VƯỢT BIÊN
Đến khoảng chín mười giờ đêm, Năm Tấn trở lại, dẫn tôi đến một căn
nhà khác ở quận Tân Bình. Anh ta gõ vào cánh cửa năm tiếng. Cửa mở, chúng tôi
bước vào. Trong nhà có một người đàn ông lớn tuổi và một cô gái chừng mười bảy
mười tám. Năm Tấn ngồi nói chuyện với ông già, còn cô gái bưng đèn dẫn tôi lên
căn gác xếp. Trên ấy có cái giường rộng chừng một mét hai, chỉ có chiếu và gối
nhưng không có mền. Đặt cái đèn hột vịt đã vặn nhỏ lên sàn gác rồi cô ta bước
xuống. Tôi nhình quanh. Ngoài cái giường, căn gác không có vật gì khác, mái tôn
thấp lè tè. Tôi nằm vật xuống giường, toàn thân rã rời mỏi mệt. Bụng tôi kêu
lên ột ột, Bây giờ tôi mới chợt nhớ suốt buổi chiều nay tôi chưa bỏ thứ gì vào
bụng. Năm Tấn lên, dặn tôi ở đây một đêm, sáng mai có người đến đón thì đi theo
họ. Tôi nói với anh ta suốt buổi chiều tôi chưa ăn gì. Nghe xong Năm Tấn không
nói gì, bỏ đi xuống cầu thang. Một lát sau, cô gái lúc nãy lại lên gác. Lần này
cô ta bưng lên cho tôi một tô cháo còn âm ấm. Cô dặn tôi ăn xong để cái tô cạnh
cầu thang chứ không cần mang xuống nhà.
O O o
Bảy giờ sáng, có hai thanh niên người Sài Gòn đến tìm tôi. Họ dẫn
tôi đi loanh quanh trong khu phố một hồi rồi mới gọi xích lô đến Bến xe miền
Tây. Tại đây, chúng tôi gặp một nhóm người khác gồm ba cha con. Hai thanh niên
đi cùng tôi và người cha trong nhóm kia nhận biết nhau. Họ trao đổi với nhau gì
đó rồi tất bật lên xe.
Tôi là người đi xe đò không bao giờ ngủ gật vì rất thích ngắm phong
cảnh dọc đường. Miền Tây trong tâm trí tôi là mảnh đất trù phú, màu mở, với
những cánh đồng lúa vàng cò bay thẳng cánh. Những vườn cây ăn trái xum xuê,
trĩu quả qua từng trang sách mà tôi đã đọc, hoặc qua lời ca tiếng hát trên đài
phát thanh mà tôi đã từng nghe. Nhưng hôm ấy, mắt tôi cứ nhíu lại không làm sao
mở ra được.
Đêm hôm trước tôi bị mất ngủ vi mải mê suy tính tình huống của
mình đang vấp phải. Tôi nằm trên cái gác xếp tối tăm, mồ hôi rịn ướt cả áo,
trằn trọc. Hai mắt mở thao láo. Đầu óc suy nghĩ lung tung. Hết đặt ra giả
thuyết này lại đoán mò chuyện kia. Tôi không hoàn toàn tin vào Năm Tấn, cũng
không biết anh ta định đưa tôi đi đâu. Năm Tấn hoàn toàn không lộ ra một thông
tin gì. Nhiều lúc tôi giật mình lo sợ, cảm thấy mình đã quá sức liều lĩnh đi
theo một người xa lạ đến nơi đây. Thử đoán nếu Năm Tấn lừa gạt tôi để làm
chuyện nguy hiểm đến tính mạng mình thì tôi phải xử trí ra sao? Sao tàu anh tôi
chạy biển mà anh rể không cho tôi biết trước? Nếu ngày mai không có ai tới tôi
sẽ đi đâu? Có nên về lại Nha Trang sống những ngày không có hộ khẩu, không một
mảnh giấy tùy thân để nửa đêm giật mình sợ hãi khi có người gõ cửa? Hàng loạt
câu hỏi không giải đáp được xuất hiện trong trí tôi.
Đường về miền Tây phẳng phiu, không đèo dốc như ra miền Trung nên
tôi đã ngủ một giấc rất ngon. Khi một trong hai thanh niên kêu tôi dậy, xuống
xe để lên phà thì trời cũng đã đứng bóng. Chúng tôi chia ra hai tốp riêng biệt
bước lên một cái phà lớn. Đứng dựa trên lan can nhìn dòng nước sông Tiền đỏ
quạch phù sa, cuốn theo những đám lục bình xanh biếc có điểm những bông hoa tím
khiến tôi bất chợt nhớ đến bài thơ Tràng Giang của Huy Cận.
"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo giạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."
Vâng! Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả, củi một cành khô lạc mấy
dòng. Nhánh củi trôi sông chính là tôi lúc này.
Qua khỏi phà chúng tôi ghé vào một quán cơm. Từ sáng đến giờ chưa
có gì bỏ vào bụng nên tôi cảm thấy đói, liền gọi một đĩa cơm tôm, sườn nướng.
Không biết vì quá đói hay cơm miền Tây ngon mà tôi ăn hết một đĩa đầy vẫn thấy
chưa no và còn thèm! Ăn xong lại tiếp tục hành trình. Không bao lâu sau, chiếc
xe đò về đến thị xã Sa Đéc. Tại đây lần đầu tiên tôi được trông thấy những
chiếc xe lôi, một loại xe đặc biệt của miền Tây. Khách ngồi đằng sau, gọng xe
gắn vào chiếc xe đạp của người phu phía trước để họ kéo đi. Mới bước ra khỏi xe
đò, phu xe đã ùa đến đon đả chào mời. Mỗi người trong chúng tôi thuê một chiếc
để về chợ Sa Đéc.
Ngôi chợ lồng nằm bên bờ một con kênh. Chúng tôi giả dạng thành
khách đi chợ mua hàng, đủng đỉnh tiến vào chợ. Giữa chợ có một lối đi, hai bên
hai dãy sạp bán đủ các thứ hàng hóa nông sản. Tôi rảo bước theo hai thanh niên,
ba cha con nhà kia biến đâu mất. Đi được chừng một đoạn khá dài trong lồng chợ,
chúng tôi rẽ vào một lối khác có bậc tam cấp bước xuống dòng kênh. Dưới kênh một
thủy thủ đang ngồi trong một cái thúng chai chờ sẵn. Anh hối hả giục mọi người
leo vào thúng, và vội vàng mở dây cột, chèo ra chiếc tàu đang đậu ngoài con
sông Tiền.
Tất cả mọi hành khách lên tàu đều phải chui ngay xuống hầm cá ở
khoang trước. Riêng tôi, vì là em vợ tài công nên được cho ở trên boong. Tàu
nhổ neo, xuôi theo một nhánh của dòng Tiền Giang chạy ra cửa Cổ Chiên. Tôi ngồi
trên mũi thuyền, phóng tầm mắt về phía trước. Nắng chiều loang loáng trên sông.
Một chiếc ghe nhỏ dài, chất đầy rau quả chạy băng băng trước mũi tàu. Mặt nước
sau đuôi thuyền rẽ ra như đuôi quạt. Bỗng dưng lòng tôi cũng bị rẽ đôi như mặt
nước sông kia. Nửa muốn ra đi, nửa muốn quay trở về. Cái cảm xúc trước khi rời
bỏ quê hương đất nước thật là khó tả. Rồi đây, phiêu bạt nơi xứ người chắc chắn
chỉ có mình tôi, giống như con thuyền độc mộc đang chạy nhanh ở phía trước
không biết đâu là bến bờ. Ngay lúc đó, tôi muốn làm thơ lắm nhưng không có giấy
bút. Sau này hồi tưởng lại, tôi viết bài “Hành Tha Hương” bày tỏ tâm trạng của
mỗi thành viên trong một gia đình lúc biệt xứ.
Hành Tha Hương
Những cuộc chia ly đầy ngấn lệ
Những hồn thấp thỏm nỗi âu lo
Tâm can quặn thắt, lòng đau xé
Họ đã ra đi lúc gãy cờ!
Cha đứng nghiêm trang chào lần cuối
Quân kỳ vấy máu bạn hùng binh
Nghe trong gió thoảng lời trăn trối
Vì nước sá gì chuyện tử sinh!
Mẹ đã bao lần luôn gượng dậy
Cố nhìn vút mắt cuối trời xa
Tận cùng biển lớn mênh mông ấy
Là chốn thương yêu – một mái nhà!
Em bỏ trường xưa rời sách vở
Làm chim mất tổ sống quê người
Tha hương mấy kẻ là không nhớ
Áo trắng, một thời mộng thắm tươi!
Chiều nay đọc lại dòng di cảo
Thấm nỗi hờn đau của núi sông
Nghĩ thẹn vì miếng cơm mảnh áo
Mà ta đánh mất chí tang bồng!
O O o
Chẳng biết danh từ Thuyền nhân (boat people) do ai đặt ra? Nhưng
thập niên 1980s của thế kỷ 20, hai từ này đã làm cho cả thế giới sững sốt. Làn
sóng vượt biển của những người dân Việt Nam trong những năm đó rất rầm rộ, càng
về sau càng tăng. Các quan chức chính quyền cộng sản Việt Nam ngoài miệng thì
oang oang cấm cản nhưng trong bóng tối đã âm thầm bán bãi, bán thuyền cho những
ai chung chi hậu hĩnh. Hàng triệu người đã bỏ nước ra đi. Hàng trăm ngàn đã làm
mồi cho hải tặc hoặc cho cá mập biển khơi. Đó là chưa kể cả hàng chục ngàn
người phải bị tù gông, xiềng xích. Nhiều cuốn sách, nhiều bài báo đã thuật lại
cảnh đoạn trường, bi ai của thuyền nhân Việt Nam. Với sự hiểu biết ít ỏi của
mình, tôi cũng đã từng chứng kiến hoàn cảnh thê lương của nhiều người vượt biển
bị mất tất cả người thân khi đến được bến bờ tự do. Ví như có một anh đi trên
một chiếc tàu tổng cộng 269 người, bị hải tặc cướp bóc, hãm hiếp, bắn giết rồi
quăng xác xuống biển. May mà anh nhảy xuống nước kịp lúc và đu vào một tấm ván,
trôi nổi trên mặt biển ba bốn ngày, rồi được tàu chở hàng vớt. Lúc vào đến trại
tị nạn Galang cứ dở điên dở dại. Tại đảo Kuku một chiếc tàu chở trên 300 người
tị nạn sắp cập đảo va phải đá ngầm vỡ tan tành. Hơn 300 con người tử nạn cùng
một lúc. Hoặc một nhóm bảy tám cô gái bị
hải tặc làm nhục lên tới đảo phải nhập viện. Tuy vượt biển nguy hiểm là thế,
nhiều người vẫn chấp nhận trả giá đắt để ra đi. Có người phải tán gia bại sản,
tù tội năm bảy lần mới vượt thoát.
Cuộc viễn hành của tôi may mắn hơn rất nhiều người. Hôm đó, ngồi
trên boong đến gần tối thì tôi cũng phải chui xuống hầm để tàu qua trạm biên
phòng. Tôi đu hai tay trên miệng hầm, và thả người rơi xuống sàn. Trong hầm tối
om om, nóng hâm hấp. Vài chục đầu người lố nhố. Mùi mồ hôi, mùi hơi thở trong
một căn hầm kín bưng càng làm cho không khí ngột ngạt, khó thở. Cả hầm hoàn
toàn im lặng.
Đến nửa đêm, tàu dừng lại. Có tiếng ai đó đối đáp với anh rể tôi.
Lát sau, tiếng nhiều gót giày bước lộp cộp trên sàn tàu. Cả hầm tàu nín thở,
lắng tai nghe động tĩnh trên boong. Ai cũng cố gắng thở thật nhẹ. Dường như ai
cũng sợ tiếng thở của mình sẽ làm lộ nơi trú ẩn của cả nhóm.
Tính đến chuyến này tàu anh rể tôi đã chở khách vượt biển khá
nhiều lần. Mọi sự chung chi đều rất hào phóng nên không hề gặp sự cố kiểm soát
gay gắt nào. Các cán bộ trạm biên phòng cửa biển chỉ làm cho có hình thức và để
kiếm thêm tuýp thuốc lá ba số 555.
Mười lăm phút sau, mọi việc trở về trạng thái yên tĩnh như trước.
Con tàu tiếp tục cuộc hành trình ra khơi. Chúng tôi ở dưới hầm, chẳng biết đã
qua bao nhiêu ngày đêm. Một buổi sáng nắp hầm được mở ra và người thủy thủ
thông báo tàu đã ra đến hải phận quốc tế. Hôm đó trời thanh gió mát. Mọi người
được cho lên boong nhưng không được tự do đi lại nên nằm ngồi la liệt. Nhóm đi
vượt biên gồm cả thảy 23 người. Có một số phụ nữ, và hai trẻ em trên mười tuổi.
Cơm nước dọn ra tinh tươm, nhưng tôi không ăn được vì say sóng. Trái lại, hai
anh thanh niên cùng đi với tôi là dân Sài Gòn, lần đầu tiên đi tàu, lại ăn ngon
lành.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Đọc lại bài thơ
“Cảnh Khuya” của Hồ Chí Minhl
- Đêm Nay Bác
Không Ngủ” và 10 bài cảm nhận mẫul
- Phân tích một số
bài thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minhl
- Về một quãng
thời gian trong tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minhl
- Bài thơ “Vấn
Thoại” của Hồ Chí Minh và quan hệ giữa tòa và bị canl
- Hồ Chí Minh và
người Mỹ trong cách mạng tháng 8l
- Hồ Chí Minh, Hồ
Tập Chương và còn gì nữa?l
- Lời Cụ Hồ ca
ngợi vua Gia Long bị cắt bỏl
- Khrushchev nói
về quan hệ Stalin-Hồ Chí Minhl
- Những con số
“duyên nợ” của các danh nhânl
- Kể chuyện Bác
Hồ: Đêm giao thừa đến với người nghèol
- Đêm giao thừa
nhớ thơ chúc Tết mừng Xuân của Bác Hồl
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc
bài thơ CHỌN:
TRẦN ĐỨC PHỔ
Địa chỉ: 819 Kleinburg Dr,
London
tỉnh bang Ontario, Canada.
Email: ducphot946@gmail.com
.............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản từ email tác giả gửi ngày 27.02.2024.
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện
quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.



0 comments:
Đăng nhận xét