(Nguồn ảnh: internet) |
CHẾT ĐI VỀ
ĐÂU:
VĨNH BIỆT CUỘC ĐỜI
*
Trích từ CHẾT ĐI VỀ ĐÂU của Tỳ Kheo Thích Nhật Từ.
Một ngày nọ, có một gia đình Phật tử từ Mỹ về
thăm quê hương, nhân tiện ghé thăm chùa Giác Ngộ. Những người con thảo cháu
hiền dẫn người mẹ, người bà của họ vào chánh điện lễ Phật. Sau đó, họ yêu cầu
bà đứng chụp một tấm hình. Khi ấy, tôi đề nghị người nhà hãy đưa bà đến một
studio nổi tiếng để chụp cho đẹp. Bà cụ vội lắc đầu, thấy vậy tôi bèn hỏi lý do
tại sao? Gạn hỏi mãi bà mới chịu trả lời: “chụp hình là lên bàn thờ sớm
hơn”.
Đó là tâm lý chung khá phổ biến ở người có tuổi,
cứ nghĩ rằng chụp hình là để thờ kỷ niệm sau khi mình chết. Nỗi sợ hãi này đã
làm cho họ bị mất tự nhiên và không muốn để lại những kỷ niệm đẹp khi mình có
niềm vui, sự hân hoan và đặc biệt là niềm vui trong sự chăm sóc hiếu thảo của
con cháu.
Trong đạo thỉnh thoảng cũng xảy ra tình huống
tương tự đối với các vị Thượng tọa lão niên, đạo cao đức trọng. Thay vì theo
qui định của đức Phật ngày xưa, khi đến tuổi hạ lạp và có những đóng góp lớn
cho Phật giáo thì mặc nhiên các vị ấy được tấn phong Hòa thượng. Thế nhưng
nhiều vị Thượng tọa lại không muốn danh hiệu đó, mặc dù tuổi đã trên 60 và hạ
lạp trên 30. Hỏi ra thì một số vị cho biết:“Khi lên Hòa thượng thì biết
rằng cái tuổi gần đất xa trời cũng đã đến”. Lý giải từ
góc độ nhân gian là thế, thực ra đối với những người xuất gia như các ngài thì
không phải vậy. Bởi bản chất của người tu là hạnh khiêm tốn, việc phong tặng
giáo phẩm đối với các ngài chỉ là xã hội hóa việc thừa nhận những đóng góp
trong quá trình tu tập và đức hạnh của các ngài dành cho Phật giáo và cuộc đời.
Phẩm hiệu đó có hay không đối với người xuất gia không quan trọng.
(Tỳ Kheo Thích Nhật Từ) |
Đề cập và tìm hiểu cái chết là một nghệ thuật để
sống có ý nghĩa hơn. Định đề này có vẻ xa lạ với hầu hết nhiều người. Bởi ai
cũng cấm kỵ nói hoặc bàn về cái chết, nhất là vào dịp đầu năm mới, nghĩ rằng
như thế sẽ bị xui xẻo, tạo cái “huông” kéo theo cái chết trong gia đình.
Phong tục tập quán ở Việt Nam và
Trung Hoa lại còn sai lầm hơn khi cho rằng, mỗi
khi nghe chim cú kêu là báo hiệu điềm gở, điềm xấu sắp xảy ra, khu vực chung
quanh đó sẽ có người chết. Điều này tạo ra lối ứng xử căm ghét, xua đuổi và
thậm chí bắn giàn ná giết chết loài chim này. Ngược lại, với con chim khách lại
được quan niệm là biểu đạt cho điềm lành của một gia đình hay làng xóm. Điều
này cho thấy hệ nhân quả được thiết lập dựa trên quan niệm, phong tục tập quán
và truyền thống văn hóa ở mỗi nơi.
CHẾT LÀ MỘT BẾN ĐÒ
Phật giáo xem cái chết như một bến đò hay chỉ là
một trạm dừng chân, đã là bến đò thì cần có điểm xuất phát hay điểm đến. Bến đò
và người lái đò phải liên tục đi và về để chuyên chở, phục vụ hành khách, và
chức năng của nó cứ tiếp tục mãi như thế. Tiến trình của sự sống và cái chết
cũng giống như một lượt đi qua đò. Khi kết thúc mạng sống, không phải là dấu
chấm cuối cùng, mà là chuyến hành trình mới để quay về bến đò bên kia, tiếp tục
rước những hành khách khác. Trong đạo Phật, việc rước hành khách được hiểu như
thần thức của con người xuất hiện trong một mầm sống mới dưới hình thức là phôi
thai. Tùy theo sự chiêu cảm của nghiệp và tính cách tương ứng của hành vi (còn
được gọi là họ hàng nghiệp) giữa người chuẩn bị đi tái sanh và gia đình, cha
mẹ, anh chị em mà người đó sẽ là một thành viên.
Hiểu như thế, ta không nên quá bi lụy trước cái
chết, mất bến đò bờ bên này để cập bến bờ bên kia và ngược lại. Gọi nó là trạm
dừng chân là bởi chức năng của trạm này không phải để cống hiến cho hành khách
dừng tại đó một cách vĩnh viễn. Sự dừng chân chỉ mang tính tạm thời mà thôi, để
rồi sau đó, hành khách lại phải tiếp tục lên chuyến xe đi đến nơi mà mình muốn
đến. Việc dừng chân ở lại một chỗ chắc chắn sẽ làm mất hết giá trị của đôi chân
và chức năng hoạt dụng của toàn cơ thể. Trạm là cảnh giới và loại hình sự sống
mới mà bản chất của nó mang tính tương
thuộc, thống nhất về nội dung với những gì con người đã tạo thông qua hành vi,
lời nói và việc làm cụ thể trong quãng thời gian có mặt trên đời.
CÁI CHẾT CỦA NGƯỜI ĐIỆN
Ngày 07- 09 - 2006, một tờ báo trong nước đã đưa
tin về một sự kiện rất đau lòng với tựa đề: “Người điện bị điện giật chết”. Nhân vật trong
bài báo tên là Huỳnh Văn Hùng, 44 tuổi, là một thợ điện. Anh có khả năng đặc
biệt là điện giật không chết mà nhiều năm trước báo chí và truyền hình từng đưa
tin, phỏng vấn. Khi ấy, anh trở thành người khá nổi tiếng, có thể dùng bàn tay
của mình tiếp xúc trực tiếp với điện mà không cần phải cúp cầu giao và không sợ
bị điện giật. Vì hoàn cảnh khó khăn, lương không đủ sống, anh có ý định tìm
kiếm một công việc khác để mưu sinh. Trong thời điểm đó, anh ở lại tá túc tại
nhà một người thân, nếp sống của gia đình này là ăn chay trường nên anh đành
phải theo. Một hôm nọ, cũng như bao nhiêu ngày khác, anh đã thử điện mà không
cần cúp cầu giao, đột nhiên có tiếng la thất thanh từ trong nhà vọng ra:“cúp cầu giao…” Khi chạy vào
thì nhìn thấy cơ thể anh bị cháy đen, anh đã chết.
Có người lý giải rằng, do vì tá túc lại trong gia
đình đó phải ăn chay nên kháng lực trong cơ thể anh xuống thấp, không đủ sức
chịu đựng trước dòng điện bình thường, so với thời điểm trước đây khi ăn mặn
thì không vấn đề gì. Thực ra, người ăn chay trường có sức khỏe tốt hơn người ăn
mặn, sức dẻo dai, bền bỉ chẳng thua kém gì người ăn thịt cá. Lý giải như vậy là
không đúng. Hoặc một lý giải khác cho rằng “sanh nghề tử nghiệp” sống bằng nghề nào
thì chết bằng nghề ấy. Lý giải đó chưa có sự chứng thực đúng sai, nhưng đau
lòng ở chỗ nó là một sự lên án rằng, những người như thế đáng phải chết với
những gì họ làm.
Lý giải từ quan điểm
và góc nhìn của đạo Phật có sự
khác biệt. Người có năng
lực đặc biệt liên hệ đến chi phần hay một cơ quan nào đó của
cơ thể, đừng nên ngộ nhận nó sẽ tồn tại vĩnh viễn một cách lâu dài. Lạm dụng
vào nó sẽ dẫn đến hậu quả đáng tiếc, điển hình là cái chết của anh Hùng. Trong
khi với năng lực đặc biệt này có thể hỗ trợ cho anh trong công việc khá nhiều.
Do đó, chỉ nên sử dụng năng lực đặc biệt để chứng minh cho một sự kiện mà khoa
học cần đến, bằng không việc lạm dụng có thể là trở ngại.
Thời của đức Phật ngày xưa, rất nhiều vị xuất gia
có năng lực thần thông, mà lẽ ra với năng lực đó sự thu hút quần chúng sẽ khá
dễ dàng. Bởi quan niệm một con người có khả năng siêu phàm sẽ làm cho rất nhiều
người có niềm tin tôn giáo nghĩ rằng đây là một bậc thánh. Khi ấy, đức Phật đã
khuyến tấn tất cả các vị xuất gia không nên thể hiện năng lực thần thông mà
mình đạt được. Những ai làm việc đó để thu hút tín đồ sẽ bị giới luật trong đạo
Phật trừng phạt. Vì Ngài nhìn thấy rõ sự nguy hại trong việc lạm dụng năng lực
đặc biệt này, ít nhất về phương diện hòa hợp trong cộng đồng của người xuất
gia. Một tu sĩ được thần tượng hóa như một vị chứng đắc, vị ấy cố tình làm việc
này trong khi những người khác lại không thể hiện được sẽ dẫn đến tình trạng
quần chúng đổ dồn, tập trung vào vị ấy, trong khi các giá trị thiết thực khác
họ lại không mảy may quan tâm.
Truyền thống Lạt Ma tái sinh của người Tây Tạng
là một truyền thống có giá trị. Bởi vì nó xác quyết được con đường và cảnh giới
tái sinh khi các vị ấy đang còn sống khỏe mạnh, nhưng về lâu dài, thái độ ứng
xử của người dân Tây Tạng đối với những vị Lạt Ma tái sanh lại tạo ra cung cách
thần tượng hóa; và dĩ nhiên thái độ phân biệt đối xử đã xảy ra đối với những vị
không phải là Lạt Ma tái sinh. Trong thời gian có mặt tại Lhasa, nơi được xem
là vương quốc lưu vong của Phật giáo Tây Tạng tại Ấn Độ. Hằng ngày, tôi quan
sát và cảm nhận rõ điều này. Người dân Tây Tạng rất thành kính đối với những vị
Lạt Ma tái sinh, thế nhưng càng thành
kính các ngài nhiều chừng
nào thì thái độ của
họ đối với các vị Lạt Ma không tái sinh lại xuống cấp nhiều chừng nấy. Trong
đời sống hằng ngày, người Phật tử Tây Tạng lúc nào trên tay cũng có xâu chuỗi
với 108 tràng hạt. Họ lần chuỗi trong lúc buôn bán, làm việc, chợ búa v.v… ở
mọi nơi và mọi lúc giống như người xuất gia.
Chính vì vậy, họ mong muốn các vị xuất gia phải
có điểm gì đó đặc biệt hơn, không thể nào tương tự như họ. Tuy nhiên, nếu nhìn
nhận yếu tố đặc biệt chỉ thông qua truyền thống tái sinh đôi lúc bị lệch lạc,
đi sai với truyền thống và tinh thần của đạo Phật. Đức Phật từng xác quyết rõ
việc có thần thông và sự chứng đắc, hai yếu tố này có thể song hành và cũng có
thể biệt lập với nhau hoàn toàn. Trong thời đức Phật, rất nhiều vị A-la-hán
không có khả năng thần thông nhưng nhiều người phàm lại có khả năng này. Do đó,
đức Phật đã giới thiệu một loại hình thần thông mới có chiều sâu hơn, và Ngài sử
dụng lối chơi chữ với tên gọi: “Giáo dục thần thông”, được hiểu theo hai
nghĩa như sau:
Thứ nhất, sử dụng thần thông như một phương tiện
giáo dục quần chúng, giúp họ tin sâu vào nhân quả, giá trị tốt xấu, đạo đức,
hiểu được bản chất của đời sống là do con người định đoạt thay vì do Thần linh,
Thượng đế. Trong tình huống này, việc vận dụng thần thông được tán thán. Tuy
nhiên, cũng cần giới hạn chỉ khi nào thực sự cần thiết mới đem ra ứng dụng.
Thứ hai, điều quan trọng và là mục tiêu mà đức
Phật muốn nhắm đến, đó là bản chất của giáo dục chánh pháp đối với cuộc đời là
phép mầu. Ai biết vận dụng chánh pháp đưa vào cuộc sống bản thân để giải quyết
khổ đau, không bị rơi vào tình trạng than trời trách phận. Hoặc ai ứng dụng lời
Phật dạy trong việc giáo dục con cái, giúp cho chúng trở thành người hữu dụng
về sau thì họ được xem là đang thể hiện phép mầu. Phép mầu của sự giáo hóa,
chuyển hóa, và làm mới hoàn toàn nhân cách của con người. Điều mà đức Phật muốn
nhấn mạnh là tất cả những người phàm, dù xuất
gia hay tại gia đều có khả năng thực hiện phép mầu mà không
cần phải có năng lực đặc biệt nào.
Lạm dụng năng lực đặc biệt trong những tình huống
không cần thiết có thể tạo sự nuối tiếc về sau. Báo chí tiếp tục đưa tin
sau khi anh Hùng qua đời, vợ và hai con của anh bị hụt hẫng vì trụ cột kinh tế
gia đình đều nương tựa vào anh. Do vì ỷ lại vào năng lực thần thông quá mức mà
đôi lúc ta tự hại bản thân và hại luôn cả những người thân, người thương của
mình nữa. Từ đó rút ra được bài học mà đức Phật từng nhắc nhở các vị xuất gia:
“Cho đến lúc nào các vị trở thành thánh nhân thì có thể tạm yên tâm về con
đường chuyển hóa, tu tập, đạo đức, nỗ lực… còn nếu chưa phải là một bậc
A-la-hán thì đừng bao giờ cho phép mình ỷ lại.”
Câu nói đó có thể được ứng dụng trong công việc,
sự nghiệp, lý tưởng mà người cư sĩ tại gia đang theo đuổi. Đừng nên ỷ lại dù
quý vị là người có thể rất thành công trên thương trường, chính trị, giáo dục,
văn hóa, nghệ thuật… cùng nhiều lĩnh vực khác; đừng cho phép mình thỏa mãn, tự
hào, vì đó là ổ khóa giam nhốt năng lực và sự đóng góp của bản thân đối với
cộng đồng và xã hội. Những ai cho phép mình thỏa mãn, người đó khó có thể tiến
bộ xa hơn. Ỷ vào khả năng là cách thức làm giảm đi giá trị bản thân.
CÁI CHẾT Ở LÀNG THIÊN LÔI
Câu chuyện thứ hai mà tôi muốn chia sẻ được đăng
trên báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 13 - 09 - 2006 về một ngôi làng được mệnh danh
là “Làng trời đánh” hoặc còn gọi là “Làng thiên lôi”. Làng nay là một
khu đất thuộc địa phận Hà Tĩnh, ở đó có một cánh đồng giao giữa ba xã Sơn Lộc -
Thạch Ngọc - Việt Xuyên. Mỗi khi mưa to, sấm sét lớn thì dân làng ở đây không
ai dám bước chân ra ngoài. Thống kê xã hội học từ năm 1990 đến 2006, nơi
đây có ít nhất hơn 20 người chết do bị sét đánh với thân thể bị cháy đen không
còn nhận dạng ra. Trước sự kiện này, nhiều người sợ
hãi và nghĩ rằng đó là hiện tượng trời trừng phạt đối với những người sống
không có đạo đức. Lý giải đó tạo ra sự phân biệt đối xử với người chết và tệ
hại hơn là ảnh hưởng đến người thân của họ, mà lẽ ra tình thương của con người
phải được đặt lên trên hết.
Ngoài ra, thêm một quan niệm sai lầm khác xuất
hiện khi người dân địa phương cho rằng, cái đầu của người chết do sét đánh rất
linh thiêng. Ai lấy được cái đầu đó về nhà thì công ăn việc làm được thịnh
vượng, cầu gì được đó, mua may bán đắt. Vì vậy mà nạn cướp xác diễn ra khiến
nhiều người hoang mang, lo sợ, đã mất người thân bây giờ bị mất cả thi thể của
người thân. Bên cạnh đó, người ta còn quan niệm sự linh ứng này vẫn tiếp tục
tồn tại trong vòng 3 tháng 10 ngày, chỉ khi nào qua thời điểm đó thì sự linh
ứng mới không còn. Vì vậy mà trong suốt thời gian đó, thân nhân của người chết
phải thuê người canh gác, bảo vệ mồ mả.
Nghiên cứu về địa chất học cho thấy trời đánh là
một hiện tượng vật lý. Vùng đất nào có nhiều quặng mỏ thiếc thì hiện tượng trời
đánh tăng cao, giao cảm điện từ thiếc và điện trên bầu trời tạo ra luồng sấm
sét. Lúc đó, người đang có mặt trong vùng điện tạo sấm sét có thể bị chết cháy
đen. Khoa học chứng minh như thế, trong khi nhân gian lại hiểu sai lầm, gán
điều này cho ông trời. Nếu thực sự ông trời làm việc đó thì xem ra ông đã quá
bất lương và nhẫn tâm. Bởi vì đã có nhiều người hiền lương, hiếu thảo với cha
mẹ, đàng hoàng, đứng đắn trong các mối quan hệ, giúp đỡ mọi người trong xã hội,
chưa làm mất lòng ai nhưng vẫn bị trời đánh.
Do đó, đừng nên ỷ lại vào giá trị đạo đức mà ta
đang có. Đức Phật vẫn khuyên chúng ta phải nỗ lực, phát huy, tu tập, và phấn
đấu cho đến khi nào không còn gì để phát huy nữa thì lúc đó mới dừng, và cũng
không cho phép mình được quyền thỏa mãn đến đó. Hình ảnh
của sự thỏa mãn cũng giống như nấc thang. Nếu ta dừng lại và đánh dấu sự thỏa
mãn của người bộ hành đang đi trên từng nấc thang sẽ không có cơ hội để bước
thêm một bước cao hơn trong đạo đức, tu tập, nghề nghiệp, thành công và nhiều
lĩnh vực khác. Có kiến thức khoa học căn bản, người ta có thể tránh được cái
chết, không cần vĩnh biệt cuộc đời để lại niềm thương tiếc cho người thân. Khi
mưa to gió lớn, không nên ra những khu vực có quặng mỏ, chẳng phải vì sợ ma, sợ
trời hay sợ thần linh trừng phạt, mà vì qui luật vật lý tự nhiên nếu ta muốn an
toàn tính mạng. Trái lại, niềm tin mê tín chỉ làm cho con người ngày càng lún
sâu vào những cảnh huống bất hạnh, đặc biệt với hiện tượng cướp xác vừa nêu
càng làm cho ta đau lòng hơn, vì người đã chết mà vẫn chưa được yên.
Những trường hợp chết bất đắc kỳ tử như hiện
tượng sét đánh, người chết chưa sẵn sàng chấp nhận cái chết, dòng cảm xúc của
họ vẫn còn đang níu kéo sự sống, dù thân thể bị cháy đen. Trong tình huống này,
chưa chắc họ đã được siêu sinh, huống hồ chi với hiện tượng bị cướp đầu thì
dòng cảm xúc nổi sân bị trỗi dậy. Đó là ách tắc lớn cho tiến trình tái sinh ở
đời sau.
KHÔNG CÓ ÂM PHỦ ĐỂ TRỞ VỀ
Đạo Phật xác quyết giữa sống và chết có khoảng
thời gian và trung gian quyết định bản chất của loại hình sự sống. Vậy sự sống
của đời sau là gì? Tiến trình trung gian đó tồn tại dài hay ngắn tùy thuộc vào
bản chất nhân quả về đời sống đạo đức của người chết, và dòng cảm xúc trước và
ngay trong giờ khắc cái chết diễn ra. Người Phật tử có được sự huấn luyện
chuyển hóa cảm xúc hằng ngày, hằng giờ sẽ thấy cái chết là điều rất bình
thường, không có gì đáng phải bận tâm. Khi ấy, dòng cảm xúc tiếc nuối về thân
thể vật lý không có mặt, và tiến trình tái sinh được “thuận buồm xuôi gió”.
Ngược lại, những ai có thói quen tiếc nuối
điều gì thuộc về quá khứ mà không
chịu chuyển hóa ngay lúc đang còn sống thì khi chết, dòng cảm xúc tiếc nuối là
một ách tắc lớn cho tiến trình tái sinh. Bởi cá tính của người còn sống thế
nào, nó vẫn được lưu truyền dưới hình thức quán tính thế ấy. Năng lực quán tính
sẽ định vị nghề nghiệp, cá tính, sở trường, dòng cảm xúc và thái độ ứng xử của
người đó ở đời sau. Tính cách này hiếm khi thay đổi nếu không có sự hỗ trợ tích
cực của giáo dục định hướng. Người Phật tử cần xác định rõ tiến trình của sự
sống diễn ra như một dấu chấm trên một đường thẳng dài, mỗi dấu chấm tượng
trưng cho sống và chết, và cứ thế tiếp tục mãi mà không ai có thể phanh ra manh
mối đầu tiên của con đường thẳng dài, với điểm nào là khởi đầu và kết thúc nằm
ở đâu. Với kiến thức nhân quả về sống và chết như thế sẽ giúp con người hoàn
toàn thản nhiên trước qui luật“sanh ly tử biệt”.
Lễ Trai tăng tại các chùa với lời tác
bạch thường có câu: “chúng con hiểu rằng sanh tử là chuyện đi về…” vốn được dịch
thoát nghĩa từ một câu của Nho giáo “sanh ký tử quy”, nghĩa là “sống gởi thác về”. Quan niệm sai
lầm này cần phải được thay đổi. Nếu con người cứ nghĩ rằng sống tạm ở nhờ, gởi
gấm thân phàm trên cõi đời trong mấy mươi năm tạm bợ thì khó mà sống có chất
lượng về đạo đức, tâm linh, đóng góp và phục vụ cho xã hội. Sai lầm đó còn dẫn
đến hậu quả ứng xử khi nghĩ rằng cõi dương chỉ tồn tại có mấy mươi năm, và cõi
âm mới là cõi tồn tại vĩnh viễn. Từ quan niệm đó mà người Ai Cập đã cho xây
dựng các kim tự tháp hoành tráng bằng mồ hôi, nước mắt và cái chết của người
dân vô tội, ngay cả người thân thương nhất của vua cũng bị chôn sống theo, cùng
với nhiều vàng ngọc châu báu. Bởi họ nghĩ rằng cảnh giới âm phủ mới có thể giúp
họ tồn tại lâu dài, mà không có bất kỳ nỗi lo nào.
Người Trung Hoa khi ảnh hưởng nền văn hóa này đã
có sự cải biên thay vì chôn người sống, nhà thật, vàng bạc thì họ làm bằng giấy
vàng mả; nhưng trong tình huống này, ý niệm về sự
chôn cất vẫn còn,
sát sanh vẫn được thiết lập. Phong tục sai lầm đó vẫn làm cho nhiều người tin,
nên khi chết đi họ cứ bám vào ảo giác nghĩ rằng mình đang cần áo quần để mặc,
nhà cửa để ở, thực phẩm để ăn. Tiến trình thời gian trong việc kéo dài thân
trung ấm tạo sự đói khát về cảm xúc, nhận thức và hưởng thụ của các giác quan,
mà khi còn sống họ đã từng trải qua. Đức Phật khẳng định không có âm phủ nào để
trở về, chỉ có những cảnh giới để tái sinh, gồm năm cảnh giới chính: ngạ quỷ,
súc sinh, A-tu-la, con người, và chư Thiên.
Địa ngục không phải là cảnh giới và không được
gọi là một loại hình sự sống. Đây chỉ là phương diện vật lý, nơi mà loài ngạ
quỷ có thể tồn tại. Kéo dài sự tồn tại dưới hình thức hồn ma bóng vía của thân
trung ấm sẽ làm cho người quá cố chất chồng thêm khổ đau. Khổ đau ấy không bị
gián đoạn, không có niềm vui và cũng không có bất cứ phương tiện nào để thể
hiện niềm vui, cho nên gọi đó là địa ngục giống như ngục tù giam nhốt mình. Đây
là hình ảnh diễn tả bản chất nỗi đau đối với loài ma quỷ chết chưa được siêu.
Năm loại hình sự sống hoàn toàn tương thích với
bản chất đạo đức, nhất là hành vi cuối cùng trong cuộc đời sẽ làm cho các hành
giả Phật giáo sống có trách nhiệm với bản thân. Đây chính là sự khác biệt giữa
người Phật tử và người không phải Phật tử. Các nền triết học và tôn giáo lớn
trên thế giới quan niệm chết là hết, hoặc chỉ có hai cảnh giới không lên thiên
đàng hưởng phước đời đời của Chúa thì xuống hỏa ngục để đời đời chịu khổ đau.
Chủ nghĩa duy vật thì cho rằng không có đời sống ở kiếp sau. Quan niệm như vậy
khiến cho trách nhiệm đạo đức bị lung lay, thay đổi, khi mà người tốt và kẻ xấu
chẳng có sự khác biệt ở điểm kết thúc, vậy thì làm điều tốt để làm gì? Rất
nhiều người làm điều xấu đã có những suy nghĩ sai lầm như thế. Hãy khoan đề cập
đến vấn đề có đời sau hay không, chỉ cần ý thức về sự hiện hữu ở đời sau và niềm
tin về nó sẽ giúp con người sống có ý nghĩa, biết sợ
hãi điều xấu và hậu quả mà mình phải nhận lấy,
giá trị đạo đức là
ở đây.
ĐÔI TÌNH NHÂN VÀ NGHĨA CỬ CAO THƯỢNG
Ngày 15- 08- 2006, tại Trung Quốc đã xảy ra một
sự kiện khá đau lòng. Một đôi tình nhân vừa hứa hôn đã qua đời trong lúc cứu
một em bé trên con sông thuộc tỉnh Quảng Tây. Người nam tên là Triệu Thế Lương
27 tuổi, và người nữ tên là Diêu Mỹ Bình 22 tuổi. Cả hai vừa tốt nghiệp cử nhân
và đang theo học chương trình cao học gần hoàn tất. Họ đã cùng thề non hẹn biển
sau khi học xong sẽ cùng tổ chức lễ cưới.
Hôm ấy, cả hai đang đi dạo quanh bờ sông, bỗng
nghe tiếng la thất thanh trước cảnh tượng một đứa bé đang bị dòng nước cuốn đi.
Khi đó, chàng thanh niên vội nhảy xuống cứu, nhưng vì dòng nước chảy xiết quá,
anh chỉ kịp đẩy đứa bé vào đến bờ thì bị kiệt sức, nước đã cuốn anh đi. Người
vợ chưa cưới vì quá xót xa, đau lòng nên cũng nhảy xuống cứu. Cả hai đã
lặn hụp, chiến đấu với dòng nước, lả người và kiệt sức. Một lúc sau, khi người
ta cứu được thì anh đã chết, và mãi đến hai ngày sau mới tìm thấy xác của cô
gái.
Hai gia đình của đôi tình nhân này đều là những
Phật tử thuần thành. Họ đã tổ chức lễ cưới cho đôi trẻ ngay trong ngày tang lễ.
Người ta cho làm hai hình nộm mặc chiếc áo cưới mà đôi tình nhân đã sắm chuẩn
bị cho ngày cưới. Gia đình hai họ cũng làm lễ một cách trịnh trọng bằng lời mở
đầu tuyên bố lý do, lời chúc tụng, thậm chí có người đóng vai cô dâu chú rể giả
đọc lời phát biểu trong nghi thức lễ cưới, và tiếp theo tiến hành đến nghi thức
lễ tang. Có người cho rằng, chết rồi có nên làm như thế hay không?
Đứng từ góc nhìn của đạo Phật, sự tâm đầu ý hợp
và nghĩa cử cao thượng trước
cái chết của đôi tình nhân này sẽ làm cho họ
trở thành vợ chồng
ở kiếp sau. Gia đình đã tổ chức lễ hôn phối mặc dù đôi tình nhân này không để
lại lời di chúc nào, vì họ chết bất đắc kỳ tử. Cách thức làm như vậy là đúng,
bởi vì niềm mơ ước được làm vợ chồng của nhau chưa thực hiện được, nên dòng cảm
xúc tâm lý có thể gây trở ngại cho tiến trình tái sinh. Trong tình huống này,
cha mẹ và họ hàng hai bên biết ứng dụng lời Phật dạy trong việc giải phóng ức
chế tâm lý ở giây phút cuối cùng trước khi chết, giúp họ ra đi một cách nhẹ
nhàng. Việc tổ chức lễ cưới trong trường hợp này mang ý nghĩa đạo đức và ý
nghĩa tái sanh rất lớn, dù thiên hạ không hiểu đã lên tiếng phê bình, chỉ
trích.
Nghĩa cử cao thượng trước lúc qua đời là hành
trang đạo đức định hướng cho bản chất đời sống tái sinh ở kiếp sau, khi mà
khoảng cách thời gian diễn ra trong tích tắc. Bằng nghĩa cử cao thượng hy sinh
bản thân, không màng đến cái chết, với phước lực này sẽ giúp đôi tình nhân tái
sinh rất nhanh chỉ trong tích tắc mà thôi. Thời lượng 49 ngày được nêu ra trong
các bản kinh chỉ là sự phòng hờ cho những người tiếc nuối và không chấp nhận
cái chết diễn ra như một sự thật.
Các chúng sanh sau khi qua đời trong một cảnh
giới hay thân phận nào đó, do vì áp lực nhân quả và nghiệp lực lôi kéo nên họ
phải ra đi. Kinh Na Tiên Tỳ Kheo đưa ra một ẩn
dụ rất sâu sắc, trong lòng bàn tay ta đang nắm những hạt đậu, ngay thời khắc ta
buông tay ra để cho những hạt đậu rơi xuống, lúc đó chắc chắn nó phải có chỗ
rơi. Điểm rơi của nó có thể là cái bàn, mặt đất hay một khoảng không gian nào
đó, tức là phải có một chỗ nào đó để rơi và bám vào.
Đối tượng của sự rơi được hiểu giống như cảnh
giới sự sống ở đời sau, và vật rơi là thần thức tái sinh của con người vừa
thoát ra sau cái chết. Sự rơi chỉ diễn ra trong khoảng thời gian rất ngắn. Chỉ
những người bị tiếc nuối về cái chết, kéo dài tình
trạng thân trung ấm
và khổ đau khiến họ trở thành ngạ quỷ-hồn ma bóng vía bị đói
khát.
Nghiệp trước cảnh huống sanh ly tử biệt, được gọi
là cận tử nghiệp có giá trị lớn trong việc tạo phẩm chất cho người chuẩn bị tái
sinh. Chắc chắn phẩm chất của đôi tình nhân khi tái sinh ở kiếp sau phải là
người dấn thân phục vụ xã hội, cộng đồng, lấy hạnh phúc người khác làm tiêu chí
để phục vụ bản thân, không màng đến bất cứ điều gì thậm chí là sự nguy hiểm, đe
dọa đến tính mạng. Vấn đề được đặt ra là chết cùng một giờ khắc có thể tạo ra
tình huống song sinh khi tái sinh. Lúc đó, thần thức của họ sẽ tìm một gia đình
có nghiệp cảm tương đương trong thời điểm ban ngày, và làm thế nào có sự giao
phối giữa cha mẹ trong thời điểm có thể thụ thai. Gia đình nào có cặp song sinh
một nam, một nữ thì biết rằng đó là cặp song sinh do tự tử, hoặc làm nghĩa cử
cao thượng vừa mới qua đời cùng một lúc. Vì vậy mà tiến trình tái sinh làm cho
họ có mặt trong cùng một gia đình.
Các vị Hòa thượng đã răn dạy trong tình huống dù
bé trai có sinh ra trước thì cha mẹ vẫn nên cho bé gái được trở thành chị của
bé trai, để tránh tình huống loạn luân. Bởi vì sanh ly tử biệt gắn liền với
tình yêu thường làm cho những đôi tình nhân muốn có mặt cùng một nơi. Thế nhưng
nghiệt ngã thay về mặt luân thường đạo lý lại không cho phép anh chị em ruột
thịt trở thành người hôn phối của nhau. Do đó, đặt người nữ làm chị để tránh
tình trạng đáng tiếc xảy ra.
Hiểu được tâm lý như thế, những cặp tình nhân nhớ
về sau đừng đi tái sinh cùng một chỗ. Hãy đợi đến khi tái sinh ra đời rồi, sau
này hãy đi tìm nhau, cứ giữ lời nguyện ước thì chắc chắn sẽ gặp nhau. Trong
kinh Tăng Chi Bộ, đức Phật còn
hướng dẫn nghệ thuật để trở thành vợ chồng ở kiếp sau gồm ba yếu tố:
- Trong khoảng thời gian có mặt với nhau trên
cuộc đời với tư cách là vợ chồng
thì sự chung thủy là điều kiện tiên quyết.
- Cả hai luôn có nguyện vọng trở thành vợ chồng
của nhau ở đời này và kiếp
khác.
- Trong hai người dù ai có đi tái sinh trước thì
người đó vẫn phải nêu tâm niệm rằng tôi sẽ chờ, và người còn lại tái sinh sau
sẽ đi tìm kiếm.
Ba yếu tố đó sẽ làm cho đôi vợ chồng dù có chết
trong bất kỳ tình huống nào vẫn
tiếp tục làm vợ chồng của nhau ở đời sau.
Ngày xưa, công chúa Da-du-đà-la và thái tử
Tất-đạt-đa đã từng là vợ chồng của nhau trong rất nhiều kiếp. Sự thành công của
Tất-đạt-đa ở nhiều tiền kiếp về trước đều có bàn tay đóng góp và sự hy sinh của
Da-du-đà-la. Họ đã rất ăn ý, hy sinh và tạo cho nhau sự thành công, hạnh phúc.
Đến đời hiện tại này, Da-du-đà-la đã hy sinh trọn vẹn để chồng mình trở thành
bậc siêu vĩ nhân, siêu tâm linh và đại giác ngộ - đức Phật Thích Ca ngày nay.
Do tiến trình của sự tái sinh thường dẫn đến tính
cách gần gũi nhau. Điều này lý giải tại sao có người vừa mới sinh ra nhưng
trong đầu đã có ý tưởng sẵn về mẫu người chồng, người vợ lý tưởng trong tương
lai. Có tình huống người nữ mặc dù đối tượng hỏi cưới là người có gia tài, sự
nghiệp, địa vị, giàu sang phú quý, hình thức bảnh trai mà họ lại không ưng. Do
bởi trong đời quá khứ, người nữ đã từng thề non hẹn biển với một đối tượng
khác, nên trong đời này họ đang đi tìm mà chưa gặp. Quá trình cách ấm làm cho
họ bị quên, nhưng trong chiều sâu tâm thức vẫn còn giữ lại và tạo ra hệ đánh
giá tiêu chuẩn, và hệ đó hoàn toàn khác với đối tượng muốn đến với mình. Sở dĩ
có hiện tượng trên là do cá tính của người sống ở đời này và tiền thân của
người đó trong quá khứ cùng một mẫu số chung.
NGƯỜI CHẾT SỐNG LẠI
Câu chuyện thứ tư mà tôi muốn chia sẻ là hiện
tượng người chết sống lại được
dân gian gọi nôm na là quỷ nhập tràng. Hiện
tượng này có từ
ngàn xưa, nhưng mãi đến khi nó được đề cập dưới góc độ của khoa học thì thế
giới phương Tây mới bắt đầu quan tâm, và xem nó giống như một hiện tượng lạ mà
khoa học chưa thể lý giải.
Sự kiện đầu tiên diễn ra vào năm 1906 tại bang
Kansas - Mỹ, một thanh niên tên là Havy 20 tuổi bị bệnh nặng và đột ngột chết.
Người bạn gái của anh rất đau khổ và thương tiếc vô cùng. Cô đã yêu cầu gia
đình anh hãy khoan vội chôn, nài nỉ mãi, cuối
cùng luật pháp cũng
cho phép. Cô giữ xác người bạn trai trong nhà mình. Bảy ngày
sau, chàng thanh niên kia sống lại. Người lý giải rằng đây là hiện tượng thần
thoại, vì tấm lòng tha thiết của người thương mà người chết bỏ đi không đành,
nên đã xin Diêm Vương sống lại.
Nếu hiểu về hiện tượng chết lâm sàng và chết thực
sự hay còn gọi là hiện tượng chết sinh học, sẽ thấy đây là một hiện tượng hoàn
toàn khoa học. Người được xem là chết nằm bất động như ra đi, và nếu như không
có kiến thức về khoa học người ta dễ chôn sống những người chưa chết. Thống kê
xã hội học phương Tây cho thấy cứ 200 ca chết thì có một người bị chôn sống,
nghĩa là chưa chết thực sự mà bị cho là chết. Từ các nghiên cứu đặc biệt về
hiện tượng chết lâm sàng ở phương Tây giúp thế giới hiểu rõ hơn về điều mà đức
Phật đã dạy trong kinh, tại sao người chết có thể sống lại.
Dòng cảm xúc tiếc nuối về một mối tình, về trách
nhiệm của người làm cha mẹ đối với con thơ, về trọng trách đại sự của quốc gia
v.v… khiến họ muốn níu kéo sự sống. Do được sự hỗ trợ của phước lực về mạng
sống hay tuổi thọ vốn gieo trồng ở hiện đời, hoặc nhiều kiếp về trước, năng lực
níu kéo, tiếc nuối này sẽ làm cho đời sống được kéo dài. Người thì sống lại vài
ngày rồi chết, người thì sống lại mấy mươi năm, tùy vào hành động phước báu
liên hệ đến tuổi thọ.
Vì vậy, ngài Huyền Tráng đã yêu cầu thân nhân
người quá cố phải sau 8 tiếng mới được động vào thi thể của người chết, khi họ
được công nhận là đã chết thực sự. Việc tẩm liệm trước
8 tiếng sẽ khiến
cho một số tình huống chết lâm sàng, nghĩa là sự sống vẫn đang còn, dẫn đến
phản ứng ức chế tâm lý, sân hận, tạo bất hạnh và oan khiên oán trái ở người quá
cố.
Sau khi phát hiện tình trạng chết đi sống lại của
Havy vào năm 1906, các nhà nghiên cứu khoa học phương Tây đề nghị trong suốt 24
giờ sau cái chết lâm sàng, thân nhân người quá cố không được lãnh xác về, để
người làm công tác pháp y xác định rõ người chết đã thực sự chết chưa, tránh
tình trạng đáng tiếc xảy ra. Về sau, nhà khoa học Nga tên là Khabasniki đã
nghiên cứu, chế tạo thành công chiếc quan tài có tính an toàn hơn. Nó được
thiết kế có hệ thống báo động và thông gió, để khi người chết bị chôn dưới lòng
đất vẫn đảm bảo được sự sống. Ngoài ra, chiếc quan tài thông minh này còn có
khả năng báo động khi người nằm trong đó phát hiện ra mình vẫn còn sống. Họ có
thể động vào bất cứ vị trí nào của nắp hòm, khi ấy một tiếng chuông sẽ vang lên
truyền đến nhà thân bằng quyến thuộc của mình. Lúc đó, thân nhân sẽ chạy ra đào
mộ huyệt lên, tránh tình trạng để quá lâu có thể gây chết ngạt. Chi phí chế tạo
loại quan tài này rất cao, chỉ có những thành phần giàu có trong xã hội mới có
khả năng mua. Rất tiếc truyền thống sử dụng loại quan tài này không còn được
lưu truyền cho đến ngày nay, ngay cả ở nước Nga.
Kinh điển đạo Phật xác quyết rõ cái chết lâm sàng
chưa phải là cái chết thực sự, đó chỉ là dấu hiệu ngưng hoạt động của tim, hô
hấp, trong khi não vẫn còn hoạt động dù rất mờ nhạt không đáng kể. Khi ấy, chỉ
cần sự hỗ trợ và phục hồi hô hấp để tạo tiến trình tuần hoàn trong cơ thể thì
người đó có thể sống lại, dĩ nhiên sự sống trong trường hợp này chỉ có thể là
1/100 hoặc 1/200 mà thôi.
Tháng 9-2006, các nhà xã hội học Việt Nam đã
thống kê chỉ có hai hiện tượng chết sống lại, do vì nhận định sai lầm giữa cái
chết lâm sàng thành cái chết thực sự. Vì vậy, đừng nên quan niệm đó là một hiện
tượng thần bí do cầu nguyện, hoặc phước lực của người còn sống mong mỏi người
chết sống lại. Chẳng qua do phước lực của người chết, năng lực níu kéo sự sống
và cái chết khiến họ có khả năng đặc biệt chống chọi lại với hoàn cảnh phải
chết. Thông thường, chỉ cần 30 giây là một người bình thường có thể qua đời,
nhưng người chết lâm sàng có khả năng chịu đựng, vượt trội hơn mà cái chết vẫn
không thể thiết lập.
Nhân quả liên hệ đến một số nghiệp, chẳng hạn như
việc lấp hang chuột, hang dế, hang kiến làm cho những con vật này bị chết ngộp.
Tất cả những hành động này tưởng chừng không có hệ quả xấu trong tương lai,
nhưng theo luân hồi nghiệp báo trong đạo Phật con người vẫn phải gánh chịu. Để
tránh nghiệp chết lâm sàng được đồng hóa là chết thực sự, người Phật tử cần
gieo trồng hạt giống bảo hộ mạng sống. Việc bảo hộ mạng sống được thể hiện ở
tấm lòng và những hành động nho nhỏ nếu chịu khó để ý, có thể tạo phước lực rất
nhiều cho bản thân. Khi nhìn thấy một đám tang, quý vị nên cầu cho người quá cố
được siêu sinh thoát hóa bằng cách tụng một câu thần chú vãng sanh hay danh
hiệu của đức Phật A-di-đà, hoặc người hành giới Bồ-tát có thể hồi hướng công
đức cho họ để cảnh đời bất hạnh được kết thúc tại đây và tiến trình tái sinh
được diễn ra an lành. Chỉ cần ta thực sự có tấm lòng thì chẳng tốn kém tiền bạc
gì. Không nên tin theo các quan niệm mê tín sai lầm mà có thái độ kỳ thị hoặc
sợ hãi đối với người chết. Vì như thế làm thương tổn đến lòng từ bi, kiến thức
về nhân quả trong đời sống bị mất phương hướng, con người luôn sống trong lo
âu, sợ hãi và cuối cùng dẫn đến mất cơ hội để thành công.
1. Lễ cầu siêu với thông điệp buông xả
Khi phát hiện có hiện tượng ma quỷ
trong ngôi nhà hoặc bất cứ nơi đâu, hãy giúp hương linh bằng khóa lễ cầu siêu,
nếu thỉnh mời được những vị xuất gia đến làm lễ càng tốt; bằng không quý vị tự
thực hiện. Trong lúc làm lễ, cần truyền thông điệp rằng:
“Bản chất của sự sống và cái chết được qui luật nhân
quả trong tự thân mỗi người định đoạt. Quý vị hãy hoan hỷ chấp nhận cái chết
diễn ra như một sự thật. Đừng bám víu vào thân thể vật lý này; đừng bám víu,
tiếc nuối vào dòng cảm xúc này; đừng bám víu vào những kỷ niệm đẹp và xấu, hạnh
phúc và khổ đau hay bất cứ điều gì thì quý vị mới có thể ra đi. Chỉ có Phật,
Pháp và Tăng mới có khả năng cứu giúp quý vị. Quý vị hãy nương vào thần lực của
các Ngài để tình trạng khổ đau của kiếp
ngạ quỷ sớm được kết thúc.”
Nhìn chung, hương linh qua đời chỗ nào thường có
khuynh hướng bám víu chỗ đó, chính nỗi đau uất hận sẽ làm cho hương linh giữ
mình lại nơi đó. Ví dụ nơi có tai nạn giao thông, có người tự tử thì những nơi
đó thường xảy ra cái “huông”, khiến những người có ý muốn tự tử tự dẫn dắt đến
chỗ đó rồi lao xuống mà chết. Dĩ nhiên, đừng nên lý giải đó là hiện tượng bắt
hồn mà thực tế chỗ nào có quan
tài, mồ mả đều là nơi hương linh thường bám víu, chấp mắc. Chẳng hạn kỷ niệm
đẹp trong một ngôi nhà, nơi
nào tạo hạnh phúc lớn nhất thì nơi đó vẫn như
một sợi dây xích
trói buộc hương linh trong tiến trình tái sinh.
Mỗi khi có dịp đến nghĩa trang hay ngôi chùa nào
có thờ các tro cốt, quý vị nhớ đừng nên cầu nguyện riêng cho người thân của
mình, mà hãy mở rộng lòng từ bi cầu nguyện cho tất cả hương linh có mặt tại
nghĩa trang hay những nơi khác hãy nương vào thần lực của Tam Bảo để siêu sinh
thoát hóa. Đừng nên cầu nguyện, van
vái: “Mẹ ơi, hãy về phù hộ cho con trúng số đề đi, con
mắc nợ nhiều quá.” Điều này sẽ tạo lòng tham ở người quá cố,
bởi vì bản chất của tình thương là lòng tham, tình thương con cái, vợ chồng đều
mang yếu tố của lòng vị kỷ. Cũng đừng nên cãi vã với nhau việc chia gia tài khi
cha mẹ mới vừa nằm xuống chưa kịp chôn, bởi như thế sẽ tạo ra lòng sân ở người
ra đi.
2. Gieo trồng công đức, phước báu
Cần thực hiện nghi thức đúng theo lời Phật dạy,
đơn giản nhưng có giá trị đạo đức và tâm linh hỗ trợ cho tiến trình tái sinh.
Nên gieo trồng phước báu, cúng dường thế nào để chia một phần tài sản cho người
quá cố, giúp họ có thêm sự hiểu biết và hành trang công đức. Nếu người quá cố
không biết người thân của mình làm việc này thì họ chỉ hưởng được 1/7 công đức
nói theo kinh Địa Tạng. Do đó, để hương
linh có phước báu lớn, trước khi họ qua đời, người thân nên giải thích cho họ
hiểu sẽ dùng 1/4 tài sản có được để làm công tác từ thiện, cúng dường hay đóng
góp cho một ngôi chùa. Thuyết phục họ hoan hỷ đồng nghĩa với việc họ được hưởng
trọn phần công đức và phước báu, bên cạnh đó, người khuyến tấn và thuyết phục
cũng được hưởng một phần công đức tương tự. Ngược lại, chờ đến khi người quá cố
qua đời ta mới thực hiện việc này, họ sẽ không biết. Do vậy, họ chỉ hưởng được
một phần, còn người làm hưởng được sáu phần.
Trên thực tế, ai cũng muốn người quá cố của mình
có nhiều công đức để có thể tái sinh vào một cảnh giới an lành. Ta cần lưu ý
nói thật khéo, bởi vì đứng trước cái chết, nỗi sợ hãi sẽ có mặt, và càng cố
tình phủ định nhiều chừng nào thì nỗi sân hận lại diễn ra nhiều chừng đó. Tình
yêu, mồ mả, uất hận, tai nạn, tình cảm, kế hoạch chưa hoàn tất, sự bực bội, tức
tối trước lúc chết tất cả đều trở thành ách nạn cho tiến trình tái sinh.
Hằng ngày, hằng giờ, mỗi hành giả cần thực tập
phương pháp buông xả, xem nhẹ mọi thứ trên cuộc đời. Nỗ lực làm hết mình bằng
phương pháp luận, sự tinh tấn, thông minh, trách nhiệm, lương tâm và đạo đức.
Kết quả ra sao không cần bận tâm đến. Thất bại lần này, ta nỗ lực lại lần khác
bằng sự kiên nhẫn và tinh tấn, làm hoài làm mãi, không cho phép mình dừng nghỉ.
Đừng buồn với những thất bại trong quá khứ, bởi vì quá khứ đã qua rồi và tương
lai thì chưa đến. Đừng mơ ước nhiều mà hãy nỗ lực làm hết mình trong hiện tại,
khi ấy tương lai chắc chắn sẽ có. Ai sống được như thế thì sẽ rất thản nhiên và
không có bất kỳ nỗi sợ hãi nào khống chế mình, nhờ đó mà đời sống trở nên có ý
nghĩa.
Mong rằng quý vị mỗi khi có dịp đến chùa cầu
nguyện cho hương linh được siêu sinh thoát hóa hoặc đứng trước di ảnh, bàn thờ
người thân của mình đừng bao giờ mong họ trở về nhà; cũng đừng thương ông bà tổ
tiên, cha mẹ, người thương của mình bằng cách lúc còn sống thèm cái gì thì khi
mất cúng cái đó, càng thương tưởng theo tình huống trên thì khổ đau càng có
mặt. Điều cần thiết ở đây là cúng một thời kinh về nguyên lý vô thường, vô ngã,
về qui luật sanh tử không ai có thể tránh khỏi, cúng bằng công đức phước báu
mình có thể làm, cúng bằng đời sống đạo đức để cho người ra đi được an tâm,
cúng bằng sự thành công, nỗ lực của chúng ta để lời di chúc đó được thực hiện.
Có như thế, người ra đi mới thực sự được lợi lạc. Trái lại, còn bất kỳ nỗi niềm
nào chưa được an tâm sẽ làm cho người quá cố chết không nhắm mắt. Đây là phản
ứng cơ học vật lý tự nhiên của cơ thể, ai suy nghĩ nhiều sẽ làm cho mắt hoạt
động, càng hoạt động nhiều chừng nào thì ức chế tâm lý trên não trạng gây mất
ngủ nhiều chừng đó. Đối với cái chết cũng tương tự như vậy, tức tối, khó chịu
sẽ làm cho mắt không nhắm lại.
3. Phóng thích gút mắc
Ai là đối tượng dẫn đến cái chết, làm cho người
quá cố chết không nhắm mắt,
hoặc lúc còn sống người quá cố đã từng thề độc ví dụ như: “ Lúc tao chết, mày đừng bao giờ
tới nhìn mặt tao…” trong tình huống này, hãy thực
hiện đúng như lời thề, đừng nên tới nhìn mặt. Hãy đứng ở một nơi nào và nguyện
cầu: “Ba ơi, mẹ ơi, hãy tha thứ cho con! Con biết rằng đó
là một điều sai. Con nguyện hứa từ đây về sau sẽ không làm điều đó nữa. Ba mẹ
hãy buông xả niềm uất hận này để tiến trình tái sanh được tốt, để cái gút của
khổ đau được kết thúc tại đây…”
Phải nguyện bằng lòng chí thành và lặp lại nhiều
lần giúp cho người quá cố phóng thích được cái gút của chấp mắc. Chính vì lẽ
đó, di chúc của người quá cố lúc cuối đời cần phải được tôn trọng. Bằng không,
hương linh chưa siêu sinh bị ức chế tâm lý, có thể tạo trở ngại về sau.
Hy vọng rằng mỗi chúng ta ý thức nhiều hơn về sự
sống và cái chết như là một qui luật, có thể giúp cho mình và người thân vượt
qua được thách đố lớn nhất trong cuộc đời, mà vốn chỉ là một điểm chấm trên
tiến trình sinh tử không bờ bến.
*
Thượng tọa THÍCH NHẬT TỪ
Địa chỉ: Chùa Giác Ngộ, 92 Nguyễn Chí Thanh,
phường 3, quận 10, thành phố Sài Gòn.
Email: thichnhattu@yahoo.com
.
.............................................................................................................
- Cập
nhật từ email tranchicuong27@yahoo.com.vn ngày 21.02.2019.
- Bài
viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui
lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét