NGÀY XUÂN, ĐỌC LẠI
MỘT SỐ CÂU ĐỐI VUI
Câu đối có ở nhiều nước, nhưng dùng nghệ thuật câu đối để trào
phúng, thậm chí để đả kích, thì có lẽ là nét đặc sắc riêng của nước Việt Nam
ta! Giai thoại bà Đoàn Thị Điểm đối đáp sứ Tầu là một ví dụ điển hình: Lần ấy,
bà Điểm đóng giả cô lái đò ngang. Sông rộng, gió to, “cô lái đò” mặc “nấm” (váy
cổ của phụ nữ Việt), dạng chân chèo đưa sứ sang sông! Ngồi ở mũi đò, quan sát
dáng khoan thai chèo đò của người con gái Việt, chợt một cơn gió nhẹ thổi tới,
sứ Tầu bất ngờ liếc mắt nhìn thấy sự ... hớ hênh của cô lái trẻ, bèn buông một
câu:
“An Nam nhất thốn thổ, bất
tri kỉ nhân canh?”
(nước nam có một tấc đất, không biết có bao nhiêu người cầy?).
Không chút nao núng, Đoàn Thị Điểm gác chèo, đối ngay:
“Bắc Triều chư đại phu,
giai do thử đồ xuất!”
(tất cả các đại nhân nước Tầu đều từ đó mà ra!).
Một giai thoại khác kể rằng, thời thuộc Pháp, có viên cố đạo đến
yết kiến vua Duy Tân. Viên cố đạo này là người thông thạo Hán Nôm, đã sấc xược
trình lên vua ta một tờ giấy ghi hai chữ: “Vương
“ và “tam “. Liếc nhìn qua, vua
Duy Tân đã hiểu thâm ý của tên thực dân này, bèn lấy bút lông phê ngay bên cạnh
hai chữ: “Tây “ và “tứ”, rồi thẳng tay trao cho viên cố đạo
ngạo mạn nọ. Viên cố đạo tím mặt. Nhưng còn biết nói gì? Đành gượng cười đưa cả
hai tay ra đỡ lấy tờ giấy vua ta ban.
Chữ “Vương” là Vua,
gồm ba nét ngang và một nét sổ; chữ “tam”
chỉ có ba nét ngang. Vậy rút bỏ nét dọc của chữ Vương (ý : rút ruột Vua) thì
thành chữ tam (ý: tam phân thiên hạ, chia nước ta thành ba khu vực Bắc, Trung ,
Nam để dễ bề cai trị). Chữ “Tây” gồm
chữ “tứ” và phần đầu có một nét ngang
và hai nét dọc. Nếu cắt bỏ phần đầu đó đi (ý: chặt đầu thằng Tây!) thì thành
chữ tứ (ý: tứ hải giai huynh, bốn bể đều là anh em, nước Nam quyết không cho kẻ
thù chia cắt!).
Trên là mấy giai thoại về “đối
ngoại”, còn những câu chuyện sau, lại mang ý nghĩa “đối nội”: Nhà Sư nọ vốn là người thông thạo kinh sử, lại rất tự đắc
về kho tàng trí thức cũng như sự trong sạch không hề vương “bụi trần” của mình. Gặp danh nho Nguyễn
Công Trứ, một con người có lối sống phóng khoáng, vị cao tăng nọ bèn ra vế đối
có ý khoe khoang cao đạo:
“Thuộc ba mươi sáu đường
Kinh; không Thần, Thánh, Phật, Tiên – nhưng ... thoát tục!”
Nguyễn Công Trứ đáp:
“Hay tám vạn tư mặc kệ;
chẳng phong, hoa, tuyết, nguyệt – đếch ... ra người”.
Một nhà sư khác, tiếng là đi tu nhưng chưa “thoát tục”, còn
vướng nhiều “bụ trần”, và cũng có tính ... hợm chữ. Nhân lần ấy có đám học trò
đến vãn cảnh chùa, bèn đưa ra câu thách đối sau:
“Nhất sỹ nhì nông; hết gạo
chậy rông, nhất nông nhì sỹ!”.
Đám học trò chạm nọc, tức lắm, nhân dịp này quyết cho tên “sư hổ
mang” này một bài học, bèn đối:
“Trên sư dưới vãi; ngoảnh
lưng trở lại, trên vãi dưới sư!”.
Một giai thoại về Trạng Quỳnh kể: có vị quan kia muốn tỏ oai
quyền của mình, đã ra cho Quỳnh vế đối:
“Miệng nhà quan có gang có
thép!”
Quỳnh đã đối lại:
“Đồ nhà khó vừa nhọ vừa
thâm!”
Tam nguyên Yên Đổ (Nguyễn Khuyến) cũng đã từng làm nhiều câu đối
trào phúng, trong đó có chuyện kể rằng: năm ấy làng Cổ Ngựa, xã Hiển Khánh, Vụ
Bản, tỉnh Nam Định chuẩn bị khánh thành đền thờ Thánh Mẫu, có cử người đến “xin chữ” cụ Nguyễn Khuyến. Vốn ghét bọn
quan lại làng này về tội nhũng nhiễu dân, cụ viết:
“Mỹ nhân như ngọc hành vũ
hành phong anh linh mạc trắc”
Tế thế kì âm hộ dân hộ quốc thương lại vô cung”
(Người đẹp như ngọc làm gió làm mưa thiêng không lường hết
Âm đức cứu đời giúp dân giúp nước ơn lớn vô cùng”).
Lời văn của đôi câu đối Hán Nôm nghe qua tưởng như rất nghiêm
chỉnh, nếu như ta đọc theo lối ngắt câu ở từng bốn chữ một: “Mỹ nhân như ngọc/ hành vũ hành phong/...
Nhưng chỉ cần chuyển cách ngắt câu về sau chữ thứ năm của đầu mỗi vế đối, thì
câu đối đó trở thành một câu đùa rất ác và rất ... tục!
Tú Cát và Trạng Quỳnh tương truyền cũng hay “chọc ... quê” nhau bằng những câu đối
như: “Đất nứt con bọ hung – Trời
sinh ông Tú Cát”, hoặc câu: “Lợn
cấn ăn cám tốn – Chó khôn chớ cắn càn” (Cấn, tốn, khôn, càn: bốn “Quẻ”
trong “Bát Quái” của Kinh Dịch.
Không chỉ các nhà Nho học mới chơi câu đối, mà trong dân gian
cũng lưu truyền nhiều câu đối rất tài tình, như chuyện về một cô chủ hàng cơm
góa chồng, nhưng còn trẻ, đẹp; nên thường bị đám khách ăn đàn ông bờm sơm. Để
từ chối khéo, cô chủ đã viết mấy chữ treo lên vách cửa hàng mình:
“Nạc mỡ nữa làm chi, em
nghĩ chín rồi, đừng nói với em câu tái giá!”
Cái tài tình của câu trên là đã dùng rất nhiều từ trong cái nghề
hàng ăn mà vẫn nói đúng được ý nguyện của cô chủ. Nhưng khách ăn cũng có những
tay không vừa. Một anh thợ cắt tóc, đối:
“Tóc tơ đâu phải rỡn, tớ
liều kéo lại, đừng nên chốn tớ chuyện dao đầu!”
Còn anh làm nghề chọc tiết lợn thì viết:
“Hành tỏi vừa thôi chứ,
khách hăng tiết đấy, hãy thêm cho khách đủ răm mùi!”
Đến lượt thầy lang, cũng không thể không góp thêm một tiếng nói:
“Thuốc thang chưa đỡ hử,
thầy còn bốc nữa, không nghe thầy còn phải bóp xoa!”
Vậy là người nào cũng bắt chước cô chủ quán, đều đối lại bằng
những câu dùng toàn từ nghề nghiệp của mình.
Lối chơi chữ đa nghĩa thường được cổ nhân sử dụng nhiều. Xin dẫn
ra đây một số vế đối nổi tiếng:
“Vũ cậy mạnh, vũ ra vũ
múa; vũ gặp mưa, vũ ướt cả lông!”
(“Vũ” vừa có nghĩa là
võ, là mưa, là múa và là lông!).
“Cô Lan bán giấy cửa Đông;
kẻ Nam người Bắc, chưa vừa lòng cô!”
(chiết tự chữ Lan, tên cô gái, ta được chữ “môn-cửa” và chữ “Đông”.
Vế đối nêu lên ba hướng Đông, Nam, Bắc, mà không nêu hướng Tây. Ấy là tác giả
muốn ám chỉ cô Lan này chỉ vừa lòng... Tây!).
Cái lối “ẩn chữ” để
nói ý này đã thấy ở một vị đại học sĩ Trung Hoa thưở xưa, tên là Kỷ Quân.
Chuyện rằng, có lần một Thái giám ra cho Kỷ Quân một vế đối: “Tam nguyên giải hội trạng” (tam
nguyên gồm giải nguyên, hội nguyên và trạng nguyên). Kỷ quân đối lại: “tứ quý hạ thu đông” (bốn mùa gồm
mùa hạ, mùa thu, mùa đông. Kỷ Quân cố tình bỏ không nói đến mùa xuân!). Nghe
xong, viên thái giám thấy thiếu, bèn hỏi: “thế
còn ... “xuân”, ở chỗ nào?” và cười đắc ý cho rằng phen này tên đại học sĩ
này sẽ hết vênh váo về cái tài học cao của mình! Nhưng Kỷ Quân chỉ đợi có thế,
tức là đã đưa được viên hoạn quan hợm hĩnh vào bẫy, bèn thủng thẳng trả lời:
- “Xuân” ở chỗ nào thì
ngài làm sao mà biết được?!.
Mọi người lúc ấy mới nhận ra thâm ý của Kỷ Quân, bèn cười ngất.
Còn hoạn quan khi hiểu ra tác giả vế đối đã chạm đến thân phận ... của mình: từ
lâu làm gì còn có “xuân”, bèn lảng đi
chỗ khác!
Ấy là chuyện ngày xưa, thế còn ngày nay thì sao?
Có một thời, thú chơi câu đối không còn thịnh hành nữa. Nhưng
thực ra, sức sống của nó tiềm ẩn rất bền bỉ trong dân gian, cả ở hai lĩnh vực “chính luận” và “trào phúng”.
Trong kháng chiến, thầy thuốc Nam Sơn đã có một vế đối nói về sự
những hy sinh gian khổ trên chiến khu Việt Bắc ngày ấy:
“Vì Nước phải lên rừng,
đánh mãi nước nguồn, đâm ngã nước!”
Nói “đánh”, “đấm” mà không phải là đánh, đấm; nói “ngã’ mà đâu có ngã! Cả câu có mười hai
từ thì từ “nước” chiếm ba, mỗi từ
nước lại có một nghĩa khác nhau.
Nhà thơ Thanh Tịnh sinh thời là một người có nhiều câu đối hóm
hỉnh, xin dẫn ra đây vài chuyện:
Thời bao cấp, hàng tiêu dùng khan hiếm, thường mỗi khi có mặt
hàng nào đó, phải tổ chức phân phối theo chỉ tiêu đầu người từng cơ quan. Khi
về đến cơ quan, lại phải tiến hành bình bầu, nhận xét xem phân cho ai là đúng.
Không bình bầu nổi thì chọn phương án “bốc
thăm”, may ai nấy được. Một lần bốc thăm như thế, nhà thơ Xuân Sách và nhà
văn Nguyễn Thị Như Trang cùng bốc được một chiếc màn.... đôi! Vốn bực mình về
cái thói cửa quyền của cơ quan phân phối, nhân chuyện này, Thanh Tịnh buông một
câu: “Cái cứt gì cũng phân; mà phân
thì như cứt!”. Lần khác, nhìn cảnh nhà thơ Vương Trọng đang vui vẻ bón cơm
cho cậu con trai ba tuổi, Thanh Tịnh bật ra vế đối: “bố cho con ăn, bố cười, con cười!” . Tiếp đó, ngẫm sự đời, ông
đọc tiếp vế sau: “con cho bố ăn, con
khóc, bố khóc!” . Chơi chữ kiểu “nói
lái”, kiểu “đồng âm khác nghĩa”...
cũng thường được các tác giả câu đối sử dụng nhiều: “chả lo gì, chỉ lo già – nỏ cần chi, chỉ cần no” (Vương Trọng)
– “Thế quỳ, thế đội, thế bò. Thời
thế thế, thế mà chẳng thế” (Hữu Loan) – “răng muốn trắng lại đen, tóc muốn đen lại trắng” (Vương Trọng)
– “bác bôi tôi không bằng tôi bôi
bác!” (Tú sót) – “công an,
can ông đừng uống rượu. Chủ báo, bảo chú chớ ăn chè” (khuyết danh).
Nhà thơ Nguyễn Bính đất “non Côi sông Vỵ” sinh thời còn tài tình
chơi chữ bằng cách dùng ghép cả chữ ta với chữ tây:
“ba ba đã chín. Cát cát
đầy xe”.
Vế ra vừa hiểu là thịt con ba ba đã chín; vừa có thể suy ra ý:
ba (3) lần ba (3) là chín (9).
Vế đối vừa hiểu là xe chở cát đã đầy, lại có thể suy ra: quatre
- tiếng Pháp, đọc hơi giống chữ “cát” = 4 (lần) 4 (là) seize (chữ Pháp, đọc hơi
giống chữ “xe” = 16).
Cùng lối chơi đa ngữ này, còn tác giả Nguyễn Xuân Lạc:
“Hai chân duỗi thẳng đơ
(tiếng Pháp deux, là
số hai (2), âm hơi giống chữ “đơ”
trong tiếng Việt).
“Sáu cô ngồi xúm xít”
(tiếng Pháp six, là số
sáu (6), đọc hơi giống chữ “xít”
trong tiếng Việt).
Vế đối dưới đây cũng của tác giả nguyễn Xuân Lạc, lại dùng lẫn lộn cả mấy thứ
ngoại ngữ Pháp, Anh, Hán:
“quần thủng đít đã chục
ngày nay, hiệu thợ may cửa đóng then cài, ta đành đứng thập thò ngoài cửa”
(“đít”: dix, tiếng
Pháp, số mười; “then”: ten, tiếng Anh, số mười; “thập”, tiếng Hán, cũng là số mười).
Tết Mậu Dần (1998), nhạc sĩ Trọng Bằng đưa ra vế đối hóc
hiểm: “đêm ba mươi, chơi với cọp,
bóp lưng hổ, nhổ răng hùm, túm “tai-gơ”, tu cạn dần, gần ông mãnh” . (“ông ba mươi” là tên gọi khác của con hổ;
cọp, hùm, dần, ông mãnh đều là những tên gọi khác của hổ. Tai-gơ: tiếng Anh
Tiger, con hổ).
Tài tình hơn, vào thời điểm giữa năm sửu và năm Dần, tác giả
Nguyễn xuân Lạc còn làm đôi câu đối hoàn toàn bằng tiếng Pháp và tự dịch ra
tiếng Việt cũng bằng một câu đối:
“Richesse du tiger, vien
tout de suite.
Misère des buffles,
fous le campl”
(Mời bác phú Dần, về tức khắc
Đuổi thằng bần Sửu, cút đi ngay).
Bên cạnh tác dụng trào phúng, nhiều tác giả còn sử dụng câu đối
để đả kích vào các bọn tham quan ô lại. Về vấn đề này, có lẽ cụ Đồ chiểu là
người sớm nhất đưa ra tuyên ngôn bằng một câu đối:
“chở bao nhiêu đạo thuyền
không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút
chẳng tà”.
Noi gương Cụ, ngày nay nhiều tác giả đã không ngần ngại nhằm
thẳng ngòi bút sắc bén của mình vào bọn sâu mọt của xã hội:
“hối lộ, lộ rồi không kịp
hối!
Tham ô, ô hết có còn
tham?” (Vương Trọng).
“Ngậm tiền thì hám
Ngậm hàm thì tiến” (Phạm Xuân Phụng)
“Mày ăn dân
Dân ăn mày” (Hữu Loan)
“quan tham đi tham quan,
càng quan càng tham, càng tham lại càng quan” vế ra của Trần Huy
Thuận)
“luồn lọt lên lương, lỗi
lầm lấp liếm, luật lệ làm lơ, lũ lọc lường luôn lẩn lút!
Phe phẩy phè phỡn, phân phối phập phù, phạm pháp phởn phơ, phường phản phúc
phải phanh phui” (Đàm Tiếu)
Đúng như lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh chi đã dậy: “xuất đối dĩ đôi đối nan”, ra đối thì dễ,
nhưng đối lại mới cực kì khó. Từ cổ chí kim đã có nhiều câu đối chỉ có vế ra,
nổi tiếng đã lâu, mà cho đến nay vẫn chưa tìm ra “nửa kia” của mình, như các câu sau:
“da trắng vỗ bì bạch”
(đã có người đối là “rừng
sâu mưa lâm thâm”, tuy đúng luật nhưng đối như thế là chưa tới được cái
chất đùa cợt hóc búa, hóm hỉnh và hơi gợi tục của vế ra, nên không đạt).
“cô gái Quần Lạc đi chợ
Lạc Quần, bán lạc mua quần, trở về Quần lạc”
(Quần Lạc và Lạc Quần là hai địa danh có thật thuộc tỉnh Nam
Định).
“vợ cả vợ hai cả hai đều
là vợ cả!”
(vừa có ý: “vợ cả vợ hai
cũng là vợ”; lại vừa có ý: “vợ cả hay
vợ hai chỉ là cách gọi thôi, chứ thực ... đếu là vợ cả hết”).
Câu đối là một thú chơi tao nhã và trí tuệ, dân tộc và đại
chúng, tồn tại từ nhiều đời nay. Tết đến, Xuân về, thiết nghĩ: mỗi ngôi nhà của
chúng ta nên có một đôi câu đối, viết cẩn thận trên giấy đẹp, treo ở nơi trang
trọng, để bầy tỏ cái tâm nguyện, ước vọng, quan điểm sống,... của chủ nhân;
hoặc để trào phúng sự đời nhố nhăng... Cái thú chơi Xuân của dân ta đến thế hẳn
là không còn gì văn hóa hơn!.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Bạn đọc cảm nhận
về thơ của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
bài thơ “Quê Nghèo” của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe ca khúc MÙA XUÂN CÓ EM
của Lam Phương qua tiếng hát Quang Nghị:
Nguyễn Trọng Khanh giới
thiệu
Tác giả: Trần Huy Thuận - nguồn: vietvanmoi
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét