CÁC BẬC MINH VƯƠNG NƯỚC TA CHIÊU HIỀN VÀ LẮNG NGHE SĨ PHU THẾ NÀO - Tác giả: Nguyễn Đắc Trung ; Đinh Như Quang giới thiệu

Leave a Comment

 


CÁC BẬC MINH VƯƠNG NƯỚC TA

CHIÊU HIỀN VÀ LẮNG NGHE SĨ PHU THẾ NÀO


(Tác giả Nguyễn Đắc Trung) 

Giới sĩ phu (trí thức) vốn được coi là "Nguyên khí quốc gia". Họ là tầng lớp ưu tú của xã hội. Lao động trí óc bằng học vấn cao (chứ không phải bằng cấp, học vị cao). Phương pháp tư duy khoa học. Bề dày kinh nghiệm thực tiễn. Luôn coi chức năng phản biện xã hội và dự báo tương lai là bổn phận. Vì thế, từ xưa đến nay, các bậc minh vương đều hết sức tôn trọng lắng nghe. Không bao giờ vô hiệu hóa trí thức. Bất kỳ thể chế chính trị nào. Chất lượng đào tạo - cập nhật thông tin - tự do tư tưởng và sáng tạo cũng là các yếu tố tạo ra sức mạnh của trí thức. Dù chỉ thiếu một thôi, trí thức cũng không thể phát huy tài năng và sức mạnh. Trí thức đã bị vô hiệu hóa thì làm sao trở thành "Nguyên khí quốc gia". Làm sao xây dựng nền kinh tế tri thức ở thời đại 4.0. Làm sao "Sánh vai với các cường quốc năm châu" (Bác Hồ)? Lạc hậu, chậm phát triển, thậm chí thụt lùi so với các quốc gia xung quanh mặc dù có đủ điều kiện và ưu thế. Nguyên nhân quan trọng là tầng lớp cầm quyền coi thường trí thức, để trí thức "quay lưng".

Một trong những tiêu chí để đánh giá bản chất một thể chế chính trị. Là thái độ đối với trí thức và đạo lý với các bậc khai quốc công thần. Tại sao hiền tài được coi là "Nguyên khí quốc gia"? Vì họ là bộ óc của xã hội, đại diện cho dân trí, phải tôn trọng và chiêu mộ.

Một xã hội mà một người có tội liên lụy cả ba họ. "Lý lịch thiếu trong sạch" ba đời phải gánh chịu hậu họa. Một người làm quan con cháu anh em cũng làm quan. Thậm chí còn coi đó là "Hồng phúc Quốc gia". Thì làm sao chiêu hiền đãi sĩ, sử dụng nhân tài được. Làm sao mà tạo ra "Kỷ nguyên mới" được.

Triều Trần, đời Trần Thánh Tông. Do công lao to lớn với đất nước, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn được nhà vua trao ông có quyền phong tước cho người khác từ "Minh tự" trở xuống, còn tước "Hầu" thì phong trước rồi tâu sau. Tuy nhiên, Hưng Đạo Đại vương không bao giờ sử dụng quyền đó phong tước cho ai. Ngay cả lúc giặc Hồ vào cướp, ông huy động thóc gạo tiền bạc của người giàu nuôi quân đánh giặc. Nhưng sau đó để ghi công, ông cũng chỉ cho họ chức "Giả lang tướng" mà không cho "Lang tướng" thực.

Ông không bao giờ lạm dụng quyền ban phát ân huệ hoặc tự ý trao danh hiệu vẻ vang của Quốc gia một cách tùy tiện cho người thân nhưng không có công trạng gì. Ông luôn biết giữ mình, rất khiêm nhường. Cuối đời ông về nghỉ ngơi trong thái ấp tại Kiếp Bạc (Hải Dương).

Khi Hưng Đạo Đại vương lâm bệnh trọng. Rời Kinh đô Thăng Long, vua Trần Anh Tông thân hành về tận tư dinh của ông thăm và xin được ông bày cho kế trị quốc. Nhà vua hỏi:

"Chẳng may giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách nên thế nào?".

Ông trả lời:

"Vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức giặc phải bị bắt... Nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như cách tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại phải khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy".

Nhà vua rất khiêm tốn lĩnh hội trung ý của vị lão tướng khai quốc công thần và trân trọng tiếp thu. Quả xứng là bậc minh vương. Điều ấy phần nào lý giải vì sao triều Trần đã đưa quốc gia Đại Việt tới chói lọi vinh quang.

Năm 1438, đời Lê Thái Tông, nhà vua có chiếu như sau:

"Mấy năm nay hạn hán, sâu bệnh liên tiếp xảy ra, tai họa luôn xuất hiện, nhiều lần sét đánh vào cây trước cửa Thái Miếu ở Lam Kinh. Cứ nghiệm xét những việc ấy nhất định có nguyên do trong đó. Phải chăng vì trẫm không lo sửa đức để mọi việc bê trễ. Chẳng hay là do quan tể phụ bất lực không biết dùng người, tốt xấu, tài hèn lẫn lộn. Hay do hối lộ mà việc hình ngục có nhiều oan trái... Trẫm tự trách tội mình và đại xá cho thiên hạ. Tất cả các đại thần, các quan văn võ và tất thảy mọi người hãy chỉ ra các lỗi lầm của bề trên. Cứ thẳng thắn mà nói hết không kiêng nể gì. Nếu có điều tiếp thu được sẽ ban thưởng, cất nhắc. Dẫu có ngu đần sai sót cũng không bắt tội. Ngõ hầu có thể lay chuyển lòng Trời, chấm dứt tai ương để nước nhà mãi mãi hưởng phúc lớn vô cùng vậy" ("Đại Việt sử ký toàn thư" - T.2).

Lê Thánh Tông, con út Lê Thái Tông, vị vua nổi tiếng anh minh có nhiều công lớn trong giữ nước và dựng nước. Dưới thời trị vì của ông lần đầu tiên ra đời bộ “Luật Hồng Đức” làm căn cứ quản lý điều hành xã tắc đưa đất nước vào kỷ cương. Ông đặc biệt coi trọng việc học. Trong thiên hạ không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, nam nữ, tuổi tác, thành phần xuất thân. Ai muốn trở thành người có ích cho quốc gia xã tắc đều có quyền theo học. Quốc Tử Giám không chỉ là nơi cho con em thuộc Hoàng tộc, quan lại. Mà mở rộng cho tất cả những người thi đỗ trong các kỳ thi Hội.

Một hôm vua cải trang vi hành đến Quốc Tử Giám. Trời đã khuya mà vẫn thấy một giám sinh trạc 50 tuổi đang ngồi học. Người ấy húp bát cháo loãng đến muối cũng không có. Nhà vua rất cảm kích, cho rằng đây chính là những chí sĩ mà xã tắc đang cần. Sáng hôm sau ông ta nhận được gói quà của vua ban. Gói quà là lọ muối bên trong để nén bạc. Câu chuyện nhà vua thương quý người nghèo có chí lớn nhanh chóng lan truyền khiến cả nước ai cũng ham học.

Đại chí sĩ Lê Quý Đôn (1726 - 1784) đã tổng kết có bốn nguyên nhân dẫn đất nước đến suy vong:

"Trẻ không kính gìa. Binh kiêu ngạo, tướng thoái hóa. Xã tắc tham nhũng tràn lan. Sĩ phu ngoảnh mặt đi trước thời cuộc".

Triều nhà Mạc, thời kỳ đầu coi trọng hiền tài, thành công trong việc thi tuyển sử dụng được đông đảo đội ngũ trí thức. Những tên tuổi lớn như Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trạng nguyên Giáp Hải, Nguyễn Dữ, Lê Quang Bí, Nguyễn Quyện, Nguyễn Miện, Nguyễn Hải Khang, Lê Khắc Thận, Bùi Vịnh, Nguyễn Lương Bật... sẵn sàng phò vua giúp nước góp phần quan trọng tạo thành công cho nhà Mạc.

Nhưng sau khi đã củng cố được quyền lực. Họ coi thường trí thức khiến nhân tài "Ngoảnh mặt đi". Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm kiên quyết bất hợp tác với triều đình (đời Mạc Phúc Hải). Bỏ quan trường về quê ở ẩn. Kéo theo nhiều nhân sĩ trí thức lớn noi gương ông. Sai lầm của nhà Mạc đã khiến triều đại này mất đi cơ hội để có được những bậc hiền tài. Vốn là chỗ dựa vững chắc và quan trọng cho sự tồn vong quốc gia. Đó chính là một trong những nguyên nhân khiến triều Mạc mau chóng suy tàn sụp đổ.

Mới biết vai trò của hiền tài (sĩ phu) đối với việc giữ và dựng nước quan trọng thế nào.

Từ bài học từ lịch sử, vua Quang Trung ngay sau khi lên ngôi đã giao cho Ngô Thì Nhậm soạn thảo và lập tức hạ "Chiếu cầu hiền" để thu hút nhân tài chung tay dựng nước:

"Trẫm luôn để ý lắng nghe, mong mỏi, thường tự hỏi. Tại sao những người trí cao học rộng chưa thấy đến? Hay là do trẫm kém tài, ít đức không đáng được phò tá hay sao? Trẫm lo lắng nghĩ rằng. Dù một ngày, hai ngày cũng có hàng vạn sự việc xảy ra, cái nhà to sức một cây cột làm sao chống nổi. Sự nghiệp thời bình, an dân quốc thái sức một người không thể đảm đương... Chiếu này ban xuống các bậc quan viên lớn nhỏ cùng với thứ dân trăm họ. Người nào có tài năng học thuật, mưu hay hơn đời, cho phép được dâng sớ tâu bày sự việc. Lời nói nào có thể chọn dùng được thì cất nhắc không kể thứ bậc. Chỗ nào không dùng được thì gác lại, không vì lời nói sơ suất mà bắt tội. Còn người nghề hay nghiệp giỏi có thể cống hiến giúp đời. Thì cho phép các quan văn, quan võ được tiến cử dẫn vào ra mắt tùy tài lực dụng. Hoặc người nào từ trước đến nay tài năng còn bị che kín chưa được người đời biết đến thì cũng cho phép dâng sớ tự tiến cử...".

Các bậc Minh vương thời xưa là vậy. Khiêm nhường lắng nghe ý nguyện của dân. Khuyến khích dân bày tỏ. “Tất cả mọi người hãy chỉ ra lỗi lầm của bề trên. Cứ thẳng thắn mà nói không kiêng nể gì. Nếu có điều tiếp thu được sẽ ban thưởng cất nhắc. Dẫu có ngu đần sai sót cũng không bắt tội”. (vua Lê Thái Tông). “Lời nói nào có thể chọn dùng thì được cất nhắc không kể thứ bậc. Chỗ nào không dùng được thì gác lại, không vì lời nói sơ suất mà bắt tội” (vua Quang Trung).

Tuyệt đối không coi “Phản biện là phản động”. Tuyệt đối không tìm cách “xử lý”, hoặc vùi dập trả thù người nói trái ý mình. Tuyệt đối không đặt ra những điều mập mờ trong Hình luật để khóa miệng dân, chặn họng trí thức. Luôn trọng dụng sĩ phu.

“An dân quốc thái” cũng nhờ thế.

Mong sao ngày nay các “Đế vương” cũng nghĩ, cũng nói, cũng làm được như các bậc Minh vương tiền bối của lịch sử nước nhà.

Kế thừa truyền thống các bậc tiền bối. Bác Hồ thấm thía sâu sắc vai trò quan trọng của hiền tài trong sự nghiệp cách mạng. Ngay khi khai sinh nước Việt Nam độc lập, ngày 14-11-1945 Bác viết bài "Nhân tài và kiến quốc". Tiếp đó Bác viết "Tìm người đức tài" và nhấn mạnh "Kiến quốc rất cần nhân tài".

Đó chính là "Chiếu cầu hiền" của người đứng đầu quốc gia.

Chính Phủ lâm thời do Bác làm Chủ tịch. Quốc Hội khóa đầu tiên và Ủy Ban nghiên cứu kế hoạch kiến thiết đã thu hút nhiều hiền tài là nhân sĩ, trí thức nổi tiếng. Hầu hết họ không phải đảng viên cộng sản nhưng hết lòng vì nước vì dân. Như các ông Nguyễn Văn Tố, Trưởng Ban thường trực Quốc Hội (Chủ tịch Quốc Hội), Ủy viên Thường vụ Quốc Hội như các ông Bùi Bằng Đoàn, Hoàng Văn Đức, Nguyễn Tấn Ghi Trọng, Hoàng Minh Giám, Dương Đức Hiền... Cụ Huỳnh Thúc Kháng được Bác mời giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ và khi Bác đi sang Pháp đàm phán cụ được cử tạm quyền Chủ tịch nước. Luật sư Phan Anh đã từng tham gia Chính phủ Trần Trọng Kim cũng được Bác trọng dụng bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cùng ông Đặng Thai Mai (Bộ trưởng Bộ Giáo dục), Trần Đăng Khoa (Bộ trưởng Giao thông - Công chánh), hoặc các ông Dương Đức Hiền, Nguyễn Mạnh Hà, Vũ Trọng Khánh, Vũ Đình Hòe, Phan Kế Toại, Đào Trọng Kim, Đặng Phúc Thông, Dương Bạch Mai, Hồ Đắc Liên, Chu Bá Phượng, Ngụy Như Kon Tum, Cao Xuân Huy, Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh... Ông Nguyễn Bình (Phạm Phương Thảo) trước đó từng là đảng viên Quốc Dân đảng được Bác phong hàm Trung tướng cử làm Tư lệnh chỉ huy lực lượng vũ trang cách mạng Nam Bộ. Ngay cựu hoàng Bảo Đại, cũng được Bác mời làm cố vấn cho mình.

Bác không chỉ có đôi "mắt thần" phát hiện nhân tài. Mà còn có sức cảm hóa đặc biệt và nghệ thuật sử dụng họ. Năm 1946, sau khi kết thúc hội nghị Phông-ten-blo tại Pa-ri, nhiều trí thức Việt Nam nổi tiếng du học tại Pháp đã tự nguyện cùng về nước với Bác tham gia kháng chiến. Như Giáo sư - Viện sĩ Trần Đại Nghĩa, nhà Toán học Tạ Quang Bửu, Tiến sĩ văn khoa - Cử nhân luật Nguyễn Văn Huyên, các bác sĩ Trần Hữu Tước, Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Kỹ sư hóa học Võ Quý Huân...

Tham gia Chính Phủ lâm thời do Bác Hồ làm Chủ tịch có ông Nguyễn Văn Huyên, được giữ chức Tổng Giám đốc Đại học vụ, sau làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục. Ông có nhiều công lớn trong phong trào "Diệt giặc dốt". Chỉ một thời gian ngắn mà 90 % người không biết chữ của cả nước đã đọc thông viết thạo, được Bác Hồ rất tin tưởng và mọi người quý trọng. Thế mà một hôm ông Nguyễn Văn Huyên đến gặp Bác xin từ chức Bộ trưởng chỉ với lý do ông không phải đảng viên cộng sản. Bác Hồ ân cần nói:

"Không cốt là đảng viên cộng sản hay không đảng. Mà cốt là làm việc có tốt hay kém, có hiệu quả hay không hiệu quả. Điều đó mới quan trọng".

Nghe lời khuyên của Bác Hồ, ông Nguyễn Văn Huyên yên tâm tiếp tục làm Bộ trưởng và làm rất tốt suốt cho đến cuối đời. Năm 1960 chi bộ Văn phòng Bộ Giáo dục đề nghị kết nạp ông vào Đảng, Trung ương cũng đồng ý. Nhưng Bác Hồ lại khuyên:

"Để chú Huyên ở ngoài Đảng có lợi hơn là ở trong Đảng".

Ông Huyên vô cùng xúc động biết ơn Bác Hồ. Vì thấy Bác rất am hiểu những trí thức như ông. Điều họ quan tâm là tích lũy đức tài để trọn đời cống hiến cho Tổ quốc và Nhân dân chứ không phải được vào Đảng hay không. Họ khát khao tự do sáng tạo và thoải mái khi trình bày tư tưởng. Không muốn và cho rằng trong xã hội mà người có quyền nói cứ nói, người bị nghe cứ phải nghe, cứ phải chấp hành làm theo. Không cần biết đúng sai, thật giả, phải trái. Cấm và trừng trị mọi sự phản biện. Đó chính là đất sống cho dối trá, lừa lọc thì không thể trọng dụng hiền tài được.

Dưới thời Bác Hồ lãnh đạo, nền dân chủ được mở rộng tối đa. Giới trí thức được đặc biệt quan tâm. “Nhân tài” trọng dụng. Nhưng “Nô tài” phải kiên quyết loại bỏ. Nhờ thế mọi thần dân đều hết lòng cùng Bác và Chính phủ chung lo việc nước. Trí thức tận tâm tận lực sẵn sàng sả thân cống hiến vì đại nghiệp Quốc gia. Khổng Tử dạy:

"Kẻ sĩ sẵn sàng chết vì tri kỷ. Chứ không bao giờ chịu cúi đầu phụng sự kẻ thất phu".

"Tri kỷ" chính là người giàu đức tài xứng tầm trị quốc. "Thất phu" là kẻ dùng quyền lực áp đặt, đe dọa người khác.

Lịch sử chứng minh rằng vai trò người đứng đầu vô cùng quan trọng. Phải đủ đức tài. Phải tất cả lo toan vì xã tắc. Phải tâm thiện lòng nhân. Phải bao dung độ lượng. Phải khiêm nhường lắng nghe lòng dân. Phải có được niềm tin tuyệt đối của thần dân, đặc biệt đội ngũ trí thức. Như thế mới đảm đương được sự nghiệp Quốc gia.

Mọi sự độc quyền đều dẫn đến độc tài. Độc quyền, độc tài là nguyên nhân dẫn đến sụp đổ. Hơn thế quả báo sẽ vô cùng thê thảm.

Ngày nay, quyền dân chủ được ghi khá đầy đủ trong "Hiến pháp năm 2013".

Điều 30:

"Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác"

Điều 16:

"Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật".

Điều 16 "Luật Khiếu nại - Tố cáo" cũng ghi rõ:

"Nghiêm cấm mọi hành vi cản trở việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, đe dọa, trả thù, trù dập người khiếu nại tố cáo, tiết lộ họ tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo...".

Khoản 2, Điều 19 "Công ước Quốc tế về nhân quyền" mà Việt Nam tham gia ký kết ngày 24-9-1982:

"Mọi người đều có quyền phát biểu quan điểm bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia".

Điều quan trọng nhất là đoàn kết được toàn dân khiến cho trên dưới hòa đồng. Muốn vậy thì người trên phải bỏ tư tưởng phe phái, địa phương, cục bộ. Tôn trọng quyền của mọi thần dân để họ được tự do dân chủ. Phát triển sở năng, thỏa mãn sở nguyện. Ai phục tùng tự họ sẽ tìm tới. Muốn được vậy thì lòng người trên phải trung chính. Nếu bản thân cũng nhiều tỳ vết, đầy tai tiếng, lại có tà tâm, củng cố thế lực và phe cánh, mưu cầu tư lợi. Dùng thủ đoạn để áp buộc. Thì dầu người ta có miễn cưỡng theo rồi cuối cùng họ cũng tìm cách kháng. Không thể tập hợp được quốc dân cùng lo việc xã tắc.

Người trên phải có chí thánh mới cảm hóa được người dưới và người dưới mới chí thành với người trên.

Nghị quyết 4 Trung ương, Khóa XI coi tham nhũng và thoái hóa biến chất đạo đức lối sống trong "bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên" là “giặc nội xâm”. "Làm xói mòn lòng tin của nhân dân với Đảng. Trực tiếp đe dọa sự tồn vong chế độ". Nên xác định việc chống lại chúng là quốc sách. Chỉ thị và kêu gọi toàn Đảng, toàn dân tham gia cuộc chiến này.

Rất tin tưởng những điều ấy. Xã hội ta không thiếu các trung thần với nhân cách đạo đức của người cách mạng chân chính. Họ là các bậc có công khai quốc, lão thành cách mạng, trí thức, nhân sĩ, tướng lĩnh, sĩ quan, cán bộ, công chức và nhân dân lao động. Họ dám dũng cảm nghĩ những điều người khác không dám nghĩ, nói những điều người khác không dám nói, viết những điều người khác không dám viết và làm những việc người khác không dám làm. Họ phân tích, đề xuất, thậm chí can ngăn những vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia. Kiên trì phản ánh, phản ứng, lên tiếng phanh phui tố cáo và đấu tranh không khoan nhượng trước sai trái của những kẻ thoái hóa biến chất, tham nhũng, suy đồi về đạo đức, lối sống, phản bội lý tưởng cách mạng. Để bảo vệ chế độ tốt đẹp, mà biết bao xương máu của nhân dân đã đổ xuống mới có.

Những ý kiến đóng góp của họ được hầu hết các nhà lãnh đạo đáng tin cậy của Đảng và Nhà nước trân trọng ghi nhận, tiếp thu. Điều ấy thể hiện tính ưu việt của xã hội dân chủ. Coi phản biện là đòn seo phát triển đất nước.

Tuy nhiên, vẫn còn những tà quan, bất chấp pháp luật và đạo lý. Tìm mọi thủ đoạn xấu xa độc ác để đối phó trả thù. Khiến họ phải chịu bao thiệt thòi, bị trù úm, vùi dập. Nhưng họ vẫn quyết không nhụt ý chí. Đó chính là những tấm gương kiên trung bất khuất một lòng vì nước vì dân. Bởi thế, không chỉ cơ quan công quyền các cấp, mà tất cả mọi người dân cần đồng tình, khuyến khích, chung tay góp sức và kiên quyết bảo vệ.

Khi người dân sợ những quan chức, những nhân viên thực thi pháp luật hơn sợ pháp luật. Thì sự suy vong của quốc gia và sụp đổ của chế độ đã ở ngay trước mắt. Khi người dân không còn tin ở sự nghiêm minh của pháp luật, không còn tin ở những người thực thi pháp luật thì họ dùng "luật rừng" để giải quyết mâu thuẫn với nhau. Thậm chí họ cũng sẽ dùng "luật rừng" để xử lý những "tà quan" cố ý bẻ cong pháp luật gieo rắc oan trái cho người vô tội. Khi ấy thì quốc gia sẽ đại loạn.

Hy vọng những sự thật lịch sử nước nhà mà tôi đã tóm lược ở trên sẽ giúp các vị từ người đứng đầu xã tắc đọc, suy ngẫm, rút ra bài học, vận dụng sáng tạo nhằm phục vụ công việc ích quốc lợi dân.

Được thế thì thật là hồng phúc.

 

MỜI NHẤP CHUỘT ĐỌC THÊM:

- Cuộc chiến tranh Biên giới 1979l

- Những bài thơ chống giặc Tàul

- Chiến tranh biên giới phía Bắc: những hình ảnh bi tráng không quênl

- Những tấm bản đồ do Trung Quốc và Nhật Bản phát hành không ăn cướp Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Naml

- Không được quên tội ác của bá quyền Trung Quốcl

- Trận chiến cầu Khánh Khê và giờ học lịch sửl

- Vị Xuyên ơi! Nỗi đau không quên!l

- Bàn thêm về nước Nam Việt của Triệu Đà và lịch sử nước Việt Naml

- Gạc Ma - Nỗi đau không được quênl

- Vạch trần dã tâm thâm đọc của Trung Quốc nhằm độc chiếm biển Đôngl

- Vai trò của Mao Trạch Đông trong chiến dịch tiến chiếm Hoàng Sa năm 1974l

- Cuộc chiến chống quân Trung Quốc xâm lược: Hoàng Sa năm 1974l

- Bạn đọc cảm nhận về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl

- Đặng Xuân Xuyến - Cảm nhận thơ văn 1l

- Đặng Xuân Xuyến - Cảm nhận thơ văn 2l

 

Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ

CON MUỐN VỀ QUÊ NỘI, NỘI ƠI... của Đặng Xuân Xuyến:

Đinh Như Quang giới thiệu

Tác giả: Nguyễn Đắc Trung  - nguồn: facebook

Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet

Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.

0 comments:

Đăng nhận xét