(Nhà thơ Nguyễn Bình Phương - Nguồn ảnh: internet) |
THI PHÁP KHÔNG GIAN TRONG
THƠ NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tin vào đêm
Không tin bóng tối
N.B.P
Nguyễn Bình Phương là một trong những gương mặt nổi trội của văn
học Việt Nam đương đại
sau năm 1975. Trên cả hai “sân chơi” văn xuôi và thơ, ông đều được đánh giá là
một trong những “tiền đạo” xuất sắc có lối chơi độc đáo với những đường “pan và
zoom” hiếm, khó tìm.
(Tác giả Mai Văn Phấn) |
Trước khi khảo sát sâu thơ Nguyễn Bình Phương, tôi tìm đọc lại những tiểu
thuyết quan trọng đã xuất bản của ông. Những tác phẩm này thực sự cắm từng cột
mốc chắc chắn cho hành trình văn xuôi Việt Nam đương đại: “Vào Cõi”, “Những
đứa trẻ chết già”, “Người đi vắng”, “Trí
nhớ suy tàn”, “Thoạt Kỳ Thủy”, “Ngồi” , “Mình
và họ” … Các tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Bình Phương cho thấy sự kết
hợp linh hoạt và hài hòa giữa kỹ thuật “dòng ý thức” (một xu hướng sáng tác có
từ đầu thế kỷ hai mươi, tái hiện trực tiếp đời sống nội tâm, xúc cảm
và liên tưởng) với thủ pháp “hiện thực huyền ảo” (một trào lưu nghệ
thuật nổi lên ở các quốc gia Mỹ Latin sau chiến tranh thế giới thứ hai, quan
niệm thực tại còn có cả đời sống tâm linh, nhân đức tin, huyền thoại, truyền
thuyết và sự màu nhiệm…), làm nên một hiện tượng độc đáo của văn xuôi Việt Nam
đương đại. Văn xuôi Nguyễn Bình Phương giúp tôi hiểu hơn về quá trình đổi mới,
cách tân thơ trong hành trình sáng tạo của ông. Văn xuôi chính là đất đai,
nguồn mạch cho thơ ông đơm hoa kết trái, sinh sôi...
Năm 2015, nhà thơ Nguyễn Bình Phương xuất bản tập thơ “Xa xăm gõ cửa” (Nxb
Văn học và Công ty Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam ). Đây là tập thơ tuyển từ các
tập thơ đã in, “Lam chướng” (Nxb Văn học, 1992), "Xa thân"
(Nxb Hà Nội, 1997), “Từ chết sang trời biếc” (Nxb Hội nhà văn, 2001),
“Buổi câu hờ hững” (Nxb Văn học, 2011) cùng những sáng tác mới nhất của ông.
Tôi thường xuyên đọc thơ Nguyễn Bình Phương nhưng luôn có cảm giác nửa như
quen nửa như lạ. Quen quen rồi lạ lạ. Đọc kỹ càng thấy lạ. Trong thế giới nghệ
thuật của mình, nhà thơ thường sử dụng tư liệu, hình ảnh quen thuộc của thơ
“truyền thống” làm nền để sáng tạo những không gian mới mẻ và khác thường. Ông
ít khi thay đổi không gian từ khởi đầu bài thơ, mà thường làm biến ảo hình ảnh
trong từng mạch thơ, câu thơ. Những hình ảnh này là “chìa khóa” để mở vào những
không gian mới, hoàn toàn khác lạ, so với chính không gian mà bạn đọc đã nhìn
thấy ban đầu. Có thể nói, những hình ảnh được nhà thơ chọn để làm “mũi đột
phá”, sau khi “hoàn thành nhiệm vụ” đã tạo ra những khoảng không mới, nhiều lạ lẫm.
Thơ của Nguyễn Bình Phương có thể dung chứa nhiều không gian đan xen hoặc gối
lên nhau. Những hiện thực trong không gian đó ẩn hiện, có lúc được tác giả chủ
ý làm “méo” những hình ảnh, giống như hình họa bức tranh được vẽ trên thành một
chiếc thạp cổ, một mái vòm. Hay giống như bóng một ngọn đồi in trên mặt hồ đang
xao động nhẹ…
Có thể tham khảo cách thiết lập không gian thơ của một số tác giả cách tân
cùng thế hệ sau 1975 để hiểu thêm những đặc điểm nổi bật của thơ Nguyễn Bình
Phương. Trong thơ Nguyễn Quang Thiều, Trần Tiến Dũng, ta thấy những “khối lập
phương” được dựng lên. Những “khối lập phương” này khi nhìn chính diện là những
hình vuông hay hình chữ nhật, được hiện diện bằng những hình ảnh cụ thể, sáng
rõ. Và, để bạn đọc hình dung được khoảng không phía sau, nhà thơ đặt vào trong
đó những hình ảnh đứt nối, mờ nhòe... Những hình ảnh này tựa những vết chấm rải
mờ khi ta vẽ những hình lập phương trong toán học. Thơ hai tác giả này thường
khắc họa hiện thực đời sống với cảm giác phóng dật, ngổn ngang, sắc nhọn… Còn
trong thơ Nguyễn Lương Ngọc, những mặt cắt “lập thể” biến hóa hai chiều gây ấn
tượng về sự rũ bỏ, tái sinh... Thơ Giáng Vân thấm đẫm tính thiền và gần với
Siêu thực, cho ta sự quán tưởng về một thế giới trong suốt và tĩnh lặng. Hoặc
thơ Nguyễn Đức Tùng gần đây dung chứa nhiều không gian tiếp nối, đóng-mở bất
ngờ, làm hiển lộ những vẻ đẹp như thoảng hoặc, như miên viễn…
Thơ Nguyễn Bình Phương có lối cấu trúc không gian khác biệt so với thơ các
tác giả tôi vừa dẫn. Ông vận dụng lối kiến trúc hài hòa và tinh tế của phương
Đông, kết hợp với cách tạo hình trong không gian ba chiều của chạm lộng – một
nghệ thuật chạm khắc dân gian của người Việt. Tôi hình dung bề mặt không gian
thơ Nguyễn Bình Phương ít gai góc sắc nhọn và thường được làm cho phân tán, lu
mờ đi. Chúng giống như một vòm cây có gió, một mái đình trong sương sớm, hay
một đám mây hơn là dãy núi trùng điệp, những đỉnh tháp… Những thi ảnh khi được
nhà thơ “điều khiển”, biến hóa đã làm bề mặt không gian thơ thay đổi. Tôi cảm
nhận những hình ảnh ấy thường bị “uốn cong” thay vì bị bẻ gập, đứt đoạn như thơ
của một số tác giả khác. Tôi gọi đây là không gian thơ độc đáo được tạo nên bởi
thi pháp Nguyễn Bình Phương.
Qua năm tập thơ đã được công bố, chúng ta có thể hệ thống được cách tạo
dựng và bài trí không gian thơ của Nguyễn Bình Phương. Vị trí của những hình
ảnh, tư liệu trong đó được ông sử dụng thường ít dịch chuyển, hoán đổi, hoặc
đảo lộn như thơ của một số tác giả cách tân cùng thế hệ. Nhìn từ góc độ chủ thể
sáng tạo cũng như người tiếp cận văn bản, theo tôi, “biến động” của một bài thơ
là diễn trình tư tưởng kết hợp với sự lan tỏa của cảm xúc. Kết thúc “diễn
trình” ấy, trật tự hình ảnh trong thơ Nguyễn Bình Phương thường ít thay đổi.
Xin dẫn các câu thơ sau đây: Kia bông hoa nức nở trong yên tĩnh/ Trăng hoang vu lượn
sóng triền đồi/ Kia chiếc lá chót cành/ Hơi thở cuối/ Run lên trời không mây (Biền biệt). Trong trường hợp
này, “bông hoa”, “trăng”, “triền đồi”, “chiếc lá”, “hơi thở”,
“mây” đã làm xong bổn phận trong thế giới thơ Nguyễn Bình Phương. Chúng ít
khi tái hiện trong những khổ thơ tiếp theo bằng những dáng vẻ, thân phận khác.
Mặc dù những hình ảnh ấy vẫn ở vị trí cũ như lúc mới xuất hiện, nhưng “ánh
sáng” của chúng đã mở ra những không gian khác, với những hướng chuyển động
khác.
Tôi xin dẫn thơ của nhà thơ Trần Tiến Dũng để so sánh. Trong khổ thơ sau,
hình ảnh con chim được nhà thơ cho xuất hiện trong những khoảng không giao nhau
và đặt trong liên tiếp câu nghi vấn rời rạc, do đó, liên tục biến hóa, thay
đổi: Được gì
khi là chim?/ Bóng rớt xuống đất là phân/ Được gì khi có cái nhìn chim?/ Ánh
sáng là thực phẩm/ Được gì khi ý thức tự do chim?/ Đưa ngực ra gió (Đưa ngực đón gió). Hoặc hình ảnh chiếc
giò quẩy và tách cà phê cứ "nhào trộn" cùng tâm trạng của nhà thơ
trong khổ thơ sau: Trong tách cà phê cặn của gã làm thơ/ Chập chờn bóng miệng, mắt, bàn tay/
Thơ của ai và khi nào/ Nửa khúc giò quẩy rủ mềm mép tách/ Nửa khúc đi vào thế
giới ngon miệng trong áo khoác thẫm đen (Giò quẩy và tách cà phê).
Trong thơ của Nguyễn Bình Phương, thoạt đầu, những hình ảnh xuất hiện
thường gợi cảm giác hết sức quen thuộc, gần gũi. Đôi lúc, dường như nhà thơ còn
có ý “trêu đùa” bạn đọc. Có thể hình dung như ta đang bước vào một ngôi nhà
quen thuộc với cách sắp đặt nhàm chán của chủ nhà. Đó cũng là cách Nguyễn Bình
Phương dắt người đọc vào thơ mình trong nhiều câu thơ mở đầu. Những câu mở đầu
này thường tối giản và dung dị. Như giọng “mời khách” nhỏ nhẹ, khiêm nhường: Mưa đằng đông (Mùa), Tháng
Tám phơi áo bờ rào (Bài hát vu vơ), Tôi
nhón gót về (Làng Phan), Cô
gái đến với anh (Hình ảnh cuối cùng), Tít
phía chiều (Không tên), Này
cô em dáng hiền hiền xinh xinh (Hỏi), Vậy
nhé (Khoảng giữa), Và đêm nay (Đồng ca), Bầy ngựa phi (Canh Ngọ), Chạm vào cỏ trắng (Khuya nào), Nai kêu (Ở Định Hóa), Một cái chức nhỏ nhẹ (Gửi những khổ sở), Rồi ai cũng biết (Miêu tả những ngày mưa) v.v.
Cảm giác quen thuộc vẫn tiếp tục đến với bạn đọc khi đã bước hẳn vào bên
trong ngôi nhà thơ của Nguyễn Bình Phương. Trong đó là những hình ảnh đặc trưng
không gian văn hóa Việt: Qua bức tường đổ hàng xóm chửi nhau/ Mồ ông cha cày xới/ Con Thà Khèo ngồi
bậu cửa phì phèo hút thuốc (B – Sang thị xã, trường ca Khách của trần gian); Bức tường hoa sứ đổ/ Còn lại bóng chỗ ngồi (Bài thơ 5 khổ). Thậm chí, còn bắt gặp
những hình ảnh cổ xưa hiện về trong không gian hiện đại, đa điểm nhìn của
Nguyễn Bình Phương: Gió tắt một ngọn đèn dầu/ Em mặc áo the em ra nơi hẹn (Áo đêm); Rót một chén rượu/ Mùa đông đỡ hoang tàn (Rượu một mình), Hỡi
ai mà bỏ đi trăng lác đác (Cái bóng)… Lại có
khi là sự pha trộn nhuần nhuyễn và có phần ma quái giữa không gian thuần Việt
với cách nhìn hài hước, diễu nhại hiện đại: Không em/ Ngày rũ
mình bước lên bản chữ Nôm cũ kỹ/ Và ai đó không phải là gà/ Cất tiếng gáy (Không em).
Tương tự, trong bài thơ “Bâng quơ”, Nguyễn Bình Phương như đã trải một “tấm
chiếu cạp điều” mời khách vào ngôi nhà thơ của ông: Dưới gầm trời ẩm ướt/ Người cuối cùng đang nghĩ
về em. Theo thói quen, khi bước đến ngõ một
ngôi nhà đã biết từ trước, người ta thường đi lướt qua mà ít chú ý tới những
hình ảnh quá quen thuộc, như giàn trầu không, con mèo tam thể, cây cau, vại
nước… Nhưng với thơ Nguyễn Bình Phương lại khác. Quen đấy mà chỉ dạo vài bước
thôi, chúng ta sẽ được chứng kiến một trong những hình ảnh thân thuộc kia bỗng
nhiên biến hóa khác thường, không thể dự đoán. Chính thế, nên tôi tự hỏi, những
hình ảnh tiếp theo này trong bài thơ “Bâng quơ” đang di động trong thế giới
nào, cõi âm hay chốn dương gian: Người cuối cùng lắng nghe tiếng
chuông/ Ngân nga lên tóc em lên làn da xa thẳm…/ Khung cửa hẹp bỗng làm anh hồi
hộp/ Có một người trở về sau ánh chớp/ Lặng lẽ mang đi hư ảnh cuối cùng. Hình ảnh "một người trở về sau ánh chớp" có thể ví như viên sỏi đang vỡ ra trong miệng gây cảm
giác như nó phát nổ, mà lúc đầu ta ngỡ đó là món ăn quen thuộc. Cách “chế biến”
này của Nguyễn Bình Phương làm cho những “thực khách” vốn khư khư giữ lấy những
món ăn khoái khẩu sẽ cảm thấy dị ứng, khó chịu. Nhưng sau “vụ nổ” của “viên
sỏi” kia, người đọc bắt đầu biết hoài nghi với những quan niệm cũ, biết thay
đổi sở thích, và quan trọng hơn, có được nhận thức khác về vẻ đẹp của những giá
trị mới.
Những “vụ nổ” như vậy thường diễn ra trong từng phân mảnh thơ Nguyễn Bình
Phương. Những phân mảnh ấy là những hình ảnh, tâm trạng, những manh nha của tâm
cảm, linh cảm... Có lúc chúng đứng yên để phát sáng, hoặc chuyển động để làm
biến đổi các chiều kích của không gian và thời gian trong thơ. Và khi phát
sáng, chúng lập tức làm đảo lộn mọi trật tự, đào sâu thêm nền tảng vốn ổn cố
như bạn đọc vẫn tưởng. Hoặc nó tạo ra một ngôi nhà khác với nền móng hoàn toàn
khác biệt. Nguyễn Bình Phương đã làm thay đổi tuyến tính, các chiều kích, biên
độ tưởng tượng trong một bài thơ. Thủ pháp này chính là “bí quyết” để tạo ra
những khoảng không riêng biệt trong các tập thơ của ông.
Tôi xin dẫn một số câu thơ tiêu biểu, cho thấy phần nào thủ pháp tạo lập
không gian độc đáo của Nguyễn Bình Phương. Đây là cách ông lấy một hình ảnh
trong câu thơ vừa xuất hiện để mở cánh cửa vào một bầu trời khác: Một người be bé mơ thấy sóng/ Sóng trở mình xoá
trắng mộng bể Đông (Ẩn dụ); Mây đêm bay về phía chân trời/ Chân trời run rẩy
sáng... (Thật xa xôi). Có lúc nhà thơ biến những khát vọng, những câu trả lời
thành hình ảnh cụ thể, gợi cảm: Có một đêm vô hình cao chất ngất/ Sáng nào tới được (Xa thân); kìa cô em lúm đồng tiền xinh xinh/ Là bác sỹ hay là gì ấy
nhỉ?/ Hun hút
hành lang hẹp… (Hỏi); Chúng
ta nhìn thay người thương binh ấy, vào ban mai, vào trưa, vào sẩm tối. Đêm
thì anh nhìn giúp chúng ta (Về một người thương binh hỏng mắt). Hoặc, nhà thơ
dùng một hình ảnh khác để làm xuất hiện thần thái những hình ảnh vừa được dựng
lên trong câu thơ vừa viết: Bạn bè đi làm kiếp vợ chồng/ Đom đóm yêu nhau lập lòe chốn cũ (Nhập chiều); Ngoài
chuồng trâu vọng tiếng cọ sừng/ Một người nựng con/ Phát con/ Rồi ru/ Một
người xách đèn đi vào sương mù (Ngày
đông), Xa xa/ Dưới lòng đất ẩm/ Bộ xương cá rùng
mình lặng lẽ ấm dần lên (Hồi lại)…
Những câu thơ tôi đánh dấu (gạch chân) chính là “cái huyệt” trong những bài thơ
của Nguyễn Bình Phương. Chúng xuất hiện, làm đảo lộn khoảng không, vây lấy những
hình ảnh tưởng như bất động trước đó. Những hình ảnh ấy như được ai vẽ lên một
mặt giấy, một bức tường…. Rồi bất chợt trở nên sống động trong một thế giới
khác. Phía sau những hình ảnh kia chính là một cánh cửa, một khoảng không khác
thường hay một đường hầm nối vào sâu hút. Những câu thơ làm “huyệt”, làm “mắt
bão” ấy của Nguyễn Bình Phương tựa chiếc cầu bập bênh bỗng nhiên thả bỗng hoặc
bật tung người bạn chơi ở đầu bên kia lên.
Thơ Nguyễn Bình Phương đã kết hợp tổng hòa các khuynh hướng hiện đại (Tượng
trưng, Siêu thực, Dã thú, Biểu hiện, Trừu tượng…). Đồng thời, ông tiếp biến lối
viết “dòng ý thức” kết hợp với “hiện thực huyền ảo” của tiểu thuyết để làm nên
một thế giới thơ xô lệch độc đáo, đa điểm nhìn. Đồng thời, hiện thực thơ Nguyễn
Bình Phương thường được hiển lộ và chuyển động trong không gian huyền ảo, mộng
mị, tâm linh… Đó là thế giới của linh hồn, của quá khứ, của tâm tưởng, có khả
năng hiển lộ cùng đời sống dương gian.
Khá nhiều bài thơ của Nguyễn Bình Phương xuất hiện những nhân vật, có tích
truyện. Có thể gọi những bài thơ này là truyện cực ngắn được viết bằng ngôn ngữ
thơ ca. Những nhân vật trong bài thơ thường được ẩn hiện trong một thế giới
huyễn ảo, siêu thực, dìu bạn đọc vào những cảm giác mê sảng, đặc biệt ấn tượng.
Bài thơ “Cắt tóc” có “cốt truyện” khá độc đáo, thú vị. Nhân vật “Tôi” ngồi cắt
tóc “kín đáo nhếch môi cười” để mặc cho khuôn mặt cùng những sự thật
sau bức tường kia già đi theo thời gian. Bài thơ/ truyện cực ngắn này có cái
kết mở gây bất ngờ: Một người cực lạ/ Rũ khăn choàng váng vất bước ra.
Đọc thơ Nguyễn Bình Phương, tôi thường “cảnh giác” với những hình ảnh tưởng
như thân quen đấy, bỗng chốc chúng có thể biến thành những vị thần, linh hồn/
ma quái, sinh khí/ thán khí... Những hình ảnh dưới đây tựa những linh vật trong
Bái-Vật-Giáo, một tín ngưỡng tiền tôn giáo, thờ cúng các vật như đỉnh núi, gốc
cây, con sông, bến nước…: Đom đóm lập loè bay qua thành phố/ Để lại nụ cười mơ hồ xanh (Áo đêm); Cuối cùng/ chiếc gương cũng trào ra những bóng
hình ứ đọng (Ở nơi không có cánh); Chết
không thở cùng hoa/ Thở cùng người đàn bà xa lạ (Nhẹ)...
Tạo ra hiện thực không gian “uốn vặn” đặc thù là một thủ pháp nghệ thuật,
cũng là một đặc trưng thi pháp nổi bật trong suốt hành trình sáng tạo của
Nguyễn Bình Phương. Tôi có cảm nhận không gian ấy được ông tạo dựng, giáp nối
bằng những “mặt cong” có sắc thái khác nhau. Ở tập thơ “Lam chướng”, những “mặt
phẳng” không gian được kiến tạo (uốn/ bẻ/ gò/ hàn/ đan/ ghép/ xô lệch…) có phần
đơn giản hơn những bài thơ viết sau này. Hiện thực không gian trong giai đoạn
đầu này được Nguyễn Bình Phương dựng lên bảng lảng, sương khói, mơ màng như bức
tranh lụa. Những sự kiện đồng hiện thường dung dị, ít chồng lấn và sáng rõ hơn
những bài thơ trong tập thơ “Buổi câu hờ hững” và cả sau này. Tuy vậy, không
gian thơ trong “Lam chướng” vẫn là những hiện thực không gian “cong” như tôi đã
viện dẫn. Hình ảnh trong “Lam chướng” có thể ví như những hình họa trên bề mặt
những chiếc bình gốm với những đường men rạn tự nhiên, đầy hấp dẫn. Nhưng ở
những tập thơ tiếp sau này, không gian thơ Nguyễn Bình Phương thường được đan
xen, mấp mô, chồng lấn nhiều hơn.
Trong bài thơ “Không đề” (rút từ tập thơ “Lam chướng”), những hình ảnh xuất
hiện trong khổ đầu bài thơ tựa những con số trên bảng máy tính. Chúng được liệt
kê một cách dung dị và hiền lành: Có người lính chống cằm nhìn vỏ đạn/ Có đàn ri bay qua
nóc nhà thờ/ Có dòng suối chảy qua những tầng rễ/ Có góa phụ chít khăn bằng
sương. Ở những câu thơ mở đầu này, từng “con số” kia vẫn nằm im. Chúng chỉ thực
sự hoạt động (cộng, trừ, nhân, chia…) khi bàn tay của nhà thơ đánh thức chúng
bằng câu thơ sau: Đêm nay nước mắt giáng trần/ Con đom đóm nhỏ xiu đêm nay lạc mẹ/ Ngủ nhờ
giấc ngủ trẻ con. “Con đom đóm” được nhà thơ đặt vào “giấc ngủ trẻ con”, theo tôi, là một
hành động khác thường mà chỉ Nguyễn Bình Phương mới làm được. Hành động ấy kết
nối tất cả những hình ảnh rời rạc tưởng như nằm yên trong khổ thơ đầu. Cách tạo
những “mặt cong” trong trường hợp này khá giản dị, tuy vậy, tác động của nó lại
gây nhiều bất ngờ cho bạn đọc.
Thơ Nguyễn Bình Phương giai đoạn kế tiếp trở nên đa diện hơn trong cách
hiển lộ hình ảnh và sắp đặt không gian. Những tư liệu, hình ảnh mang theo nhiều
tâm trạng được nhà thơ sử dụng trong bài thơ thường sắc lạnh và rời rạc hơn
trước khi nó được “uốn cong”. Như hình ảnh những người bán hàng mã trong bài
thơ “Hàng mã rong” hiện lên vật vờ, phiêu diêu và “Đi êm ru sang phía tờ
mờ”: Họ không
tới ngày mai những ngày mai chết lặng/ Lồng ngực thời tiết trái tim chẳng rộn
ràng/ Trái tim đập lầm lụi dưới gót chân/ Sau mỗi bước cửa thời gian rùng mình
lại mở. Trong bài thơ “Miêu tả những ngày nắng”, người đọc còn có thể nghe rõ
tiếng va đập hỗn độn của đời sống công nghiệp. Cách sắp đặt hình ảnh tạo nên
những khoảng không gian hẹp đan gối: Một bầu trời phẳng lì/ Không mây không gì cả/ Tường chói
tiếng nói chói/ Chói tấm biển chỉ đường ra ga/ Gương chiếu hậu quắc lên quái gở.
Bài thơ “NBP” sau đây mang đặc trưng cách thiết lập không gian của Nguyễn
Bình Phương giai đoạn tiếp sau “Lam Chướng”, và, được ông sử dụng tới tận bây
giờ.
NBP
Những bóng tối lảng vảng trên tóc
Trên mặt sông rút dải làn sương bạc
Trong giấc ngủ thâm u bầy người điên ngơ ngác
Đã trở về
Khuôn mặt nước giếng khơi rạng rỡ
Tôi châm thuốc ra ngoài gặp cỏ
Nghĩ đến mình nghĩ đến mình thật nhiều
Nhắm mắt lại và từ từ hiển hiện
Một vườn mía ngọt lúc trăng lên
Tin vào đêm
Không tin bóng tối
Những ngôi đền rụt rè sáng cùng tôi.
Bài thơ có ba khổ, nhưng không mang tinh thần “tam đoạn luận” như thường
gặp trong một số bài thơ truyền thống. Mỗi khổ thơ trong bài dung chứa từng
không gian riêng với đa dạng tình cảm và tâm trạng. Ở khổ thơ đầu có hai điểm
nhói sáng, tôi gọi đó là hai vị trí tác giả đã chọn để “uốn cong”: “Trong giấc
ngủ thâm u bầy người điên ngơ ngác” và “Khuôn mặt nước giếng khơi rạng rỡ”. Còn
trong hai khổ thơ sau, vị trí để “uốn cong” đều nằm ở câu thơ cuối cùng của
khổ: “Một vườn mía ngọt lúc trăng lên” và “Những ngôi đền rụt rè sáng cùng
tôi”. Nối bốn điểm sáng trong bài thơ “NBP” lại, bạn đọc sẽ hình dung một không
gian rộng lớn, với những hình ảnh nổi, sống động tựa như xem một đoạn phim 3D,
4D... Những “mặt cong” này cho ta hình dung rõ nhất về chân dung Nguyễn Bình
Phương, một thi sỹ với đầy những âu lo hoài niệm, nhưng luôn tin vào những điều
tốt đẹp sẽ tới.
Sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những thủ pháp tạo không gian của nhà
thơ Nguyễn Bình Phương. Ông thường chọn lối diễn đạt gây ám ảnh dai dẳng, mơ hồ
hơn là những cách nói bộc trực, đập mạnh vào cảm giác trực tiếp. Cách sử dụng
từ ngữ gây nhiều ảo giác mộng mị, gợi sự tan loãng, phân rã… càng tạo cho
thế giới thơ Nguyễn Bình Phương thêm đa chiều những hướng mở. Những hình ảnh
như được “tăng diện tiếp xúc” với thế giới bên ngoài. Và chúng thường hiển hiện
như những ngôi sao ở xa, nhấp nháy, đa bội…
Cách nhà thơ dùng điệp từ, hoặc nhắc lại hình ảnh trong một câu thơ nhằm cố
ý hãm những chuyển động của chúng chậm lại cũng rất đáng chú ý. Có con chim nâu trong bông hoa nâu (Khuya nào). Nhuốm gót theo ôi đầm sương là sương (Cái bóng). Người ngồi cạnh sông người nói với sông (Đêm ngà ngà). Tơ hồng vàng giăng
trước ngôi nhà vàng (Lời hứa
muộn). Chầm chậm chầm chậm bò giữa nắng (Hành trình). Mơ theo mưa
mưa dắt anh đi (Chớp mắt Huế). Không
phân biệt trời xanh mái nhựa xanh(Không
phân biệt). Ngày hoa bán đầy phố/ Đêm phố đầy bán hoa (Khoảng giữa). Tường chói tiếng
nói chói (Miêu tả những ngày nắng)…
Cách đặt tên những bài thơ của Nguyễn Bình Phương cũng nằm trong chủ ý
thiết lập không gian riêng của ông. Tôi chậm rãi xướng tên những bài thơ sau và
tưởng tượng đó là những âm vọng của tiếng động, giọng nói, hay tiếng cầu nguyện
của những tín đồ được hắt xuống từ một mái vòm nhà thờ: Nhập chiều, Biền biệt, Khuya nào, Nhẹ, Thầm, Hồi lại, Mở
lời, Đêm ngà ngà, Vọng từ giá sách, Chớp được, Thế giới mười hai dòng, Thời soi
sáng, Người chèo đò lạnh, Ở nơi không có cánh, Những rơi, rơi và rơi…
Nhà thơ thường chọn những từ có hàm nghĩa khó xác định vị trí, số lượng cụ
thể làm điểm dừng, đầu nối cho những hình ảnh chuyển động: sương, mưa,
mây, gió, cỏ, sao trời, khoảng trống…: Họ hân hoan chờ anh ở nơi mây sẽ dừng (Kẻ ngoài cuộc); Một
cái gì tròn vo như lạc thú/ Lim dim chờ cú sút/ Bay thẳng vào khung thành mờ
sương (Chơi với con); Không
ngồi thì đứng vững cùng mưa (Gửi những khổ
sở); Ta nhìn ta mai mái một làn sương (Nhà thơ); Tôi áp tên tôi vào cơn gió (Một mùa hè mọi thứ áp vào nhau); Những cuộc
đời quanh co vô tận/ Lơ mơ cỏ và sao/ Chẳng ai biết kết thúc ở nơi nào (Hành trình); Kìa ai cặm cụi khắc
vào khoảng trống những nét u trầm ( Khắc vào
khoảng trống)…
Hiện thực những “mặt cong” là không gian được dựng lên trong suốt hành
trình thơ Nguyễn Bình Phương. Độ “cong” nhiều hay ít của những “mặt phẳng” hiện
thực ấy tuy có khác nhau qua mỗi giai đoạn sáng tác, nhưng luôn là những quan
niệm nhất quán làm nên thi pháp thơ Nguyễn Bình Phương. Thi pháp ấy được thể
hiện trong cách thiết kế không gian, định vị từng hình ảnh, cách lựa chọn ngôn
ngữ biểu đạt…
“Xa xăm gõ cửa” là tập thơ tuyển
đánh dấu chặng đường hơn hai mươi năm sáng tạo của nhà thơ Nguyễn Bình Phương
khi ông mới qua tuổi năm mươi. Song hành với văn xuôi, thơ Nguyễn Bình Phương
đã mang đến cho đời sống văn học chúng ta một không gian mới, sinh khí mới,
đóng góp quan trọng vào quá trình đổi mới, làm phong phú và đa dạng nền văn học
Việt Nam
đương đại. Theo tôi, Nguyễn Bình Phương là một trong số những tác giả có thể
đem ra “đặt cược” cho giá trị tinh thần trong quá trình hội nhập.
*
Hải Phòng, tháng 02/2016
MAI VĂN PHẤN
Địa chỉ: Số nhà 12/56 phố Cát Cụt,
Quận Lê Chân, TP. Hải Phòng.
Email: maivanphan@gmail.com
.
…………………………………………………………………………
- Cập
nhật từ email dovantuyenbk@yahoo.com.vn gửi ngày 02.05.2017.
- Bài
viết không thể hiện quan điểm của trang blog Đặng Xuân Xuyến.
- Vui
lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét