THÍCH NHẬT TỪ
Cho dù kính trọng ngài Thích
Nhật Từ là bậc thượng tọa Phật giáo, nhưng theo tinh thần kinh “Kalama” tôi
không thể tán thành những gì ngài đã phát biểu. Những góc cạnh triết học Phật
giáo mà tôi đối luận dựa theo những gì ngài đã nêu ra, tôi cho rằng cần phải
xét lại. Rất mong ngài hoan hỷ đón nhận những thiển ý của người viết…
Vừa qua trong 2 tối liên tiếp
lúc 20:15′ ngày 26 – 27/11/2014 đài truyền hình An Viên phát sóng về hoạt động
pháp sự mang tính chất mê tín dị đoan ở tịnh thất Quán Âm thuộc tỉnh Lâm Đồng,
do đại đức Thích Giác Nhàn chủ trì. Những gì sai trái của đại đức Giác Nhàn,
thiết nghĩ không còn gì để bàn luận vì sự cố đã rõ mười mươi. Tuy nhiên, trong
sự trả lời của tiến sĩ Phật học Thích Nhật Từ dành cho đài An Viên đã lộ ra
nhiều điểm bất cập, tôi là một người con Phật có trách nhiệm bảo vệ chánh kiến
Phật đà, nên cần phải đối luận thẳng thắn về vấn đề này. Vì đây là một phương
diện học thuật, nên tôi xin được phép gọi theo học vị của thượng tọa ấy là tiến
sĩ.
Cho dù kính trọng ngài Thích
Nhật Từ là bậc thượng tọa Phật giáo, nhưng theo tinh thần kinh “Kalama”tôi
không thể tán thành những gì ngài đã phát biểu. Những góc cạnh triết học Phật
giáo mà tôi đối luận dựa theo những gì ngài đã nêu ra, tôi cho rằng cần phải
xét lại. Rất mong ngài hoan hỷ đón nhận những thiển ý của người viết…
1/ ĐỊA NGỤC CÓ THẬT HAY KHÔNG?
Kính thưa tiến sĩ Thích Nhật
Từ!
Phát biểu với phóng viên đài An
Viên, ngài khẳng định không có cảnh giới địa ngục vậy thì ngài dựa trên luận
chứng nào? Qua trả lời phỏng vấn ngài giải thích vì không được đề cập trong
kinh tạng Nguyên thủy. Vậy tôi sẽ trích dẫn cho ngài thấy ngay từ kinh tạng mà
ngài nêu ra. Sách “Câu xá luận” viết : “một là Đẳng hoạt địa
ngục, tội quỷ tại địa ngục này tuy bị xử chặt đâm xay giã, nhưng khi có gió
lạnh thổi vào thì sống lại, nên gọi là Đẳng hoạt…”.
Kinh “Thập bát Nê Lê” viết: “Ngục
thứ nhất, một ngày bằng 3750 năm của nhân gian….”, kinh Trường A hàm-
kinh Thế kỷ, phẩm Địa ngục có viết về địa ngục như vậy (được đăng trong
trang web wwwchuagiacngo.com, 92 Nguyễn Chí Thanh, P. 3, Q 10, TP HCM, do
chính ngài Thích Nhật Từ làm trụ trì và quản lý trang đó), kinh Tạp A hàm
quyển 48 viết về “Địa ngục lửa đỏ”… Ngoài ra, kinh luận Đại thừa có
nhiều đoạn viết về địa ngục như trong “Đại trí độ luận” (100 quyển, 90
phẩm) của bồ tát Long Thọ, những kinh sách Mật giáo đặc biệt là “Trung
ấm văn giáo cứu độ đại pháp” của đại sĩ Liên Hoa Sanh…"
Trong sự xác quyết không có địa
ngục, ngài tiến sĩ dẫn chứng một luận án tiến sĩ Phật học do hòa thượng Thích
Thiện Châu, trình bày và được cấp bằng tại đại học Sorbon, nước Pháp vào năm
1977, liệu thuyết phục được mọi người không? Trước hết, tôi khẳng định luận
chứng nêu ra của ngài không phù hợp với “thánh giáo lượng” (ngũ lượng
phương tiện biện giải là cơ sở Nhân minh học đạo Phật) bởi hòa thượng
Thích Thiện Châu là ai? Thánh tăng hay phàm tăng? Đương nhiên là phàm tăng, do
đó không thể lấy đó làm khuôn vàng thước ngọc mà phủ bác quan kiến của bồ tát
Long Thọ và đại sĩ Liên Hoa Sanh.
Hơn nữa, nơi công nhận luận án
này là trường đại học phàm trần, không phải là học viện Phật giáo như Sera Tây
Tạng, hay Phật Quang Sơn ở Đài Loan, vậy cơ sở chuẩn y thiếu tính xác thực,
không đáng tin cậy. Ngài là tu sĩ Phật giáo thì hiểu rằng những gì người học
trò, hay hành giả, luận giả trình bày, đều phải có xác nhận của bậc tôn túc
trưởng thượng đạo Phật chứng đắc, mới có giá trị trên văn đàn Phật giáo.
Tôi hỏi ngài, ai là người phản biện và chuẩn y cho luận
án tiến sĩ ấy? Phải là những bậc tôn giả đạo Phật không? Đương nhiên là không vì đó là một trường đại
học phàm trần, cho dù nổi tiếng với thế giới, nhưng vẫn là “đứng ngoài” đối
với lĩnh vực tâm linh, vốn cần nội lực tâm linh mới có thể thẩm định được. Do
vậy, không ngẫu nhiên K.Max, một triết gia người Đức viết “Muốn thưởng
thức nghệ thuật phải có trình độ nghệ thuật”, huống gì là thẩm định nghệ
thuật mà Phật học là đỉnh cao của mọi nghệ thuât? Từ những điểm tham chiếu này,
tôi cho rằng lập luận của tiến sĩ Thích Nhật Từ thiếu cơ sở biện chứng, có thể
gọi là khinh suất, thiếu cẩn trọng.
Thưa tiến sĩ Thích Nhật Từ!
Trong phát biểu của mình ngài
cho rằng đạo Phật vay mượn thuyết địa ngục, hoặc cảnh địa ngục của Bà la môn
giáo để nhằm mục đích giáo dục cho kẻ ác phải hướng thiện, vì họ “thấy quan
tài mà không đổ lệ” (từ dùng này của tiến sĩ sao có vẻ phàm tình
thế!). Ngài sai lầm trầm trọng khi lập luận như vậy. Trí tuệ đạo Phật siêu
việt so với 96 ngoại đạo đương thời, và sau này cũng vậy vì hàm tích nhiều
phương tiện thiện xảo (lục độ Ba la mật), lại đề cao “tứ nhiếp
pháp”, ngoài ra đã được trang bị Ngũ minh (y phương minh, công xảo
minh, thanh minh, nhân minh, nội minh), lẽ nào các sư thầy đạo Phật
lại kém bản lĩnh đi vay mượn đạo khác?
Nếu vậy thì ngài coi thường bậc
trưởng lão tôn túc tiền bối quá rồi đó! Thôi được! Nếu có đi chăng nữa thì chỉ
trong một hoặc vài quốc độ nào đó thôi, cớ sao ngài lại khẳng định cả giáo điển
Phật môn? Lấy một góc cạnh tâm linh để áp đặt lên toàn cục của đạo Phật, e rằng
ngài đi vào chỗ chủ quan theo tâm ý của mình, vốn là một lỗi sai trầm trọng mà
kinh Tứ thập nhị chương khuyến cáo?
Ngài tiến sĩ lại cho rằng sở dĩ
người Phật tử tin tưởng có địa ngục vì ảnh hưởng từ kinh Địa tạng Bổn nguyện
vốn là do Trung Quốc biên soạn, không đáng tin cậy. Thưa ngài tiến sĩ, ngài nói
như vậy là võ đoán, là quy chụp! Đành rằng ở Trung Quốc bị phát hiện hơn 500
loại ngụy thư (kinh giả mạo, kinh tự soạn) nhưng không phải
kinh nào có nguồn gốc từ bên Tàu là sai, là không phải Đức Phật thuyết ra! Nếu
ngài lập luận như vậy chẳng khác nào vơ đủa cả nắm!
Là người con Phật, nhất là tu
sĩ có học vị tiến sĩ , phải hiểu rằng để thẩm định bộ kinh, trang kinh nào là
của chính từ kim khẩu Đức Phật, thì phải dùng lăng kính Phật pháp mà chiếu soi
gọi là “Tứ pháp ấn” (được nêu trong kinh Đại bát Niết bàn), sao ngài sơ
suất như vậy? Điều này khiến bản thân tôi nghi ngờ tính chân thật từ học vị của
ngài, và trình độ “ngũ minh” về Phật học của ngài. Tội phỉ báng kinh điển chính
thống của đạo Phật, tức là phỉ báng Đức Phật, là một thái độ không phải là
người con Phật chân chính, hậu quả là không thể tránh khỏi.
Từ những gì tôi đã luận giải
như trên, có cơ sở khẳng định rằng địa ngục là cảnh giới có thật, chỉ có điều
là hiểu như thế nào về cảnh giới ấy mà thôi! Bởi vậy, trong quan kiến Nguyên
thủy vẫn chấp nhận có 5 thú (điạ ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người, trời);
trong quan kiến Phật giáo Đại thừa thường có cụm tự “lục đạo luân hồi”
(địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người, thần, trời).
Là người con Phật, tiến sĩ tin
có cõi Phật, cõi trời thì tại sao lại không tin có cõi địa ngục? Vậy tiến sĩ là
thầy tu đạo nào nhỉ? Tôi cho tiến sĩ biết rõ, khái niệm địa ngục có trong bất
kỳ tôn giáo chính thống nào, chỉ có điều mô tả và hiểu như thế nào là tùy theo
trình độ tâm linh của mỗi đạo mà thôi! Khi tiến sĩ cho rằng không có địa ngục
bỗng dưng tôi tự hỏi:
“Nếu vậy thì sao hằng năm tổ chức Vu lan bồn, là tích mà
trong “kinh” ấy nêu rõ là tôn giả Mục kiền liên xuống địa ngục?"
2/ QUỶ NHẬP CÓ HAY KHÔNG?
Kính thưa tiến sĩ Thích Nhật
Từ!
Trong phát biểu của mình, tiến
sĩ cho rằng không có quỷ nhập, ma nhập vì “trong mỗi một cơ thể chỉ có
được một tâm thể”. Tôi bác bỏ luận cứ này do nó không xuất phát
từ “thánh giáo lượng” vì tiến sĩ không trích luận chứng từ
kinh nào, thánh ngôn nào trong đạo Phật? Để giải thích điều này, tiến sĩ đưa
luận cứ của Y học hiện đại mà dẫn chứng một bệnh trạng gọi là “rối loạn
tâm thần đa nhân cách”. Vậy tôi muốn hỏi tiến sĩ một câu! Tiến sĩ được
phỏng vấn với vai trò là người đời hay người tu; một tu sĩ bình thường hay một
thượng tọa giáo phẩm?
Là người con Phật, là tiến sĩ
Phật học, cớ sao ngài lại đưa luận cứ Y khoa để giải thích một vấn đề tâm linh?
Nếu vậy thì tốt nhất nên để một bác sĩ tiến sĩ Tâm thần học nói về vấn đề này
hay hơn tiến sĩ Phật học nhiều. Khán giả sở dĩ nghe ngài là vì muốn ngài đứng
trên lập trường đạo pháp mà minh định chánh tín hay mê tín, chứ không phải ngài
đề cập đến lĩnh vực mà ngài không quán thông là Y học hiện đại (hay
ngài muốn khoe kiến thức nhỉ, mà tội nghiệp là không đúng văn cảnh. Mô Phật)
Trở lại vấn đề quỷ nhập, ma
nhập mà ngài bài bác bằng luận cứ Y khoa hiện đại, tôi nhắc lại cho ngài nhớ là
trong kinh “Thủ lăng nghiêm” Đức Phật thuyết về “50 ấm
ma” gây hại cho người tu, trong đó có mô tả sự gá vào, nhập vào của
thiên ma, làm cho hành giả điên loạn, ít ra thì bị vọng tưởng bừng bừng dục
niệm. Lẽ nào Đức Phật nói sai? Không đợi chi Đức Phật nói về ma nhập mà trong
dân gian thường nói “tẩu hỏa nhập ma” (tức là ma nhập vào thì điên loạn),
hoặc cụm từ “xuất quỷ nhập thần”.
Thưa tiến sĩ!
Khi tiến sĩ nói về “rối
loạn tâm thần đa nhân cách” để bác bỏ hiện tượng quỷ nhập thì tiến sĩ giải
thích sao đây về hiện tượng “đồng bóng”, “linh môi”? Tiến sĩ
giải thích sao khi nhiều người bị quỷ nhập phán đúng vanh vách những gì quá
khứ, tình trạng của người khác. Nếu đóng vai nào đó theo cách nói của tiến sĩ,
thì bệnh nhân chỉ khoác loác bản ngã là tiên, thánh, bồ tát, tôn ngộ không, cớ
sao họ lại trổ được thần thông như trên?
Còn tiến sĩ bảo nguyên
nhân “rối loạn tâm thần đa nhân cách” do bị đè nén, bị ảnh hưởng
bởi môi trường ám khí, u ẩn thì tại sao có hiện tượng nhớ lại kiếp trước, trong
khi họ không phải là bậc tu hành chứng đắc. Ví dụ ở Việt Nam có bé Bùi Lạc Bình
sinh năm 2000 ở xóm Cọi (xã Yên Phú, Lạc Sơn, Hòa Bình) gây
xôn xao dư luận suốt một thời gian dài. Bởi lẽ bé Bình sinh ra ở gia đình người
dân tộc Mường, nhưng biết nói tiếng Kinh.
Bé lên 4 tuổi thì thường nhắc
lại kiếp trước của mình là đứa trẻ người Kinh bị chết đuối, cách đó 10 năm. Đặc
biệt, bé Bình đòi được đưa đến ngôi nhà cha mẹ kiếp trước của mình, nằm cách đó
chỉ 1km. Tại đây, Bé Bình kể rõ từng chi tiết về đời sống trước đó của mình ở
trong nhà này với tên là Nguyễn Phú Quyết Tiến, khiến cho mọi người sửng sốt.
Như đã viết trên, tiến sĩ Thích
Nhật Từ dùng luận cứ Y học mà giải thích vấn đề tâm linh đã từng tồn tại hàng
ngàn năm qua, được ghi trong kinh điển Phật giáo và ngoại đạo, thì rõ ràng đây
là một lập luận khinh suất tựa như đưa bác nông dân nhận xét về nghệ thuật múa
Ba lê. Từ những luận cứ, luận chứng tôi nêu trên, bạn đọc tự hiểu rằng có ma
nhập, quỷ nhập hay không. Luận điểm của tiến sĩ Thích Nhật Từ không phát xuất
từ quan kiến đạo Phật, không trình bày theo thánh giáo lượng nên khó thuyết
phục bạn đọc.
3/ CÓ NÊN GIẢI TÁN BAN HỘ NIỆM CƯ SĨ HAY TĂNG
SĨ?
Kính thưa tiến sĩ Thích Nhật
Từ!
Từ sự cố hộ niệm, cầu siêu,
tiếp dẫn vãng sanh ở tịnh thất Quán Âm của thầy Thích Giác Nhàn, ngài phủ nhận
hiệu quả của những hoạt động tâm linh này, qua đó khuyên rằng cần nên dẹp bỏ.
Lý do ngài nêu ra là làm như vậy là khuyến khích cho người tu Phật “dựa dẫm”
vào Phật A mi đà, vào cõi Tây phương Cực lạc. Cách dùng từ ngữ nêu trên thực sự
trái với tinh thần người tu Phật, mang tính chất mĩa mai tu pháp của Tịnh độ
tông.
Xin thưa với ngài, họ không dựa
dẫm như ngài nói mà là nương vào 48 đại nguyện của Đức Phật A mi đà. Đây là một
trong những pháp tu tối thắng mà các tổ sư Tịnh độ tông đã phân tích luận giải
mạch lạc, rõ ràng, đồng thời hướng dẫn chi tiết được ghi trong “Niệm Phật
thập yếu”, “Tịnh độ thập nghi luận”, “A di đà sớ sao”…
Biết bao người tu niệm Phật,
được hộ niệm đã được thác sanh vào cõi lành, cũng có người được vãng sanh, ở
Đài Loan có đạo tràng Bồ tát cư sĩ Lý Bỉnh Nam, hòa thượng Tịnh Không ở Việt
Nam có đạo tràng Hoằng Pháp, TP HCM…Ngài không phải là thầy tu của Tịnh độ tông
làm sao ngài có thể hiểu tường tận và trải nghiệm sự vi diệu của người niệm
Phật, của kẻ được hộ niệm lúc lâm chung?
Mặt khác, ngài không thể cho
việc cầu cạnh vào hộ niệm cuối đời là sự dựa dẫm để rồi quên đi hoạt động từ
thiện, hoạt động xã hội, bỏ việc tu hành tự lực. Làm sao ngài biết những người
kia đang nằm trên giường được hộ niệm, bản thân họ đã như vậy trước đó? Đây là
mặt lý, còn về phần sự thì chắc ngài cũng biết, bất kỳ một tông phái đạo Phật
nào cũng phải thực hiện tích lũy 2 bồ tư lương: Công đức & Trí tuệ.
Lẽ nào tông phái mà ngài đang
tu trì có chuẩn mực trong quy trình tâm linh, ở các tông phái khác lại không
có? Tôi tuy là hành giả Mật tông nhưng tôi được biết đối với người tu Tịnh độ,
một mặt niệm Phật là “tích trí” (trí tuệ) và mặt khác là “lập
công” (công đức) qua phương diện chánh hạnh là niệm Phật, trợ hạnh là
thực hiện lục độ Ba la mật, gọi là phước huệ song tu. Thế thì tại sao ngài quả
quyết họ chỉ dựa dẫm vào hộ niệm?
Vì vậy, tôi cho rằng nhận xét
của ngài là phiếm diện. Ngài nói như vậy chẳng khác gì coi thường pháp tu tịnh
độ vốn dĩ đang được nhiều người tu ngưỡng kính? Ngài cho rằng người tu Tịnh độ
dựa dẫm, lẽ nào ngài quên rằng mọi pháp môn đều đạt giải thoát, giải thoát hay
không là tự mỗi hành giả tinh tấn hay không, chứ không phải là lỗi của tông môn
trong đạo Phật.
Theo pháp tu của Tịnh đô tông,
người tu lúc lâm chung cần hộ niệm trợ lực tâm linh, trấn an tinh thần để người
hấp hối an lành ra đi. Vậy hoạt động hộ niệm không sai ngược lại là rất tốt,
vấn đề là hộ niệm như thế nào, ở đâu. Ban hộ niệm bất luận theo đạo tràng nào, bất
luận là cư sĩ, tăng sĩ cũng không vấn đề, vấn đề là ở chỗ làm như thế nào cho
hiệu quả.
Trong khi đó, thưa ngài tiến
sĩ, ngài cho rằng nên dừng lại hoạt động này hoặc ít nhất ra nên “giảm” hộ
niệm, “tăng” tự tu, vậy chẳng khác nào ngài “dài tay” vào chuyện
người khác hay không? Giả sử ngài là tu sĩ Thiên Thai tông, ai đó là tiến sĩ
lên đài phát biểu, đừng tụng kinh Pháp hoa làm gì cho mất thời gian, để thời
gian làm phật sự, từ thiện, ấn tống kinh điển..ngài nghĩ sao? Cho nên tôi
khuyên ngài một điều: không chấp vào hiện tượng mà hãy quán xét bản chất để đề
ra hoạch định hoặc đưa ra luận kiến. Muốn thưởng thức nghệ thuật phải có trình
độ nghệ thuật như câu danh ngôn đã nói, xem ra ngài đã lạm bàn nghệ thuật tâm
linh rồi!
Thưa ngài tiến sĩ Thích Nhật
Từ!
Tôi nói ngài lạm bàn nghệ thuật
tâm linh là không ngoa ngữ vì ngài nhận định về 5 điều kiện để vãng sanh Tây
phương Cực lạc không chính xác, không đầy đủ, nhất là khi ngài bàn về “nhất
tâm bất loạn”. Theo giáo điển của Tịnh độ tông và đại nguyện của đức A mi
đà Phật, mọi chúng sanh tu Phật và tin Phật A mi đà đều có thể vãng sanh, tùy
theo từng mức độ tâm linh mà về cõi Tây phương trong 1 đến 9 tầng (cửu
phẩm liên hoa), không phải nhất thiết phải nhất tâm mới vãng sanh.
Hơn nữa, nếu không vãng sanh
Tây phương Cực lạc thì người tu được hộ niệm cũng thác sanh về cõi lành. Vì
vậy, hộ niệm là một hoạt động tâm linh thật tốt, thể hiện Bồ đề tâm dụng một
cách thiết thực. Do vậy, quan điểm của ngài nêu ra hạn chế, e rằng không khách
quan về tình hình thực tế tâm linh.
4/ ĐÔI ĐIỀU KẾT LUẬN
Kính thưa tiến sĩ Thích Nhật
Từ!
Với tư cách là người con Phật,
tôi mong muốn mọi người tu dù ở các tông phái, pháp môn nào đều thành tựu hạnh
phúc của Phật tánh. Vấn đề chỉ trầm trọng là ở mỗi cá nhân người tu, làm điều
tà vạy lạc lối Bồ đề. Do vậy, với tinh thần nêu cao chánh kiến Phật đà, tôi
không tán thành quan điểm áp đặt của tiến sĩ lên những quan kiến Phật học, gây
ảnh hưởng những đạo tràng của các tông phái khác bởi tính bộ phái của mình, gây
ảnh hưởng đến pháp tu của họ đang đặt hết niềm tin.
Tôi, tuy là hành giả Mật tông
nhưng vẫn bày tỏ sự kính ngưỡng những tu pháp của Tịnh độ tông, cảm khái
hết lòng trước những đại nguyện của A mi đà Phật, quy ngưỡng về Tây phương Cực
lạc quốc. Kinh Hoa nghiêm viết “Biển Phật mênh mông chỉ có niềm tin mới
nhập hải”. Tôi kết thúc bài này bằng câu ca dao của ông bà ta:
Dù ai nói ngả nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba
chân
*
Thinley NGUYÊN THÀNH
(Tên thật: Nguyễn Trọng Minh)
Địa chỉ: Làng Phước Thành, quận Liên Chiểu
thành phố Đà Nẵng
(Hiện sống và làm việc tại Hà Nội)
.
.
.
.............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 18.11.2015.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
0 comments:
Đăng nhận xét