VUA CHÚA VIỆT TUYỂN QUAN LẠI,
CHỐNG THAM QUAN THẾ NÀO?
Không phải sau khi được tuyển quan là được yên
vị, các quan tiếp tục bị sàng lọc khắt khe; nếu không trụ được, sẽ bị giáng
hoặc cách chức thẳng tay.
Tuyển chọn quan lại theo cách nào?
Thời phong kiến, ngôi vua là cha truyền con nối
nên dẫn đến trong việc tuyển quan lại có thể lệ tập ấm, tức là các con cái quan
lại thì có suất để được bổ nhiệm làm quan, mà không phải qua thi cử. Học giả
Đào Duy Anh, trong cuốn "Việt Nam văn hóa sử cương", đã tóm tắt về
chế độ tập ấm như sau: Các triều Lý, Trần, Lê vẫn có lệ thừa ấm, hễ
con các quan thì lại được bổ làm quan. Ở triều Lê vẫn có lệ thừa
ấm, có khoa nhiệm tử, cốt lấy con các quan mà bổ dụng.
Triều Nguyễn cũng có lệ tập ấm, phàm quan
chính nhất phẩm thì còn được tập ấm theo hàng tùng lục, gọi là ấm
thọ, đó là bậc cao nhất; còn bậc thấp nhất thì các quan tùng ngũ
được một người con tập ấm gọi là ấm sinh. Tuy nhiên, phép thế tập ở
nước ta không giống như phép thế tập của quý tộc các nước châu Âu,
vì lệ tập ấm chỉ hưởng được một hai đời... Ngoài chế độ khoa cử
đặt từ triều Lý thì các triều Lý, Lê lại có phép tiến cử và phép
bảo cử, phàm các quan to ai cũng phải cử một người có tài đức hoặc
người có danh vọng để triều đình bổ dụng.
Tuy nhiên, chế độ tập ấm ở Việt Nam thời phong
kiến chỉ có tính chất như một phần thưởng để động viên quan lại, chứ không phải
nguồn chính để tuyển dụng người vào bộ máy nhà nước. Để phát hiện và sử dụng
nhân tài, hai phương thức chính là tiến cử hoặc bảo cử và thi cử.
Chế độ tiến cử và bảo cử thực chất là tương tự
như nhau chỉ khác chút ít về hình thức. Trong đó, người tiến cử hoặc bảo cử
phải là một vị quan đương nhiệm, còn người được tiến cử hoặc bảo cử thì có thể
đang là quan hoặc chưa là quan. Nếu đang là quan thì thường được giới thiệu vào
những vị trí cao hơn hoặc việc quan trọng đang khuyết người làm còn nếu là dân
thường thì phải là người có thực tài, có đạo đức chói sáng và khi được tiến cử
lên, bộ Lại và nhà vua sẽ xem xét tùy tài mà sử dụng.
Đến thời Lê Thánh Tông, việc tiến cử hay bảo cử
này cũng được quản lý chặt chẽ bằng luật. Điều 174 của Bộ Quốc triều hình luật
quy định: những người làm nhiệm vụ cử người, mà không cử được người giỏi thì bị
biếm hoặc bị phạt theo luật nặng nhẹ, nếu vì tình riêng hoặc lấy tiền thì bị xử
nặng thêm hai bậc.
Trong ba con đường vào quan trường thời phong
kiến thì chế độ khoa cử là chủ yếu nhất và rộng rãi nhất. Theo từ điển Bách
khoa tri thức, chế độ khoa cử bắt đầu từ năm 1075 đời vua Lý Nhân Tông. Khoa
thi cuối cùng diễn ra ở Bắc Kỳ năm 1915 và Trung Kỳ năm 1918 triều Khải Định
nhà Nguyễn. Mỗi khoa thi thời phong kiến gồm 3 cấp là: Thi Hương, thi Hội và
thi Đình.
Thi Hương là thi ở các địa phương. Thi Hội là về
kinh đô. Sau khi đỗ thi Hội thì được vào sân rồng của vua thi với đề bài có thể
do đích thân vua soạn. Nội dung các đề thi thường là hỏi về ý nghĩa kinh sách
Nho giáo, thi làm thơ phú, trình bày quan điểm về đạo trị nước... Những người
đỗ thi Hội trở lên được gọi là Tiến sĩ và có thể được bổ dụng các chức quan cao
cấp trong triều đình.
Trong gần 1000 năm đó, đã có hàng ngàn vị Tiến sĩ
và hàng chục Trạng Nguyên được ghi danh thể hiện rõ ràng con đường khoa cử là
con đường rộng rãi để các sĩ phu bước vào quan trường hành đạo giúp đời.
Bên cạnh ban văn, những người đi theo võ nghiệp
muốn bước ra làm tướng, cũng theo ba đường như trên. Một là được tập ấm, hai là
được bảo cử tiến cử và ba là thi cử. Lệ thi võ để chọn người làm quan võ, theo
sách Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn, bắt đầu từ năm 1723 dưới thời chúa Trịnh
Cương. Chúa Trịnh học theo phép nhà Đường, nhà Tống, hạ lệnh 3 năm tổ chức một
khóa thi võ. Các năm Tí Ngọ Mão Dậu thi ở địa phương và các năm Thìn Tuất Sửu
Mùi thì thi ở kinh thành.
Trong khoa thi võ đầu tiên này, đầu đề do chính
chúa soạn và chia làm 3 kỳ thi. Kỳ thứ nhất hỏi sơ qua 6 câu về đại nghĩa trong
binh pháp Tôn Tử. Kỳ 2 thi cưỡi ngựa múa đâu mâu, bắn cung, lăn khiên, múa
kiếm, đấu kích, chạy bộ múa đâu mâu, lại đấu kiếm. Kỳ thứ 3 thi về phương lược
đánh trận và một bài thơ đường. Đầu đề do chúa nghĩ soạn.
Trước khi có kỳ thi võ, từ thời Trần đã có Giảng
võ đường làm nơi luyện tập võ nghệ binh thư nhưng chỉ giành cho tướng soái và
con em quý tộc đến học và chưa có việc thi cử để ra làm quan võ một cách rõ
ràng quy củ. Bởi thế thời đó các danh tướng phần lớn là quý tộc hoặc không cũng
là gia nô, môn khách của quý tộc. Đó là trường hợp Yết Kiêu, Nguyễn Khoái, Dã
Tượng, Phạm Ngũ Lão...
Biện pháp mạnh để quan liêm khiết
Dân gian Việt Nam thường nói “một người làm quan
cả họ được nhờ” nhưng trong các thời kỳ phong kiến, các triều đình cũng luôn
chú trọng việc đặt ra chế tài để tránh việc các quan lộng quyền và cài cắm
người thân thích vào bộ máy. Theo sách "Việt Nam văn hóa sử cương",
trong thời phong kiến, các vua chúa đã đặt ra một số quy định để hạn chế các
đặc quyền của quan lại.
Ví dụ pháp luật cấm quan địa phương không
được thụ nhiệm ở tỉnh nhà hay ở nơi cách nhà không đầy 500 dặm để
cho thân thích bằng hữu khỏi cậy thế cậy thần mà làm ngang. Cấm quan
không được lấy vợ trong trị hạt vì sợ gia đình nhà vợ nhũng nhiễu.
Cấm không cho tậu ruộng vườn nhà cửa trong
trị hạt vì sợ quan hiếp bách kẻ trị hạ để mua rẻ. Cấm không được
tư giao với đàn bà con gái ở nơi mình trị hạt để đừng treo gương xấu
cho nhân dân. Cấm quan lại khi đã nghỉ hưu không được lui tới cửa công để
thỉnh thác cầu cạnh.
Mặt khác, các quan không phải cứ ngồi vào làm
quan rồi là ấm chỗ, mà phải tiếp tục phấn đấu để chứng tỏ năng lực nếu tốt thì
được thăng chức còn không thì bị giáng chức hoặc cách chức. Trong các triều đại
Lý, Trần, việc thăng giáng chức thường chỉ thực hiện khi có công hoặc tội bị
phát giác. Nhưng đến triều vua Lê Thánh Tông, nhà vua cho thực hiện chế độ khảo
thi và khảo khóa để định kỳ sát hạch quan lại cả về trình độ và tác phong làm
việc.
Việc khảo thi, đối với quan văn thì thi giải kinh
nghĩa các kinh sách Nho giáo, thi làm thơ và trả lời câu hỏi của vua về đạo trị
nước. Quan võ thì thi bắn cung, đua ngựa, đấu khiên, đấu gươm, đấu vật, bày
trận. Còn khảo khóa là nhận xét, đánh giá năng lực và kết quả công việc của mỗi
vị quan.
Đáng chú ý là việc khảo thi và khảo khóa được
tiến hành với cả với các nhân vật con ông cháu cha vốn tiến thân từ con đường
tập ấm. Như vậy biện pháp khảo khóa này cũng góp phần sửa chữa các hạn chế của
chế độ tập ấm. Nó đòi hỏi các “con ông cháu cha” phải có một trình độ nhất
định, làm được việc, nếu không sẽ bị sa thải.
Theo Đại Việt sử ký, tháng 11 năm Hồng Đức thứ 2
(1471), Vua Lê Thánh Tông ra chỉ dụ về việc cấm để chậm các kỳ khảo khóa trong
đó nói: “Phép khảo khóa cốt để phân biệt người hay, kẻ dở, nâng cao hiệu quả
trị nước. Đời Đường, Ngu ba năm một kỳ xét công để thăng hạng. Nhà Thanh Chu,
ba năm một lần xét việc để định thưởng phạt. Nay nha môn trong ngoài các ngươi,
người nào nhậm chức đủ ba năm, phải báo ngay lên quan trên không được để chậm.
Nếu quá một trăm ngày mà không kê danh sách gửi thì tính số người chậm, mỗi
người chậm thì phạt một quan tiền, kẻ nào theo tình riêng mà dung túng đều phải
trị tội cả”.
Thông qua khảo khóa, nhà vua và triều đình sẽ
quyết định việc thăng giáng hoặc cách chức quan lại. Năm 1478, vua Thánh Tông
nói rõ các quan viên nếu “hèn kém, đần độn bỉ ổi, không làm nổi việc thì đều
bắt phải nghỉ việc và chọn người có tài năng, kiến thức, quen thạo công việc mà
bổ vào thay”.
Đến năm 1488, vua Lê Thánh Tông chính thức quy
định quy trình khảo khóa: “Ba năm tiến hành một lần sơ khảo, sáu năm thì tái
khảo và chín năm thì thông khảo mới thi hành thăng chức người có công và truất
chức kẻ có tội”. Nội dung và cách thức khảo khóa cũng được quy định là: “Trưởng
quan các nha môn trong ngoài khi khảo khoá các quan viên trong phạm vi cai quản
thì phải xét kỹ thành tích trong công việc mà viên đó đã làm. Nếu quả có lòng
chăm nom, yêu thương, được nhân dân yêu mến và trong nơi cai quản ít kẻ trốn
tránh thì mới xứng chức. Nếu vơ vét quấy nhiễu, gây tệ riêng tư và trong nơi
cai quản có nhiều người trốn tránh thì không xứng chức”.
Có thể nói, nhờ những biện pháp mạnh đó, triều
đại vua Lê Thánh Tông là triều đại cực thịnh trong thời phong kiến ở Việt Nam.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
Chuyện làng văn0
- Các bài viết về
khoa Phong Thủy0
- Các bài viết về
khoa Tướng thuật0
- Các bài viết về
Kiến thức cuộc sống0
Mời nghe TẾT NGUYÊN ĐÁN của Phương Uyên do Đông Nhi, Kyo York
Ông Cao Thắng, Hoàng Tôn, Đàm Phương Linh, Yumi Dương thể hiện:
Đặng Tuấn Anh giới thiệu
Tác giả: Nam Khánh - nguồn: kienthuc
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét