BÀI THƠ "VẤN THOẠI" CỦA HỒ CHÍ
MINH
VÀ QUAN HỆ GIỮA QUAN TÒA VÀ BỊ CAN
*
(Tác giả Trần Đình Sử) |
Gần đây vụ án oan của ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc
Giang phải ngồi tù 10 năm mà ông không hề có tội giết người đã chấn động dư
luận xã hội. Mặc dù ông Chấn và gia đình đã kêu oan nhiều lần mà vẫn bị y án.
Mãi đến khi người nhà ông Chấn điều tra, động viên người phạm tội ra đầu thú,
thì ông Chấn mới được trả tự do. Từ vụ án đó, tôi bỗng nhớ tới một bài thơ độc
đáo của ông Hồ Chí Minh. Trong tập Nhật kí trong tù ông
Hồ Chí Minh có bài thơ Vấn thoại rất đặc biệt, nó khác
hẳn mọi bài thơ trong tập. Nếu các bài thơ khác hoặc kêu oan, hoặc tố cáo, hoặc
phản ánh sinh hoạt trong tù, hoặc thể hiện ý chí gang thép, hoặc nỗi nhớ đồng
chí trong nước, hoặc lấy lòng bọn quan coi tù… thì bài thơ này đứng riêng ra,
nó nói một vấn đề triết học xã hội, một chân lí phổ biến. Nó không còn là thơ
trữ tình, mà là một bài thơ triết học duy nhất trong sự nghiệp thi ca của ông.
Nguyên văn chữ Hán của bài thơ được phiên âm Hán Việt như sau:
Xã hội đích lưỡng cực,
Pháp quan dữ phạm nhân;
Quan viết: Nhĩ hữu tội,
Phạm viết: Ngô lương dân;
Quan viết: Nhĩ thuyết giả,
Phạm viết: Ngã ngôn chân;
Pháp quan tính bản thiện,
Giả trang ác ngân ngân;
Yếu nhập nhân ư tội,
Khước giả ý ân cần;
Giá lưỡng cực chi gian,
Lập trước công lý thần.
(Tài liệu đã dẫn, tr. 320)
Nhan đề bài thơ hiện có nhiều cách dịch. Báo Nhân Dân ra ngày
13 tháng 5 năm 1978 dịch là “Hỏi tội” thực ra là không đúng, Vấn
thoại không phải là hỏi tội, mà dịch là “hỏi chuyện” thì chẳng liên can
gì tới nội dung bài thơ. Bản dịch do Nhà xuất bản Giáo dục cung cấp năm 1993
trong sách Suy nghĩ mới về Nhật ký trong tù, dịch là “Lời
hỏi” (tr. 321), đã sát hơn nhiều, nhưng chưa rõ tinh thần. Theo tôi có thể
dịch là “Câu hỏi” hay “Cật vấn” sẽ làm rõ vấn đề hơn.
Bản dịch nghĩa bài thơ của Nhà xuất bản Giáo dục, tr. 321 như
sau:
Hai cực của xã hội,
Quan tòa và phạm nhân,
Quan bảo: anh có tội;
Phạm nhân thưa: tôi dân lành;
Quan bảo: anh nói dối;
Phạm nhân thưa: tôi nói thật;
Quan tòa tính vốn thiện,
Lại hầm hầm giả làm bộ ác;
Muốn khép người vào tội;
Lại ra vẻ ân cần.
Giữa hai cực này,
Có thần công lý đứng.
Bài này đã được ông Hoàng Ngọc Hiến bình luận trước tiên
trong sách Văn học học văn, in năm 1990, tr. 74-77. Hoàng Ngọc Hiến cho
rằng bài thơ phản ánh tòa án Tưởng Giới Thạch, thể hiện tình trạng tha hóa của
quan tòa, do người vốn hiền lành, mà vì vai trò quan tòa là buộc phải khép
người phạm nhân vào tội. Do ông dựa vào bản dịch sai của báo Nhân Dân ở câu
cuối: “Giữa hai thái cực này, Đã dựng lên thần công lý rõ ràng.” Ông đã
bình: “Thần công lý dựng lên rõ ràng giữa hai thái cực, có nghĩa là người
xét xử không phải là người đại diện cho công lí. Thần công lí sẽ phán xét lại
người xét xử và người bị xét xử. Người lương dân sẽ được minh oan. Viên quan
tòa sẽ bị lên án. Trao cho chúng ta mô hình công lí, tác giả chuẩn bị cho chúng
ta một tâm thế, một quan điểm để phán xét lại tất cả những vụ xét xử bất công.”
(Tài liệu đã dẫn, tr. 76). Phải công nhận rằng Hoàng Ngọc Hiến phân tích rất
sắc sảo, phân biệt người quan tòa và vai trò của hắn là khép tội, hắn sẽ bị
thần công lí xét hỏi. Tác giả cũng nhận thấy tay quan tòa khó hiểu. Nó vốn
thiện sao lại làm bộ ác? Đã lương thiện sao lại giả ý ân cần để khép phạm nhân
vào tội?
Theo tôi, bài thơ nêu vấn đề công lí trong xã hội lưỡng cực,
một vấn đề rộng hơn nhiều. Quan tòa và phạm nhân là biểu tượng cho lưỡng cực xã
hội. Quan tòa là biểu tượng của quyền lực, còn phạm nhân là biểu tượng người bị
trị. Chính ông Hồ Chí Minh đã dùng chữ “xã hội đích lưỡng cực” cơ mà,
đâu phải là lưỡng cực của tòa án? Ông Hoàng Ngọc Hiến đã vô tình hiểu hẹp ý
nghĩa của bài thơ đi. Đây đâu phải chuyện quan tòa và phạm nhân trên phiên tòa
xử án, mà là mô hình xã hội lưỡng cực. Quả vậy, nếu ta xem kĩ việc xử án ở
trong bài thơ thì sẽ thấy hoàn toàn không giống với việc xử án trên thực tế tí
nào. Mà việc xử án đâu có chuyện giản đơn chỉ có quan tòa và phạm nhân kẻ nói
qua, người nói lại như là hai gã cãi nhau tay đôi như vậy! Phải có nhân chứng,
vật chứng, có luật sư bào chữa cho bị can. Sau đó mới đến phần luận tội rồi tòa
mới tuyên. Trong xã hội lưỡng cực, người dân chỉ có quyền kêu oan, còn kết tội
thì chỉ chức năng trời sinh của quan tòa. Quan tòa vốn lương thiện, cớ sao ông
ta giả bộ hầm hầm làm ác? Đó là vì vai trò của hắn ta là chỉ muốn buộc tội cho
bị can, khép tội người lương dân. Hắn làm bộ ác, để dọa dẫm, ép cung, nhằm hoàn
thành nhiệm vụ. Trường hợp thứ hai, muốn bắt phạm nhân nhận tội, thì lại giả bộ
ân cần, quan tâm hoàn cảnh, số phận, gia đình, tương lai, con cái nạn nhân, rồi
hắn mớm cung để đưa họ vào tròng tội lỗi lao lí. Dù làm bộ ác hay làm bộ ân cần
quan tâm thì mục đích chỉ là một: khép người bị can vào tội… Điều lạ lùng là
quan tòa trong bài thơ không bao giờ nghĩ đến trường hợp bị can vô tội. Họ
không có khái niệm bị can vô tội. Ai mới đọc qua bài thơ này, có thể nghĩ rằng
ông Hồ Chí Minh uyên bác thế, mà ở đây có vẻ như đã dùng từ sai, không chính
xác. Nếu người chưa thành án, thì chỉ là bị can, chưa có tội, thì đâu phải là
phạm nhân. Chữ “phạm” ở trong bài thơ rõ ràng chứng tỏ ông cụ đã đồng
nhất bị can với phạm nhân làm một là không đúng. Nhưng mặt khác, ông Hồ Chí
Minh lại quả là rất thâm thúy, bởi vì trong xã hội phân lưỡng cực, mọi bị can
đều đã là phạm nhân, cho nên đâu cần phân biệt làm gì cho mất thì giờ. Đây là
điều cực kì sâu sắc. Bởi chính đây mới là sự bất công phổ biến, tất yếu của mọi
xã hội lưỡng cực. Khi mọi bị can đều là phạm nhân thì cần gì phải xử án nữa,
đâu cần công lí nữa? Vậy công lí đứng ở đâu?
Theo tôi, bản dịch trên báo Nhân Dân mà ông Hoàng Ngọc Hiến
sử dụng là không chính xác: “Giữa hai thái cực ấy, Đã dựng lên thần công lí
rõ ràng”, bởi trong nguyên văn không hề có chữ “rõ ràng” nào hết. Đó
là người dịch tùy tiện thêm vào. Nguyên văn chỉ là: “Giữa hai cực ấy, Có
thần công lí đứng”. Nhưng nói vậy thì ông Hồ Chí Minh có vẻ lại rơi vào mâu
thuẫn. Bởi xã hội đã phân thành lưỡng cực thì thần công lí đâu có chỗ đứng.
Theo tôi hiểu, trong bài thơ này, thần công lí vắng mặt, chứ không phải là “thần
công lí đã dựng lên rõ ràng”. Ông Hồ Chí Minh đã nêu ra một vị trí khuyết.
Nếu đã có thần công lí đứng rõ ràng rồi thì xã hội đâu còn là lưỡng cực, mà đã
là tam cực rồi, mà như thế thì việc xử án đã công minh. Cái bất hạnh của người
dân là chỉ được ở trong xã hội lưỡng cực, mà đã là lưỡng cực thì không có chỗ
cho thần công lí đứng. Ông Hoàng Ngọc Hiến nhầm lẫn sâu sắc ở chỗ này. Ông Hồ
Chí Minh chỗ này lại cũng sâu sắc thâm thúy. Bởi “Thần công lí” chỉ là
cái sương khói vô hình, nó đâu có thực thể, đâu có quyền lực. Ông thần có đứng
ở đấy nữa thì cũng chẳng có tác dụng gì. Đó chỉ là hư vị để an ủi tinh thần và
che mắt thế gian. Đúng hơn nó là một ước mơ. Ông Hồ đang ước mơ có một thần
công lí ở đây. Nhưng vấn đề không phải là thần. Phải là một cơ quan với con
người thực thể có quyền lực xã hội thì nó mới giải quyết được công lí. Mà trong
xã hội lưỡng cực nó lại vắng mặt. Thần công lí phải có vị trí xứng đáng trong
cơ cấu xã hội. Ta phải hỏi tại sao ông Hồ phải ở tù oan tại Quảng Tây hơn một
năm, trong khi đó tại tòa án Hương Cảng, ông được tha. Ta phải hỏi tại sao ông
Phan Bội Châu lại được ân xá dưới tòa án của Pháp, chứ không phải của tòa án
Nam triều. Công lí nằm trong cơ cấu xã hội, chứ không ở thần phật nào hết.
Không có tổ chức xã hội tương ứng thì không có công lí.
Bài thơ dĩ nhiên là phản ánh suy tư của ông Hồ Chí Minh về
thân phận lao tù, bị bắt oan ở phố Túc Vinh của mình với tư cách là người bị
bắt, bị can, bị nghi là Hán gian mà chưa tìm được thần công lí. Nhưng cái lớn
của ông trong bài này là đã vượt lên trường hợp riêng của mình để nghĩ đến tính
phi lí của xã hội lưỡng cực. Bài thơ nêu một chân lí bất hủ về mọi xã hội lưỡng
cực. Rất tiếc về sau ông cũng bị dư luận quy cho là người xây dựng và duy trì
xã hội theo mô hình lưỡng cực mà có lúc ông đã rơi vào.
Đọc bài thơ Vấn thoại sâu sắc của Hồ
Chí Minh ta hiểu rõ ông Nguyễn Thanh Chấn là nạn nhân của xã hội lưỡng cực, nhưng
“thần công lí” của ông chẳng ai khác hơn là người vợ tao khang đã 10 năm
ròng rã, không quản khó khăn, gian khổ, tìm được một cách hi hữu kẻ giết người
đích thực để làm cơ sở kết thúc vụ án oan cho chồng. Nó chỉ là một may mắn hết
sức ngẫu nhiên trong một xã hội lưỡng cực.
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH KÊU GỌI TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN:
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH ĐỌC TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP:
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TRẢ LỜI PHỎNG VẤN
CỦA PHÓNG VIÊN BÁO NƯỚC NGOÀI:
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Đọc lại bài thơ
“Cảnh Khuya” của Hồ Chí Minhl
- Đêm Nay Bác
Không Ngủ” và 10 bài cảm nhận mẫul
- Phân tích một số
bài thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minhl
- Về một quãng
thời gian trong tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minhl
- Hồ Chí Minh và
người Mỹ trong cách mạng tháng 8l
- Hồ Chí Minh, Hồ
Tập Chương và còn gì nữa?l
- Lời Cụ Hồ ca
ngợi vua Gia Long bị cắt bỏl
- Khrushchev nói
về quan hệ Stalin-Hồ Chí Minhl
- Những con số
“duyên nợ” của các danh nhânl
- Kể chuyện Bác
Hồ: Đêm giao thừa đến với người nghèol
- Đêm giao thừa
nhớ thơ chúc Tết mừng Xuân của Bác Hồl
*.
TRẦN ĐÌNH SỬ
Địa chỉ: phố
Nguyễn Huy Tự, phường Bạch Đằng,
quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
Email: trandinhsu@yahoo.com
.............................................................................................................
- Cập nhật từ email: datinh_1974@yahoo.com,
ngày 15.03.2021.
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn:
internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của
trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
phân tích rất sắc bén
Trả lờiXóa