa phủ mà anh ta đã
thấy, lúc đó người vợ mới chịu nói thật. Nguyên là con gà hàng xóm đã chạy sang
ăn lúa mà cô đang phơi nắng, trong lúc cô đuổi con gà lỡ tay đánh chết nó. Vì
sợ hàng xóm sẽ trách mắng, cô bèn đem con gà giấu đi, không kể với ai. Hai vợ
chồng giật mình kinh ngạc vì quyển sách địa phủ lại có ghi lại rõ ràng cả về
việc ấy. Họ vội vàng tìm con gà đem lên cân, quả nhiên chính xác là 1 cân 12
lượng, không sai chút nào. Hai vợ chồng nhanh chóng bồi thường và xin lỗi hàng
xóm.
Vài ngày sau, người thư
sinh lại đến địa phủ kiểm tra lại quyển sổ ấy. Anh thấy trang sách mà mình đã
gấp đánh dấu vẫn còn, duy chỉ có đoạn ghi chép tội trạng là đã biến mất không
còn dấu vết.
Thế mới thấy, đích thực
là “Thần mục như điện, báo ứng bất sảng” (“Mắt thần như điện, báo ứng chẳng
sai”)! Cho nên làm người thì cần tránh làm việc xấu ác tạo nghiệp, nếu không
thì nhân quả báo ứng nghĩa là đã làm hại chính bản thân mình. Câu chuyện đó
cũng cho thấy một đạo lý, nếu quả thật chúng ta đã phạm điều sai, chỉ cần sửa
chữa những lỗi lầm của mình chúng ta sẽ có cơ hội tránh khỏi quả báo. Điều đó
hoàn toàn tùy thuộc vào lựa chọn của chúng ta.
75. THAY ĐỔI SỐ
PHẬN VÌ BIẾT CẢI TÀ QUY CHÍNH
Chuyện xưa kể lại rằng:
Vào thời nhà Minh có một người tên là Trương Úy Nham, sống tại thành Giang Âm,
tỉnh Giang Tô. Ông là người có học thức, có tài văn chương, rất nổi tiếng vào
thời đó. Vào năm Giáp Ngọ, ông tham gia thi khoa bảng nhưng bị đánh rớt. Trong
khi đứng tại bảng công bố điểm thi, ông lớn tiếng nhục mạ những quan chủ khảo
đã chấm điểm cho mình, nói rằng họ có mắt mà không có tròng, không biết được
người có tài năng học thức như mình.
Ngay lúc ấy có một vị Đạo
sỹ đang ở gần đó nghe thấy. Đạo nhân mỉm cười và nói: - “Tôi có thể nói là văn
chương của ông chắc hẳn phải là rất tệ!”.
Trương Úy Nham lập tức
quay sang trút giận lên vị Đạo nhân này: - Sao ông dám cười tôi? Ông chưa từng
đọc qua văn chương của tôi thì làm sao biết văn của tôi không hay?
Đạo nhân trả lời: - Tôi
nghe nói rằng điểm mấu chốt để sáng tác văn chương là người ta cần phải bình
tĩnh hòa nhã. Còn ông thì đang nhục mạ các quan chủ khảo. Ông chắc hẳn đang rất
bất bình trong tâm. Nếu tâm ông như vậy, thì làm sao ông có thể sáng tác những
bài văn hay được chứ?
Trương Úy Nham nghe thấy
lời nói rất có đạo lý, nên thành tâm xin vị Đạo nhân dạy bảo.
Đạo nhân nói:
- Văn chương dĩ nhiên
cần phải hay, nhưng nếu mệnh ông định rằng không có tên trên bảng vàng, thì dẫu
văn chương có tinh xảo đến đâu cũng không giúp được ông. Vấn đề tối căn bản là
cần phải thay đổi hành vi của bản thân mình.
Trương Úy Nham hỏi:
- Thế tôi cần tự mình
thay đổi như thế nào?
Đạo nhân đáp:
- Nếu ông có thể thuận
theo Thiên Mệnh mà làm việc thiện, thì chẳng lẽ lại không được phúc báo hay
sao?
Trương Úy Nham thở dài:
- Nhưng tôi chỉ là một
học trò nghèo, kiếm đâu ra tiền để làm việc thiện?
Đạo nhân nói:
- Làm việc thiện tu
dưỡng đức, trọng yếu là cái tâm của mình. Để làm được thế thì yêu cầu phải luôn
mang theo thiện niệm bên mình, khiêm cung và sẵn lòng giúp đỡ người khác. Động
cơ hành thiện phải thật trong sáng, làm việc gì cũng thuận theo Thiên lý. Lấy
ví dụ, ai đó muốn trở thành một người có đức tính khiêm nhường, thì người ấy chẳng
cần phải có tiền nhưng vẫn hoàn toàn có thể làm được. Ông có thể làm việc thiện
mà không cần phải là người giàu có. Tại sao ông không tự mình phản tỉnh, mà lại
đi nhục mạ những viên quan chủ khảo?.
Trương Úy Nham vô cùng
cảm động và hối hận, bái tạ vị Đạo nhân. Từ đó trở đi Trương Úy Nham nhất tâm
hướng thiện, nghiêm khắc yêu cầu chính mình, chú trọng tu thân, trở thành người
có phẩm đức cao thượng. Ông mở trường dạy học cho dân chúng. Ông dạy người ta
tránh điều ác và làm việc thiện, bất kể việc đó có nhỏ nhặt đến đâu. Ông thường
khuyến khích dân chúng làm việc thiện, được mọi người tán dương.
Ba năm sau, vào một ngày
nọ Trương Úy Nham nằm mộng thấy mình đi vào một căn nhà lớn. Có một cuốn sách
trong đó liệt kê những cái tên, nhưng có nhiều dòng bị bỏ trống. Ông bèn hỏi
một người đứng bên cạnh về những khoảng trống này. Người đó nói với ông: “Đây
là danh sách những người sẽ trúng bảng vào kỳ thi mùa Thu này. Nếu một cái tên
xuất hiện ở đây và người đó không phạm bất cứ tội lỗi nào, thì cái tên đó sẽ được
giữ lại. Những khoảng trống đó trước đây là chỗ của những người lẽ ra đã được
chấp nhận, nhưng vì họ làm điều xấu nên đã bị xóa tên. Trong ba năm qua, ông đã
luôn tu thân hướng thiện, nên tên của ông đã được thêm vào. Nếu vẫn kiên trì
không chểnh mảng, trong tương lai ông sẽ nhận được phúc đức vô lượng. Hy vọng
ông sẽ tự biết bảo trọng”. Kỳ thi năm ấy, Trương Úy Nham quả nhiên thi đỗ, làm
quan, sau này làm được nhiều việc tốt cho dân chúng.
Dân gian có câu: “Trời
có mắt” hoặc “Quỷ thần hai vai” đều có hàm ý rằng: Những suy nghĩ và hành vi
của con người dù giấu diếm có cẩn thận đến đâu thì Thần, Phật cũng đều trông
thấy rõ. Những người chuyên làm việc thiện sẽ được thần, Phật ban cho nhiều tài
lộc phúc đức, còn những kẻ hay làm điều ác, tất sẽ bị quỷ, thần trừng phạt, bất
kể bản thân mình ở tầng lớp, địa vị nào trong xã hội. Vì thế, việc tu nhân tích
đức, lo làm việc thiện là điều tất yếu nếu muốn bản thân, gia đình gặp nhiều
may mắn và hạnh phúc.
76. THẦN PHẬT CHỈ
XEM TRỌNG LÒNG NGƯỜI
Sách “Thái Bình quảng
ký” (Trung Quốc) kể lại câu chuyện sau:
“Vào thời vua Đường
Trung Tông (khoảng năm 705-707), tại khu vực Hồ Bắc, Tương Dương (Trung Quốc)
người ta chuẩn bị đúc một pho tượng Phật lớn. Có rất nhiều người giàu có và tín
ngưỡng Thần Phật đều tới dâng hiến tiền bạc cho việc ấy. Những người tổ chức
đối với những người ủng hộ tiền của đều có ghi chép sổ sách đàng hoàng, để sau
này sẽ khắc tên ghi công vào bia đá.
Có một bà cụ vô cùng
nghèo khổ nhưng nóng lòng muốn được hiến tặng. Bà chỉ có một đồng tiền mà mẹ đẻ
tặng cho bà thời con gái. Bà đã nâng niu giữ gìn đồng tiền ấy không nỡ dùng,
cất kỹ suốt 60 năm trời. Ấy là tài sản duy nhất mà bà có.
Nghe tin người ta quyên
tiền đúc tượng Phật, bà cụ cung kính mang đồng tiền ấy vượt qua một quãng đường
xa xôi để đến dâng tặng. Nhưng người phụ trách việc đăng ký tên tuổi nói với
bà: “Tôi chẳng thể đăng ký cho 1 đồng của bà được”. Bà cụ không biết làm sao,
đành nhân lúc người khác không để ý lặng lẽ đến gần lò đúc tượng và tung đồng
tiền vào trong đó. Bà thành kính chắp tay cầu nguyện rồi trở về nhà.
Vài ngày sau người ta dỡ
lò lấy tượng ra. Một viên quan bỗng nhiên nhìn thấy một đồng tiền đính vào
chính giữa ngực của pho tượng Phật. Có một đại phú ông trông thấy như thế trong
lòng rất khó chịu bèn yêu cầu giũa bay đồng tiền kia đi. Thế là người ta gọi
thợ thủ công đến để gọt giũa đồng tiền ấy. Nhưng gắng sức gọt giũa suốt một
đêm, đến sáng hôm sau nhìn lại thì đồng tiền vẫn còn y nguyên như cũ, vẫn đính
chặt vào giữa ngực bức tượng Phật. Mấy nhà sư thấy thế nói: “Chuyện này thật là
kỳ diệu. Thần Phật nhận xét con người ta thì chỉ xem trọng tấm lòng thôi. Bà cụ
ấy hết lòng thành kính cho nên mới thành ra như thế”. Từ đó về sau không ai còn
dám động đến đồng tiền ấy nữa.”
77. GIEO NHÂN NÀO
GẶT QUẢ ẤY
Chuyện dân gian Trung
Quốc kể rằng:
Thời nhà Tống ở Đinh
Lương, Tào Châu có một tú tài tên là Chu Vinh Tổ. Tổ tiên nhà họ Chu giàu có
thịnh vượng, ông nội kính trọng Thần Phật, xây dựng nên một Phật viện, hàng
ngày đọc kinh niệm Phật và giúp người tích Đức. Đến khi cha của Chu Vinh Tổ kế
thừa gia nghiệp, thì chỉ coi trọng việc kinh doanh và tài sản chứ, không tin
Thần Phật. Lấy cớ sửa chữa nhà cửa người cha đã dỡ bỏ Phật viện để lấy gỗ đá
gạch ngói xây nhà. Đến khi nhà xây xong thì ông ta bị bệnh, nằm liệt giường,
chữa trị kiểu gì cũng không hiệu nghiệm, người ta đều bảo đó là do ông ta đã
làm những điều bất kính với Thần Phật.
Sau khi cha chết, Chu
Vinh Tổ thừa hưởng và phụ trách gia nghiệp. Bởi là một Nho sinh, ông muốn về
triều đình dự thi, bèn dẫn vợ là Trương Thị và đứa con trai sơ sinh của mình
cùng đi. Ông đem vàng bạc châu báu bí mật chôn giấu trong một cái hố dưới chân
tường vườn sau nhà, rồi nhờ một người đáng tin cậy trông giữ nhà cửa cho mình,
lên đường đi thi.
Cũng ở Tào Châu có một
người đàn ông rất nghèo khổ tên là Cổ Nhân. Ông ta ngày thường mưu sinh bằng
nghề gánh đất xây nhà, bần cùng chán nản, sống trong một cái lò gạch cũ bỏ
hoang. Ông ta thường nghĩ: “Vì sao người khác thì giàu có, riêng ta lại khốn
khổ như thế này!”. Trong lòng rất oán giận bất bình, hàng ngày lúc nhàn rỗi
liền đến miếu Thần trong núi Đông kể khổ với Thần linh: - Tiểu nhân tên là Cổ Nhân, cũng là một con
người ở trên đời này, vì sao lại khốn cùng như thế? Tiểu nhân nếu chỉ có được
một chút phú quý, thì cũng sẽ làm ơn làm phước cho cô nhi quả phụ, kính trọng
người già, giúp đỡ người nghèo, cầu xin Thượng Thánh rủ lòng thương!.
Một ngày sau khi cầu
khấn xong, nằm ngủ dưới mái hiên thì đột nhiên mộng thấy một vị Thần lớn gọi
một vị tiểu Thần kiểm tra xem phúc lộc của Cổ Nhân thế nào. Vị tiểu Thần tra
xét xong trả lời: - Cổ Nhân kiếp trước bất kính với Trời Đất, bất hiếu với cha
mẹ, phỉ báng người tu luyện và Thần Phật, sát sinh giết người, khinh rẻ ngũ cốc
và nước sạch, kiếp này phải bị đói rét mà chết.
Cổ Nhân nghe xong cầu
khẩn nói: - Thượng Thánh, xin cho con một chút phúc lộc, con cũng muốn làm
người tốt. Khi cha mẹ còn sống con cũng phụng dưỡng hết lòng, cũng là một người
con có hiếu.
Vị Thần lớn nói: - Chúng
ta kiểm tra qua những việc làm thường ngày của hắn, tuy là không thấy việc
thiện nào, nhưng cũng có phụng dưỡng phụ mẫu, cũng có hiếu. Hôm nay hắn đang
lúc đói rét, chúng ta thể theo Đức hiếu sinh của Thượng Đế, tạm xem thử có phúc
lộc của gia đình nào có thể để hắn vay mượn một chút, thưởng cho lòng hiếu đạo
của hắn vậy.
Vị tiểu Thần nói: - Tiểu
Thần kiểm tra thấy có gia đình Chu gia trang ở Tào Châu, Tào Nam. Nhà này tích
được nhiều phúc đức, âm đức 3 đời, chỉ vì bất kính với Thần Phật, dỡ bỏ Phật
viện, một niệm sai lầm ấy cần phải bị tạm thời trách phạt. Bây giờ đem phúc đức
của gia đình ấy tạm cho hắn vay mượn trong 20 năm, đợi đến khi đủ thời hạn thì
để hắn giao trả lại cho chủ cũ, như thế chẳng phải nhất cử lưỡng tiện ư?
Vị Thần lớn nói: - “Được
đó! Cứ thế mà làm!”. Cổ Nhân lạy tạ ơn của Thượng Thánh, tỉnh lại mới hay là
vừa mới nằm mộng, nghĩ thầm: - Vừa rồi nghe Thượng Thánh nói, lấy phúc đức của
một gia đình cho mình mượn 20 năm, chuyện trong mộng chẳng biết có đáng tin
không. Hôm qua có một nhà giàu muốn xây tường, gọi mình tìm gạch xây, giờ có lẽ
ta nên đi tìm gạch vậy.
Trong thời gian Chu Vinh
Tổ về kinh thành dự thi, người trông nhà một buổi tối đi ngủ bị kẻ trộm lấy hết
sạch đồ đạc. Trong nhà không còn thứ gì đáng tiền, chỉ có trong sân sau một bức
tường sập. Nghĩ: “Để nó đó cũng vô dụng, hay là đem bán gạch cũ lấy tiền sống
qua ngày vậy”. Đang đi trên đường thì gặp Cổ Nhân. Cổ Nhân nói: “Tôi chính là
đang muốn mua gạch cũ đây”. Mua bán xong xuôi, khi Cổ Nhân tróc lấy gạch cũ,
lại cạy ra một phiến đá. Phiến đá hạ xuống thì thấy một cái hốc đá, bên trong
chứa đầy vàng bạc châu báu từng khối từng khối vuông vức như viên gạch, rất
nhiều. Cổ Nhân giật mình: - “Thần linh thật là màu nhiệm! Đúng là ứng với giấc
mộng hôm qua”. Ông ta đem gạch cũ đến cho nhà người ta, còn mình thì giữ lấy số
bạc.
Cổ Nhân có nhiều vàng
bạc như vậy, mua nhà cửa, làm ăn buôn bán càng lúc càng phát đạt, đến mức trên
đường bộ thì có nhiều ruộng đất, dưới đường thủy thì có lắm thuyền bè, mọi
người cũng đổi cách xưng hô gọi ông là viên ngoại. Ông ta tuy có gia nghiệp lớn
như thế, nhưng lại hết sức hà tiện, một đồng cũng không tiêu xài, cho nên tài
sản càng ngày càng nhiều, mọi người bèn gọi ông là : “Chàng Cổ hà tiện”.
Ông lấy vợ, nhưng không có con cái, mời một người tên là Trần Đức Phủ làm quản
gia. Ông thường ngày nói với Trần Đức Phủ rằng: - Tôi có gia nghiệp như thế này
nhưng không có người thừa kế. Nếu như có người chịu làm con nối dõi thì dù là
nam hay nữ cũng được, tìm giúp cho tôi một người nhé.
Cả nhà Chu Vinh Tổ đi
thi, nhưng tiếc rằng vận mệnh chưa thông, công danh không đạt thành. Trở về
nhà, thì gia sản đã hết sạch, chỉ còn mỗi cái nhà, đến chỗ bức tường tìm vật đã
chôn giấu nhưng chỉ còn một cái hốc đá rỗng không. Từ đó về sau cơm áo khó
khăn, phải đem nhà ấy bán đi, cả gia đình 3 người đến Lạc Dương thăm người
thân. Nhưng không ngờ thân quyến đã rời đi nơi khác, lộ phí mang theo mình dần
dần tiêu hết, đành phải ăn xin dọc đường, chịu đủ mọi đắng cay khổ cực. Cuối
cùng tới Tào Nam, đúng vào lúc cuối đông, suốt mấy ngày liền tuyết rơi nhiều, 3
người vừa đói vừa rét, mà 10 lần xin vào nhà người ta tá túc thì hết 9 lần
không được, thế là bèn tới một quán rượu nhỏ để tránh tuyết.
Trần Đức Phủ đang ở
trong quán, hiểu được tình hình bèn nói:
- Nhìn ông khốn khổ như thế, nếu đem đứa con nhỏ của ông cho gia đình
nhà người ta nhận làm con thừa tự thì ông thấy sao? Ở đây có một nhà đại phú hộ
không có con cái, nếu nhận con trai ông làm con nối dõi tông đường thì tương
lai gia nghiệp nhà đó đều là con của ông thừa kế. Chính ông ấy nhờ tôi tìm giúp
đó.
Chu Vinh Tổ bàn bạc với
vợ: Để cho con trai khỏi phải chịu đói rét, chỉ cần người ấy nuôi dưỡng đường
hoàng thì cũng đành chấp nhận. Trần Đức Phủ thế là nói rõ sự thể tình hình với
Cổ viên ngoại. Cổ viên ngoại vô cùng vui mừng, hai bên lập văn thư giấy tờ.
Lúc đó Chu Trường Thọ 6
tuổi. Chu Vinh Tổ dặn dò con trai: - Cha mẹ thật sự không biết làm sao được,
con ở đây sẽ khỏi phải chịu cảnh khốn khổ cơ hàn. Con chỉ cần hiểu được một
chút lẽ phải trái đúng sai, chúng ta khi thuận tiện sẽ đến thăm con.
Ba người khóc lóc thảm
thiết từ biệt nhau.
Cổ viên ngoại nhận con
xong, gọi nó là Cổ Trường Thọ. Trường Thọ lớn lên dần lãng quên sự tình năm
xưa, chỉ nhận Cổ viên ngoại làm cha mà thôi. Cha anh ta một đồng cũng không
tiêu, còn anh thì tâm tính phóng khoáng, trọng nghĩa khinh tài, xem tiền bạc
chẳng hơn gì đất đá. Người ta thấy anh có tiền, nhiều người thuận miệng gọi anh
là “Người hào phóng”. Hơn 10 năm sau, vợ chồng Cổ viên ngoại lần lượt qua đời,
Trường Thọ trở thành tiểu viên ngoại, tự mình quản lý toàn gia nghiệp.
Còn nói về vợ chồng Chu
Vinh Tổ đến khắp nơi tìm họ hàng để cùng sinh sống nhưng không tìm thấy. Họ lưu
lạc nơi đất khách quê người hơn 10 năm trời, giờ đây muốn quay trở lại nhà họ
Cổ hỏi thăm tình hình của con trai. Cuối cùng họ đã tới thôn Tào Nam. Họ gặp
một cửa hiệu thuốc Bắc, trên biển hiệu viết “Bốc thuốc miễn phí”. Hai người vào
nghe ngóng, mới biết chủ nhân của cửa hiệu chính là Trần Đức Phủ.
Trần Đức Phủ nói: “Cổ
viên ngoại đã qua đời rồi, con trai ông giờ là Cổ Trường Thọ đã trở thành tiểu
viên ngoại. Không như cha nuôi của nó ngày trước hà tiện, nó trọng nghĩa khinh
tài, tiệm thuốc miễn phí này của tôi đây chính là tiền do cậu ấy cấp cho”.
Trần Đức Phủ tìm Cổ
Trường Thọ, liền đem câu chuyện năm xưa tỉ mỉ tường tận kể rõ cho anh nghe. Cổ
Trường Thọ tuy nhiều năm không thấy ai đề cập đến chuyện đó, nhưng nghe nói
xong dần dần nhớ lại những ký ức khi còn bé, vội vã lấy một tráp vàng bạc chạy
đến cửa hiệu nhận cha mẹ. Trần Đức Phủ dẫn anh tới bái kiến cha mẹ, 2 vợ chồng
Chu Vinh Tổ trông thấy con trai thì vô cùng vui mừng. Cổ Trường Thọ dâng tráp
vàng bạc, Chu Vinh Tổ đang muốn từ chối, bỗng nhìn thấy trên nén bạc khắc tạc
mấy chữ “Chu Phụng ký”.
Chu Vinh Tổ nói: - Đây
chẳng phải nguyên là bạc của gia đình tôi đó sao?
Trần Đức Phủ hỏi: - Làm
sao lại là của nhà ông được?
Chu Vinh Tổ trả lời: -
Ông nội của tôi tên là Chu Phụng, chính là ông ấy tạc chữ lên trên đó.
Trần Đức Phủ xem xong
nói: - Sao nó lại ở trong nhà họ Cổ được nhỉ?
Chu Vinh Tổ nói: - Tôi
20 năm trước từng là học trò, dẫn theo vợ con về kinh thành dự thi, đem những
thứ tài vật châu báu trong nhà mà tổ tiên truyền lại chôn ở dưới đất, đến lúc
trở về nhà thì không còn thấy nữa.
Trần Đức Phủ nói: - Cổ
lão viên ngoại nguyên là một người vô cùng nghèo khổ, hay đi tróc gạch cũ cho
người ta. Ông ấy bất ngờ giàu có, tôi nghĩ chắc là do những tài vật của nhà ông
bị ông ấy đào mất, quả thật đúng là như thế. Ông ấy không có con cái, lại nhận
con trai ông làm người nối dõi, thừa kế gia sản nhà này. Vật đã trở về tay chủ
cũ, chẳng phải Ý Trời là gì! Thảo nào ông ấy ngày thường một đồng cũng không
tiêu, không hề lãng phí một chút nào. Nguyên là vì chúng không phải là những
thứ của ông ấy. Ông ấy chỉ là tạm thời thay gia đình ông trông coi, bảo dưỡng
mà thôi.
Vợ chồng Chu Vinh Tổ xúc
động lắm. Chu Vinh Tổ nói: “Đây thực sự là nhân quả báo ứng”. Thế là bèn nói về
chuyện năm xưa tổ tiên tin Phật, nhưng kẻ hậu sinh lại không kính trọng Thần
Phật. Cổ Trường Thọ lắng nghe, cảm thấy vô cùng kinh ngạc. Anh bèn đưa cha mẹ
về nhà, còn Chu Vinh Tổ đưa tráp bạc cho con trai, bảo anh ngày mai đem phân
phát cho những người nghèo khổ không nơi nương tựa. Ông lại bảo con trai chiểu
theo tổ tiên năm xưa, xây dựng Phật đường, cả 2 vợ chồng đều tu luyện. Cổ
Trường Thọ lấy lại họ Chu, cả gia đình đều kính Phật và hướng thiện, gia nghiệp
cũng càng phát đạt thịnh vượng thêm lên.
78. TRỜI PHÙ HỘ CHO
CÁI THIỆN
Chuyện dân gian Trung
Quốc kể rằng:
Vào thời Tống Cảnh Công,
Sở Huệ Vương đã tiêu diệt nước Trần láng giềng của nước Tống. Lúc ấy sao
Hỏa trên trời xâm nhập vào phạm vi của sao Tâm Túc, theo lý luận về ranh giới
của tinh tượng lúc ấy, thì sao khu vực của sao Tâm Túc đối ứng với khu vực của
nước Tống. Cho nên Tống Cảnh Công hết sức lo lắng, sợ Trời sẽ gieo tai họa
xuống nước Tống.
Ngày hôm sau lúc lên
triều, quan Thái sử bẩm báo: - Tối hôm qua hạ thần phát hiện sao Hỏa dừng lại
tại sao Tâm Túc không chịu rời đi (Sao Hỏa thủ tâm). Đây là điềm rất xấu, xin
Đại vương triệu tập trăm quan bàn bạc đối sách.
Tống Cảnh Công liền hỏi
bá quan xem có biện pháp gì không, nhưng cả hai ban văn võ quan lại đều nhìn
nhau không nói được gì. Đại thần Tinh Tử Vi thấy vậy tâu: - Sao Hỏa thủ tâm là
điềm xấu nhất trong các hiện tượng thiên văn, đối ứng với nước Tống và triều
đình sẽ phải gánh chịu tai họa ập xuống, bắt đầu từ Hoàng thượng. Nhưng mà, Đại
vương có thể thông qua biện pháp cầu an giải họa, đem tai họa này dời sang Tể
tướng, như thế Đại vương sẽ có thể may mắn thoát khỏi tai họa này.
Cảnh Công nói: - Sao có
thể làm như thế được. Tể tướng là đại thần phụ tá cho quốc gia, ví như cánh tay
phải của Trẫm, quản lý toàn bộ thân thể như nhau. Làm sao có thể khiến ông ấy
phải chịu tai họa này chứ?
Tử Vi nói: - Còn có một
biện pháp khác nữa. Đại vương có thể vào giờ Ngọ 3 khắc hôm nay lên đàn tế
Trời, sau này tai họa sẽ dời sang dân chúng
Cảnh Công nói: - Nói gì
vậy? Làm một vị Quân vương cần phải lấy lòng nhân ái để làm an lòng dân chúng,
sao lại để trăm họ phải chịu tai họa này chứ? Nhân dân giống như cha mẹ của
Quân vương, Trẫm làm sao chuyển tai họa sang cho họ được?
Tử Vi lại nghĩ ngợi rồi
nói: - Vậy không chuyển dời sang người khác nữa, mà chuyển thành năm nay mùa
màng thất bát, như thế cũng có thể vượt qua tai ương này.
Cảnh Công bực mình nói:
- Không cần nói nữa. Mùa màng thất bát thì chắc chắn có nạn đói, nhân dân sẽ
phải hứng chịu. Làm vua mà lại muốn làm hại dân chúng để mưu lợi riêng bản thân
mình, Trẫm làm sao còn xứng đáng làm vua nữa? Lão Tử nói: Vua của thiên hạ cần
gánh chịu những điều chẳng lành của quốc gia. Tất cả đều để cho Trẫm tự mình
gánh chịu! Chỉ cần nhân dân sống thật tốt, thì Trẫm không ngại cái chết, không
dùng những biện pháp tệ hại của các khanh đâu.
Suy nghĩ của Cảnh Công
làm Tử Vi cảm động, thối lui mấy bước, cùng tất cả các quan đại thần đồng loạt
vái lạy Cảnh Công, nói: - Ngài tình nguyện tự mình chịu nạn như thế, Đức hạnh
không chịu giá họa cho thần dân, nhất định sẽ làm cảm động tới Thiên Đàng.
Thiên Đế chẳng những có thể miễn tai họa cho Ngài, mà Ngài còn có thể được tăng
thêm tuổi thọ nữa.
Cảnh Công nói: - Khanh
làm sao biết được là sẽ như thế?
Tử Vi trả lời: - Trời
mặc dù ở tít trên cao, nhưng lại có thể nghe được những thanh âm nhỏ nhất dưới
hạ giới. Hoàng thượng có 3 điều thiện đối với Tể tướng, thần dân và mùa màng,
nên Trời sẽ 3 lần ban thưởng cho Hoàng thượng. Tối nay sao Hỏa chắc chắn sẽ rời
xa sao Tâm Túc 3 xá (xá là đơn vị để đo khoảng cách giữa các vì sao thời ấy).
Một xá có thể có 7 vì sao, mỗi sao ứng với 1 năm. 3 lần 7 là 21, Hoàng thượng
sẽ được tăng thêm 21 năm tuổi thọ nữa. Tối nay có thể phái người quan sát thiên
tượng sẽ thấy.
Cảnh Công nói: - Sao cơ?
Buổi tối sẽ quan sát thử xem!
Tối hôm đó, quan Thái sử
giúp Cảnh Công cùng Tử Vi quan sát sao Hỏa một cách cẩn thận. Họ phát hiện thấy
sao Hỏa quả thật dời đi 3 xá, ra khỏi phạm vi của sao Tâm Túc, đúng như lời Tử
Vi đã nói. Mọi người đều nói Cảnh Công quan tâm đến muôn dân, đức hạnh cảm động
Trời cao, nhờ đó nước Tống cũng tránh được tai nạn.
Tống Cảnh Công làm vua
61 năm, cai trị dân chúng một cách nhân từ và độ lượng. Ông vô cùng kính trọng
Lão Tử và Khổng Tử, làm theo những lời dạy của họ về phương lược trị vì đất
nước. Ông tuân Lễ, trọng Đức, nhờ vậy trăm họ được an cư lạc nghiệp, thiên hạ
thái bình.
79. CỨU NGƯỜI KHÁC
LÀ TỰ CỨU MÌNH
Trong sách “Duyệt vi
thảo đường bút ký” của Kỷ Quân, tự là Hiểu Lam, là một học giả, một nhà văn
thời đại nhà Thanh viết về chuyện một người thường hay cứu giúp người khác,
cuối cùng nhờ đó tự cứu được bản thân mình.
Nội dung câu chuyện như
sau:
Huyện Hiến có một người
họ Sử, mọi người đã quên mất tên ông, nên thường gọi ông là lão Sử. Lão Sử mặc
dù là người không câu nệ tiểu tiết, nhưng rất chính trực, khinh thường những hạng
người tiểu nhân hèn hạ mặt dày mày dạn.
Hôm ấy, ông đang trên
đường từ sòng bạc về nhà, đi tới chỗ chợ phiên thì thấy một gia đình từ nông
thôn đến. Cả nhà ấy có 3 người: Chồng, vợ và một đứa bé, ba người bồng bế nhau
đang khóc thảm thiết. Những người hàng xóm của nhà ấy nói: “Vì mắc nợ bọn cường
hào ác bá, người chồng phải bán vợ lấy tiền trả nợ. Vợ chồng nhà ấy rất thương
yêu nhau, khó lòng bỏ nhau được; hơn nữa đứa nhỏ vẫn còn bú mẹ, đang trong lúc
ly biệt cho nên đau buồn”.
Lão Sử hỏi: “Mắc nợ bao nhiêu?”.
Người gần đó trả lời:
“Thiếu nợ 30 lượng”.
Lão Sử hỏi: “Định bán
người vợ bao nhiêu tiền?”.
Trả lời: “Bán 50 lượng,
làm vợ lẽ người khác”. Lão Sử lại hỏi: “Có thể không bán cô ta, để cô ta về nhà
được không?”. “Vừa mới viết khế ước xong, còn chưa giao tiền, cũng chưa lăn dấu
tay, nếu trả tiền thì có thể chuộc lại”. Lão Sử lập tức lấy 70 lượng vừa mới
đánh bạc thắng được lúc nãy giao cho người chồng, bảo:
- Ta cho các vị 30 lượng
trả nợ, còn 40 lượng cho thêm để các vị về nhà duy trì cuộc sống. Không cần
phải bán vợ nữa.
Người chồng nhận được 70
lượng. Hai vợ chồng nhà ấy vô cùng cảm ơn lão Sử. Sau đó, mời lão Sử về tận
nhà, làm gà dâng rượu chiêu đãi nồng hậu. Người chồng tranh thủ bế đứa bé đi,
mắt ra hiệu cho người vợ, ý là “hết lòng báo đáp” công ơn của lão Sử. Người vợ
gật đầu, rồi ngầm bóng gió.
Lão Sử biết được, lập
tức trang trọng, nghiêm túc nói: “Lão Sử ta ngày xưa từng là ăn cướp, sau này
làm sai nha. Ta từng giết người không hề chớp mắt. Giờ nếu thừa nước đục thả
câu, làm ô nhục phụ nữ, thì quả là không còn chút tính người. Việc như thế này,
thật không thể làm được!”. Không nói nhiều lời, quay đầu đi thẳng.
Nửa tháng sau, chỗ lão
Sử ở nửa đêm phát cháy. Khi ấy đang là mùa thu, nhà nào nhà nấy lương thực và
củi đốt đều chất thành đống thành chồng. Gió giúp thế lửa, bốn phía lửa cháy dữ
dội. Lão Sử và vợ con tự thấy không thể nào chạy thoát, chỉ còn cách ngồi chờ
chết. Đột nhiên họ nghe thấy trong không trung tiếng một người nói: “Thần núi
Đông gửi văn kiện khẩn cấp, nói rõ: Nhanh chóng đến các gia đình đã dự định sẽ
thiêu hủy, chỉ trừ gia đình lão Sử, không thể thiêu hủy nhà lão Sử“. Kế tiếp
chợt nghe thấy tiếng ầm ầm, bức tường phía sau nhà lão Sử đổ sập thành một lỗ
lớn, lão Sử liền tay trái đỡ vợ, tay phải ôm con, nhảy ra ngoài, tựa như trên
người có cánh, nhảy một cái vọt ra rất xa.
Đến khi lửa tắt, mọi
người xem xét thống kê lại, số những người bị lửa thiêu chết chiếm 9 phần. Một
nhà lão Sử đều là người may mắn sống sót. Trong nhà ông, quần áo lương thực …
đều không hư hao tổn thất gì cả. Tu bổ lại bức tường sau nhà, thế là rất nhanh
chóng đã phục hồi nguyên trạng ban đầu.
Những người ở gần đó đều
chắp tay chữ thập, vui mừng cho nhà lão Sử, nói: “Chúng tôi lúc ấy còn cười
thầm lão Sử là một tên ngốc, đem 70 lượng, không đắn đo suy nghĩ cho người
không hề quen biết! Không ngờ rằng: Ông dùng 70 lượng mà cứu được mạng sống của
3 người nhà ông! Cần phải cảm tạ thần linh phù hộ!”.
Kỷ Quân tả đến đây, đặc
biệt nói: “Tôi cho rằng, một nhà lão Sử đã được thần linh phù hộ, đó là điều
chắc chắn. Công Đức cho tiền chiếm 4 phần, công đức cự tuyệt sắc dục, không làm
ô uế vợ người khác chiếm 6 phần”.
80. NHÂN QUẢ BÁO
ỨNG NHÃN TIỀN
Chuyện xưa kể lại rằng:
Ở thành Hàng Châu (Trung Quốc) có một cửa hiệu tơ tằm nọ, mở cửa hàng đã hơn
mười năm, làm ăn cũng phát tài, may mắn nhưng chủ nhân lại là người tâm địa hẹp
hòi, chuyên làm chuyện bất nhân, bất nghĩa...
Một năm, khu vực đó phát
sinh hỏa hoạn, lửa cháy lan đến cửa hiệu tơ tằm ấy. Phía sau cửa hiệu là nhà
của một gia đình có 3 người, sống bằng nghề giặt là quần áo, khi ra vào nhà thì
buộc phải đi qua cửa hông của hiệu tơ tằm vì đó là lối ra vào duy nhất.
Lúc lửa đang cháy dữ
dội, gia đình nghèo ấy không ngừng kêu thất thanh “Mở cửa ra!” hy vọng có thể
thoát qua cửa hông mà bảo toàn mạng sống. Ngờ đâu người chủ cửa hiệu tơ tằm vì
để thuận tiện vận chuyển hàng hóa, đã khóa chặt cửa hông, không cho mở. Đến lúc
chuyển đồ đạc xong, lửa cũng đã dập tắt, thì cả gia đình nhà nghèo kia đều đã
bị chết cháy.
Một năm sau, chủ cửa
hiệu tơ tằm đột ngột qua đời. Một đêm nọ, ông ta báo mộng cho con trai nói
rằng: “Ta đã hại chết cả nhà người ta, nên Âm Tào không cho chuyển sinh làm
người nữa, mà phải nhập thai là lợn. Hiện giờ ở tại một nhà nông nọ có một lợn
mẹ sinh được 4 lợn con, con lợn mà trên thân có cái bớt màu đỏ chính là ta đó.
Con hãy hỏi vị nông dân kia, xin mua rồi đưa ta về nhà nuôi, để tránh bị người
ta xâu xé”. Nói xong người cha càng khóc lớn.
Con trai ông ta sau khi
tỉnh dậy, cảm thấy cảnh mộng sao mà giống y như thật, bèn dựa theo những lời
cha chỉ dẫn trong mộng mà tìm đến nơi ấy. Quả nhiên là có một con lợn mới sinh
trên người có cái bớt màu đỏ thật.
Con lợn nhỏ nhìn thấy
con trai tới thì kêu gào thảm thiết đứng lên, điệu bộ giống như đang lạy lục
van xin. Con trai ông ta liền dùng tiền mua nó về nhà, còn chuẩn bị một gian
phòng cho nó ở, hơn nữa còn thuê người hầu hạ nó, đối đãi với nó giống như đối
với cha mình khi còn sống.
Được mấy ngày, người con
trai lại nằm mộng thấy cha nói rằng: “Ta khi còn sống tội ác tày trời, sau khi
chết nếu đã tái sinh thành súc vật mà ăn uống sinh hoạt vẫn như người lúc còn
sống, thế thì chỉ có tăng thêm nghiệp chướng. Sau này, con không cần cho ta ăn
thức ăn hạng nhất, lại càng không tắm gội cho ta nữa, chỉ có thể chăn nuôi ta
như nuôi loài súc vật. Nếu không, ta sẽ khó trả ác nghiệp quá nặng của mình.
Sau khi chết điều gì ta cũng đều hiểu rõ, nhưng cũng chỉ biết hối hận mà thôi.
Con nhất định cần phải biết yêu quý thân người và làm việc thiện đó!”.
Vốn là người con hiếu thảo nên con trai của hiệu tơ tằm rất đau lòng khi buộc phải chăm sóc cha mình như chăn nuôi gà, lợn. Càng thương cha, anh ta càng chăm lo làm việc thiện nên sau một thời gian, người cha lại hiện về báo mộng: “Con ạ, ta đã được Âm Tào cho phép đầu thai làm người vì ta đã biết ăn năn hối cải về những tội ác ta làm khi còn sống và nhất là những