CÁC BẬC MINH VƯƠNG NƯỚC TA
CHIÊU HIỀN VÀ LẮNG NGHE SĨ PHU THẾ NÀO
Giới sĩ phu (trí thức) vốn được coi là "Nguyên khí quốc gia". Họ là tầng
lớp ưu tú của xã hội. Lao động trí óc bằng học vấn cao (chứ không phải bằng
cấp, học vị cao). Phương pháp tư duy khoa học. Bề dày kinh nghiệm thực tiễn.
Luôn coi chức năng phản biện xã hội và dự báo tương lai là bổn phận. Vì thế, từ
xưa đến nay, các bậc minh vương đều hết sức tôn trọng lắng nghe. Không bao giờ
vô hiệu hóa trí thức. Bất kỳ thể chế chính trị nào. Chất lượng đào tạo - cập
nhật thông tin - tự do tư tưởng và sáng tạo cũng là các yếu tố tạo ra sức mạnh
của trí thức. Dù chỉ thiếu một thôi, trí thức cũng không thể phát huy tài năng
và sức mạnh. Trí thức đã bị vô hiệu hóa thì làm sao trở thành "Nguyên khí quốc gia". Làm sao xây
dựng nền kinh tế tri thức ở thời đại 4.0. Làm sao "Sánh vai với các cường quốc năm châu" (Bác Hồ)? Lạc hậu, chậm
phát triển, thậm chí thụt lùi so với các quốc gia xung quanh mặc dù có đủ điều
kiện và ưu thế. Nguyên nhân quan trọng là tầng lớp cầm quyền coi thường trí
thức, để trí thức "quay lưng".
Một trong những tiêu chí để đánh giá bản chất một thể chế chính
trị. Là thái độ đối với trí thức và đạo lý với các bậc khai quốc công thần. Tại
sao hiền tài được coi là "Nguyên khí
quốc gia"? Vì họ là bộ óc của xã hội, đại diện cho dân trí, phải tôn
trọng và chiêu mộ.
Một xã hội mà một người có tội liên lụy cả ba họ. "Lý lịch thiếu trong sạch" ba đời
phải gánh chịu hậu họa. Một người làm quan con cháu anh em cũng làm quan. Thậm
chí còn coi đó là "Hồng phúc Quốc
gia". Thì làm sao chiêu hiền đãi sĩ, sử dụng nhân tài được. Làm sao mà
tạo ra "Kỷ nguyên mới" được.
Triều Trần, đời Trần Thánh Tông. Do công lao to lớn với đất
nước, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn được nhà vua trao ông có quyền phong
tước cho người khác từ "Minh tự" trở xuống, còn tước "Hầu"
thì phong trước rồi tâu sau. Tuy nhiên, Hưng Đạo Đại vương không bao giờ sử
dụng quyền đó phong tước cho ai. Ngay cả lúc giặc Hồ vào cướp, ông huy động
thóc gạo tiền bạc của người giàu nuôi quân đánh giặc. Nhưng sau đó để ghi công,
ông cũng chỉ cho họ chức "Giả lang tướng" mà không cho "Lang
tướng" thực.
Ông không bao giờ lạm dụng quyền ban phát ân huệ hoặc tự ý trao
danh hiệu vẻ vang của Quốc gia một cách tùy tiện cho người thân nhưng không có
công trạng gì. Ông luôn biết giữ mình, rất khiêm nhường. Cuối đời ông về nghỉ
ngơi trong thái ấp tại Kiếp Bạc (Hải Dương).
Khi Hưng Đạo Đại vương lâm bệnh trọng. Rời Kinh đô Thăng Long,
vua Trần Anh Tông thân hành về tận tư dinh của ông thăm và xin được ông bày cho
kế trị quốc. Nhà vua hỏi:
"Chẳng may giặc
phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách nên thế nào?".
Ông trả lời:
"Vua tôi đồng tâm,
anh em hòa mục, cả nước góp sức giặc phải bị bắt... Nó cậy trường trận, ta dựa
vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu
thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như cách
tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền
biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con
thì mới dùng được. Vả lại phải khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc, đó là
thượng sách giữ nước vậy".
Nhà vua rất khiêm tốn lĩnh hội trung ý của vị lão tướng khai
quốc công thần và trân trọng tiếp thu. Quả xứng là bậc minh vương. Điều ấy phần
nào lý giải vì sao triều Trần đã đưa quốc gia Đại Việt tới chói lọi vinh quang.
Năm 1438, đời Lê Thái Tông, nhà vua có chiếu như sau:
"Mấy năm nay hạn hán,
sâu bệnh liên tiếp xảy ra, tai họa luôn xuất hiện, nhiều lần sét đánh vào cây
trước cửa Thái Miếu ở Lam Kinh. Cứ nghiệm xét những việc ấy nhất định có nguyên
do trong đó. Phải chăng vì trẫm không lo sửa đức để mọi việc bê trễ. Chẳng hay
là do quan tể phụ bất lực không biết dùng người, tốt xấu, tài hèn lẫn lộn. Hay do
hối lộ mà việc hình ngục có nhiều oan trái... Trẫm tự trách tội mình và đại xá
cho thiên hạ. Tất cả các đại thần, các quan văn võ và tất thảy mọi người hãy
chỉ ra các lỗi lầm của bề trên. Cứ thẳng thắn mà nói hết không kiêng nể gì. Nếu
có điều tiếp thu được sẽ ban thưởng, cất nhắc. Dẫu có ngu đần sai sót cũng
không bắt tội. Ngõ hầu có thể lay chuyển lòng Trời, chấm dứt tai ương để nước
nhà mãi mãi hưởng phúc lớn vô cùng vậy" ("Đại Việt sử ký toàn
thư" - T.2).
Lê Thánh Tông, con út Lê Thái Tông, vị vua nổi tiếng anh minh có
nhiều công lớn trong giữ nước và dựng nước. Dưới thời trị vì của ông lần đầu
tiên ra đời bộ “Luật Hồng Đức” làm căn cứ quản lý điều hành xã tắc đưa đất nước
vào kỷ cương. Ông đặc biệt coi trọng việc học. Trong thiên hạ không phân biệt
giàu nghèo, sang hèn, nam nữ, tuổi tác, thành phần xuất thân. Ai muốn trở thành
người có ích cho quốc gia xã tắc đều có quyền theo học. Quốc Tử Giám không chỉ
là nơi cho con em thuộc Hoàng tộc, quan lại. Mà mở rộng cho tất cả những người
thi đỗ trong các kỳ thi Hội.
Một hôm vua cải trang vi hành đến Quốc Tử Giám. Trời đã khuya mà
vẫn thấy một giám sinh trạc 50 tuổi đang ngồi học. Người ấy húp bát cháo loãng
đến muối cũng không có. Nhà vua rất cảm kích, cho rằng đây chính là những chí
sĩ mà xã tắc đang cần. Sáng hôm sau ông ta nhận được gói quà của vua ban. Gói
quà là lọ muối bên trong để nén bạc. Câu chuyện nhà vua thương quý người nghèo
có chí lớn nhanh chóng lan truyền khiến cả nước ai cũng ham học.
Đại chí sĩ Lê Quý Đôn (1726 - 1784) đã tổng kết có bốn nguyên
nhân dẫn đất nước đến suy vong:
"Trẻ không kính gìa.
Binh kiêu ngạo, tướng thoái hóa. Xã tắc tham nhũng tràn lan. Sĩ phu ngoảnh mặt
đi trước thời cuộc".
Triều nhà Mạc, thời kỳ đầu coi trọng hiền tài, thành công trong
việc thi tuyển sử dụng được đông đảo đội ngũ trí thức. Những tên tuổi lớn như
Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trạng nguyên Giáp Hải, Nguyễn Dữ, Lê Quang Bí,
Nguyễn Quyện, Nguyễn Miện, Nguyễn Hải Khang, Lê Khắc Thận, Bùi Vịnh, Nguyễn
Lương Bật... sẵn sàng phò vua giúp nước góp phần quan trọng tạo thành công cho
nhà Mạc.
Nhưng sau khi đã củng cố được quyền lực. Họ coi thường trí thức
khiến nhân tài "Ngoảnh mặt đi". Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm kiên
quyết bất hợp tác với triều đình (đời Mạc Phúc Hải). Bỏ quan trường về quê ở
ẩn. Kéo theo nhiều nhân sĩ trí thức lớn noi gương ông. Sai lầm của nhà Mạc đã
khiến triều đại này mất đi cơ hội để có được những bậc hiền tài. Vốn là chỗ dựa
vững chắc và quan trọng cho sự tồn vong quốc gia. Đó chính là một trong những
nguyên nhân khiến triều Mạc mau chóng suy tàn sụp đổ.
Mới biết vai trò của hiền tài (sĩ phu) đối với việc giữ và dựng
nước quan trọng thế nào.
Từ bài học từ lịch sử, vua Quang Trung ngay sau khi lên ngôi đã
giao cho Ngô Thì Nhậm soạn thảo và lập tức hạ "Chiếu cầu hiền" để thu
hút nhân tài chung tay dựng nước:
"Trẫm luôn để ý lắng
nghe, mong mỏi, thường tự hỏi. Tại sao những người trí cao học rộng chưa thấy
đến? Hay là do trẫm kém tài, ít đức không đáng được phò tá hay sao? Trẫm lo
lắng nghĩ rằng. Dù một ngày, hai ngày cũng có hàng vạn sự việc xảy ra, cái nhà
to sức một cây cột làm sao chống nổi. Sự nghiệp thời bình, an dân quốc thái sức
một người không thể đảm đương... Chiếu này ban xuống các bậc quan viên lớn nhỏ
cùng với thứ dân trăm họ. Người nào có tài năng học thuật, mưu hay hơn đời, cho
phép được dâng sớ tâu bày sự việc. Lời nói nào có thể chọn dùng được thì cất
nhắc không kể thứ bậc. Chỗ nào không dùng được thì gác lại, không vì lời nói sơ
suất mà bắt tội. Còn người nghề hay nghiệp giỏi có thể cống hiến giúp đời. Thì
cho phép các quan văn, quan võ được tiến cử dẫn vào ra mắt tùy tài lực dụng.
Hoặc người nào từ trước đến nay tài năng còn bị che kín chưa được người đời
biết đến thì cũng cho phép dâng sớ tự tiến cử...".
Các bậc Minh vương thời xưa là vậy. Khiêm nhường lắng nghe ý
nguyện của dân. Khuyến khích dân bày tỏ. “Tất
cả mọi người hãy chỉ ra lỗi lầm của bề trên. Cứ thẳng thắn mà nói không kiêng
nể gì. Nếu có điều tiếp thu được sẽ ban thưởng cất nhắc. Dẫu có ngu đần sai sót
cũng không bắt tội”. (vua Lê Thái Tông). “Lời nói nào có thể chọn dùng thì
được cất nhắc không kể thứ bậc. Chỗ nào không dùng được thì gác lại, không vì
lời nói sơ suất mà bắt tội” (vua Quang Trung).
Tuyệt đối không coi “Phản biện là phản động”. Tuyệt đối không
tìm cách “xử lý”, hoặc vùi dập trả thù người nói trái ý mình. Tuyệt đối không
đặt ra những điều mập mờ trong Hình luật để khóa miệng dân, chặn họng trí thức.
Luôn trọng dụng sĩ phu.
“An dân quốc thái” cũng nhờ thế.
Mong sao ngày nay các “Đế vương” cũng nghĩ, cũng nói, cũng làm
được như các bậc Minh vương tiền bối của lịch sử nước nhà.
Kế thừa truyền thống các bậc tiền bối. Bác Hồ thấm thía sâu sắc
vai trò quan trọng của hiền tài trong sự nghiệp cách mạng. Ngay khi khai sinh
nước Việt Nam độc lập, ngày 14-11-1945 Bác viết bài "Nhân tài và kiến quốc".
Tiếp đó Bác viết "Tìm người đức tài"
và nhấn mạnh "Kiến quốc rất cần nhân
tài".
Đó chính là "Chiếu cầu hiền" của người đứng đầu quốc
gia.
Chính Phủ lâm thời do Bác làm Chủ tịch. Quốc Hội khóa đầu tiên
và Ủy Ban nghiên cứu kế hoạch kiến thiết đã thu hút nhiều hiền tài là nhân sĩ,
trí thức nổi tiếng. Hầu hết họ không phải đảng viên cộng sản nhưng hết lòng vì
nước vì dân. Như các ông Nguyễn Văn Tố, Trưởng Ban thường trực Quốc Hội (Chủ
tịch Quốc Hội), Ủy viên Thường vụ Quốc Hội như các ông Bùi Bằng Đoàn, Hoàng Văn
Đức, Nguyễn Tấn Ghi Trọng, Hoàng Minh Giám, Dương Đức Hiền... Cụ Huỳnh Thúc
Kháng được Bác mời giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ và khi Bác đi sang Pháp đàm
phán cụ được cử tạm quyền Chủ tịch nước. Luật sư Phan Anh đã từng tham gia
Chính phủ Trần Trọng Kim cũng được Bác trọng dụng bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng cùng ông Đặng Thai Mai (Bộ trưởng Bộ Giáo dục), Trần Đăng Khoa (Bộ
trưởng Giao thông - Công chánh), hoặc các ông Dương Đức Hiền, Nguyễn Mạnh Hà,
Vũ Trọng Khánh, Vũ Đình Hòe, Phan Kế Toại, Đào Trọng Kim, Đặng Phúc Thông,
Dương Bạch Mai, Hồ Đắc Liên, Chu Bá Phượng, Ngụy Như Kon Tum, Cao Xuân Huy,
Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh... Ông Nguyễn Bình (Phạm Phương Thảo) trước đó
từng là đảng viên Quốc Dân đảng được Bác phong hàm Trung tướng cử làm Tư lệnh
chỉ huy lực lượng vũ trang cách mạng Nam Bộ. Ngay cựu hoàng Bảo Đại, cũng được
Bác mời làm cố vấn cho mình.
Bác không chỉ có đôi "mắt thần" phát hiện nhân tài. Mà
còn có sức cảm hóa đặc biệt và nghệ thuật sử dụng họ. Năm 1946, sau khi kết
thúc hội nghị Phông-ten-blo tại Pa-ri, nhiều trí thức Việt Nam nổi tiếng du học
tại Pháp đã tự nguyện cùng về nước với Bác tham gia kháng chiến. Như Giáo sư -
Viện sĩ Trần Đại Nghĩa, nhà Toán học Tạ Quang Bửu, Tiến sĩ văn khoa - Cử nhân
luật Nguyễn Văn Huyên, các bác sĩ Trần Hữu Tước, Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Kỹ
sư hóa học Võ Quý Huân...
Tham gia Chính Phủ lâm thời do Bác Hồ làm Chủ tịch có ông Nguyễn
Văn Huyên, được giữ chức Tổng Giám đốc Đại học vụ, sau làm Bộ trưởng Bộ Giáo
dục. Ông có nhiều công lớn trong phong trào "Diệt giặc dốt". Chỉ một
thời gian ngắn mà 90 % người không biết chữ của cả nước đã đọc thông viết thạo,
được Bác Hồ rất tin tưởng và mọi người quý trọng. Thế mà một hôm ông Nguyễn Văn
Huyên đến gặp Bác xin từ chức Bộ trưởng chỉ với lý do ông không phải đảng viên
cộng sản. Bác Hồ ân cần nói:
"Không cốt là đảng
viên cộng sản hay không đảng. Mà cốt là làm việc có tốt hay kém, có hiệu quả
hay không hiệu quả. Điều đó mới quan trọng".
Nghe lời khuyên của Bác Hồ, ông Nguyễn Văn Huyên yên tâm tiếp
tục làm Bộ trưởng và làm rất tốt suốt cho đến cuối đời. Năm 1960 chi bộ Văn
phòng Bộ Giáo dục đề nghị kết nạp ông vào Đảng, Trung ương cũng đồng ý. Nhưng
Bác Hồ lại khuyên:
"Để chú Huyên ở ngoài
Đảng có lợi hơn là ở trong Đảng".
Ông Huyên vô cùng xúc động biết ơn Bác Hồ. Vì thấy Bác rất am
hiểu những trí thức như ông. Điều họ quan tâm là tích lũy đức tài để trọn đời
cống hiến cho Tổ quốc và Nhân dân chứ không phải được vào Đảng hay không. Họ
khát khao tự do sáng tạo và thoải mái khi trình bày tư tưởng. Không muốn và cho
rằng trong xã hội mà người có quyền nói cứ nói, người bị nghe cứ phải nghe, cứ
phải chấp hành làm theo. Không cần biết đúng sai, thật giả, phải trái. Cấm và
trừng trị mọi sự phản biện. Đó chính là đất sống cho dối trá, lừa lọc thì không
thể trọng dụng hiền tài được.
Dưới thời Bác Hồ lãnh đạo, nền dân chủ được mở rộng tối đa. Giới
trí thức được đặc biệt quan tâm. “Nhân tài” trọng dụng. Nhưng “Nô tài” phải
kiên quyết loại bỏ. Nhờ thế mọi thần dân đều hết lòng cùng Bác và Chính phủ
chung lo việc nước. Trí thức tận tâm tận lực sẵn sàng sả thân cống hiến vì đại
nghiệp Quốc gia. Khổng Tử dạy:
"Kẻ sĩ sẵn sàng chết
vì tri kỷ. Chứ không bao giờ chịu cúi đầu phụng sự kẻ thất phu".
"Tri kỷ" chính là người giàu đức tài xứng tầm trị
quốc. "Thất phu" là kẻ dùng quyền lực áp đặt, đe dọa người khác.
Lịch sử chứng minh rằng vai trò người đứng đầu vô cùng quan
trọng. Phải đủ đức tài. Phải tất cả lo toan vì xã tắc. Phải tâm thiện lòng
nhân. Phải bao dung độ lượng. Phải khiêm nhường lắng nghe lòng dân. Phải có
được niềm tin tuyệt đối của thần dân, đặc biệt đội ngũ trí thức. Như thế mới
đảm đương được sự nghiệp Quốc gia.
Mọi sự độc quyền đều dẫn đến độc tài. Độc quyền, độc tài là
nguyên nhân dẫn đến sụp đổ. Hơn thế quả báo sẽ vô cùng thê thảm.
Ngày nay, quyền dân chủ được ghi khá đầy đủ trong "Hiến
pháp năm 2013".
Điều 30:
"Mọi người có quyền
khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm
trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền
được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của
pháp luật. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền
khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác"
Điều 16:
"Mọi người đều bình
đẳng trước pháp luật".
Điều 16 "Luật Khiếu nại - Tố cáo" cũng
ghi rõ:
"Nghiêm cấm mọi hành
vi cản trở việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, đe dọa, trả thù, trù dập
người khiếu nại tố cáo, tiết lộ họ tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo...".
Khoản 2, Điều 19 "Công ước Quốc tế về nhân quyền"
mà Việt Nam tham gia ký kết ngày 24-9-1982:
"Mọi người đều có
quyền phát biểu quan điểm bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới
quốc gia".
Điều quan trọng nhất là đoàn kết được toàn dân khiến cho trên
dưới hòa đồng. Muốn vậy thì người trên phải bỏ tư tưởng phe phái, địa phương,
cục bộ. Tôn trọng quyền của mọi thần dân để họ được tự do dân chủ. Phát triển
sở năng, thỏa mãn sở nguyện. Ai phục tùng tự họ sẽ tìm tới. Muốn được vậy thì
lòng người trên phải trung chính. Nếu bản thân cũng nhiều tỳ vết, đầy tai
tiếng, lại có tà tâm, củng cố thế lực và phe cánh, mưu cầu tư lợi. Dùng thủ
đoạn để áp buộc. Thì dầu người ta có miễn cưỡng theo rồi cuối cùng họ cũng tìm
cách kháng. Không thể tập hợp được quốc dân cùng lo việc xã tắc.
Người trên phải có chí thánh mới cảm hóa được người dưới và
người dưới mới chí thành với người trên.
Nghị quyết 4 Trung ương, Khóa XI coi tham nhũng và thoái hóa
biến chất đạo đức lối sống trong "bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên"
là “giặc nội xâm”. "Làm xói mòn lòng tin của nhân dân với Đảng. Trực tiếp
đe dọa sự tồn vong chế độ". Nên xác định việc chống lại chúng là quốc
sách. Chỉ thị và kêu gọi toàn Đảng, toàn dân tham gia cuộc chiến này.
Rất tin tưởng những điều ấy. Xã hội ta không thiếu các trung
thần với nhân cách đạo đức của người cách mạng chân chính. Họ là các bậc có
công khai quốc, lão thành cách mạng, trí thức, nhân sĩ, tướng lĩnh, sĩ quan,
cán bộ, công chức và nhân dân lao động. Họ dám dũng cảm nghĩ những điều người
khác không dám nghĩ, nói những điều người khác không dám nói, viết những điều
người khác không dám viết và làm những việc người khác không dám làm. Họ phân
tích, đề xuất, thậm chí can ngăn những vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia.
Kiên trì phản ánh, phản ứng, lên tiếng phanh phui tố cáo và đấu tranh không
khoan nhượng trước sai trái của những kẻ thoái hóa biến chất, tham nhũng, suy
đồi về đạo đức, lối sống, phản bội lý tưởng cách mạng. Để bảo vệ chế độ tốt
đẹp, mà biết bao xương máu của nhân dân đã đổ xuống mới có.
Những ý kiến đóng góp của họ được hầu hết các nhà lãnh đạo đáng
tin cậy của Đảng và Nhà nước trân trọng ghi nhận, tiếp thu. Điều ấy thể hiện
tính ưu việt của xã hội dân chủ. Coi phản biện là đòn seo phát triển đất nước.
Tuy nhiên, vẫn còn những tà quan, bất chấp pháp luật và đạo lý.
Tìm mọi thủ đoạn xấu xa độc ác để đối phó trả thù. Khiến họ phải chịu bao thiệt
thòi, bị trù úm, vùi dập. Nhưng họ vẫn quyết không nhụt ý chí. Đó chính là
những tấm gương kiên trung bất khuất một lòng vì nước vì dân. Bởi thế, không
chỉ cơ quan công quyền các cấp, mà tất cả mọi người dân cần đồng tình, khuyến
khích, chung tay góp sức và kiên quyết bảo vệ.
Khi người dân sợ những quan chức, những nhân viên thực thi pháp
luật hơn sợ pháp luật. Thì sự suy vong của quốc gia và sụp đổ của chế độ đã ở
ngay trước mắt. Khi người dân không còn tin ở sự nghiêm minh của pháp luật, không
còn tin ở những người thực thi pháp luật thì họ dùng "luật rừng" để
giải quyết mâu thuẫn với nhau. Thậm chí họ cũng sẽ dùng "luật rừng"
để xử lý những "tà quan" cố ý bẻ cong pháp luật gieo rắc oan trái cho
người vô tội. Khi ấy thì quốc gia sẽ đại loạn.
Hy vọng những sự thật lịch sử nước nhà mà tôi đã tóm lược ở trên
sẽ giúp các vị từ người đứng đầu xã tắc đọc, suy ngẫm, rút ra bài học, vận dụng
sáng tạo nhằm phục vụ công việc ích quốc lợi dân.
Được thế thì thật là hồng phúc.
MỜI NHẤP CHUỘT ĐỌC THÊM:
- Cuộc chiến tranh
Biên giới 1979l
- Những bài thơ
chống giặc Tàul
- Chiến tranh biên
giới phía Bắc: những hình ảnh bi tráng không quênl
- Không được quên
tội ác của bá quyền Trung Quốcl
- Trận chiến cầu
Khánh Khê và giờ học lịch sửl
- Vị Xuyên ơi! Nỗi
đau không quên!l
- Bàn thêm về nước
Nam Việt của Triệu Đà và lịch sử nước Việt Naml
- Gạc Ma - Nỗi đau
không được quênl
- Vạch trần dã tâm
thâm đọc của Trung Quốc nhằm độc chiếm biển Đôngl
- Vai trò của Mao
Trạch Đông trong chiến dịch tiến chiếm Hoàng Sa năm 1974l
- Cuộc chiến chống
quân Trung Quốc xâm lược: Hoàng Sa năm 1974l
- Bạn đọc cảm nhận
về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ
CON MUỐN VỀ QUÊ NỘI, NỘI ƠI... của Đặng Xuân Xuyến:
Đinh Như Quang giới thiệu
Tác giả: Nguyễn Đắc Trung - nguồn: facebook
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét