TỬ PHÁC -
MỘT SỐ PHẬN BI THẢM
Nhạc
sĩ Tử Phác là một trong những số phận bi thảm nhất trong các nhân vật chủ chốt
của Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.
Cần
phải giải thích thêm là tại sao tôi dùng chữ Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bởi
vì ngay gần đây vẫn có người muốn phân biệt rạch ròi là ông này, ông kia chỉ
viết ở báo này, báo nọ không dính dáng gì đến báo Nhân Văn hoặc tạp chí Giai
Phẩm cả. Đúng là như thế, có những người như thế, như ông Phan Ngọc vừa mới mất
chẳng hạn. Tất nhiên ở thời kỳ đó cách dùng thuật ngữ chưa được chuẩn lắm nhưng
căn cứ vào tầm vóc của sự kiện, ảnh hưởng sâu rộng toàn xã hội của nó, biện
pháp đối phó xử lý các đối tượng của chính quyền, Nhân Văn Giai Phẩm không phải
chỉ là một nhóm mà là cả một trào lưu dân chủ rộng lớn ở miền Bắc được sự hưởng
ứng trong khắp các tầng lớp nhân dân, trí thức, văn nghệ sĩ, học sinh, giáo
viên, sinh viên. Chưa có sự hình thành tổ chức cụ thể nhưng Nhân Văn và Giai
Phẩm là trung tâm, là nơi phát đi những làn sóng xung động mạnh mẽ. Thế mới
biết rằng trong buổi đầu của xã hội toàn trị chính quyền luôn luôn lo ngại ảnh
hưởng của văn học nghệ thuật là vì thế.
Còn
với nhạc sỹ Tử Phác, tại sao gọi ông là một trong những số phận bi thảm nhất
của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm? Trong số các nhân vật chủ chốt của phong
trào này có nhiều người rơi vào bi thảm, nhưng chỉ có một số ít là bi thảm
nhất. Ngoài mức án, mức độ cắt bỏ chế độ chính sách, Tử Phác còn là người chết
vì ung thư năm 1982, cho đến nay chưa được một chút gì của chính sách đổi mới,
phục hồi như cho các chiến hữu bạn ông.
Tử
Phác tức Nguyễn Anh Chấn, tên thật là Nguyễn Văn Kim trong một gia đình quan
lại, giàu có, là nhạc sĩ, sinh năm 1923, nhà ở phố Hàng Giấy, khu chợ Đồng
Xuân, Hà Nội. Thời niên thiếu, ông thường viết nhạc cùng nhạc sĩ Lương Ngọc
Châu (cháu của Lương Văn Can trong Đông Kinh Nghĩa Thục). Mẹ ông là Trương Tần
Phác, hậu duệ của anh hùng Trương Định. Bút danh Tử Phác có nghĩa là con của bà
Phác.(Nhạc sĩ Tử Phác)
Vợ
Tử Phác là bà Lương Thị Nghĩa. Bà Nghĩa cũng là dân phố cổ như ông là em của
nhạc sĩ Lương Ngọc Châu. Ông ở Hàng Bạc, còn bà ở Hàng Ngang. Bà học piano từ
nhỏ. Kháng chiến, bà tản cư về Thái Bình giảng dạy âm nhạc và tham gia công tác
phụ nữ. Bà lên Việt Bắc năm 1950, công tác tại ngành điện ảnh. Ở Việt Bắc, họ
đã gặp nhau và thành hôn với nhau.
Năm
1945, đang học dở cử nhân luật ông tham gia kháng chiến chống Pháp. Tử Phác
được kết nạp vào Đảng Cộng sản và phụ trách tờ báo Thủ đô của khu II.
Năm
1949, được vào Ban Chấp hành Chi hội Văn nghệ Liên khu III.
Năm
1950, Tử Phác giữ chức Trưởng phòng Văn Nghệ thuộc Tổng cục Chính trị.
Năm
1952, ông làm Tổng Phụ trách Văn Công Quân đội.
Trong
thời gian này Tử Phác viết ca khúc nổi tiếng Tiếng hát quay tơ 1948.
Nhạc
sĩ Nguyễn Thụy Kha
viết:
“Riêng với “Tiếng hát quay tơ” của ông, nghệ
sĩ Kim Ngọc đã thể hiện hết sức tuyệt vời. Những ngày đầu đổi mới, bà Kim Ngọc
hát lại “Tiếng hát quay tơ” vẫn hay và nhuyễn như xưa. Bài hát cần rất nhiều
sắc thái khác nhau và bà đã thấm nhuần điều đó khi thể hiện. Đoạn thể hiện
chiến sĩ ngoài mặt trận cần mạnh mẽ, bà đã hát rất cuốn hút và bốc lửa: “Người
chiến sĩ ầm gió rít sương rơi/ Đẫm mình trong khói súng/ Chiến trường áo mong
manh/ Căm thù nuôi ấm thân/ Quyết lấy máu pha tô sắc cờ…”.
Đoạn
nối tiếp là tâm sự của người vợ ở hậu phương thì lại được thể hiện rất dịu
dàng, mượt mà trong bâng khuâng thương nhớ: “Chàng ra đi giữ miếng vườn này giữ mái tranh này/ Em về xa vắng thầm lo
cho cánh chim bay/ Chiều nghe rơi tiếng lá xạc xào em ngỡ/ Ngỡ bóng dáng ai về…”.
Và
thương nhớ đã quyến vào nhịp xa quay điệp khúc: “Quay quay thương nhớ luyến vào tơ/ Quay quay may áo rét dâng chàng/ Rộn
ràng tơ lướt tới người chiến sĩ yêu/ Quay quay thương nhớ luyến vào tơ/ Quay
quay may áo rét dâng chàng/ Mỗi một đường tơ là mỗi dây tình trong lòng/ Em
dâng người hiên ngang…””.
Tử
Phác còn là người quyết định hiện đại hóa nhạc múa sạp cho điệu múa dân gian
của các dân tộc Tây Bắc. Nhạc sĩ Mai Sao kể:
“Ngày ấy, sau chiến dịch Hòa Bình, văn công
quân đội “lượm” được một món đặc biệt Tây Bắc. Đó là điệu nhảy “sạp”. Điệu nhảy
thật đơn giản. Hai cây tre thon, dài chừng bốn mét gọi là “sạp”. Một chị ở một
đầu, một anh ở đầu bên kia, ngồi gõ “sạp” theo nhịp trống. Một đôi nam nữ nhảy
ra. Hai cây tre mở ra khép lại. Diễn viên trong sạp hoặc ngoài sạp cứ vỗ tay
đều đều theo nhịp gõ. Cũng có nhạc đệm. Có lúc na ná cò lả. Có lúc na ná trống
quân. Tại bãi lửa trại cùng thưởng thức nhảy “sạp” đêm đó, có nhạc sĩ Tử Phác
và nhà thơ Hoàng Cầm – Trưởng đoàn văn công Quân khu Việt Bắc cùng nhạc sĩ Mai
Sao – người chủ trương dùng mấy điệu nhạc trên cho “sạp”. Sau đêm diễn, khi
ngồi trao đổi. Hoàng Cầm nói với Tử Phác rằng múa thì độc đáo, nhưng phần nhạc
không ổn. Nhạc như thế thì khác nào bắt các cô gái Thái đội nón thúng quai
thao. Phải có đúng âm nhạc của “sạp”.
Tử Phác cũng cho rằng phải có một nhạc múa
“sạp” đúng là nhạc của miền Tây Bắc. Và thế là Tử Phác yêu cầu Mai Sao phải tìm
hiểu để viết ra một nhạc múa phù hợp. Tiếp thu chỉ thị của “thủ trưởng” Tử
Phác, Mai Sao trở lại Tây Bắc. Ở đó, anh cùng Bàng Thúc Hiệp đã đi nghe nhiều
điệu “khắp” (hát) dân ca Thái và sau nhiều tháng, Mai Sao đã viết ra điệu nhạc
múa “sòn sòn sòn đô sòn - sòn sòn sòn đô rê…”theo ngũ cung “rề - mi - son - la
- đố” về trình làng tại Tổng cục Chính trị vào mùa hè 1952.
Ngay lập tức, điệu nhạc múa “sạp” này được
O.T.K [nghiệm thu, ý nói được chào đón – Văn Việt] nhiệt liệt. Nó đã được phối
khí một cách nhuần nhụy, tinh vi với các nhạc cụ dân tộc: Trống cái, trống cơm,
khèn, sáo mèo, nhị, đàn tranh, đàn bầu cùng với các nhạc cụ Tây phương như
accordeon, guitare, violon, clarinet… Điệu nhạc được dùng cho điệu múa đã được
nhạc trưởng Lê Đóa phối hợp cùng đạo diễn múa Ngọc Minh đưa lên thành một tác
phẩm nghệ thuật hoàn hảo”.
Tử
Phác là một trong những người đi tiên phong trong phong trào Nhân Văn Giai
Phẩm. Tháng 4 năm 1955 ông cùng sáu bạn chiến đấu khác trong quân đội là Đỗ
Nhuận, Trần Dần, Hoàng Cầm, Trần Công, Trúc Lâm, Hoàng Tích Linh đệ trình Dự
thảo đề nghị cho một chính sách văn hóa lên Tổng cục Chính trị yêu cầu tự do
sáng tác, trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ, bãi bỏ hệ thống chính
trị viên trong các đoàn văn công quân đội, sửa đổi chính sách văn nghệ trong
quân đội.
Sau
phát pháo mở màn đầu tiên các ông bị kỷ luật và chuyển ra khỏi quân đội.
Từ
năm 1957-1958, Tử Phác là Thư ký tòa soạn của tạp chí Âm nhạc thuộc Hội Nhạc sĩ
Việt Nam. Ngoài công việc chính ông còn viết một số bài cho báo Nhân Văn và Giai
Phẩm.
Năm
năm 1959-1960, sau khi vụ Nhân văn Giai phẩm xảy ra, cùng với nhà thơ Lê Đạt
ông bị đưa đi cải tạo tại Nông trường Chí Linh Hải Dương. Trong các cuộc đấu tố
ông bị nhiều người đồng chí, đồng ngũ phản bội, lăng mạ, tố cáo cái quá khứ gọi
là quan lại, đốn mạt, xấu xa…
Tử
Phác cùng Đặng Đình Hưng bị khai trừ khỏi Hội Nhạc sĩ Việt Nam thời hạn 3 năm.
Kèm theo cái án này cũng là quyết định cấm lưu hành tác phẩm (treo bút) trong
thời hạn đó. Cũng như những nhà văn bên Hội Nhà Văn, cái án của Tử Phác kéo dài
cho tới khi ông chết, không ai trong giới lãnh đạo văn nghệ nghĩ đến việc cởi
trói cho họ.
Sau
khi cải tạo về Tử Phác không tìm được một việc làm nào. Không được bất cứ cơ
quan văn hóa nào nhận ông. Không có sinh kế, vợ con nheo nhóc, sống vất vưởng
nhờ tiền trợ giúp của gia đình nội ngoại ở Pháp, đồ đạc trong nhà bán dần dần
đến cả chiếc dương cầm, cái hương án…
Túng
quẫn Tử Phác đã phải cho vợ và các con vượt biên, chỉ giữ lại người con trai cả
đã lập gia đình.
Bế
cháu trong lòng đã có lúc ông viết những câu thơ buồn bã thế này:
Chiếc mặt nạ treo cao rạp hát
Nửa cười nửa khóc tấn trò đời
Cũng giống mặt tôi nửa người nửa ngợm
Tôi quay đi khỏi tủi mắt cháu tôi
Thẹn thùng ý tứ với nhà thơ
Tầm Dương canh khuya người kỹ nữ
“Tay ôm đàn che nửa mặt hoa”
Tôi giữ cháu tôi trên đùi tôi nhún nhẩy
Quay đầu đi giấu nửa mặt mo
Ở
một bài khác ông viết:
Tôi biết đi đâu biết về đâu
Ðất lửa khi nao là đất thánh
Cát bụi bơ vơ giữa địa cầu
Nay bạn mai thù không hiểu nổi
Chuyện đời nhân nghĩa lộn đầu đuôi
Tôi muốn hỏi trên đường vạn nẻo
Ðâu đất lành dung lũ chúng tôi
Nỗi
lo sợ khi “ném vợ con vào chỗ chết để đi
tìm đường sống” Tử Phác đã ghi lại trong một bài:
Xưa tiễn Kinh Kha có sá gì
Sá gì tiếng sáo Cao Tiệm Ly
Sầu thế kỷ muôn lần hơn chuyện cổ
Tìm em nơi nao trên biển đông
Thuyền con như lá rớt giữa dòng
Lòng biển tối đen lòng đời hiểm độc
Em lênh đênh theo định mệnh hãi hùng
…..
Ðất đuổi tôi ra biển
Biển quẳng tôi về đâu
Chỉ nghe trong sóng gió
Thảm thiết thiết hải âu
…..
Không
biết trên thế giới có bao nhiêu dân tộc người ta đã phải làm cái việc cố gắng
lìa nhau để sống, vui mừng vì có người đi thoát khỏi đất nước, dù chẳng còn
mong có ngày gặp lại.
Năm
1982, Tử Phác mất trong cảnh cô đơn, nghèo đói, đau đớn vì bệnh ung thư vòm
họng. Đám ma ông buồn bã, lặng lẽ. Theo sau quan tài có mấy người bạn Nhân Văn
Giai Phẩm.
Nhà
thơ thơ Trần Dần tế ông:
Ngày xửa, ngày xưa… có một chàng trai…
trong ầm ầm… gió rét… mưa bay…
động tâm vì những người chiến trường áo mong
manh…
liều lấy cả tuổi xanh mình… tim thật mình…
quay tơ… may áo…
ai ai đều nhớ…
mỗi một đường tơ là mỗi dây tình…
dâng người hiên ngang
Thế là khúc tâm ca thành áo ấm trữ tình
Cho hơn môt thế hệ những người áo mong
manh chiến trường
Nghe âm vang lên tiếng chiến chinh
Mơ làm diều mang sáo thanh bình
Nghe vườn cây xao xác gió may
Mơ làm chiếc lá úa rơi đầy
Rất
tiếc nhạc sĩ Tử Phác từ giã cõi đời quá sớm khi ông vừa đầy 60 tuổi vào lúc
cuộc sống miền Bắc cực kỳ khó khăn và cũng chưa thấy một chút hy vọng nào về sự
cởi mở đối với văn nghệ nói chung và với Nhân Văn Giai Phẩm nói riêng.
Ngày
hôm nay thế hệ con cháu chúng ta, các bạn trẻ có lẽ rất ít ai biết đến cái tên
Tử Phác. Nhưng trong tâm trí của cha anh họ cái giai điệu tài hoa đậm chất Hà
Nội của Tiếng hát quay tơ vẫn còn lưu luyến trong ký ức.
Trong
tiến trình dân chủ hóa của đất nước, tên tuổi của nhạc sĩ Tử Phác không phai mờ
cùng Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.
LÊ HOÀI NGUYÊN (tên
thật Thái Kế Toại)
Địa chỉ: 140/33 Khuất
Duy Tiến, Nhân Chính
quận
Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
........................................................................................
-
Cập nhật từ email: tranthanhban1956@gmail.com ngày 10.09.2020.
-
Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại..
0 comments:
Đăng nhận xét