KIỂM
DỊCH ‘LUẬN CHIẾN VĂN CHƯƠNG’
CỦA
CHU GIANG
Phê bình “kiểm
dịch” các nhà nghiên cứu, nhà phê bình vậy nhưng Chu Giang để lộ ra nhiều chỗ
ông chẳng bà chuộc trong các bài bút chiến của mình.
“Luận chiến Văn chương” (quyển 4),
gồm 30 bài viết, đa số in trong tuần báo Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh được
tác giả tập hợp lại in thành sách. Nội dung các bài viết trong sách, tác giả
Chu Giang - Nguyễn Văn Lưu “kiểm dịch” các giáo sư: Phong Lê, Trần Đình Sử
(“Kiểm dịch Giáo sư Phong Lê hai triệu câu Kiều” (tr. 21- 29); “Kiểm dịch Giáo
sư Trần Đình Sử” với 3 bài (tr. 79 - 114)… Đồng thời, tác giả phê bình các giáo
sư, tiến sĩ: Trần Hữu Tá, Chu Văn Sơn, Văn Giá… các nhà văn: Nguyên Ngọc,
Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Xuân Nguyên,…
LƠ TƠ MƠ VỀ LỊCH SỬ
Chẳng hiểu sao, gần
đây, cứ ai nhắc đến Chu Giang - Nguyễn Văn Lưu là tôi lại gật gù nhớ đến câu
thơ của Tố Hữu “mắt sáng quắc tay xanh
lòe mã tấu”. Mới đọc Chu Giang thì thấy tác giả có cái miệng biện sĩ, thành
thạo đủ cả chuyện Đông Tây kim cổ, kể ra, nếu có chỗ tranh luận thì hẳn miệng
biện sĩ này ắt là nên đưa đi tiên phong vào chỗ trận tiền. Nhưng quả thật,
những kiến thức mà Chu Giang viết trong “Luận
chiến Văn chương” (quyển 4) còn rất lỗ mỗ. Đầu tiên là lơ tơ mơ về kiến
thức lịch sử.
Trong bài “Mấy vấn đề Văn học từ Hội nghị Tam Đảo”
(2016), khi trao đổi với nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân, trong 2 trang 241 và
241, nhiều lần Chu Giang nhắc đến mốc người Pháp đô hộ Việt Nam suốt trăm năm
(1847 - 1945).
Tôi không rõ cái
mốc năm 1847 Chu Giang nghe lỏm ở đâu, chứ các bộ chính sử của chúng ta đều
viết, người Pháp chính thức nổ súng xâm lược Việt Nam ngày 31/8/1858 ở bán đảo
Sơn Trà (Đà Nẵng). Trong “Lịch sử Việt
Nam” (tập 3) do Giáo sư Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Nguyễn Văn Khánh,
Phạm Hồng Tung, Phạm Xanh, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội (2016) và mới
đây nhất, bộ “Lịch sử Việt Nam”
(15 tập), do Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đức Cường - Chủ tịch Hội Khoa học Lịch
sử Việt Nam làm Tổng chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội (2017) cũng đều ghi
nhận thời điểm Pháp xâm lược Việt Nam là năm 1858.
Chính từ mốc Pháp
nổ súng đánh Đà Nẵng năm 1858 nên Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong “Tuyên ngôn Độc lập”: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân
gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập”.
Đấy là sai sót lịch
sử thứ nhất của Chu Giang.
Chu Giang viết
nhiều về Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp chí, nhưng viết rằng năm 1934 Phạm Quỳnh
được đưa vào Nam triều (tr. 54) và báo Đông Tây của Hoàng Tích Chù định công kích
Nam Phong (tr. 55) thì lộ ra cái sai sót thứ hai về lịch sử.
Năm 1932 Phạm Quỳnh
đã vào Nam triều làm Ngự tiền Đổng lý Văn phòng. Còn năm 1934 là Nam Phong tạp
chí đóng cửa sau 17 năm hoạt động. Và Hoàng Tích Chù (1912 - 2003) là tên của
họa sĩ đạt Giải thưởng Hồ Chí Minh về Mỹ thuật. Còn người làm báo Đông Tây mà
Chu Giang muốn nhắc đến, không có dấu huyền, tức là Hoàng Tích Chu (1897 -
1933). Đó là hai anh em.
Sai sót thứ ba về
lịch sử của Chu Giang khi viết về nhiều trí thức tinh hoa của Việt Nam thời cận
đại và hiện đại. Trang 323 viết sự kiện năm 1916 trước khi Trần Trọng Kim cho
in “Việt Nam sử lược” thì có
biến Trung Kỳ, Trần Cao Vân và nhiều người khác bị xử chém. “Hoàng đế nước An Nam - Vua Thành Thái - thì
bị đày đi tận đảo Réunion, giữa đại dương, gần cực nam Phi châu” (tr. 323).
Sự thật, vua Thành
Thái đã bị phế truất từ năm 1907. Vị vua của nước An Nam lúc này mà Chu Giang
muốn nói là Hoàng đế Duy Tân, con trai của vua Thành Thái.
Trang 263, Chu
Giang viết: “cụ Nguyễn Văn Tố, nguyên Phó
Chủ tịch Quốc hội, đã hy sinh trong kháng chiến chống Pháp…” là sai. Cụ
Nguyễn Văn Tố là Chủ tịch Quốc hội đầu tiên (2/3/1946). Khi hi sinh, cụ
Nguyễn Văn Tố đương chức Bộ trưởng Không bộ của Chính phủ.
Chu Giang dẫn sự kiện
“Lò vôi thế kỷ” (Hà Giang - 1979) ở trang 272 thì tôi không rõ đấy là lò vôi
nào. Phải chăng lò nung vôi để tôi rồi xây nhà? Chứ còn “Lò vôi thế kỷ” ở Hà
Giang trong cuộc chiến đấu chống Trung Quốc xâm lược là chỉ chiến trường Vị
Xuyên mãi năm 1984 kia ạ.
Chỉ riêng trang 267
thì nhiều sai sót về lịch sử của Chu Giang khi viết “Tứ long Quỳnh - Vĩnh - Tốn - Tố” và viết về Nguyễn An Ninh “Nhật hất Pháp, ra tận Côn Đảo mời ông về
cộng tác, làm Thủ tướng. Nguyễn An Ninh từ chối và hi sinh trong lao tù Côn Đảo”.
Thứ nhất, “Quỳnh - Vĩnh - Tốn - Tố” là Phạm Quỳnh,
Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn và Nguyễn Văn Tố được gọi là “Tứ hổ Tràng An”.
Còn “Tứ long” có lẽ do Chu Giang nhớ lộn lèo. Thứ hai, Nguyễn An Ninh chết ở
Côn Đảo ngày 14/8/1943. Vậy thì sau ngày Nhật hất Pháp (9/3/1945), họ ra Côn
Đảo mời vong hồn Nguyễn An Ninh về làm Thủ tướng ư?
THIẾU KIẾN THỨC BÀI
BẢN, HỆ THỐNG
Đọc “Luận chiến Văn chương” (quyển 4)
thấy Chu Giang dẫn Phạm Trọng Yêm, dẫn Phật,… Nhưng chỉ riêng câu tác giả dẫn
đi dẫn lại “Tiên thiên hạ nhi ưu chi ưu,
hậu thiên hạ nhi lạc chi lạc” (tr. 249, và nhiều trang khác) thì sai cả.
Câu này của Phạm Trọng Yêm, một nhà tư tưởng thời Bắc Tống, được trích trong “Nhạc Dương lâu ký”, đã quá nổi
tiếng phải là: “Tiên thiên hạ chi
ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”. Người ta lo trước cái lo của
thiên hạ, mà vui sau cái vui của thiên hạ như thế, đâu phải lẫn lộn “nhi -
chi”.
Trang 266, Chu
Giang nhầm giữa ông Tả Khâu Minh giữ chức Tả sử, là sử gia nổi tiếng của Trung
Quốc, sống cuối đời Xuân Thu, đầu đời Chiến Quốc, với ông Tả Từ thời Tam Quốc.
Chu Giang viết mỉa mai việc lạm phát tiến sĩ, có câu: “cần gì phải đi học tiến sĩ cho mất công tốn của, của mình, của Nhà
nước, chỉ cần làm theo ông Tả Khâu Minh là được (tức ông Bệnh Tả Truyện
thời Tam Quốc, đi đâu cũng đem theo sách đọc”.
Song điều khiến tôi
bất ngờ nhất ấy là khi Chu Giang nhắc đến Ngũ qui, Ngũ giới trong bài “Khi tiến sĩ đều là kẻ sĩ” (Gửi bạn
Trương Thanh Hùng) ở trang 272. Tác giả viết: “Còn Ngũ qui là qui Phật, qui Nho, qui Hồ Chí Minh, qui vũ trụ và qui
chính mình là trở về với bản thể, hòa cùng vũ trụ, thân Tứ Đại lại trở về Cát
Bụi. Vô thường mà Thường Hằng” (tr. 272).
Hình như khi viết
những dòng này, Chu Giang nhớ lộn lèo sang Đạo Lăng hoa hoặc Thanh Hải vô
thượng sư mà báo chí của ta 20 năm về trước đã phê phán là “Thanh Hải vô thượng… bịp”?
Trong Phật pháp thì
có Tam qui và Ngũ giới. Ngũ giới là: không sát sinh, không trộm cắp, không tà
dâm, không nói dối và không uống rượu. Còn Tam qui, nói cho đủ là Qui y Tam Bảo
(Tam Bảo là 3 ngôi báu: Phật, Pháp, Tăng). Qui y Tam Bảo là Quay trở về nương
tựa ở Phật, Pháp, Tăng.
Nay đọc thấy Chu
Giang viết Ngũ qui như vậy làm tôi nhớ đến Tiến sĩ B.T.H viết trên Facebook về
chuyện mấy ông quán nước Giáp, Ất, Bính, Đinh hỉ hả bảo nhau là có một loại giống
mới lai ghép thành công giữa cụ Xít-ta-lin ở bển với Mẫu Thượng Ngàn ở ta: “Sáng đọc nghị quyết, chiều bắc ghế hầu đồng,
tối họp chi ủy, nửa đêm áp vong gọi hồn đa cấp. Sống và làm việc theo lời thầy
bói, định hướng theo thầy địa lý, ủ mưu tranh đấu dựa thầy bồ thủy, cô hồn..;
rồi thì sáng tạo ra kinh tế siêu nạc/ đi tắt đón đầu, văn hóa phiên phiến/ đậm
đà bản sắc trung cổ”.
Tôi đọc ngay tiếp
đến dòng dưới, đoạn Ngũ qui, thấy tác giả viết: “Tinh hoa Nho - Phật bàng bạc trong cuộc sống. Hay đấy mà dở đấy. Không
được học từ tấm bé, có bài bản, hệ thống, thành thói quen, thành tiềm thức cho
đến suốt đời thì chỉ bàng bạc mà thôi”. Tự dưng tôi phải vỗ đùi: Chu Giang
tự họa chân dung… tài thế!
Chẳng hiểu sao, gần
đây, cứ ai nhắc đến Chu Giang - Nguyễn Văn Lưu là tôi lại gật gù nhớ đến câu
thơ của Tố Hữu “mắt sáng quắc tay xanh
lòe mã tấu”./.
Mời
nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết của
(về) tác giả Kiều Mai Sơn0
- Các bài phê bình,
cảm nhận thơ0
- Đặng Xuân Xuyến -
Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến -
Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn
CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ của Đặng Xuân Xuyến:
*.
KIỀU
MAI SƠN (tên thật: Kiều Văn Khải)
Địa chỉ: Tòa soạn báo Nông nghiệp Việt Nam
14
Ngô Quyền, Hoàn Kiếm, Hà Nội.
.
.
.............................................................................................................
- Cập nhật từ email huongmai8081@yahoo.com.vn ngày 10.07.2022.
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ
nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng
Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét