(Nguồn ảnh: internet) |
CHUYỂN HÓA SÂN HẬN
*
Trích từ CHUYỂN HÓA SÂN HẬN của Tỳ Kheo Thích Nhật Từ.
CÁCH THỨC CHUYỂN HOÁ
(Tỳ Kheo Thích Nhật Từ) |
Vấn đề đức Phật đưa ra, con người cần phải có nhu
cầu chuyển hóa cảm xúc, lòng sân ngay cả trong tình huống bảo vệ hay tự vệ. Nếu
thiếu nhu cầu chuyển hóa cảm xúc, có thể lấy lý do tự vệ là nạn nhân và bảo hộ
người khác như một nạn nhân cần được phóng thích khỏi nỗi khổ niềm đau, để có
cơ hội đi quá đà trong sự kiện sân hận rối rắm nào đó.
Khi bất kỳ ai bị nói xấu, đánh đập… thì tất cả
hành giả không nên ứng xử “giang hồ” theo thế tục.
Có thể áp dụng sự chuyển hóa lòng sân trên bốn
tiêu chí sau: Một, tâm không biến nhiễm trong nhân tình thế thái, biến cố khổ
đau.
Hai, không được phản ứng bằng lời ác ngữ.
Ba, phải sống bằng thái độ của tình thương.
Bốn, đừng bao giờ ôm ấp hay nuôi dưỡng sân hận
trong lòng.
Tiêu chí một, đề cập đến sự phản giá trị hay các
biến thái tâm lý khi nhiệt huyết dấn thân bảo hộ nỗi khổ oan ức nhưng cuối cùng
trở thành biến chất. Chẳng hạn, khi có hai người đánh nhau trên đường phố. Thấy
một người bị thương chảy máu, cảm thấy khó chịu và muốn đến can, không để hai
đối tượng đánh nhau nữa. Trong cơn nóng giận, hai bên đều đánh luôn cả người
can gián. Người can gián bị đau, rất bực và đánh lại người đã đánh mình. Như
vậy, tình huống đảo ngược. Thay vì can gián thì người can biến mình thành đối
thủ mới của cả hai người đang sân hận.
Làm thế để tâm không bị biến dạng trong phản ứng
bảo vệ, thậm chí trong tình huống tự vệ bản thân? Nếu khi hành động mà thấy tâm
bị biến đổi từ thái độ trung lập sang thái độ ghét hay bênh vực người nào đó
thì động cơ can gián đã bị lệch hướng. Lúc
đó, thực tập hít thở thật sâu để trở về vai trò người trọng tài can thiệp hai
người đang sân hận.
Khi xem những bộ phim có chiến tranh hay có sự
cân phân giữa phe thiện và ác, thông thường, tâm lý của người thưởng thức đứng
về phe thiện, chính nghĩa. Đôi lúc, người xem nhập thành vai người thân của
diễn viên chính. Khi diễn viên đó chiến thắng, thành công, có lợi ích thì người
xem nở nụ cười khen tặng, vỗ tay hay làm những cử chỉ biểu lộ sự đồng tình. Như
vậy, lúc đó tâm của người xem đã bị biến thiên, trở thành liên minh, không còn
đứng ở vị trí đức Phật nói ở tiêu chí thứ ba là phải ứng xử và sống với lòng từ
bi. Nghĩa là không được phép đặt mình vào phe nào cả.
Các diễn tiến chiến tranh trong lịch sử có nhiều
gốc rễ của nỗi khổ niềm đau từ quá khứ. Ví dụ, một chủ nghĩa nào đó đem quân
thôn tính quốc gia khác bằng nhiều chính sách, bình phong đẹp như đem văn minh
của đất nước họ đến nước nghèo. Nỗi khổ niềm đau của người dân sống trong đất
nước bị thôn tính tạo ra hiềm khích nội tại, lòng sân theo đó chờ cơ hội kháng
chiến. Với những tình huống lịch sử như vậy, người xem vẫn có khuynh hướng bênh
vực những nhân vật bị xâm lược là có ý thiên vị.
Đức Phật dạy, phải ứng xử bằng lòng từ bi, hiểu
được gốc rễ khổ đau của những kẻ xâm lăng là do thiếu tuệ giác, ứng xử với lòng
tham vô minh nên mang lại nỗi khổ niềm đau cho nhân loại. Thay vì đứng liên
minh về phía bị tổn thất, người can gián chỉ cần đứng trung lập, cất lên tiếng
kêu gọi hòa bình để hai bên ngưng cuộc chiến. Có nhiệt huyết mà thiếu sự sáng
suốt sẽ bị đẩy vào thế trở thành đối lập với cả hai bên sân hận. Vì tâm lý
thông thường, cả hai đều muốn người can liên minh. Phật giáo ứng xử với khuynh
hướng lòng từ bi, không tán đồng chiến tranh nên không châm dầu vào lửa.
Cuộc chiến tranh ý thức hệ chính trị trên nền
tảng quyền lợi kinh tế, tôn giáo của Mỹ và lực lượng Hồi giáo cực đoan là cảm
xúc phức tạp của thời đại. Bản chất của nó là sự tranh giành quyền lực kinh tế
trên khắp thế giới. Khi hai tòa nhà Thương mại Quốc tế của Hoa Kỳ bị phá sập,
khắp thế giới phản ứng rất phẫn nộ, căm tức, lên án, muốn ăn tươi nuốt sống
những người đã tạo ra nỗi khổ niềm đau cho dân Hoa Kỳ và ảnh hưởng xấu đến nền
kinh tế, chính trị thế giới.
Là Phật tử, cất tiếng nói của lòng từ bi, không
thể chỉ bênh vực cho dân tộc Hoa Kỳ, mà còn phải thấy được gốc rễ nỗi khổ niềm
đau của những kẻ khủng bố, gieo rắc chết chóc, tang thương, hủy diệt trên cuộc
đời. Chỉ khi nào lòng từ bi được nuôi dưỡng, phủ trùm lên cả hai đối tượng thì
mới có thể chuyển hoá họ trở về với lương tri, vì cuộc sống hoà bình. Bởi vì,
những người Hồi giáo cực đoan tạm gọi theo dân gian Việt Nam là, “cùi không sợ
lở” hay “điếc không sợ súng”. Nếu lên án họ một chiều, rất có khả năng đẩy họ
vào chân tường, trở nên bất cần và quậy phá nhiều hơn nữa. Tuy nhiên, cất tiếng
nói từ bi nhưng cũng không chấp nhận hành động khủng bố. Cần cảm thông và thấu
hiểu nguyên nhân những người Hồi giáo. Có thể vì những đòi hỏi về kinh tế,
chính trị hoặc nhu cầu nào đó. Để các yêu cầu đó được thể hiện, thay vì đàm
phán, họ đã làm điều tội lỗi, chà đạp các nhu cầu do chính họ nêu ra. Thông cảm
để gần gũi và cho họ thấy được việc làm đó là sai trái. Nếu chỉ lên án mà không
hiểu và thương là đẩy họ vào thế đối lập.
Ở góc độ chính trị, chính phủ Hoa Kỳ không còn
cách nào khác là phải tuyên chiến với bọn khủng bố. Cuộc chiến tranh chống
khủng bố được dấy lên, kêu gọi người dân mọi quốc gia cần phải có trách nhiệm
đứng về liên minh chống khủng bố. Lời hiệu triệu đó chỉ là giải pháp tạm thời.
Dùng dao để chặt cây, dao bén thì cây đứt nhưng nếu là loại cây đặc biệt thì
dao này sẽ bị mẻ mà cây không đứt. Chống khủng bố mà không có lòng từ bi thì
không phải là giải pháp bình an.
Tiếng nói của nhà Phật là tiếng nói của lòng từ
bi, đứng trung lập giữa phía bạo động và nạn nhân. Ở vị thế trung lập, có thể
thấy rõ bên khổ đau nhưng không châm vào khối khổ đau đó vì hận thù sẽ được
thổi phồng lên. Dầu biết họ là nạn nhân nhưng cần có giải pháp khác để giải
quyết chứ không nhất thiết giải quyết hận thù bằng chiến tranh.
Khi khuynh hướng lòng từ bi được nhân rộng thì
biên cương của tôn giáo, chính trị, sắc tộc, màu da sẽ bị xóa bỏ. Con người trở
nên ứng xử gần gũi với nhau, yêu chuộng hòa bình, lấy giá trị hòa bình làm nền
tảng. Tinh thần từ bi của Phật giáo dạy, không nói ác ngữ, không phản ứng theo
ân oán giang hồ “máu đền máu, răng đền răng”. Hãy liên tưởng đến câu thơ: “Một
đứa cộc cằn thêm đứa nữa, thì hai đứa cộc cũng như nhau” để thấy rõ người phản
ứng hận thù bằng hận thù còn tệ hơn người tạo ra hận thù. Bởi vì, người dấy
khởi sân hận là sai lầm do thiếu sáng suốt. Cho nên, nếu cũng phản ứng giang hồ
với họ thì người phản ứng là người thiếu sáng suốt tệ hại hơn nữa.
Trong tất cả phản ứng bảo vệ người hiền lương bị
tổn thất hay tự vệ để tránh khỏi tình trạng bị hàm oan, được quyền trình bày
vấn đề một cách nhẹ nhàng, thoải mái. Không nên để những động từ, danh động từ,
tính từ, trạng ngữ của lòng sân hận xuất hiện. Còn im lặng trong đè nén không
phải là sự khôn ngoan. Đừng tin mù quáng vào câu “Oan ức không cần biện bạch,
vì biện bạch là hèn nhát”. Câu này dạy phải im lặng tuyệt đối. Mở lời nói ra là
bị đánh giá và đồng hoá với kẻ hèn, thiếu bản lĩnh, chịu đựng. Ôm ấp thái độ
không biện bạch sẽ không có cơ hội trình bày sự thật với những người đã hiểu
lầm.
Có những nỗi hàm oan bắt nguồn từ sự hiểu lầm mà
chỉ cần trình bày đơn giản vài phút thôi thì sự hiểu lầm đó được tan biến. Giữ
im lặng vì sợ bị cho là hèn nhát là biểu hiện khác của sự nuôi dưỡng bản ngã. Ở
đây, người ứng xử thấy mình quá quan trọng nên lòng tự trọng bản ngã và sĩ diện
sẽ lớn theo. Nhiều người lý luận rằng, vì tôi không có lỗi nên không cần biện
minh. Họ ôm giữ sự im lặng đáng sợ suốt nhiều năm, thậm chí suốt cuộc đời. Cuối
cùng, tổn thất, bế tắc ngày càng gia tăng cho chính họ và người hiểu lầm.
Đức Phật dạy, trong phát ngôn đừng nói bằng ác
ngữ theo các góc độ như lời tục tĩu, thô lỗ, nóng nảy, hằn học. Bản chất của ác
ngữ lệ thuộc và liên hệ rất nhiều đến tâm. Tâm quyết định cách thức biểu đạt
ngôn ngữ trong giao tế. Do đó, chỉ thể hiện thiện chí thì chưa đủ mà còn đòi
hỏi đến cách thức biểu đạt thiện chí thông qua lời nói thì người tiếp nhận
thiện chí mới có thể đánh giá đúng đắn. Nếu không, nhiệt huyết có thể bị hiểu
lầm.
Khi dấn thân trong cuộc đời và bị va chạm, hiểu
lầm nhiều quá mà không khéo sẽ dẫn đến tình trạng thoái thất tâm Bồ đề, dẫn đến
tình huống nổi Bồ đề gai. Nhiều người rơi vào tình thế xuất phát từ lòng nhiệt
huyết lại trở thành rất yếm thế, an phận thủ thường, chuyện người cứ mặc kệ,
đèn nhà ai nấy tỏ… Thậm chí, lửa cháy thiêu đốt cả ngôi làng cũng mặc kệ, miễn
không cháy nhà của mình là được.
Phản ứng teo hẹp cảm xúc có thể diễn ra rất
thường xuyên đối với nhiều người thiếu chịu đựng và mơ tưởng thuận duyên, trong
khi trên thực tế gặp nhiều nghịch duyên. Càng nhiệt huyết thiếu phương pháp
nhiều chừng nào thì nỗi khổ niềm đau càng gia tăng chừng đó. Trong mọi ứng xử,
nên tâm niệm không nên để sân hận khống chế, không nên ôm giữ lòng sân.
Khi gặp phải nỗi khổ niềm đau, nhiều người thân
thương ôm ấp vào lòng, dỗ dành. Làm thế là ôm ấp lòng sân bằng cách tạo liên
minh với mình, đồng thời đối lập lại với kẻ gây ra khổ đau cho mình. Con người
thường có khuynh hướng ôm lòng sân dính liền với nạn nhân. Lẽ ra, cần phải phóng
thích để hóa giải gốc rễ khổ đau cũng như những nguyên nhân không lý giải hết
được. Ôm nỗi khổ niềm đau của người khác vào lòng thiếu phương pháp sẽ làm cho
nỗi khổ niềm đau được lan truyền, mở rộng.
ĐỪNG NUÔI “GIẬN” QUÁ MỘT NGÀY
Tổ Trung Hoa dạy một câu rất ấn tượng, “Tăng hận
bất quá nhật” như lời tâm niệm chuyển hóa lòng sân hận. Nghĩa là, người xuất
gia nếu có sân giận, khó chịu, nổi nóng với bất cứ ai, trong bất kỳ tình huống
nào, với sự kiện gì thì đừng bao giờ nuôi giữ quá một ngày. Tức là, vẫn thông
cảm với cơn giận nhưng không để sân giận trong lòng lâu. Biết rằng, phàm phu
thì nổi nóng là chuyện bình thường. Cho nên, hãy thông cảm với họ. Nhưng phải ý
thức rằng nổi nóng là sai lầm, đừng nhiệt tình nuôi nó bằng thực phẩm cảm xúc
hơn một ngày. Nuôi dưỡng lòng sân hận không có lợi ích gì cả.
Người khôn ngoan phải ứng xử với bốn tiêu chí nêu
trên mới chuyển hóa được cảm xúc sân hận trong trường hợp trung gian bảo vệ
người thiệt thòi hoặc bảo hộ chính mình.
Để hỗ trợ những chân lý tháo gỡ tận cùng gốc rễ
bế tắc mà đức Phật trình bày, Ngài đưa ra các dụ ngôn chuyển hóa dưới hai góc
độ. Một là, lấy giá trị của ức niệm, tức là ghi nhớ nhận thức lời Phật dạy. Hai
là, lấy hệ giá trị của ý thức trong phương diện ứng dụng làm nền tảng để đối
chiếu và so sánh tác hại của sân. Lúc đó, hành giả sẽ từ bỏ lòng sân một cách
rất dễ dàng. Đức Phật nâng cao vai trò của ý thức và tuệ giác trong tiến trình
nhận diện nỗi khổ niềm đau.
Đức Phật dạy rằng, có một số Tỳ kheo rất thuần
thục trong con đường tu tập. Khi mới vào chùa, các vị này vẫn còn thói quen đời
sống tại gia như ăn vài lần một ngày, trong bữa ăn thường đi tới đi lui nhiệt
tình gắp đồ ăn cho bạn, người thân, khi cơm hết thì đi đến bếp để lấy thêm…
Trong truyền thống người xuất gia, để duy trì
trạng thái chánh niệm, thân và tâm cùng ở một chỗ thì phương pháp ăn “Nhất tọa
thực”, tức ngồi yên trong suốt buổi ăn, không đi tới lui là lời dạy không thể
xem thường. “Nhất tọa thực” là cách ăn trong suốt thời gian từ lúc cầm đũa đến
khi hoàn tất bữa ăn chỉ ngồi một chỗ, không đứng dậy, di chuyển. “Nhất tọa
thực” tạo ra trạng thái của sự tĩnh tại trong lúc ăn uống. Nhờ đó, oai nghi tế
hạnh được hiển lộ, chánh niệm có mặt. Ăn trong tư thế này, dịch vị tiết ra
nhiều hơn, hỗ trợ tốt hơn cho tiến trình tiêu hóa. “Nhất toạ thực” nhằm thiết
lập chánh niệm, dù ăn nhiều hay ít vẫn có thể giúp người ăn có sức khỏe tốt.
Phương pháp ăn “Nhất tọa thực” còn hỗ trợ vượt khỏi bệnh tật. Bởi vì, khi ăn
món ngon quá mà trong mâm lại hết món đó, chỉ còn các món khác thì sự tiếc nuối
sẽ làm phát sinh nhu cầu ăn tiếp, khiến bao tử làm việc vất vả, mỏi mệt hơn do
lúc phải teo hóp, khi phải giãn nở quá to. Bao tử làm việc trong trạng thái
thiếu cân bằng thất thường sẽ dẫn đến bệnh tật. Đó là chưa nói đến tình huống
khi nạp vào cơ thể những món có nhiều dinh dưỡng sẽ có số bệnh nào đó xuất hiện
hoặc gia tăng. Nên ăn một cách quân bình, đừng ăn rau quả nhiều quá, cũng đừng
ăn quá nhiều vật thực chứa nhiều gluco, chất béo. Tất cả các chất dinh dưỡng
phải đồng đều, đáp ứng được nhu cầu căn bản cho cơ thể.
Ăn quá nhiều thì chẳng những không tận hưởng hết
giá trị chất bổ vì phải thải ra ngoài qua các hệ bài tiết, mà còn tạo ra bệnh
tật cho người ăn. Giá trị của “Nhất tọa thực” không chỉ đơn thuần là hỗ trợ sức
khỏe được tráng kiện, tuổi thọ đảm bảo, mà còn tạo ra trạng thái sảng khoái về
tinh thần.
Cần biết giá trị thực phẩm, nhu cầu cơ thể và cảm
thấy hài lòng với những gì được ăn. Không so sánh, không cảm thấy ít thức ăn
hơn người khác, so đo trong lúc ăn thì trạng thái sảng khoái sẽ không có mặt.
Trong quá trình khất thực, người có phước báu thì
được cúng nhiều, người nhiều kiếp trước không gieo trồng phước báu thì không ai
bỏ gì vào bát cả. Tình trạng đó từng xảy ra trong thời đức Phật. Đừng bao giờ
so đo. Họ cho ít thì ăn ít và cũng không cần xin thêm, cho nhiều cũng không
nhận quá mức nhu cầu, chỉ nhận đủ khẩu phần ăn mà thôi. Chính vì cách khất thực
chỉ tiếp nhận đủ nhu cầu ăn thường nhật mà cái bát khất thực được đức Phật gọi
là Ứng lượng khí. Khí là cơ sở đo lường nhu cầu thực phẩm đối với từng cơ thể.
Cơ thể khỏe hay yếu, trẻ hay già… nhu cầu vật thực bị biến thiên.
Đức Phật đưa ra sự kiện này để chỉ ra rằng, có
những Tỳ kheo thuần thục, chỉ cần ức niệm, ghi nhớ những gì Ngài dạy như là hệ
giá trị. Chẳng hạn như cách ăn “Nhất tọa thực” vừa nêu. Và họ nhờ đó thực hành
theo mà có kết quả. Người sáng suốt là người dễ nghe điều hay, luôn tâm niệm và
tự ý thức làm mình tốt hơn mà không cần người khác khuyên nhắc nhiều.
Đức Phật đưa ra tình huống thứ hai giống như một
chiếc xe ngựa nằm ở ngã tư đường bằng phẳng. Có một nhà huấn luyện ngựa rất
thiện xảo, tay trái cầm dây cương, tay phải cầm chiếc roi đánh ngựa. Anh điều
khiển ngựa tới và lui, rẽ trái và phải tuỳ theo mục đích nhưng không phải đánh,
phạt, hét nhiều mà con ngựa vẫn đi đúng hướng, về đến đích cuối cùng.
Tương tự, một số hành giả khôn ngoan cần phải
khơi dậy các phương pháp từ bỏ những yếu tố bất thiện trong con người thì giá
trị lợi lạc được phát sinh. Hoặc phải ý thức được rằng, khi dấn thân vào những
điều thiện, cao thượng thì sự hưng thịnh trong đời sống tâm linh và đạo đức sẽ
có mặt.
Ý thức rõ về giá trị như vừa nêu sẽ giúp hành giả
tự giác làm việc chứ không cần chờ có người trừng phạt hay khuyên bảo. Nhờ thấy
được giá trị lợi lạc trong thực tập chuyển hoá, hành giả không vi phạm lỗi lầm.
Phần lớn thường đợi bị trừng phạt, lên án, cầm tù mới ăn năn, hối hận, sợ hãi
mà không vi phạm nữa. Bản chất của sự không tái phạm trong trường hợp này là do
sợ hãi chứ không xuất phát từ trí tuệ. Nỗi sợ hãi lương tâm không có mặt chỗ
nào thì nơi đó con người sẽ tiếp tục phạm sai lầm. Nơi nào các phương tiện quan
sát, giám sát, theo dõi lỏng lẻo sẽ tạo điều kiện tái phạm lần thứ hai hay
nhiều lần cho người kém ý thức.
Tình huống thứ ba là trong một khu rừng cây Sa la
bị các dây leo như dây tầm gửi bao phủ. Muốn bảo vệ khu rừng Sa la khỏi sự tổn
thất thì phải chặt bỏ hết tất cả những cành cây cong thiếu sinh lực, những cây
dây leo. Đồng thời, chăm sóc kỷ lưỡng các nhánh thẳng, có sức sống. Nhờ đó, khu
rừng được trưởng thành và tươi tốt.
Phải có ý thức gieo trồng những yếu tố tích cực
về cảm xúc như trạng thái an lạc, tĩnh tại, trạng thái chuyển hóa lòng sân, hỷ
xả, bao dung, không ức niệm hay nhớ lại những khổ đau do người khác gây ra vô
tình hoặc cố ý. Như vậy là đã làm cho cây Sa la của sự sống và hạnh phúc đang
trưởng thành.
Vấn đề ở chỗ, phải nỗ lực, đừng tiếc nuối. Có
những người vấp phải nỗi khổ niềm đau do người khác cố ý tạo ra liền suy nghĩ,
khi nào tôi thấy người kia ân hận, xin lỗi thì tôi mới tha thứ. Làm vậy là tự
ghim dây leo đó vào tâm và dòng cảm xúc, rồi giữ khư khư không buông bỏ. Bám
ghì cảm xúc khổ đau là cách giết chết cơ hội được hưởng trạng thái an lạc, hạnh
phúc. Những điều bất như ý diễn ra rất nhiều trong đời. Đừng bận tâm chỉ cần
tâm niệm rằng, khổ đau là nhánh cây đã mục hoặc chỉ là những dây tầm gửi thì
không dại gì để nó sống trên thân cây Sa la sung túc, để hưởng an vui và hạnh
phúc!
Đức Phật đưa ra các ảnh dụ trên để dạy rằng, phải
ý thức về tính giá trị của những ức niệm trong dòng cảm xúc và nhận thức để từ
bỏ bất cứ những gì gây tác hại xấu về cảm xúc, tư duy, hành động cho mình và
người.
Ba ảnh dụ vừa nêu có tác dụng chuyển hóa cảm xúc
rất lớn cho những đối tượng có nhận thức sâu sắc và biết đặt lòng từ bi trên
cảm xúc. Nói cách khác, trước nhất phải từ bi với chính bản thân. Đừng đì đọt
cảm xúc, đừng trù dập hạnh phúc bản thân. Phải thương tưởng thân để chăm sóc
đúng nhu cầu hạnh phúc mà nó cần đến. Khi đặt sự thương tưởng lên dòng cảm xúc
bị trù dập bởi nỗi khổ niềm đau của sân hận thì phải buông xả nỗi đau. Muốn
buông dễ dàng, không nên nghĩ đối tượng đã tạo ra nỗi khổ niềm đau cho mình.
Những người cao thượng dễ thực hiện lòng rộng lượng, tha thứ, bao dung còn
những người chấp mắc thì khó làm được.
NHU THUẬN VÀ ÔN HÒA
Cứ coi thân thể và sự sống giống như cây Sa la có
những nhánh tươi, nhánh khô, nhánh bị tầm gửi bám vào. Điều quan trọng, đừng để
dây tầm gửi bám trên những nhánh khô mục. Vấn đề được đức Phật nêu ra là, thấy
được giá trị chuyển hóa tâm sân hận để nâng thành thước đo của hạnh phúc. Đức
Phật minh hoạ bằng câu chuyện rất sâu sắc.
Thuở xưa, trong thành Xá Vệ có một nữ gia chủ tên
Ve- dehika nổi tiếng là người hiền thục, nhu thuận, ôn hòa. Nhờ đó, tấm lòng
nhân từ của bà được lan truyền rất xa. Bà có một nữ tỳ tên là Kali rất khéo
tay, siêng năng, cẩn thận, làm việc chu toàn, tận tâm, có trách nhiệm không bao
giờ làm Vedehika nổi sân.
Kali là một người Phật tử nên muốn thử lòng tĩnh
tại của chủ nhân để xem bà xóa bỏ được lòng sân hay chưa. Hôm nọ, Kali giả vờ
ngủ quên, thức dậy trễ hơn mọi ngày. Theo truyền thống Ấn Độ, người nữ tỳ phải
thức khuya dậy sớm chờ chủ thức dậy để mang nước và khăn tới cho chủ rửa mặt,
chân… phục vụ tận tình không được đòi hỏi gì. Kali giả vờ ngủ quên để bà chủ
dậy trước và phải làm các công việc của nữ tỳ. Đợi hoài không thấy tỳ nữ đến hầu
hạ, bà bực bội khó chịu trong lòng. Đến bên giường bà hỏi Kali: “Ngươi có biết
phận sự của nhà ngươi là gì không?” Kali mở mắt ra và nói: “Có chuyện gì vậy bà
chủ? Ngày hôm nay không có việc gì để làm”. Nói xong, Kali quay mặt sang hướng
khác, tiếp tục ngáy khò khò. Bà chủ kêu ca: “Con có nghe bà nói gì không? Trời
đã sáng rồi, hãy thức dậy làm việc”. Kali mở mắt, nói tỉnh bơ: “Không sao đâu
bà, trời sinh voi sinh cỏ, hơi đâu mà lo”. Bà chủ tức quá, lấy tay nắm tóc nữ
tỳ, xốc cô dậy, tát một cái, miệng lanh lảnh: “Con này, mày dám ra giọng chủ à?
Tao thuê mày về để làm việc chứ không phải để nằm ngủ và dạy đời tao”. Lúc đó,
Kali mới thấy được bà chủ không phải là người hiền thục, nhu mì và vẫn còn lòng
sân.
Từ trước đến nay, do nữ tỳ làm việc chu toàn từ
trong ra ngoài, không có lý do gì làm bà ta giận dữ, nổi cáu, khó chịu. Chỉ thử
một chiêu, sẽ thấy các hoạt dụng của lòng sân đã thực sự được chuyển hoá hay
chưa. Câu chuyện được đức Phật kể lại rất thâm thúy ở chỗ, quan sát một con
người trong môi trường “thiên thời, địa lợi, nhân hoà” thì thấy họ như mặt nước
hồ thu phẳng lì, không gợn sóng nên có cảm giác họ đã thành công, thành tựu kết
quả. Nhưng chỉ cần thử một chiêu là biết giá trị thực của họ ở chỗ nào. Thỉnh
thoảng, hãy thử chính mình thay vì người khác. Thử người sẽ tạo ra sự hơn thua.
Thử bản thân tạo ra sự tiến bộ nội tại và nhu cầu chiến thắng bản thân.
Đức Phật nói, khi quan sát những tình huống tương
tự, không nên vội vàng kết luận đức tính ôn hòa, nhu thuận, hiền thục của nhân
vật có giá trị tuyệt đối. Bởi vì, cá tính con người có thể bị biến thiên, thay
đổi theo điều kiện. Khi môi trường hoàn cảnh thuận lợi, đời sống cơm no áo ấm,
đối tượng giao tế và cộng sự luôn luôn ăn ý thì lòng sân hận ít có cơ hội biểu
hiện. Điều đó vẫn chưa đủ để xác định giá trị tĩnh tại, an lạc của con người.
Lòng sân hận của con người có thể tồn tại dưới
hai tầng nổi và chìm. Tầng nổi có hình dạng gồ ghề, gò mối, dây leo… và dễ dàng
khắc phục được. Đôi lúc, nhờ sự mặc cảm và giữ uy tín trong giao tế mà không
thể ứng xử quá thô bạo. Cho nên, nhiều người ức chế lòng sân dù bực tức, giận
dỗi nhưng vì phải thể hiện là người cao thượng, người lớn, người biết lẽ phải
nên vẫn phải nở nụ cười ôn hòa để được những lời khen tặng. Ứng xử với mục tiêu
ngoại giao chỉ chiến thắng được lòng sân hận ở bề nổi. Thực chất, lòng sân hận
ở tầng chìm, sâu trong tâm thức vẫn âm ỉ, tồn tại. Trong tình huống mất kiểm
soát trước sự chọc tức khác thì lòng sân sẽ xuất hiện. Lúc đó mới thấy được bản
chất thật của dòng cảm xúc sân hận vẫn chưa được chuyển hóa trọn vẹn.
Điều chính yếu đức Phật muốn dạy trong bài kinh
này là, chuyển hóa lòng sân hận ở chiều sâu trong tâm thức. Khi lòng sân hận vi
tế được lắng dịu hoàn toàn thì không có những phản ứng nổi cáu. Phải nỗ lực
chuyển hóa sân hận tận gốc rễ thì mới đạt được kết quả.
PHÓNG THÍCH CƠN GIẬN
Theo nhà Phật, không nên đè nén cơn giận vì cơn
giận sẽ bị biến dạng thành nhiều hình thức rất nguy hiểm như nêu trên. Rõ ràng,
cần phải phóng thích cơn giận nhưng phóng thích bằng cách nào? Việc Phóng thích
nỗi khổ đau và sân hận là nhu cầu tinh thần giống nhu cầu ăn uống, hít thở
không khí, làm việc, vui chơi giải trí. Nếu phóng thích không có phương pháp
như ném đồ đạc ra khỏi nhà là đang làm cho đường phố, môi trường bị ô nhiễm.
Như vậy, được việc mình nhưng có hại cho người khác. Vì thế, nhà Phật dạy, con
người phải hiểu được các thao tác kỹ thuật phóng thích lòng sân có phương pháp
để nỗi khổ đau được nhổ tận gốc.
Khi nhận dạng bản chất của sự giận dữ, phải truy
nguyên nó từ những gì được che kín (hidden). Những phiền não vi tế ẩn núp bên
trong mới chính là kẻ thù thật sự, còn những biểu đạt sân hận qua lời nói, hành
động bạo động, khủng bố chỉ là hệ quả của lòng sân chưa được chuyển hoá.
Để tháo gỡ gốc rễ khổ đau do sân hận mang lại,
phải nhìn sâu vào bản chất của nó. Muốn nhổ tận gốc, phải nỗ lực bằng nhiều
cách mới chuyển hóa được. Sân hận giống như con đỉa, nếu chặt thành ba khúc thì
nó trở thành ba con, chặt thành mười khúc thì nó trở thành mười con, chặt thành
trăm mảnh thì nó trở thành trăm con. Vì vậy, đừng chặt nó, đừng kháng cự bằng
cưỡng lực mà hãy chuyển hóa theo cách thức nhận dạng được mặt mũi, nguyên nhân
tại sao nó tạo ra khổ đau.
Phóng thích cơn giận dữ, đương sự phải áp dụng
các giải pháp an toàn, để chính họ và những người trực tiếp liên hệ có thể có
được đời sống an vui. Phóng thích là một nhu cầu sinh tồn của hạnh phúc. Cũng
như trường hợp ăn thực phẩm không tốt cho sức khỏe, thực khách có thể bị dị ứng
thực phẩm dẫn đến bị ói mửa, ói mửa là phóng thích độc tố trong thực phẩm. Như
khi bị trúng gió, cơ thể bị đau nhức, khó chịu và cạo gió là hình thức phóng
thích cơn đau. Phóng thích ra ngoài những gì không thích ứng cho cơ thể là nhu
cầu của sức khoẻ. Sự phóng thích sân hận ra khỏi cảm xúc và đời sống con người
còn quan trọng hơn phóng thích độc tố. Mỗi khi độc tố sân hận nhiễm vào trong
nhận thức thì máu hạnh phúc sẽ tím bầm, buồng phổi không còn ôxy hạnh phúc để
thở. Các hành vi ứng xử của người bị nhiễm độc sân hận trở thành kẽm gai, lựu
đạn… làm khổ đau bản thân và tha nhân. Sự phóng thích nỗi đau của sân hận lúc
này là một nhu cầu.
Tuy nhiên, không phải lúc nào sự phóng thích cũng
mang lại an lạc nếu không biết cách đúng đắn. Đừng đổ sự giận dữ lên người
thân. Hãy phóng thích rác rưởi của sân si vào sọt rác rồi tiêu hủy. Những người
xung quanh cần có không gian trong lành để thở, để sống hạnh phúc. Phóng thích
sân hận thành công đòi hỏi đến phương pháp, nghệ thuật mà nền tảng vốn từ nhận
thức sáng suốt, tác động qua tâm lý, thể hiện qua hành vi thích hợp và tốt đẹp
trong mối quan hệ giữa cộng đồng, xã hội.
Tâm lý học hiện đại phương Tây có dạy phương pháp
xả hơi cơn giận. Phương pháp này giống hình ảnh xả ống khói trong nhà để mang
lại không khí trong lành khi bị nghẹt khói. Nếu lúc nhà bị nghẹt khói do lỗ
thông ống khói bị bít thì nhu cầu cần thiết là phải mở nắp ống khói, mở toang
cửa chính và cửa sổ để tống khứ khí carbonic ra ngoài. Mở cửa là hành động cứu
mạng con người. Những nhà tâm lý học hiện đại cũng lý luận tương tự. Mỗi khi
sân hận là thải khí độc ra môi trường. Cũng vậy, có các mối quan hệ cảm thấy
rất ngột ngạt, khó thở, đến nỗi không muốn nhìn mặt, nói chuyện, sinh hoạt
chung, chỉ muốn dứt khoát với nhau. Trong tình thế đó, họ dạy phương pháp xả
hơi. Theo nhà Phật, phương pháp xả hơi này rất nguy hiểm!
Khi bạn ghét người nào đó, các nhà tâm lý học
khuyên bạn nhờ nghệ nhân tạo ra hình nộm bằng giống người mà bạn ghét để bạn
dùng vũ lực đập vào hình nộm cho tan nát. Khi cơn giận được trút vào hình nộm
thì bỗng nhiên bạn có cảm giác nhẹ nhõm, tránh được cơn điên trước mắt. Một số
nơi có phong tục tập quán dạy người dân sử dụng phương pháp xả hơi bằng cách
trút cơn giận lên hình nộm. Cũng có người khuyên, khi giận thì nên đập bàn,
ghế, xô đẩy, đập phá, gào thét để cơn giận có chỗ phóng thích. Đây là phương
pháp xả hơi cơn giận để không bị nghẹt thở do sân hận gây ra. Theo nhà Phật,
cách phóng thích sân hận này lại vô tình đang tập dượt, thao diễn cho những
trận giả chiến của lòng sân hận chứ không thật sự làm nguôi và chuyển hoá. Thậm
chí, tạo ra các tâm lý phản tác dụng.
Ngay cả trò chơi thể thao, các môn võ nghệ thuật,
vận động viên phải tập dượt đấm đá bao cát bằng nhiều thao tác mỗi ngày. Trong
lúc tập dượt, họ phải nghĩ bao cát chính là đối thủ, kẻ thù phải triệt tiêu để
dành chiến thắng. Cứ mỗi lần tập luyện, người tập có chủ đích trút vào đối
tượng giả tất cả sự bực tức, giận dữ, khó chịu, khổ đau. Hành động trút đổ này
đem lại tác hại nhiều hơn là giá trị trị liệu.
Không nên sử dụng phương pháp này vì khi đang
giận nếu không có hình nộm, bao cát, đồ đạc thì ta sẽ trút cơn giận vào đâu?
Thay thế đối tượng của cơn giận từ con người thành đồ vật không làm cho nỗi
giận giảm đi. Ngược lại, càng làm phát triển mãnh liệt hơn, như diều gặp gió,
lửa gặp dầu. Rõ ràng, phương pháp xả hơi tạo ra nhiều bế tắc, không phải là
giải pháp.
Lịch sử Trung Hoa từng có vị vua ứng xử nếm mật
nằm gai để phục thù là Việt vương Câu Tiễn. Nước Việt là láng giềng của nước
Ngô do vua Ngô Phù Sai đứng đầu. Ngô Phù Sai là người đa mưu, mang quân xâm
lăng và thôn tính nước Việt. Mỗi năm nước Việt phải nộp cống sản vật, cung phi,
mỹ nữ cho nước Ngô. Việt vương Câu Tiễn nuôi hận phục thù suốt mười năm, ông
tập võ, rèn binh luyện kiếm, nuôi hận theo cách “nằm gai, nếm mật”. Ông thường
nằm ngủ trên giường gai để mỗi lần khi đặt lưng xuống giường, cảm giác đau đớn
sẽ gợi nhớ về nỗi nhục mất nước, liền nghĩ đến vua Phù Sai với cơn giận dữ và
quyết tâm phải phục thù. Khổ hận thứ hai được Việt
vương áp dụng là ông treo trước phòng túi mật đắng. Trước khi ăn cơm, ông nếm
túi mật đắng để nhắc nhở phải nhớ đến sự phục thù Ngô Phù Sai. Ông còn dặn dò
vợ không nấu món ngon vật lạ, cao lương mỹ vị để ông mãi nhớ đến những ngày khổ
nhục mất nước. Sau mười năm nuôi binh luyện võ, Việt vương đã khởi nghĩa và
thắng lợi, lấy lại tất cả những gì đã mất vào tay Phù Sai.
Việt vương Câu Tiễn vì nuôi lòng sân hận mà sống
cuộc đời đau khổ trong thời gian dài. Sau khi chiến thắng được Ngô Phù Sai vài
năm, ông qua đời với chứng bệnh nói theo khoa học thời nay là tai biến mạch máu
não, suy tim, thần kinh căng thẳng, suy nhược trong sự uất hận. Cũng may, ông
thực hiện được chí nguyện phục thù rửa hận cho dân tộc, không như nhiều người
không may mắn, chết trước khi làm được điều gì mình muốn vì tác hại của khổ
hận.
Trong câu chuyện lịch sử trên, Việt vương Câu
Tiễn có ý cố tình nuôi lòng sân hận, cảm giác khổ đau để phục thù, rửa hận mang
lại độc lập cho dân tộc. Dĩ nhiên, trách nhiệm hàng đầu của vị vua là không để
đất nước bị xâm lược. Nhưng là Phật tử, có nhiều cách giúp cho đất nước trở
thành quốc gia độc lập mà không nhất thiết phải kinh qua con đường chiến tranh.
Tốt hơn hết, thông qua con đường đàm phán và thương thuyết ngoại giao. Bất đắc
dĩ dẫn đến chiến tranh thì giải quyết trên cơ sở không gây thương tổn cho cả
hai dân tộc vì người dân là vô tội!
Hiện nay, một số cường quốc trên thế giới đang
thử bom hạt nhân, nguyên tử dưới lòng biển hay sa mạc. Họ nghĩ điều đó không
ảnh hưởng đến đời sống con người. Phải chăng đây là nguỵ biện? Vì họ biết, mỗi
lần thử bom hạt nhân, địa cầu bị chấn động, biến dạng về cấu hình của mặt đất
và có thể làm xê dịch kinh tuyến, vĩ tuyến một vài cm hoặc hơn. Chính sự chấn
động đó lâu ngày tạo ra địa chấn dưới lòng biển, sóng thần, động đất, các loại
hình thiên tai bão lũ rất nguy hiểm cho mạng sống con người.
Dù khoa học chưa chứng minh được những tác hại to
lớn từ sự thử nghiệm này. Song rõ ràng, có nhiều nguy hại ảnh hưởng đến môi
trường sống con người với nhiều hình thức khác nhau. Quan sát trên truyền hình
về cách thử bom nguyên tử hạt nhân, có thể thấy độ chấn động lan truyền khủng
khiếp với đường kính có thể kéo dài 500km - 5.000km, tuỳ theo mức độ tàn phá.
Lúc ấy, tất cả muông thú trong rừng, động vật dưới biển, loài bò sát sống dưới
lòng đất hay trong hang đều bị tiêu diệt. Thậm chí, kim loại có thể chảy thành
chất lỏng. Việc thử nghiệm hạt nhân và các loại vũ khí giết người hàng loạt đã
tạo ra những dị dạng cho địa cầu. Sự phóng thích bằng cách xả hơi cơn giận cũng
tương tự, khiến cho địa cầu tâm linh bị tổn thương, hạnh phúc bị thiêu huỷ.
Tưởng làm như thế có thể được thoải mái nhưng không ngờ cơn giận càng được nuôi
dưỡng và phát triển.
ĐỪNG GIẬN CÁ CHÉM THỚT
Thái độ biểu đạt khác của cách thức phóng thích
cơn giận dữ là “Giận cá chém thớt”, thuộc phản ứng của tâm sân. Nghĩa là, người
bực tức trút bỏ nó vào đối tượng không liên can, coi đó như là cách phóng thích
phản ứng bị ức chế tâm lý cần phải xả với bất kỳ ai hay cái gì. Khi người giận
có thái độ sân hận với người mà họ không có quyền nói, không có cơ hội giải bày
hoặc có quyền và cơ hội nhưng đối phương không lắng nghe thì cảm giác bị oan ức
khó chịu vô cùng. Cho nên, cứ ôm giữ sự ấm ức trong lòng ở nhà, tại công sở và
mang theo nó khi đi bất kỳ đâu. Hành động ấy là cách thức nhen nhóm lửa giận ở
nhiều nơi, lửa sẽ đốt cháy rụi những nơi đó thành tro. Đây là cách thức gieo
rắc sự đau khổ với những người không hề có bất kỳ liên can hay liên hệ gì đến
cơn giận của kẻ giận.
Cách đây vài tháng, trên các kênh truyền hình
chiếu phim phóng sự về sự kiện nhân viên cai ngục của Mỹ hành hạ bất nhẫn với
tù nhân Iraq, buộc các tù nhân Iraq cởi bỏ quần áo rồi dùng dây thòng lọng kéo
cổ người này sang người kia. Và quay phim, chụp ảnh để bôi nhọ, sỉ nhục khiến
cộng đồng quốc tế căm phẫn. Chính phủ Mỹ đã trừng phạt đích đáng các can sự và
cách chức giám đốc nhà tù chính trị. Lính Mỹ hành động bất nhân như thế là
“Giận cá chém thớt”. Nguyên nhân có thể do lính Mỹ có chiến hữu bỏ xác trên
chiến trường Iraq hoặc căm ghét chế độ độc tài của Sadam Hussein. Sự sân hận
làm những viên cai ngục Mỹ trả đũa lên các tù nhân Iraq vốn không liên hệ nhiều
đến Hussein, hay cái chết của các chiến binh Mỹ tại Iraq. Đôi lúc, sự tàn nhẫn
trong cách “Giận cá chém thớt” có sức tàn phá hơn so với đối tượng liên hệ trực
tiếp đến cơn giận.
Phía Iraq cũng có những phần tử cực đoan, trả đũa
khó mà chấp nhận. Có người tự nguyện trở thành những quả mìn, tự sát ở những
nơi công cộng hay đại sứ quán Hoa Kỳ ở các nước. Trong những hành động khủng
bố, người cực đoan cố tình tạo ra bất ổn ở nhiều nơi. Họ bắt giữ con tin, hăm
dọa, hành hạ, giết chóc để buộc nước liên minh với Mỹ phải rút quân khỏi Iraq.
Tất cả những hành động phản ứng trên đều thuộc loại “Giận cá chém thớt”, phóng
thích sân hận bằng cách hết sức sai lầm, mức tàn phá khó lường. Sự phóng thích
sân hận bằng cách này diễn ra nhẹ nhàng hơn nếu chỉ quát mắng, la rày...
Ví dụ, có anh công nhân khoảng 50 tuổi, làm việc
dưới quyền một thanh niên trẻ. Một hôm, ông ta không hoàn thành công việc nên
bị cằn nhằn, nặng lời, chửi bới. Ông ta bị ức chế tâm lý, cảm xúc khó chịu, bực
bội vì sự chênh lệch tuổi tác. Trở về nhà, thay vì vui vẻ với vợ con cho khuây
khỏa thì ông ta lại cau có với con cái. Mở tập kiểm tra của con, thấy nhiều
điểm yếu, ông bực mình quát: “Thằng này, học chẳng ra chi! Hồi bằng tuổi
con, ba từng làm lớp trưởng, Tổng thống Nixson từng là bạn của ba. Còn bây giờ,
con chỉ có việc học cũng không xong thì làm được việc gì…” Đứa con liền trả
lời: “Ba ạ! Con biết điều đó, con rất kính phục ba! Nhưng rất tiếc, khi Nixson
bằng tuổi ba thì ông ta là Tổng thống Mỹ, còn ba chỉ là công nhân thôi”.
Đôi khi, cha mẹ phóng thích cơn giận vô tội vạ
như thế là tạo ra chất xúc tác cho con cái trở thành kẻ bất hiếu, không biết
tôn trọng người lớn. Thậm chí, chính cha mẹ gián tiếp làm con trở thành kẻ hư
đốn. Vì vậy, không nên tạo sự lây lan tâm lý sân hận từ người này sang người
kia.
Muốn cắt đứt sự lây lan sân hận, phải đình chỉ
ngay việc tiêu thụ thực phẩm của sân hận mà bản chất biểu hiện của nó rất đa
dạng và vi tế. Trước khi phân tích phần này, cần phải hiểu được cơ chế tương
tác thân và tâm con người. Nhà Phật có thuật ngữ danh và sắc. Theo tâm lý học
hiện đại, thân và tâm là biểu hiện tâm sinh lý con người. Hai phương diện này
luôn tác động qua lại với nhau. Có khi bực bội phát xuất từ cơ chế sinh học do
mất ngủ, bị chứng bệnh gây đau nhức, khó chịu nên bị trầm cảm, uể oải, thụ
động. Rõ ràng, ảnh hưởng tâm lý đã tác hưởng xấu cho sức khoẻ, thân thể. Ngược
lại, ảnh hưởng xấu của sức khoẻ có thể tương tác và tạo ra tiêu cực cho tâm lý,
nhận thức dẫn đến ứng xử không khôn ngoan. Hiểu rõ cơ chế tương tác giữa thân
và tâm thì không nên khinh thường sức khoẻ của thân và sự vận hành của cảm xúc
sân hận. Ngược lại, phải biết phương thức chăm sóc cả thân và tâm để tháo gỡ
sân hận. Đừng cho tâm lý sân biểu hiện thành thái độ nóng giận, quát tháo, chửi
bới, đánh đập, nguyền rủa, hù doạ, thương tổn, loại trừ, chiến tranh…
CẤP ĐỘ SÂN HẬN
Sự tức giận của con người có nhiều cấp độ khác
nhau như sự nổi nóng, hờn mát, hung dữ, huỷ hoại và thù hận. Tuỳ trường hợp mà
phản ứng của con người có thể rơi vào một, hai hay cả năm tình huống vừa nêu.
Nếu rơi vào cả năm tình huống đó thì phải biết đã chuốc lấy sự bất hạnh. Chính
vì thế, sự an lạc, tĩnh tại đời sống nội tâm không còn nữa. Nói cách khác, nuôi
cơn giận còn khó hơn nuôi người bệnh, bởi cơn giận làm hao tâm, tổn trí mất hết
sự an lạc!
Sự nổi nóng có thể biểu đạt qua nhiều cách thức
như cau có, bực bội, khó chịu hoặc thay đổi sắc mặt, ngữ điệu, thái độ ứng xử,
cử chỉ sinh hoạt hàng ngày gần như bị biến dạng. Người đang giận nếu bị chứng
bệnh cao huyết áp hay tim mạch thì sẽ thấy gương mặt tái xanh. Nếu có chứng
bệnh khác thì gương mặt đỏ lên do máu dồn lên não quá nhiều, làm căng thẳng
thần kinh rất khó chịu. Sự biến dạng này được xem là hệ quả của thái độ nôn
nóng, nông nổi và rất nguy hiểm!
Trạng thái ngấm ngầm biểu đạt một cách vi tế của
sân hận là hờn mát. Sự hờn mát có thể tạo ra nỗi buồn bực, dẫn đến thái độ ganh
tị hay hiềm khích. Chú tâm vào việc làm, lời nói của người khác từ tàng thức
của mình mà không bộc lộ ra ngoài. Khi hờn mát, con người có thói quen quay
lưng, không chú ý quan tâm, không lắng nghe, không nhìn đối diện hay gặp gỡ với
người đã tạo ra sự hờn mát cho mình dù hành động, lời nói của người đó vô tình.
Như vậy, thái độ hờn mát khép kín cửa ngõ quan hệ truyền thông giữa mình với
những người xung quanh.
Việt Nam có câu thành ngữ, “Hơi đâu mà giận người
dưng nước lã” như là phương châm ứng xử để mình mặc nhiên với mọi việc làm của
người. Bản chất câu này rất nguy hiểm cho việc duy trì các quan hệ. Nếu đó là
phương châm thì chẳng lẽ cho phép mình giận người thân hay sao? “Hơi đâu mà
giận người dưng” cũng có nghĩa là được quyền giận những người thân, gần gũi và
có quan hệ trực tiếp hay thuộc hạ. Như vậy, thái độ giận đó được bào chữa, nuôi
dưỡng bằng cách nhìn nhận sai lầm ở chỗ, nếu người thân làm việc sai trái thì
được bày tỏ thái độ trừng phạt, giận dỗi, hờn mát, căm phẫn. Phương thức ứng xử
như thế rõ ràng tổn thất nặng nề đối với đời sống tâm linh.
Sự hung dữ chỉ là trạng thái căng thẳng về chiều
kích xấu hơn lòng sân, được biểu đạt bằng động tác khua tay múa chân, khua môi
múa mép, phùng mang trợn mắt, nguyền rủa chửi bới, la hét, hù dọa cay cú. Hù
dọa tưởng chừng đơn giản nhưng tác hại khôn lường. Tục ngữ có câu, “Một cái doạ
bằng ba cái đánh”, nghĩa là khi đánh, đau một lần thôi. Còn khi hù dọa thì
không biết bị đánh ở đâu, lúc nào. Cho nên, cảm giác sợ hãi lo lắng cứ thường
trực, tồn tại làm tâm họ không được yên ổn. Vì vậy, sự hù dọa để lại khổ đau
lâu dài. Khi giận, đừng hù dọa vì sẽ khiến tâm người khác chất chứa giận hờn.
Sự mặc cảm, tự ti, sợ hãi trưởng thành lâu dài ở họ.
Lời nguyền rủa cũng có tác hại tương tự. Chẳng
hạn, người bệnh gần chết nhưng do giận con cháu nên đuổi họ đi và nhắn lời
không cho họ về để tang khi mình chết, nếu họ về thì mình chết không nhắm mắt.
Theo nhà Phật, điều này tạo ra sự ức chế tâm lý khiến vong linh khó siêu thoát.
Nếu được tái sinh thì bản tính vẫn ẩn chứa lòng hờn mát, giận dữ, sân hận, dễ
cau có, bực bội. Hơn thế nữa, sự sân giận còn làm đối tượng bị cắn rứt lương
tâm, giày vò khó chịu, buồn rầu. Buồn bực ấy có thể đưa đến những căn bệnh nguy
hiểm như cao huyết áp, tai biến mạch máu não, dễ dàng dẫn đến cái chết ngang
trái. Do đó, đừng bày tỏ sự hung dữ do lòng sân hận vì nó không mang lại lợi
ích cho mình và người thân!
Tác hại, biểu đạt lớn hơn với cường độ và tốc độ
mạnh hơn của sân hận là sự huỷ hoại. Theo kinh điển, lòng sân hận có chức năng
huỷ diệt đối tượng, có thể biểu đạt qua các động tác đập phá đồ đạc, dồn nén sự
giận dữ vào tờ giấy rồi vò nhàu nát hay xé ra từng mảnh nhỏ, hoặc thái độ ăn
miếng trả miếng, ứng xử rất giang hồ. Làm vậy, khiến lòng giận dữ ngày càng leo
thang, làm cho nội kết giữa mình và người không bao giờ có dấu chấm kết thúc.
Có thể kéo dài từ đời này sang đời khác. Thậm chí sau này, con cháu lớn lên và
nghe kể lại những giai thoại về nội kết giữa hai gia đình, dòng tộc hay người
khác thì con cháu của họ sẽ có mặc cảm, thành kiến với nhau dù không hề quen
biết. Họ vẫn không thể nhìn, cười hoặc quan hệ bình thường với nhau.
Biểu hiện cuối cùng là lòng thù hận, ôm ấp sự thù
hằn, giận dữ trong tâm. Nhiều người nuôi quyết tâm trả thù trong tương lai. Sự
trả thù rất đa dạng. Trước hết, có thể ngấm ngầm dưới thái độ tâm lý “loại
trừ”, không bao giờ chấp nhận sự tồn tại song hành giữa mình và kẻ thù, nghĩa
là đặt mình với họ lên bàn cân, một mất một còn, ngày và đêm, mặt trời và mặt
trăng. Đó là cách ứng xử theo quan điểm nhị nguyên đối lập lẫn nhau nên không
chấp nhận người khác cùng có mặt với mình. Phật giáo gọi đó là “oán tắng hội
khổ”, nghĩa là nỗi khổ của hai người không ưa nhau nhưng phải gặp nhau mỗi
ngày, phải sống chung trong một ngôi nhà, làm việc chung cơ quan. Mỗi lời nói,
việc làm, suy nghĩ của họ đều trái ngược như nước với lửa.
Sở dĩ, lòng thù hận nguy hiểm vì nó là nền tảng
và được biểu đạt bằng sự nổi nóng, hờn mát, hung dữ, huỷ hoại và nhiều cách
thức khác. Đôi lúc, có người phản ứng hết sức cực đoan bằng cách kết liễu mạng
sống của đối tượng. Ví dụ trong cơn ghen, phụ nữ có tính Hoạn Thư có thể dùng
axit để huỷ hoại thân thể người xen vào hạnh phúc của mình. Trong quan hệ đối
tác, có thể hạ thủ đối phương để tranh giành địa vị, quyền lợi. Vì thế, bất cứ
lúc nào con người còn ôm giữ sân hận thì còn là nạn nhân của nội kết không tháo
gỡ được.
Nội kết là ức chế và trói buộc tâm lý đối với
người nào đó, bắt nguồn từ thái độ mặc cảm, ganh tị, tranh giành hơn thua, xung
đột, va chạm thương tổn, từ tâm lý ngã mạn cống cao, từ bản ngã muốn mình trở
thành trung tâm của vũ trụ, trục xoay của trái đất. Do con người không được đáp
ứng hay không thể thoả mãn những tâm lý trên nên lòng sân hận trỗi dậy. Tự thân
đang thiết lập bức tường vô hình nhưng không nhìn thấy được. Khi giao tiếp với
đối phương thì gai góc xuất hiện, thần kinh căng thẳng, mặt trắng nhợt hay đỏ
bừng, tim đập nhanh. Đó là những trạng thái tâm lý làm thay đổi mối quan hệ tốt
đẹp giữa người với người.
GỐC RỄ CỦA GIẬN DỮ
Nhà Phật dạy, muốn giải phóng sân hận trước hết
phải nhận ra nguyên nhân tại sao nó có, do chủ quan hay khách quan, nội hay
ngoại tại, do sự hiểu lầm hay từ sự tổng hòa của những điều vừa nêu trong từng
tình huống cụ thể? Phải chịu khó lắng tâm, quan sát và tư duy khách quan thì
mới thấy được mấu chốt và diễn tiến của nguyên nhân gây ra sân hận.
Trong kinh Tăng Chi Bộ, đức Phật nêu 10
nguyên nhân của lòng sân liên hệ đến ba đối tượng là tự bản thân, những người
mình thương và những người mình ghét xuyên suốt ba mốc thời gian là quá khứ,
hiện tại và vị lai.
Trước nhất là ba tâm niệm cho rằng người khác làm
tổn hại, ảnh hưởng đến hạnh phúc của mình trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Khi nghĩ lợi lạc, hạnh phúc của mình bị thương tổn thì phát sinh và nuôi dưỡng
lòng thù oán trong tâm.
Ba trường hợp kế tiếp thuộc ba tính cách tâm lý
tương tự, được truyền qua những người thân thương. Chẳng hạn, khi vợ chồng, con
cái, anh em, bà con quyến thuộc, những người cùng lý tưởng của người nào đó bị
làm thương tổn y sẽ bảo vệ, bênh vực. Đồng thời, sẵn sàng bày tỏ thái độ ghét
bỏ, căm phẫn người tạo ra rắc rối cho người thân của y. Làm vậy là đã gieo
trồng những hạt giống sân hận rất vô cớ. Vì hai đối tượng đang có nội kết với
nhau, người trung gian lẽ ra phải hòa giải giúp họ không còn thù nhau nữa thì
lại tạo liên minh với người thân thương để đẩy người không thân thương vào tình
thế không còn lối thoát.
Trường hợp kế tiếp khá phức tạp. Khi thấy người
khác chăm lo, săn sóc, quan tâm đến người mình thương thì lòng sân hận nổi dậy,
ganh tị vì sợ người khác có thể chiếm đoạt tình cảm người mình thương, hoặc sẽ
khiến cho tình cảm của mình và người mình thương bị mai một nên tỏ ra ghét cay
ghét đắng, căm thù người kia.
Ba trường hợp còn lại là ghét cay ghét đắng những
người mà bạn mình không thích quan tâm, chăm sóc, lo lắng, giúp đỡ. Tâm lý con
người thường buộc người khác vào thế ứng xử liên minh với nhau. Người có tâm lý
ứng xử theo dạng này thường có thói quen đặt ra những điều kiện, “nếu anh, chị
là bạn của tôi thì phải cùng phe với tôi, tôi ghét người nào thì anh, chị phải
ghét người đó”. Hoặc mặc nhiên ám chỉ bằng thái độ, cử chỉ, lời nói để người
khác hiểu rằng, nếu quan hệ với tôi thì bạn phải chấm dứt quan hệ với bên kia.
Bằng cách ấy, con người rơi vào trạng thái cực đoan, “Thương ai thương cả đường
đi, ghét ai ghét cả tông chi họ hàng” dù trên thực tế, thân bằng quyến thuộc
của họ là người có tư cách, tốt bụng và không có lỗi lầm gì đối với ta.
Khi tìm giải pháp hóa giải hận thù hay cơn sân
hận, trước nhất phải nhận dạng, phải hiểu được gốc rễ sự hận thù. Thứ hai, cần
phải biết được cách biểu hiện của giận dữ, hận thù. Mỗi người có một cách biểu
đạt sự giận riêng. Người thể hiện thầm kín, người công khai rõ rệt như Trương
Phi, người gồm cả thầm kín và công khai. Phải biết thái độ sân của mình thuộc
dạng nào để có thể tháo gỡ dễ dàng. Thứ ba, tìm đúng phương pháp để có thể quản
trị được lòng giận dữ hay cơn sân hận. Thứ tư, cần phải phóng thích lòng sân
hận của bản thân đối với người khác.
Rất có thể, nỗi đau đang mắc phải có gốc rễ từ
quá khứ hay là cây gai vẫn đang nằm trong tim, hoặc là ống chích đã ghim vào
nhận thức và có thể trở thành vũ khí đối với bất cứ người nào có mối quan hệ
lận đận.
Bốn bước hóa giải sự thù hận và nỗi đau sân hận
này đã đặt chủ thể trong thế phải thay đổi cách nhìn. Nghĩa là, phải nhìn như
thế nào để cách lý giải, nhận định, đánh giá, phân tích sự kiện dẫn đến quyết
định khôn ngoan và giải pháp an toàn, tích cực, mang tính chất chuyển hóa,
thiết lập được quan hệ tình người giữa các đối tượng với nhau. Thực tập theo
bốn bước này sẽ có kết quả là thân được an, tâm vui, tất cả những căng thẳng
trong quan hệ, tất cả trầm cảm, ức chế tâm lý được phóng thích hoặc tháo gỡ.
Đây là nỗ lực thoát ra những cái gút ở trong tâm, nhận thức, tâm lý, nhất là mở
được gút trong cách ứng xử ở đời.
Sự hóa giải là một quy trình vừa tâm lý vừa nhận
thức và cũng thuộc về chủ nghĩa hành động. Nếu không liên tục nỗ lực tích cực,
chỉ làm phân nửa hoặc làm 30% thì nội kết ở phương diện mặt nổi được tháo gỡ
nhưng thực sự bên trong vẫn còn những lận đận, khổ đau vi tế, dây kẽm gai, hàng
rào, bức tường phân ranh nên khổ đau có thể gia tăng trong tương lai. Bởi vì,
trạng thái ức chế cơn sân hận thường mang lại những hậu quả không thể lường
trước được.
Người con Phật tìm giải pháp hóa giải lòng thù
hận thì có thể theo kinh nghiệm riêng, nhưng nên dựa vào kinh nghiệm của đức
Phật được ghi trong kinh điển để giải pháp trở nên hữu hiệu nhất.
Các giải pháp đặt nền tảng trên việc quán chiếu
nguyên nhân, gốc rễ của lòng sân hận mà đức Phật đã dạy trong kinh điển Pali
rằng: “Từ lúc Ta thành đạo đến khi gần qua đời, Ta chỉ tuyên bố hai điều: Thứ
nhất, vạch mặt chỉ tên thực tại khổ đau, thứ hai, chỉ ra con đường hóa giải
thực tại khổ đau đó”.
Tất cả những pháp môn, tình thương Ngài để lại
cho cuộc đời là chỉ cho con người thấy được thực tại của khổ đau và chuyển hóa
thực tại khổ đau đó bằng những phương pháp cụ thể. Từ đó, đạo Phật được quan
niệm như là đạo của chủ nghĩa hành động, dấn thân, xóa đi lòng vị kỷ, hẹp hòi,
mở lòng vị tha, dang rộng đôi tay với tình thương bao la ôm lấy người khác để
chuyển hóa khổ đau, dù khổ đau đó được thiết lập cố ý hay vô tình, bằng vô minh
hay thù hận hoặc sự hiểu lầm.
Hãy nhận dạng nguyên nhân bất kỳ thiết lập sự sân
hận, khổ đau. Đồng thời, không nên để những khổ đau này khống chế, hoành hành
thân tâm, làm con người mất hết an vui. Đương sự phải có trách nhiệm tháo gỡ
khổ đau, nội kết do lòng sân hận đã, đang và sẽ để lại trong tâm hồn những nỗi
buồn, sợ hãi và khổ đau.
CHINH PHỤC CƠN GIẬN
Trong kinh điển, đức Phật đề cập rất nhiều giải
pháp ứng dụng để chuyển hóa và chiến thắng cơn giận dữ. Có thể vận dụng năm,
bảy phương pháp cùng một lúc hoặc chọn phương pháp trọng tâm và phương pháp còn
lại trở thành hỗ trợ, miễn sao vận dụng để có chất liệu an lạc, bình tĩnh và sáng
suốt. Từ đó vượt qua sự khủng hoảng, nỗi khổ, niềm đau trong cuộc đời.
Đây còn gọi là phương pháp ngăn chặn. Khái niệm
này vay mượn từ trong quân sự để dễ dàng hình dung và hiểu.
Đôi khi, có cuộc chiến không mang lại giá trị
hạnh phúc cho cả hai dù chính nghĩa hay phi nghĩa. Nếu kéo dài cuộc chiến sẽ
biến người dân thành những nạn nhân khổ đau. Do đó, người “cầm cân nẩy mực”
không cho phép tự ái, vì bản ngã cá nhân làm cho hai bên chiến tuyến đối lập
phải tiêu diệt lẫn nhau, khiến người thân của họ phải đau khổ vì mất mát. Phải
tìm mọi cách hoãn binh để cuộc chiến không diễn ra. Nhưng hoãn binh chỉ là một
trong những cách thức tạm thời.
Chúng ta cần chặn đứng hoạt động của dòng chảy
cảm xúc đó, có thể dùng lực cản lớn hơn để trấn áp những gì khiến lòng bực tức,
không vui. Dùng âm thanh lớn để trấn áp tiếng ồn khiến bực dọc. Thí dụ: Người
làm cha, mẹ trong gia đình có thể quát tháo, ra lệnh những đứa con im lặng.
Phương pháp đó làm cho trạng thái im lặng được diễn ra, đồng thời cũng gây phản
ứng ức chế trong lòng đứa trẻ, dù không đủ sức chống trả những điều bị cha mẹ
áp đặt, chúng không cảm thấy thoải mái trước cưỡng lực bắt buộc. Việc dùng động
lực lớn đế trấn áp động lực nhỏ là phương pháp tạm thời chứ không thể lâu dài.
Cơn giận dữ đối với người không thích, không ưa,
không thương… sẽ trở thành nguồn nội kết trong mối quan hệ. Do đó, sự hiềm
khích được nuôi nấng, hâm nóng một cách tình cờ hay cố ý, trở thành thách đố
của hạnh phúc trong đời sống con người.
Mối quan hệ giữa con người, đôi lúc có những ổ
gà, ổ voi, nhiều sỏi đá, mảnh chai và thậm chí dây xích ngăn cách. Nếu không nỗ
lực san lấp cho bằng phẳng thì sự mâu thuẫn ngày càng gay gắt. Đôi lúc, sự mâu
thuẫn có nguồn gốc từ sự hiểu lầm hoặc do bản ngã, ích kỷ, phản ứng tự vệ trấn
áp đối phương khiến họ phải khiếp
sợ không dám gây hấn nữa. Bất kỳ cuộc xung đột nào, hai bên đều tìm những lý do
để được quyền tấn công khi nghĩ đối phương là kẻ thù. Có thể tấn công người
khác bằng lời thị phi độc ác, thái độ hằn học hoặc bằng cách cô lập… Nếu cuộc
chiến không mang lại giá trị xây dựng thì sự hoà hợp an vui sẽ không được thiết
lập.
Đức Phật dạy: phải thấy được lợi ích của sự hoãn
binh, có thể giúp hai bên mâu thuẫn ngừng trận đánh, nghĩa là ngừng những cơn
sân hận phiền não. Bởi vì, càng đẩy cơn sân hận bằng phản ứng đánh nhau giữa
hai bên, cộng đồng, liên minh hay quốc gia… thì càng làm tăng trưởng khổ đau
chồng chất, tạo thành núi và kéo dài kiếp này sang kiếp khác. Chẳng hạn, cuộc
chiến giữa Irael và Pal- estine đã qua nhiều thế kỷ mà bây giờ vẫn tiếp tục đánh
nhau, trở thành kẻ thù khó có thể chấp nhận nhau.
Nỗi bất hòa xung đột và hiểu lầm làm con người
mất ăn, mất ngủ, tốn hao nhiều sức lực lẽ ra sức khoẻ ấy được dùng làm những
việc có hiệu quả hơn trong hiện tại và tương lai. Có nhiều cách để hoãn cơn giận,
vì con người chưa đủ sức chấm dứt cơn giận dữ ngay lập tức nên tạm thời hoãn
binh để ngăn chặn phản ứng do lòng giận dữ và không làm tổn thương người thân.
Không làm cho người khác cảm thấy nghẹt thở vì cơn giận, ngột ngạt vì lời nói
căng thẳng, bực tức vì hành động khiêu khích là điều hay. Từ thói quen tự vệ đã
dẫn đến tình trạng thanh toán lẫn nhau, phần lớn sự khởi thuỷ của vấn đề chẳng
đáng gì cả, hoặc chỉ xuất phát từ miệng lưỡi.
Đừng lấy quyền để buộc người khác phải theo mình.
Đừng bắt người khác chấp nhận những cái mình muốn và cũng đừng hăm dọa, nạt nộ,
nguyền rủa, chỉ trích người khác dù mình đúng. Thái độ và cách ứng xử đó không
làm cho cuộc chiến của sân hận kết thúc tốt đẹp.
Nếu giận dữ bắt nguồn từ hiểu lầm thì chưa vội
biện bạch trong lúc đối phương biểu hiện cơn giận, vì có thể gây sự hiểu lầm sẽ
ảnh hưởng đến quan hệ hai bên. Trường hợp đó, có thể im lặng để phản ứng nhẹ
đi. Chúng ta hít thở điều hòa với sự vận hành chuyển hóa các luồng khí để tâm
được lắng dịu. Khi hít thở, hãy hít thật sâu. Động tác hít thở sâu và nhẹ
nhàng, sẽ có sự an lạc và hỷ xả đang vận hành trong tim, não trạng, cử chỉ, lời
nói, việc làm. Nói chung, sự an lạc đang lưu chuyển toàn thân.
Hành giả là người không cho phép mình có các ứng
xử làm não hại, không cho phép mình tống khí cac-bon-nic vào mũi người khác,
trong khi tranh giành luồng ôxy cho buồng phổi và quả tim của mình. Suy nghĩ
mang tính tương tác nhượng bộ sẽ giúp cuộc chiến sân hận ngưng, tâm của người
quán chiếu cũng được thư giãn. Nếu có cơ hội, hãy ngồi lại với nhau dùng tuệ
giác, hiểu biết, cảm thông, tình thương, tha thứ của người con Phật, cùng nỗ
lực tháo gỡ nội kết một cách nhẹ nhàng.
Cách thức chặn đứng cơn giận dữ như vừa nêu là
giải pháp làm ức chế giận dữ không diễn ra theo cách thức mình và người trở
thành nạn nhân của nhau. Giải pháp này chỉ hỗ trợ tạm thời vì chưa đủ sức
chuyển hóa cơn giận, nhưng vẫn ngăn chặn được cơn giận để không biến nỗi đau
nhỏ thành nỗi đau lớn, không làm cho mụn nhọt giận dữ lở loét nhiều hơn, không
làm ta và người mắc bệnh ung thư của cơn giận. Do đó, nếu người có tính nóng
giận quá thô mà ứng dụng phương pháp hoãn binh này là điều rất cần thiết.
Tâm chúng ta là đài truyền hình với tần số phát
sóng khác nhau. Mỗi người có một “gu” để thưởng thức nghệ thuật. Thế giới truyền
hình ngày nay đa dạng và phong phú, mỗi đài truyền hình có sở trường phục vụ,
giáo dục đều có giá trị riêng. Nếu người yêu thích môi trường thiên nhiên, các loài động vật và hướng tâm rộng ra
muôn loài, muông thú thì bật kênh Thế Giới Đó Đây (Discovery hoặc
Animal Planet) để thưởng thức. Tương tự, những người thích năng động có thể xem
các đài thể thao và giải trí (Star Sport hoặc Super Action). Nhờ biết chọn kênh
thích hợp, người thưởng thức cảm thấy bổ ích sau những giờ lao động mệt nhọc.
Chương trình nào đi ngoài quỹ đạo, sở thích và mục đích thưởng thức thì chuyển
sang kênh khác, không nên để tâm trí mỏi mệt vì phải xem những chương trình
không mang lại thoải mái và giá trị thưởng thức.
Trong các mối quan hệ nếu có sự hiểu nhầm làm cho
mình và người bị nghẹt thở thì nên thay đổi chủ đề để hạn chế sự bất hòa và cơn
giận dữ có thể xảy ra. Chẳng hạn, thảo luận vấn đề bình đẳng, hầu như phụ nữ
phương Tây không chấp nhận cuộc sống lẩn quẩn trong bếp vì theo nền văn hoá của
họ, giới hạn người nữ trong bếp là sự bất công.
Khi người vợ đòi hỏi chồng chấp nhận quyền để
tham gia vào các hoạt động xã hội và cộng đồng, góp phần tạo dựng đời sống kinh
tế cho gia đình nhiều người chồng theo truyền thống sẽ không tán đồng ủng hộ.
Chồng phản đối vì nghĩ, nếu chấp nhận cho vợ đi làm, tham gia sinh hoạt cộng
đồng thì hạnh phúc gia đình có thể bị đổ vỡ. Sự nương tựa vào chồng chỉ còn mấy
mươi phần trăm chứ không trọn vẹn như trước, dẫn đến tình trạng tranh luận,
hạnh phúc rạn nứt. Như vậy, sự đổ vỡ có thể bắt nguồn từ cuộc thảo luận về
quyền bình đẳng nam nữ.
Nếu thấy cuộc đối thoại không mang lại giá trị
hạnh phúc, an lạc, mà lại gây nên những sân hận thì một trong hai người nên
dùng phương pháp chuyển đề tài đang thảo luận sang đề tài khác. Có thể quan tâm
lẫn nhau về sức khỏe, việc làm hoặc những việc mà đối phương đang lo lắng, đang
gặp khủng hoảng hoặc trở ngại trong cuộc sống.
Thay đổi đề tài làm cho bầu không khí nóng bức
giữa mình và người dịu xuống. Phương pháp đổi đài giống như máy điều hòa không
khí, có chức năng làm lạnh không gian nóng bức, làm ấm không gian lạnh giá. Nhờ
đó, sự căng thẳng qua thái độ, lời nói, sự bất đồng ý tưởng và nội dung không
làm trở ngại mối quan hệ. Có tình huống do hiểu lầm nên nhiều người gặp nhau
không nhìn, làm cho bầu không khí trở nên nặng nề, ngột ngạt, khó thở. Lúc đó,
mối quan hệ đang rơi vào tình trạng băng giá. Một trong hai người nên giải bày,
mở gút để không khí được ấm cúng. Nhờ đó, tình người được thắp sáng, ấm áp và
hạnh phúc hơn!
Đổi đài là cách thức thay đổi đề tài đang thảo
luận hay thay đổi không khí căng thẳng trở nên bình thường. Muốn dễ dàng đổi
đài thì người đối thoại phải ngừng sự tranh luận hơn thua, ngay cả sự biện hộ,
đổ thừa, đổ lỗi hoặc quy trách nhiệm cho người khác. Bởi vì những cách đổ thừa,
đổ lỗi chỉ làm cho đề tài đang thảo luận càng nóng bức và tăng sự bực dọc. Cho
nên, nhanh chóng đổi đài nếu vấn đề đang tranh luận trở nên bất bình thường thì
mọi thứ sẽ nhẹ nhàng và tốt đẹp hơn!
TRÁNH VỎ DƯA ... GẶP VỎ DỪA
Phương pháp tránh duyên có thể áp dụng khi bị bức
xúc quá nhiều mà không đủ sức đối đầu và khắc phục những khổ đau thực tại đang
diễn ra. Trong tình huống đó, cho phép lánh mặt hay tránh duyên để quan hệ đang
căng thẳng được lắng dịu từ từ. Người chưa có khả năng chuyển hoá sân hận mà có
mặt tại địa điểm sự cố đang diễn ra sẽ làm gia tăng sự không vui, rất có thể
xúc phạm lẫn nhau do hành vi thiếu sáng suốt. Cơn giận xảy ra xung đột, kết quả
có thể làm đổ vỡ hạnh phúc, tình người. Trong tình huống không thể vượt qua cơn
giận nên tìm cách lánh nạn, lánh mặt người đã làm mình khó chịu, mất hạnh phúc.
Nhờ lánh mặt trong ý thức sáng suốt, người kia không có cơ hội thiêu đốt chính
mình và thoát khỏi cơn giận. Theo cách nhìn tương đối nào đó, tránh duyên chính
là cơ hội quý có thể giúp vượt qua khổ đau trước mắt, vì sự lánh mặt làm nguôi
cơn giận. Tất nhiên, có những trường hợp tránh duyên lại trở thành tiêu cực.
Thí dụ: Trong gia đình, cha và mẹ đang bất hòa,
làm khổ đau cho nhau qua cách ứng xử thiếu khôn ngoan. Khi đó, con cái họ đang
ở tuổi trưởng thành chúng phải chứng kiến những khổ đau do cha mẹ tạo ra hằng
ngày thì chắc chắn chúng sẽ tìm cách chạy trốn khỏi nhà, hoặc sẽ buồn tủi, khóc
nức nở, vào phòng đóng kín cửa, bật nhạc nghe để quên đi. Lánh nạn như vậy tạo
ra phản ứng tiêu cực, để lại vết hằn, mặc cảm trong tâm của trẻ con, khiến
chúng không thấy được mặt tích cực của đời sống vợ chồng. Qua hình ảnh bất hoà
của cha mẹ, chúng sẽ mặc cảm và sợ không tìm thấy được hạnh phúc trong đời sống
vợ chồng trên con đường mà chúng chuẩn bị bước vào. Những đứa bé chứng kiến
hình ảnh cha mẹ bất hoà, khi lớn lên thường bị bệnh trầm cảm và có thái độ dè
dặt khi tiếp xúc người khác.
Phụ huynh đừng để con mình phải thấy tình cảnh
bất hòa, từ cơn giận dữ của cha mẹ. Nên chấm dứt ngay những cơn giận dữ để
không tạo sự lây lan tâm lý tiêu cực đến con cái, người thân. Có thể chấm dứt
khổ đau bằng cách im lặng, đi ra sân vườn hít thở không khí trong lành, hoặc ra
bờ sông nhìn sự tĩnh lặng của sông nước.
Hãy nhìn thật sâu để có thể thấy bản chất của
nước có sự phẳng lặng, yên tĩnh và đẹp đẽ. Khi soi mặt mình dưới dòng nước, có
thể thấy bản chất thật của chính mình như thể đang soi mặt trong gương. Nếu con
sông đang có những cơn sóng lượn lên, lượn xuống nối tiếp hết cơn sóng này đến
cơn sóng khác thì người soi bóng không còn thấy được gương mặt của mình một
cách đầy đặn vì gợn sóng làm hình ảnh bị biến dạng. Tương tự, cơn sóng của khổ
đau đã làm cho gương mặt người bị méo, không còn tươi tắn nữa. Người bị giận dữ
chinh phục thì thái độ sẽ thay đổi, nhận thức không còn sáng suốt và hành động
chỉ để lại hối hận về sau. Do vậy, để gương mặt được thanh quang, phong cách
rạng rỡ, đừng bao giờ nuôi dưỡng cơn giận dữ. Nhìn chung, sự tránh duyên, đổi
đài hay lánh mặt trước những hoàn cảnh, con người, sự kiện, vấn đề không vui
vẫn có khả năng ngăn chặn cơn giận ở mức độ nào đó.
Tuy nhiên, nếu dừng ở phương pháp tránh duyên hay
lánh mặt, chạy trốn thì không phải là giải pháp lâu dài, vì nội kết sân hận
trong tâm vẫn tồn tại. Nếu không biết cách ngăn chặn thì đến một lúc thích hợp,
cơn giận dữ tiềm ẩn sẽ bộc phát với cường độ giận dữ lớn hơn, sẽ tàn phá mối
quan hệ lớn hơn gấp nhiều lần.
Chính vì thế, giải pháp hoãn binh hay đổi đài chỉ
là giải pháp tạm thời, mang tính hỗ trợ. Bởi vì, có những người sống trong quán
tính, thói quen sân si hoặc cách ứng xử đối đầu. Chẳng hạn, khi bị người khác
đánh một cái thì bằng mọi giá phải đánh lại cho người đó đau hơn, hoặc bị người
khác tát một cái, phải tát lại họ hai cái, bị chửi một câu thì phải mắng lại
hai câu. Tức là xử sự theo cách thế để người kia không còn dám dụng đến mình.
Cho nên, cách hoãn binh hay đổi đài chỉ là cách ẩn náu các phiền não, hay làm
lắng dịu các phiền não chứ chưa phải chuyển hoá phiền não một cách trọn vẹn.
Trong kho tàng văn học truyện cổ dân gian Trung
Hoa có câu chuyện nói về con chim khách và chim cú. Chim khách là loài chim có
tiếng hót hay, được mọi người yêu thích vì họ quan niệm như biểu tượng của hạnh
phúc, khiến người nghe âm thanh có thể sảng khoái tinh thần. Ngược lại, tiếng
hót loài chim cú bị người đời chán ghét, vì dân gian quan niệm tiếng kêu của loài chim này báo trước điềm bất hạnh, trong làng
hay trong nhà sẽ có người thân qua đời. Cho nên, mỗi khi nghe tiếng kêu của cú,
người ta thường dùng ná, cung tên hay súng để bắn hoặc tìm mọi cách giết nó,
hay tối thiểu cũng xua đuổi đi nơi khác. Khi chim cú bị đẩy vào tình thế không
còn lối thoát thì chúng phải tìm cách lánh khỏi ngôi làng có văn hoá mê tín, áp
đặt cho nó một cái danh xấu. Do đó, mạng sống của chim cú lệ thuộc vào quan
niệm mê tín của con người.
Một hôm, chim cú tìm đến nhà chim khách, nói:
“Tình cảm giữa hai chúng ta không có gì thay đổi, nhưng tôi phải chia tay chị,
vì không còn cách nào ở lại đây được nữa”. Nghe xong, chim khách liền hỏi rõ
nguyên nhân. Chim cú trả lời: “Bởi vì người ta ghét tôi, không thích tôi, thù
hận tôi. Thậm chí, có người muốn giết tôi khi nghe tôi cất tiếng hót, khi thấy
tôi có mặt trong làng. Do đó, bầu trời tuy lớn, mảnh đất tuy rộng nhưng tôi lại
không có nơi để an thân. Tôi không thể ở lại nơi này được nữa!” Chim khách nói:
“Mấu chốt vấn đề không nằm ở chỗ chị sống nơi này hay nơi khác. Thay vì di cư,
chị nên thay đổi tiếng hót để con người không còn cho chị là con vật báo hiệu
cái chết hoặc đem lại nỗi buồn, bất hạnh cho họ là được”.
Quả đúng vậy, nếu không biết thay đổi tình thế,
mà cứ chạy đến chỗ này hay chỗ kia thì sẽ giống tình trạng như người Việt Nam
thường nói, “Tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa”. Đôi khi, “vỏ dừa” mà người tỵ nạn gặp
phải sau khi thất bại trong sự đối đầu còn nguy hại hơn “vỏ dưa”. Do vậy, sự
chạy trốn hay tỵ nạn chỉ là giải pháp tạm thời.
Nên nhận thức bản chất của giận dữ và tìm cách
chặn đứng cơn giận dữ như chặn đứng dòng thác chảy, lũ lụt, hạn hán, lửa cháy…
Những hình ảnh này giúp hình dung đến sự hủy diệt, cảnh mất mát, khổ đau, không
mang lại giá trị hạnh phúc cho đời sống con người. Khi nhận ra được lợi và hại
của việc chuyển hoá lòng sân hận tạm thời và dứt điểm thì nên chuyển hóa, không
nên chạy trốn và cần có bản lĩnh giải quyết dứt điểm. Sớm hay muộn gì cũng phải
đối diện với nó. Bằng không, nó cũng biến dạng theo cách thức khác còn nguy
hiểm hơn.
HÀNH ĐỘNG TƯƠNG NHƯỢNG
Giải pháp khác có thể hóa giải sân hận là thái độ
tương nhượng. Giải pháp này yêu cầu người nỗ lực hoá giải sân hận phải có thái
độ nhường nhịn để tạo không gian bớt căng thẳng, dễ thở cho cả hai, tìm không
gian mới để cả hai cùng thiết lập lại mối quan hệ không khổ đau. Cần tạo ra
hiệp ước, dĩ nhiên là hiệp ước xã hội giữa hai người, hai đoàn thể, hai cộng
đồng hay hai quốc gia. Hiệp ước đó phải đặt trên trục xoay giá trị và lợi ích song
phương, hai bên đều được lợi lạc. Khi đã thiết lập được hiệp ước giá trị với
ranh giới của sự tương nhượng thì không nên hủy bỏ hiệp ước đó vì bất cứ lý do
nào.
Có rất nhiều cách tương nhượng. Ví dụ về cá tính
của con người, khi mới gặp đối phương có cá tính mạnh thì sự khác nhau về tính
tình trở thành áp lực, nếu làm ăn lâu dài sẽ là phản lực. Mâu thuẫn giằng xé
trong xúc cảm, đôi lúc không chấp nhận nhau. Người Việt Nam có câu, nói về tiêu
chí của mối quan hệ trên góc độ của sự tương nhượng rất hay: “tránh voi chẳng
hổ mặt nào”. Ở đây, voi hiểu như đại từ chỉ chung cho tất cả đối tác khó khăn,
gây rối, dễ giận dỗi, phiền hà, thích ức hiếp, lấn lướt đối tác…
Tránh người như vậy là một sự tương nhượng để có
giá trị hòa bình hay ít nhất không bị đổ vỡ. Do đó, không nên nghĩ thái độ ứng
xử đó là sự hổ thẹn. Làm thế nào để người ứng xử thấy được điều đó? Và quan
niệm giống vậy? Có lúc đối phương rất bực dọc, sân hận khi thấy ta biểu đạt, lý
luận, chứng minh, sống, làm việc và giải quyết vấn đề hoàn toàn khác họ. Lúc
đó, phiền não có thể xuất hiện một chiều. Tuy nhiên, theo nguyên tắc của sự
tương nhượng, người ứng xử không cho phép bất mãn, nổi nóng vì điều đó dễ biến
hai người thành chiều đối lập và phiền não gia tăng.
Khi nội kết trong đối tác xuất hiện, cố gắng nỗ
lực tháo gỡ để giới hạn trong phạm vi một chiều, rồi dần dần thuyết phục họ
tháo gỡ sự bế tắc. Không giữ nội kết trong tâm sẽ giúp đối phương khó tính đến
một lúc nào đó nhìn thấy được cách nói, ứng xử của họ không còn thích hợp. Do
vậy, phải chuyển hoá theo hướng tích cực. Nếu không khéo, con người sẽ tạo ra
rất nhiều mâu thuẫn với nhau, đặc biệt là người yêu quý, gần gũi nhất. Quan hệ
tình thân, tình thương càng nhiều thì sự chấp mắc càng lớn. Người ta có thể lý
luận, đây là chồng, vợ, con, em, người thân… của tôi nên họ không được làm
những chuyện như thế vì đã quá hiểu tôi. Trên thực tế, mặc dù có những khổ đau
diễn ra trong gia đình rất tình cờ, không hề được sắp xếp trước, hoặc do sự
hiểu lầm nhưng khi gán tính tác giả của nỗi đau vào người thân thì cảm xúc chấp
trước quan niệm họ là nạn nhân của bất hạnh. Gán tính tác giả việc xấu vào
người nào đó sẽ làm cho quan hệ an vui, hạnh phúc của người đó bị tan nát thành
từng mảnh vụn.
Do con người có thói quen chấp trước, cho rằng
người thân luôn mang lại khổ đau cho mình, tất cả niềm an vui hạnh phúc đã bị
người thân cướp mất, lúc đầu cơn giận dữ không đáng kể, nhưng lâu dài lại lớn
không thể tưởng tượng. Làm vậy là vô tình khiến người thân không còn thế đứng.
Giống như cây cầu gãy làm hai hoặc chiếc ly bể ra thành nhiều mảnh, hay chén
cơm vừa ăn đã bị nôn ra. Không buông được cảm xúc khổ đau sẽ gây nguy hiểm cho
sức khoẻ và hạnh phúc.
Nếu cách ứng xử tình người không còn nữa thì hạnh
phúc bị đổ vỡ, và khổ đau sẽ đồng hành với con người. Cho nên, giải pháp tương
nhượng là cách nương tựa nhau để tạo hạnh phúc và thiết lập giá trị tốt đẹp
trong đời!
Đừng cho mình là trung tâm của vũ trụ. Đừng lấy
mình làm hệ quy chiếu để nhận định, đánh giá người khác. Hãy quan niệm mình và
người có những vai trò khác nhau, mang tính mắt xích trong xã hội. Nếu các mắt
xích nối kết với nhau theo nguyên lý tương thuộc thì sẽ vận hành theo hướng tốt
đẹp cho cuộc đời. Ngược lại, nếu có điều gì đó được xem là nguyên nhân đầu
tiên, quyết định tất cả các giá trị còn lại thì khó có thể tránh khỏi tình
trạng độc đoán trong quan điểm và ứng xử.
Cho nên, sự tương nhượng là một nhu cầu cần thiết
để có những hòa ước giữa người với người. Nhờ vậy, cơn giận dữ không có điều
kiện khởi sinh và phát triển. Ứng xử theo nguyên tắc tương nhượng là cách nhìn
nhận, đánh giá và chấp nhận sự khác biệt đa dạng chứ không phải trở ngại. Dĩ
nhiên, sự khác biệt về cá tính có thể làm cho nhau phiền não. Nếu sự khác biệt
của mình làm người khác không thích thì đừng bắt buộc người khác làm, hoặc tệ
hơn nữa là biến mình thành trục đánh giá.
Tại sao người nữ gặp người nam lại thích và người
nam bị thu hút khi gặp người nữ? Sự khác nhau thường có tính hấp lực trong thời
gian đầu gặp gỡ. Chẳng hạn, người nói cười nhiều lại thích người im lặng. Lúc
đầu, hấp lực nhau nhưng về sau lại là áp lực, và về lâu dài không thể dung chứa
nhau được. Phải biết tìm cách nuôi dưỡng sự tích cực giữa hai cá thể với hai cá
tính khác biệt, như để bổ sung cho nhau. Quan niệm đa dạng là lợi lạc, phong
phú trong tương quan để cùng thăng hoa, hẳn sẽ làm thế giới đa nguyên nhưng lại
hợp tác vì lợi ích!
Nhà Phật dạy phát triển cách nhìn lạc quan là
nhìn sự khác biệt như sự bổ sung cho nhau. Nền văn hóa của nhiều sắc tộc được
tôn vinh khắp thế giới, vì nó thể hiện và giữ được những sắc thái riêng. Mấy
mươi năm trở lại đây, Liên Hợp Quốc kêu gọi tất cả các quốc gia cần phải duy
trì bản sắc dân tộc, truyền thống, tập quán của mỗi quốc gia, mỗi cộng đồng vì
sự giữ gìn đó góp phần tạo thành tổng thể giá trị văn hoá của thế giới con
người đa dạng và phong phú.
Nếu đánh mất các đặc trưng đó cũng như đánh mất
các hệ giá trị tinh thần và tâm linh. Không có giá trị văn hoá, đời sống trở
nên nghèo nàn, vô nghĩa. Cần giữ gìn những nét văn hoá đặc sắc của đất nước để
đất nước trở thành cái nôi của hạnh phúc và hãnh diện. Khi tiếp nhận nền văn
hoá theo cách thức vừa nêu thì những mặc cảm tự ti về dân tộc giữa con người sẽ
bị rơi rụng. Nhờ đó, có thể góp phần đem lại những nét đẹp cho đời!
Nếu quan niệm sự khác biệt về cá tính giữa mình
và người, cách tốt nhất là soi lại chính mình. Nếu hai người giống nhau 100%
cùng sống với nhau sẽ tạo thành sự nhàm chán, hoặc cạnh tranh như cây trong
rừng. Nhiều cây cùng chủng loại tạo thành rừng, nhưng có thể giành chỗ đứng của
nhau. Hai dòng nước gặp nhau có thể tạo thành lũ lụt. Hai ngọn lửa gặp nhau tạo
sự hủy diệt. Hai cây chạm nhau có thể có cây bị gãy…
Quan niệm Ngũ hành tương sinh và tương khắc của
người Trung Hoa cho sự giống nhau chưa chắc đã tốt, vì giành thế đứng của nhau
có thể dẫn đến sự loại trừ. Hai cây cùng tồn tại trên một mảnh đất sẽ có một
cây hấp thụ những chất phì nhiêu của đất nhiều hơn. Quan sát khu rừng, thấy
những cây rừng có đường kính, chiều cao và những chiếc lá giống nhau. Thực tế,
chúng hoàn toàn khác nhau về chiều kích, hình dáng, màu sắc và ngay cả giá trị
sử dụng, mặc dù được trồng cùng một giờ, một ngày.
Nhìn năm ngón của bàn tay, thấy ngón cái to, ngón
trỏ ngắn, ngón giữa dài nhất, ngón áp út dài nhì, ngón út nhỏ và dài hơn ngón
cái một chút. Bàn tay cũng có hình thù rất khác biệt, có bàn tay hình búp măng,
hình đốt xương sần sùi, có bàn tay dài, bàn tay ngắn. Không có bàn tay nào
giống bàn tay nào.
Hoa văn ở trên bàn tay, những đường tâm đạo, trí
đạo, mệnh đạo và các gò trong lòng bàn tay cũng hoàn toàn khác nhau giữa mọi
người. Sự khác biệt đó chính là cách thức tạo sự cá biệt của một bàn tay. Hãy
thử tưởng tượng, nếu năm ngón tay của một bàn tay đều bằng nhau thì trông dị
hợm vô cùng. Tương tự, đầu, mắt, mũi, tai, miệng, bàn chân, dáng đi… không có
người nào giống người nào. Chính nhờ sự khác biệt đó, mỗi cơ quan trong cơ thể
đóng một vai trò, chức năng khác nhau và làm cho bộ máy sự sống được vận hành
thích hợp, tạo ra sức khoẻ và tuổi thọ của con người.
Khi quan niệm, sự khác nhau chính là nhu cầu bổ
sung và làm đẹp cho nhau, sẽ phát huy được tính rộng lượng và kho- an dung. Tất
cả sự khác biệt không mang lại sự phiền não, căng thẳng, loại trừ. Nhờ quan
niệm vậy, không còn xem đối phương là cây gai để khỏi phải bị giận dữ thiêu đốt
không khí hòa nhã. Nhờ đó, con người có thể sống một cách hòa bình, mặc dù cá
tính một trời một vực. Phải biết chấp nhận cá tính của người khác. Thấy được
rằng, mỗi người đều có cá tính và sự vận hành riêng, bắt nguồn từ sự nhận thức,
dẫn đến cách ứng xử qua lời nói, việc làm có thể biểu đạt thói quen của mắt,
tai, miệng, mũi, thân xúc chạm và ý tưởng.
Hai người sinh ra cùng một giờ như những cặp song
sinh nhưng cá tánh khác nhau, đây là điều kiểm chứng được. Cho nên, đừng sống
với thái độ quá lý tưởng và mong muốn người sống chung phải hoàn toàn phù hợp
tính tình của mình. Nên tôn trọng người khác để có không gian và sắc thái riêng
bổ sung cho cái riêng của ta. Nên tạo cơ hội để người khác hoàn thiện nhân cách
của họ.
Có thể tạo dựng không khí tươi mát như những đoá
hoa trong một khu vườn đầy hoa thơm, cỏ lạ. Trong đó, mỗi đoá hoa là sự đóng
góp cho người đời chiêm ngưỡng và để mỗi người cảm nhận riêng về từng loại
hương sắc. Đừng nói rằng, tôi phải là hoa hồng còn người kia phải là hoa mười
giờ. Tất cả các loại hoa dù hoa hồng hay hoa dại cũng góp phần hỗ trợ cho vườn
hoa được nhiều sắc thái. Nếu không có những vùng tối trên một bức tranh thì sự
biểu đạt của vầng sáng hoàn toàn vô nghĩa. Sự tương phản trong hài hoà làm cho
bức tranh trở nên ấn tượng và có giá trị nghệ thuật!
Người am hiểu nghệ thuật sẽ không nỗ lực tạo ra
nhiều chi tiết cho bức tranh những nét đẹp. Nếu mọi thứ đều nổi bật thì không
có gì trở thành nổi bật trong bức tranh. Phải phối hợp tối sáng, lồi lõm, cao
thấp, trong ngoài… nhằm tạo ra tính tương phản bổ sung và làm đẹp cho nhau. Nếu
mọi chi tiết đều được làm đẹp thì tổng thể của cái đẹp đó không còn nổi bật
nữa. Đẹp chính là sự hài hoà. Phải có cái không đẹp để tạo cho cái đẹp được đẹp
hơn. Tối sẽ làm phương tiện cho ánh sáng nổi bật. Ánh sáng làm cho bóng tối
tăng giá trị. Giá trị của mọi đối lập và khác biệt chỉ mang tính tương đối,
biết cách sử dụng thì mọi thứ đều có giá trị!
KHÔNG LIÊN MINH VỚI GIẬN DỮ
Theo phương pháp không liên minh, người ứng xử
không nên đứng về phe nào để tạo tình huống cô lập cho người có vấn đề. Như
trong quan hệ gia đình, khi người vợ hận chồng vì tính không chung thuỷ hoặc bỏ
bê vợ con. Với tư cách là người mẹ muốn con đứng về phía mình để tấn công
chồng, bằng cách nói những điều xấu của cha cho con cái nghe. Ngược lại, có
những lúc người cha muốn đứa con đứng về phía mình cũng nói xấu về người mẹ,
đẩy người mẹ vào thế phiền não khổ đau. Sự thiết lập liên minh trong tình huống
này là một nỗi đau của nhiều gia đình.
Nếu bạn là người con bất hạnh trong gia đình đó
thì đừng nên liên minh về phía cha hoặc mẹ. Làm vậy, bạn sẽ phá vỡ đạo lý hiếu
thảo với hai đấng sinh thành, góp phần đổ dầu vào lửa, thiêu đốt hạnh phúc gia
đình.
Không liên minh với người khác trong cơn giận là
cách làm phiền não đã phát sinh không có cơ hội phát triển. Nếu hai người bất
hòa với nhau mà có người khác đứng về phía một trong hai thì người được liên
minh sẽ hãnh diện, tự hào và cho rằng mình có lý, người kia sai. Do vậy, sự
căng thẳng trong quan hệ đó sẽ có mặt. Phản ứng cực đoan trong tình trạng thiết
lập liên minh là đẩy người không có liên minh vào chân tường. Điều gì sẽ xảy ra
nếu tình huống đó xuất hiện? Dù không đoán trước được tất cả hậu quả xấu nhưng
vẫn có thể thừa hiểu sẽ chẳng dẫn đến tình trạng tốt đẹp cho cả ba bên, tức hai
đương sự và người liên minh.
Trở lại tình huống bất hạnh khi người vợ bị người
chồng không chung thủy bạc đãi. Do chịu quá nhiều khổ đau và mặc cảm, người vợ
với tư cách là mẹ, yêu cầu con đứng về phía mình và đối lập với cha. Nếu con
thương và đứng về phía mẹ thì đứa con đó trở thành bất hiếu với cha. Đứng về phía
mẹ thì mất lòng cha. Được bên này trong tư thế liên minh sẽ mất bên kia và
ngược lại. Dù tình trạng giữa vợ chồng ra sao đi nữa thì người vợ cũng không
nên buộc con liên minh với mình, để kháng cự cha. Cũng không nên ngăn cản các
con hiếu thảo hoặc thăm viếng cha (mẹ) của nó.
Hậu quả khác của cách thiết lập liên minh vừa nêu
còn tạo ra tâm lý nạn nhân ở những đứa con, đặc biệt là con gái. Khi liên minh
với mẹ, chỉ trích sai lầm của cha; lớn lên, người con gái không còn tin tưởng
sự chung thủy của bất cứ người đàn ông nào nữa, vì người cha cô thần tượng đã
bị sụp đổ qua ứng xử quá tồi tệ với mẹ. Nói cách khác, thiết lập liên minh để
tạo đối lập và trả thù chỉ là cách làm cho nỗi đau và cơn giận dữ được nuôi
lớn, vô tình tạo nên sự đổ vỡ. Những người con trong tình huống đó chỉ nên đóng
vai trò khách quan, để thấy được gốc rễ của sự bất hòa giữa cha và mẹ là lý do
gì. Từ đó, tìm cách tháo gỡ sự bất hoà đó.
Hãy đóng vai trò là người chữa lành các vết
thương khổ đau! Hãy là dòng nước tưới mát sự khô cằn ở cha và mẹ, để tình
thương yêu của song thân tái tạo lại sức sống! Nếu làm người hoà giải không
thành thì cũng đừng làm cho mâu thuẫn trở nên nghiêm trọng. Người không liên
minh nên làm công việc của người hòa giải hơn là công việc của người trọng tài.
Do đó, đừng tạo ra thế đối lập giữa mình với hai đối tác đang gặp trục trặc. Vì
làm thế, phức tạp càng gia tăng nhiều hơn nữa.
Đừng bao giờ liên minh với khổ đau, nỗi bất hòa
vì đó không phải là giải pháp. Liên minh với một đối tác nào đó trong quan hệ
bất hoà là đẩy người còn lại vào chân tường. Nghĩa là, người bị cô lập trong
tình huống này sẽ không còn đường hướng về tình thương, hạnh phúc, đoàn kết và
hóa giải.
Cần phải phản quan lại bản thân xem tất cả sự đổ
vỡ trong quá khứ có bắt nguồn từ sân hận nào, nguồn gốc của những bất hoà và đỗ
vỡ do đâu, có phải do chính ta tạo ra, nó có tạo ra theo cách buộc người khác
phải liên minh? Giữ vai trò khách quan để giải quyết mối bất hòa mà lại có
thiện cảm đối tượng này và ác cảm đối tượng kia là đã quên đi vai trò trung gian,
vô tình đẩy mối quan hệ đổ vỡ xuống vực thẳm. Nếu xác định trong quá khứ từng
có những cách ứng xử sai lầm thì hiện tại cần phải quyết tâm khắc phục, chuyển
hóa hoàn toàn tốt đẹp ở hiện tại và trong tương lai.
Cho nên, không liên minh với cơn giận là cách trị
liệu làm cơn sân hận không thể xảy ra. Nếu có diễn ra cũng không ảnh hưởng đến
người liên hệ. Đứng phía người chồng, vợ, cha, mẹ hay bất kỳ phía nào cũng đều
biến người còn lại thành kẻ thù. Trong khi đó, người cha, mẹ, vợ, chồng cũng
đều là những người thân, không thể làm cho họ đau khổ.
Người đang sống trong trạng thái sân hận không
thể nói “tôi cóc cần” hay “tôi không sợ gì cả”. Cũng đừng nói những câu mang
tính thách đố như, “Nếu ông (bà) muốn ra tòa thì ra, muốn ly dị thì ly dị, muốn
tới đâu thì tới đó...” Những thách đố như thế dù không phát xuất từ lòng
cay độc, mà chỉ do vì tự ái, sĩ diện nhưng trở thành “Giận quá mất khôn”. Càng
ứng xử theo thái độ “bất cần” càng tạo ra liên minh khổ đau và phiền não. Do
vậy, cần phải sáng suốt để vô hiệu hoá các liên minh trong cơn đau, nỗi buồn.
Chỉ có hoá giải, không phải liên minh phe này hay phe nọ mới có thể mang lại
hạnh phúc cho người đang khổ đau, hoà hợp những người bị chia rẽ, kết nối tình
thân thương cho những người vốn thù nhau.
Đây là phương pháp được đức Phật dạy trong
kinh Bốn Mươi Hai Chương. Đức Phật là người
đầu tiên quan niệm khổ đau do phiền não gây ra, như món quà “bất đắc dĩ” người
khác cố tình “tặng” cho bất kỳ ai đó. Dĩ nhiên, quà này chỉ là một trái bom
được cài đặt vào những gì con người không thích bị mất mát, tàn phá. Nếu tôn
thờ, nó sẽ làm cho thân phận con người nổ tung thành từng mảnh.
Có những mối quan hệ bị đối phương đẩy mình vào
chân tường khiến không còn chỗ đứng. Những tiếp xúc làm cho người ta chìm sâu
vào mặc cảm tự ti. Người ta có thể trút cơn giận qua lời nói, hành động, việc
làm, khiến người khác không còn thấy giá trị tích cực của cuộc đời, họ chán
ngán phải thốt lên, “Nhân tình thế thái!” Một trong những tình huống liên hệ
đến sự chán nản nhân tình và không muốn sống kiếp người nữa, Hoàng Trung Thông
đã thốt lên hai câu thơ hoàn toàn bế tắc:
“Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo”.
Có thể, quan hệ giữa nhà thơ và người thân đã bị
khổ đau tàn phá quá nhiều, ý thức sự sống không còn giá trị, đến độ không muốn
sống làm người nữa. Nỗi đau hiện tại nhiều quá làm con người muốn chối từ kiếp
sau, kiếp mà nếu tiếp tục làm người có lẽ sẽ khổ đau nhiều hơn. Cái nhìn định
mệnh tiêu cực này đã tạo ra nhiều oan trái cho cuộc đời. Thân phận con người là
quý giá nhất! Ấy thế, do vì bế tắc trong quan hệ, có người chỉ muốn làm cây
thông đứng reo trước gió. Biết đâu như vậy còn tạo cơ hội giúp hoạ sĩ vẽ nên
một bức tranh, tạo cảnh cho thi sĩ làm một bài thơ tình tứ còn hơn là làm
người.
Bất mãn cuộc sống do niềm đau gây ra, con người
trở nên ngông cuồng và bất chấp tất cả. Hậu quả để lại lớn nhất của quan niệm
này là giết chết bản lĩnh, niềm tin về giá trị cuộc sống ở hiện tại và tương
lai. Thà làm cây thông có chức năng lộng gió còn hơn làm con người vô dụng trên
đời. Chịu đựng trong uất ức và oán hận làm con người biến dạng tâm lý, không
thiết tưởng đến bất kỳ điều gì đang diễn ra. Đó là thái độ rất tiêu cực.
Sự lận đận giữa ta và người khác giống như một
mắt mía bị sâu ăn, hay một lỗ trống của căn nhà, cái hang chuột, ổ gà... Đừng
vì sợ ổ gà mà cho cuộc đời này toàn là vực sâu. Đừng vì một viên đá lõm mà cho
thế giới toàn là núi đá phiền não. Trong khổ đau, quan niệm cường điệu hóa tạo
cho vấn đề trở nên phức tạp, lẽ ra không nên quan trọng hoá. Phải bình thường
hoá mọi thứ để không có cái gì có thể làm nản lòng nhà hành trì tâm linh.
Trong cuộc đời có biết bao niềm vui, nỗi buồn
chất chồng lên nhau như ánh sáng và bóng tối, ngày và đêm, lòng bàn tay và mu
bàn tay. Xuất hiện rồi biến mất, biến mất để được xuất hiện. Không biết cách
chuyển hoá thì việc nhỏ hoá to. Biết cách chuyển hoá thì việc nghiêm trọng trở
nên bình thường. Chỉ cần đừng đánh mất niềm tin trong cuộc sống!
XEM NGHỊCH CẢNH NHƯ MÓN QUÀ
Khi đức Phật còn tại thế, uy đức của Ngài rất
lớn, đến độ người ta nói Ngài là người của nhân từ, tình thương bao la, rộng
lượng và tha thứ. Có người khi nghe đến oai đức của Ngài, cảm thấy bị tổn
thương vì nghĩ họ là số một nhưng lại không nhận được sự tôn kính ở người khác
như đức Phật. Khi lòng ganh tị xuất hiện, con người có thể làm việc xấu để thoả
mãn cơn giận dữ.
Có ông Bà-la-môn ganh tị trước những thành tựu
của đức Phật, ông vô cùng bực tức, nên đến mắng nhiếc và nhục mạ Ngài. Thấy đức
Phật thản nhiên, không phiền não, ông liền kê miệng sát vào tai Ngài hét lớn
nhưng đức Phật vẫn ngồi yên, không phản ứng. Ông nói cay cú để chọc tức: “Tôi
biết rồi, Ông là người điếc nên không nghe tôi chửi rủa Ông chứ gì”. Ông ta nói
bằng nhiều cách, khiêu khích. Đức Phật vẫn điềm nhiên như không có chuyện gì
xảy ra. Thái độ im lặng của đức Phật làm ông ta mất hứng.
Cũng vậy, khi ai đó tạo phiền não, sân hận với
mình thì sự trả đũa sẽ làm cơn sân hận đang cháy như ngọn lửa được đổ thêm dầu,
phiền não càng cháy nhiều hơn. Do đó, phải tìm cách để đối phương không có dịp
đổ thêm dầu vào lửa. Thái độ thản nhiên của người bị khiêu khích sẽ chuyển hóa
người sân hận gây chuyện. Khi nắm tay lại và đấm vào không gian, cú đấm đó vô
nghĩa vì không có đối tượng. Nếu đấm vào bao cát, trái banh, thậm chí vào
tường… mỗi cú đấm đều có một lực phản. Còn khi đấm vào không gian, lực phản
không có mặt thì người đấm không còn hứng thú để tiếp tục đấm nữa.
Mục đích của phương pháp không nhận món quà phiền
não hành động sân hận của người gây hấn bị mất hứng vì không có phản lực đối
lập lại. Cú đấm ở đây có thể hiểu là lời nói tục tĩu, thị phi, chọc tức người
làm những việc nhân từ, những việc tốt phục vụ cộng đồng và xã hội... Tương tự
cú đấm vào không gian không có sự phản hồi, các hành động nhục mạ của kẻ sân
nếu không gặp lực phản hồi sẽ nguội lạnh. Cảm xúc mất hứng của người sân không
gặp phản lực sẽ cảm thấy bản ngã được thoả mãn nên không tạo thêm nghiệp sân
nữa.
Khi ông Bà-la-môn mất hứng, đức Phật mới hỏi:
“Khi gia đình ông tổ chức sinh nhật, bạn bè ông mang quà đến tặng. Nếu không có
nhu cầu thì ông sẽ ứng xử trước những phần quà đó như thế nào?” Người Bà-la-môn
nói: “Nếu tôi không tha thiết nhận quà thì người tặng quà không còn cách nào
khác hơn là mang về”. Đức Phật đáp: “Tương tự, ông đã mang rất nhiều quà tặng
cho Như Lai, là quà sân hận, bực tức, giận dữ, phiền não. Như Lai không có chỗ
để chứa những phần quà này. Nhà của Như Lai đã có tất cả đầy đủ vật dụng của
đạo đức và lòng từ bi. Xin cảm phiền ông hãy mang các món quà đó về”.
Lời nói của đức Phật đã làm cho Bà-la-môn thức
tỉnh. Có người nhận định, đức Phật đã trả đũa một cách thâm thúy. Nếu trả lời
bằng những lời bực tức, người kia sẽ không đau nên Ngài nói bằng lời nhân từ có
móc câu sẽ làm ông Bà-la- môn đau đớn nhiều hơn. Hiểu vậy là lý giải sai. Vì
giá trị lời nói ngoài biểu đạt của cách dùng từ còn chịu ảnh hưởng ngữ điệu và
cách phát âm.
Cũng một lời nói mà ngữ điệu có âm sắc của lòng
nhân từ, độ lượng, tha thứ, hỷ xả và vô chấp thì không thể xem là cái móc câu.
Như Lai không bao giờ phát ngôn để trả đũa. Ngài từng tuyên bố: “Ta không tranh
chấp với đời, chỉ đời tranh chấp với Ta”. Nhờ lời nói vô chấp và nhân từ mà
hành động sân hận của người nhục mạ đã được chuyển hoá. Nếu lời nói có ngữ điệu
của sự sân hận và trả đũa thì chắc chắn không thể đóng vai trò chuyển hoá được.
Trường hợp dụng ngữ và thái độ sắc âm của đức Phật mang chất liệu của lòng từ
bi nên có tác dụng thay đổi tâm kẻ xấu.
Cùng một câu hỏi nhưng nếu ba người có cá tính
khác nhau thì sự biểu đạt nội dung ẩn ý bên trong cũng khác biệt. Thí dụ, trong
văn hoá giao tiếp người Anh, khi gặp người quen thường dùng câu hỏi: “How are
you?” (có nghĩa là ông/ bà/ anh/ chị… khỏe không?). Trong văn hoá giao tiếp,
người hỏi câu này không có dụng ý muốn lắng nghe người được quan tâm kể lể về
sức khoẻ kiểu, “ngày hôm qua tôi bị xe đụng” hay “hôm nay tôi bị nhức đầu”… Mà
câu hỏi chỉ đơn thuần là một câu xã giao, biểu đạt mối quan hệ tình người,
không hẳn mang thông điệp của sự quan tâm đối với người được hỏi. Đây là đặc
trưng giao tiếp của phương Tây.
Cũng câu hỏi “Ông khỏe không?” Nếu người hỏi nhấn
mạnh ngữ điệu bằng cách vểnh môi thì là lời trêu chọc rằng, ông bệnh là đáng
đời lắm chứ không phải lời thăm hỏi. Nếu câu hỏi được phát ra với ngữ điệu biểu
đạt nhẹ nhàng thì là sự quan tâm thật sự. Trường hợp này ẩn chứa quan niệm nỗi
đau của người được hỏi như nỗi đau của người hỏi vì người hỏi thấy cần có sự an
ủi và chia sẻ.
Tình huống xã giao thì câu hỏi chỉ được dùng để
hỏi và người hỏi không hề chờ đợi bất kỳ sự giải thích nào về tình trạng sức
khoẻ. Gặp nhau thì hỏi vậy thôi. Đôi khi, câu hỏi chưa dứt lời, người hỏi đã đi
mất. Nói cách khác, câu hỏi trong ngôn ngữ giao tế chỉ có chức năng ngoại giao,
không đặt tình cảm đồng tình hay phản đối, thân hay sơ, quan tâm hay mặc kệ,
chia sẻ hay nói móc…
Như vậy, cũng câu nói nhưng nếu biểu đạt bằng ba
ngữ điệu khác nhau thì có thông điệp giá trị, dụng ý khác nhau. Đức Phật khi
dùng khái niệm, “Tôi không nhận quà của anh, tôi không nhận quà của sân hận,
phiền não, bực dọc” tức là Ngài muốn nói tại sao lại tặng những phần quà khổ
đau và buộc người khác phải nhận. Có thể bất đồng với quan điểm này hoặc quan
điểm kia nhưng tôn trọng nhau về cá tính, những cái mà người có, mình không có.
Không hợp nhau cũng nên hoà hợp. Nói theo Tổ Huệ Năng, nếu không hợp thì hãy
chắp tay chào nhau trong hoan hỷ. Tại sao phải tạo những cây gai để không thể
đến gần nhau? Cần gì phải khoác vào thân những chiếc áo giáp mà lẽ ra chỉ cần
thân thiện, dang tay ôm lấy người khác. Tại sao phải cần đến vũ khí thay vì có
thể bắt tay, chào nhau trong thân thiện, hòa bình và hạnh phúc!?
Trở lại câu chuyện đức Phật. Lời nói của Ngài
mang chất liệu của tình thương, tỉnh thức làm cho Bà-la-môn suy nghĩ lại. Tại
sao mình phải nói những lời cộc cằn với bậc nhân từ, người mang tình thương đến
với nhiều người. Lẽ ra phải tán dương và kính ngưỡng bậc nhân từ ấy, phải tuỳ
hỷ với những thành công của Bậc Đại Giác, người xiển dương các giá trị đạo đức.
Cho nên, sau câu nói của đức Phật, vị Bà-la-môn chẳng những không giận dữ mà
còn phát nguyện trở thành đệ tử của Ngài.
Nên quan niệm, phiền não sân hận như những phần
quà không cần mà đến. Nhờ đó, sự bực tức không cơ hội phát triển. Hãy quan
niệm, tất cả những điều xấu xảy ra trong cuộc đời này chỉ đơn thuần là những
phần quà mà mình không cần đến. Vì không có chỗ chứa thì nỗi đau không có mặt.
Trong nhận thức và lý tưởng phục vụ, người dấn thân
không nên mang vác
các loại quà sân si của người xấu, ác trên lưng, lại càng không nên vác theo
trong trí não và cũng không nên để nó ám ảnh. Thói quen nghĩ mình là nạn nhân
sẽ làm cho vấn đề trở nên nghiêm trọng. Bỏ thói quen quan trọng hoá vấn đề thì
mọi việc sẽ chẳng hề hấn. Nhờ quan niệm, tất cả những chướng ngại và phiền não
như phần quà, hành giả có thể vứt những khổ đau ra ngoài tâm thức, hoặc quăng
chúng vào sọt rác. Không nên dung chứa những thứ không cần thiết vào cuộc đời.
Khi quan niệm lời xấu, ác là quà tặng, người ứng
xử thông minh sẽ có cảm giác thương người sân si. Bởi vì, khi người sân ấy chịu
mang quà đến là họ đã có tấm lòng với mình rồi. Không phiền não đối với người
xấu, không quan tâm về những gì khó chịu. Nhờ ứng xử vậy, các phiền não giữa
mình với người được chặn đứng, ít nhất là về phương diện hành trì. Nếu sáng
suốt, nên rộng lượng, bao dung, hỷ xả về những gì người xấu mang lại cho mình.
Làm thế, có thể đối phương cảm thấy tức tối và phiền não nhiều hơn vì lầm nghĩ
mình thâm hiểm hay khinh thường họ. Đừng ngại điều đó, mọi việc sẽ được phơi
bày trước ánh sáng chân lý! Nếu tâm trong sáng thì không có gì phải bận lòng.
Trong mọi tình huống, người hành trì sẽ không nối
kết phiền não với bất kỳ ai. Nếu nội kết hay phiền não được thiết lập thì nó
chỉ được thiết lập một chiều ở người cố gây chuyện, người tạo phiền não, giận
dữ chứ không thể tồn tại trong tâm, nhận thức, thái độ ứng xử của hành giả. Đến
một lúc nào đó, nội kết một chiều sẽ bị mất dạng.
Hoạt động của phiền não thường diễn ra giống cái
mâu và thuẫn. Nếu đóng vai trò cái mâu thì đối phương trở thành cái thuẫn và
ngược lại. Đó là chưa nói đến tình trạng liên minh. Hễ có một cái mâu thì sẽ có
mặt nhiều cái mâu khác, đã có một cái thuẫn thì sẽ có nhiều cái thuẫn khác. Một
tiếng vỗ tay sẽ kéo theo nhiều tiếng vỗ tay khác. Một tiếng cổ vũ sẽ tạo thêm
nhiều tiếng hòa đồng. Cơn sóng sau sẽ đẩy những cơn sóng trước. Cắt đứt phản
ứng sân hận bằng sự chuyển hoá thì sự sân hận sẽ kết thúc!
Nếu biết ứng dụng thích hợp các phương pháp trị
liệu lòng sân vừa nêu, thì giá trị an vui có mặt. Áp dụng một, hai, ba phương
pháp cùng lúc chúng có thể hỗ tương cho nhau. Phải hoá giải cơn sân để tháo gỡ
mối bất hòa. Có thể thiết lập lại sự truyền thông và tình thân, hàn gắn lại
những gì đã đổ vỡ, dựng lại những gì đã ngã xuống, lật ngửa những gì bị nằm úp,
mang ánh sáng vào trong bóng tối… Từ đó, thiết lập niềm an vui, hạnh phúc cho
chính bản thân và người khác. Giá trị của hạnh phúc chính là biết sống giữa cuộc
đời chứ không phải những chấp trước, bám víu vào những phiền muộn do chính mình
hoặc người gây ra.
BUÔNG XẢ CHO LÒNG THANH THẢN
Câu chuyện có thật về người vợ thương yêu chồng.
Hai người rất chung thủy. Mỗi ngày, hai người cùng dắt tay nhau đi trên từng
con đường dù gia cảnh rất nghèo khó. Hạnh phúc đó làm nhiều người phải thèm
khát. Ngày chồng chết, vợ khóc rất nhiều và làm đám tang theo tinh thần Phật
giáo. Cúng dường tuần thứ nhất, thứ hai và chuẩn bị đến lần thứ bảy thì chuyện
bất hạnh diễn ra. Bà phát hiện được quyển nhật ký ghi lại những cuộc tình, đại
từ xưng hô để trống. Bà rất sung sướng, hạnh phúc và thầm nghĩ: “Trời ơi! Hồi
nào giờ ông thương mình cỡ này mà không chịu nói, mình vẫn cảm nhận được nhưng
không nói ra. Có lẽ, nếu ông nói ra thì mình thương gấp hai, gấp ba lần vậy
nữa!” Nhưng đến trang cuối cùng, bà ta hoàn toàn bất mãn và thất vọng vì nội
dung ghi: “Em ơi! Hôm nay anh không đến được vì bà mụ vợ già của anh cản quá
nên anh không thể đến với em được!”
Sụp đổ thần tượng, khổ đau xuất hiện, ngày hôm
sau là đúng 49 ngày của chồng nhưng bà đã đập tan nát bàn thờ, hình của ông bị
bỏ vào lò lửa. Kết quả của cơn sân hận đẩy bà lâm vào cơn bệnh suy tim trầm
trọng. Như vậy, kiến thức về một thực tại bất mãn có thể làm cho con người khổ
đau cùng cực! Sự khổ đau có thể được phóng thích bằng bạo động và tạo ra cường
lực đổ nát rất lớn.
Trong những tình huống như vậy, phải bình tâm suy
xét thì mới dễ dàng tha thứ được. Rất khó, nhưng theo tinh thần của đức Phật
dạy, phải tri túc, tức là biết đủ. Nếu đem phân tích trên bình diện hạnh phúc
về đời sống hôn nhân như trong trường hợp của bà thì hạnh phúc bà có được với
chồng tối thiểu là 80%, 20% cho cô gái khác
thì đâu bao nhiêu. Mỗi lần ông đi phải lén lút, phải giấu giếm nhưng về nhà ông
vẫn lo tròn trách nhiệm. Dĩ nhiên, điều đó sai với đạo đức, trái với tinh thần
chung thủy nhưng nếu so sánh thì bà vẫn được phần hơn. Vì vậy, khi phát hiện ra
điều không đẹp, có thể tạm quên đi, đừng đẩy chồng về phía người kia. Vì rất có
thể người kia sẽ cướp đoạt luôn. Cũng rất may, người chồng của bà đã chết, nếu
không khi bùng nổ ra thì bà sẽ mất chồng. Chắc gì cuộc đời có nhiều cặp vợ
chồng được hạnh phúc như bà.
Câu chuyện trên cho thấy, tất cả những người nam
cần phải ý thức về điều đó, đừng cho vợ nổi cơn tam bành, lục tặc trở thành “sư
tử Hà Đông” thì rất nguy hiểm! Nguyễn Du từng nói, “ghen tuông thì cũng người
ta thường tình”. Đó là một hiện tượng tâm lý. Nếu cường lực bất mãn quá mạnh sẽ
làm đổ nát hết cả hạnh phúc đã có trong quá khứ. Chuyện không chung thủy của
ông chồng chỉ diễn ra trong những năm cuối đời. Còn mấy chục năm trước, ông
chung thủy, tại sao bà ta không nhớ, không cảm nhận bầu trời hạnh phúc đó mà
chỉ thấy gai góc của những năm cuối, để rồi đánh đổ hết tất cả hoa hồng của quá
khứ, đó là thái độ ứng xử không nên có.
Phật giáo dạy, hãy biết tha thứ! Nếu phát hiện
người tình không chân chính thì tha thứ để họ có cơ hội quay về. Thái độ khôn
ngoan của người bị nạn sẽ làm người kia hối hận và dễ dàng trở về con đường
chân chính, bằng không, họ có thể tìm cơ hội đi luôn và vĩnh viễn người ở lại
bị thiệt thòi.
Câu chuyện của Bill Clinton với Monica và vợ là
bài học cần ghi nhớ. Vợ của cựu Tổng thống Bill Clinton là người đàn bà rất
rộng lượng, biết chịu đựng trước bao nhiêu mũi dùi của thông tin báo chí, thông
tin điện ảnh nhắm vào chồng mình. Nếu như Nicolas Kidman khi nói về Tom Cruise
là bà ta đưa đơn ly dị ngay. Nhưng, vợ của Tổng thống Bill Clin- ton khôn ngoan
hơn, bà không đứng về phía báo chí, những người hại Bill Clinton mà đứng về
phía chồng vì chắc chắn rằng ông Bill Clinton sẽ hối hận nhiều hơn, sẽ thừa
nhận sai lầm trước báo chí, đài, trước cả thế giới. Sự tha thứ của vợ trong
trường hợp này sẽ làm ông hạnh phúc nhiều hơn. Ông ta sẽ tin tưởng vợ hơn bất
cứ ai trên đời. Cho nên, bất mãn là vũ khí nguy hiểm, đồng thời cũng là liều
thuốc trị liệu. Thái độ ứng xử trong bất mãn sẽ tạo ra hoặc là sự xây dựng hoặc
là đổ nát. Dĩ nhiên, người con Phật sẽ chọn xây dựng chứ không bao giờ đặt sự
đổ nát lên trên, bởi vì, mình và người ta sẽ trở thành nạn nhân của nhau vĩnh
viễn!
Đức Phật đề cập đến tình huống “người dễ nói”
theo chiều hướng họ đã chuyển hóa được lòng sân ở mức độ nhất định nào đó nên
rất dễ thương, dễ mến, gần gũi, kính, tiếp xúc và dễ học hỏi. Trong tình huống
một vị xuất gia có đầy đủ nhu yếu phẩm do đàn na tín thí cúng như y áo, thực
phẩm, phương tiện sinh hoạt, dược phẩm trị liệu nên thấy vị tu sĩ đó không cau
có. Nhưng đừng dựa vào những yếu tố biểu hiện bên ngoài mà xác định người đó đã
có được những tiến triển về tâm linh trong tu tập.
Theo đức Phật, một hành giả dù là xuất gia hay
tại gia không đầy đủ bốn nhu cầu vật dụng, lâm vào hoàn cảnh khó khăn nhưng
trong tình huống khó chịu, bức bách ấy mà họ vẫn không khởi lên lòng sân từ
trong chiều sâu của tâm thức thì mới có chiều sâu tâm linh. Nhiều người sẵn
sàng tha thứ người khác khi họ thành công tuyệt đỉnh nhưng lại không thể bỏ qua
một lỗi lầm nhỏ khi họ rơi vào tình thế khổ đau. “Bần cùng đa oán” là trạng
thái tâm lý thông thường. Nghèo khó, thiếu thốn tạo ra căng thẳng tâm lý nên dễ
oán trách cuộc đời. Khoảng 20 năm về trước, Việt Nam còn nghèo, phần lớn phương
tiện di chuyển bằng xe đạp, nhiều người đi bộ. Mỗi khi có thầy nào chạy chiếc
xe đạp mới, vượt qua chiếc xe xích lô nào đó đã bị nghe những lời chửi bới
khiếm nhã như “thầy chùa mà cũng bày đặt chưng diện”.
Người nghèo khó có nhiều nỗi niềm bức xúc, chỉ
cần một duyên xúc tác nhỏ với người chưa hết lòng sân là họ thổ lộ sự cau có ra
bên ngoài. Khi tâm bị ức chế hay quá căng thẳng rất dễ nổi cáu mà với người
bình thường thì chẳng đáng vào đâu. Thấy được điều này, có thể khắc chế lòng
sân thành công. Biết người khác đang rơi vào tình trạng “bần cùng đa oán”, đừng
tạo cơ hội cho họ oán trách cuộc đời thêm nữa. Bởi vì, thói quen oán trách đó
có thể làm họ mất tâm tùy hỷ với sự thành công của người khác, từ đó, nỗi khổ
niềm đau sẽ gia tăng.
Theo đức Phật, người được gọi là “người dễ nói”
là người ứng xử trước sau như một. Trong hoàn cảnh thuận hay nghịch, tâm họ
không chao đảo trước những lời nhục mạ, thị phi, phê bình do người khác cố ý
tạo ra.
Đức Phật dạy năm tiêu chí khắc phục lòng sân như
sau:
Thứ nhất, chọn thời điểm thích hợp. Nếu phát biểu
quan điểm để tháo gỡ sự hiểu lầm trong giao tế nên phát ngôn đúng thời thì mới
có kết quả. Nói đúng thời điểm là người nghe cảm thấy thoải mái và nhẹ nhàng
đón nhận. Lúc thời cơ tốt, chia sẻ vấn đề có nghệ thuật thì lời góp ý sẽ được
tiếp nhận.
Thứ hai, sự chân thật và lòng chân thành. Người
phát ngôn cần nói bằng ngôn ngữ của con tim với nội dung và lời lẽ chân thật,
không thêm thắt sự kiện. Sự kiện diễn ra như thế nào thì mô tả như vậy, đừng để
dòng cảm xúc biến thiên lên xuống theo sự kiện. Sự chân thành làm sự thật phơi
bày mà không chạm đến lòng tự ái của người nghe.
Thứ ba, sử dụng lời nói nhu nhuyễn. Khái niệm nhu
nhuyễn được đức Phật lấy từ hình ảnh vải lụa Kali ở vùng Vanarasi, địa danh nổi
tiếng nhất về lụa tại Ấn Độ thời cổ đại. Bề mặt của vải lụa rất mịn màng làm
cho người mặc có cảm giác thoải mái, dễ chịu trong mọi mùa. Mặt khác, vải lụa
còn có giá trị làm trang sức, tăng thêm sự sang trọng cho người mặc (người đẹp
vì lụa). Phải dùng ngôn ngữ nhu nhuyễn giống như lụa, ngữ điệu hòa nhã, dễ
chịu, êm ái. Tuy nhiên, đừng lạm dụng trong những tình huống không cần thiết.
Thứ tư, nội dung và sự kiện có ích. Trình bày quá
nhiều sự kiện sẽ làm người nghe chán ngán. Đề cập quá nhiều điều cùng một lúc
làm người nghe thoái thất tâm Bồ đề, nản lòng thối chí, bối rối, chán chường,
yếm thế và rút lui. Người khôn ngoan muốn đặt giá trị lợi ích lên trên các mối
quan hệ giao tế thì sự hiểu biết, cảm thông, xây dựng là những yêu cầu không
thể thiếu. Trong đối thoại, chỉ đề cập đến những gì thật sự có lợi ích nhằm
giúp cho người nghe có những thay đổi tích cực.
Thứ năm, nói với tâm từ bi. Đây là tiêu chí nền
tảng và quan trọng nhất so với bốn tiêu chí vừa nêu. Khi có lòng từ bi, sẽ nói
đúng thời điểm cần thiết, lời nói chân thật, không tô hồng bôi đen, ngôn ngữ
diễn đạt mang tính nhu nhuyễn và nội dung trao đổi luôn có nhiều giá trị lợi
ích, hoàn toàn không gây tác hại cho người nghe.
Ứng dụng năm tiêu chí trên vào các mối quan hệ
thì làm giảm bớt sự căng thẳng của lòng sân, nỗi khổ niềm đau và chắc chắn sẽ
thành công trong cuộc sống. Hành giả hãy tâm niệm và học tập cách giữ tâm,
không để tâm bị biến nhiễm từ trạng thái an vui hạnh phúc trở nên sân hận khổ đau,
đừng nói những lời nói khó nghe, gây chia rẽ, hận thù, đổ nát… Mà phải nói và
sống với tâm từ bi.
Để thực tập chuyển hóa lòng sân hận, có thể chọn
đối tượng được xem là người khó thương, khó ưa nhất đối với bản thân hay người
đã gây cho mình nỗi khổ niềm đau nhiều nhất. Nếu thực tập thành công thì không
có chuyện khó nào trong cuộc đời mà không làm được. Thực tập trải rộng tâm từ
bi lên đối tượng khó ưa nhất. Sau đó, thực tập mở rộng tâm từ bi đến muôn loài
và mọi vật.
Thực tập lòng từ bi theo mô hình ngược là thực
tập sống chung với đối tượng dễ ghét trước, sau đó mới tới người dễ thương là
nhằm nhắm vào bản chất cái gút của lòng sân. Khi cái gút của lòng sân được giải
quyết thì mọi thứ sẽ được chuyển hoá. Cách thực tập này giúp ý thức và biết tôn
trọng dòng cảm xúc, thoát khỏi nỗi khổ niềm đau. Phải thấy mấu chốt của tất cả
mâu thuẫn và đổ vỡ trong cuộc đời phải được chuyển hóa ngay chính đối tượng tạo
ra sự mâu thuẫn đó, chứ không phải đối tượng khác. Mượn đối tượng khác để thay
thế là cách đào tẩu, bế tắc, không phải giải pháp tốt. Sự đào tẩu chỉ có giá
trị tạm thời. Muốn tháo gỡ lòng sân lâu dài và dứt điểm thì gút mắc xuất hiện
lòng sân với ai, phải tháo gỡ với người đó.
NĂM ẢNH DỤ CHUYỂN HÓA SÂN HẬN
Trong kinh Pali, đức Phật nêu ra các ảnh dụ nhằm giúp
hành giả quán niệm và tu tập chuyển hóa lòng sân hận. Trong các tình huống phải
đối diện hay chứng kiến cảnh thương tâm, đau lòng thì hành giả không nên để cho
sự sân hận chiếm ngự dòng cảm xúc.
Ảnh dụ cầm vũ khí phá hoại mặt đất. Ví như có người
ác ý cầm cây xẻng hay lưỡi liềm nói, sẽ làm cho đại địa này không còn là đất
nữa. Nói xong, anh ta đào bới và dùng chất nổ phá tung, làm cho mặt đất không
còn bằng phẳng, chỗ lồi chỗ lõm. Tàn phá mặt đất xong, anh ta phỉ nhổ nước
miếng, tiểu tiện lên mặt đất. Lúc ấy, anh ta ngây ngô nghĩ làm vậy thì mặt đất
không còn là mặt đất nữa. Trên thực tế, tình huống và cách thức ứng
xử này chỉ làm người sân hận mệt nhoài và có thể bị bệnh tâm thần chứ không
giải quyết được gì. Giải quyết theo thói quen đạp đổ, tàn phá chỉ làm vấn đề
trở nên rối rắm. Đối tượng thương tổn không ai khác hơn chính bản thân họ. Đất
là đất, dù bị tàn phá đất cũng không thể nào biến thành phi đất. Liên tưởng đối
tượng ta ghét như là đất. Ta muốn trả đũa đối tượng đó như cách tàn phá sự màu mỡ
của đất nhưng đối tượng đó chưa chắc đã bị tàn phá. Ngược lại, lòng hận thù đã
tàn phá mảnh đất tâm của mình rồi. Nói theo Phật, trả đũa đối tượng gắn với
lòng sân chỉ là cách biến mình thành nạn nhân của khổ đau.
Ảnh dụ người thợ sơn hư không. Giống như một
người thợ sơn dùng các loại sơn màu và cây cọ đắt tiền sơn phết lên hư không.
Người thợ sơn cố hình dung và tưởng tượng với cây cọ, anh ta có thể tô màu sắc
vào không gian và không khí. Người thợ sơn chỉ có thể thành công trong tưởng
tượng chứ không thể xảy ra trong thực tế. Trong hận thù, nhiều người muốn làm
cho gương mặt đẹp của người bị ghét biến dạng trước quần chúng. Thay vào đó là
gương mặt màu đen, màu tím thật ảm đạm bằng sự liên tưởng và tìm cách phỉ nhổ,
tô màu, bịa chuyện, chỉ trích người bị ghét. Người sân hận có ảo tưởng đã thành
công. Trên thực tế, khi ôm ấp cơn sân hận là tự hành hạ chính mình từng giây
từng phút. Hoàn toàn vô ích khi nỗ lực sơn lên không gian vì nước sơn không thể
bám vào hư không. Càng nỗ lực sơn thì đối tượng bị dính sơn lại là mặt đất do
tình trạng nhỏ giọt của sơn.
Tương tự, kẻ sân hận muốn sơn phết các sắc màu
đau khổ lên người y thù ghét, nhưng càng sơn thì sắc màu đau khổ càng bám lên
bản thân y mà thôi. Kẻ sơn vào không trung sẽ bị sơn dính nhễu nhão trên thân
thể, tay chân y trước nhất. Kẻ bị dính dơ chính là người thợ sơn chứ không phải
hư không. Nếu có thể quán niệm kẻ khó ưa hay người mang lại khổ đau là hư không
thì không dại gì phết sơn vào hư không. Vì hư không không có thực thể mà nó vốn
được hình thành bởi khoảng cách vật lý giữa các vật thể. Xem người khác là
không gian, sẽ thấy các hành động xấu của họ là khoảng trống rỗng chỉ tồn tại
nhất thời, không ở mãi với cuộc đời nên không cần tô sơn, phết màu nỗi khổ niềm
đau lên người họ.
Ảnh dụ lửa cỏ đun sôi sông Hằng. Giống như người
đốt bó cỏ khô với ảo giác nghĩ có thể đun sôi nước sông Hằng. Sông Hằng là con
sông dài và linh thiêng đối với Ấn Độ giáo. Nước sông Hằng không cùng tận. Một
bó cỏ khô chưa chắc đun nóng được ly nước dung lượng 100ml, ấy thế, người ảo
tưởng lại mơ có thể làm nóng con sông lớn. Khi lòng sân khống chế, con người có
khuynh hướng sống trên ảo giác, cường điệu hoá trên ảo giác. Do đó, chuyện nhỏ
có thể xé thành to. Phần lớn các tình huống trả đũa không mang lại lợi ích gì
cho người nóng giận ngoài việc bị tổn thất, hoặc nặng hơn có thể bị điên cuồng
do sân si quá độ làm biến dạng cảm xúc.
Ảnh dụ cái da mèo. Giống như cái da
mèo đã được luộc chín, nhu nhuyễn như bông không còn tiếng xì xọp. Nhưng người
ảo tưởng lại nghĩ có thể làm cho âm thanh phát ra từ da mèo luộc. Nhiều tình
huống, tác giả tạo ra khổ đau đã chuyển hóa được lòng tham, lòng sân của họ
bằng sự ăn năn hối lỗi nhưng không tìm được nạn nhân để xin lỗi. Cái gút khổ
đau đã được chính tác giả tháo mở nhưng nạn nhân thì không buông xả, vẫn còn ôm
giữ trong tâm kể từ khi nỗi đau xuất hiện cho đến thời điểm hiện tại. Nỗi oan
khiên, oán trái đó nếu nạn nhân không tình nguyện giải phóng hay chuyển hoá thì
sự khổ đau sẽ phủ lên người bám giữ. Da mèo đã bị luộc chín không thể tạo ra sự
xì xọp nhưng giận quá mất khôn, nạn nhân nghĩ tưởng có thể làm nó kêu được. Giả
sử làm được điều đó thì có giá trị gì? Dấy khởi lại âm thanh của nỗi khổ niềm
đau trong quá khứ là tạo ra sự tái sinh của khổ đau đã lịm tắt. Hâm nóng lại
nỗi đau là biến mình thành nạn nhân lần thứ hai!
Trong các cuộc chiến tranh trên nền tảng ý thức
hệ và quyền lợi kinh tế, hai phía luôn khích lệ và nuôi dưỡng sức sống của khổ
đau bằng chủ nghĩa yêu nước. Bên nào cũng khích lệ và sách động thế hệ trẻ phải
trả thù những người đã tạo ra cái chết và khổ đau cho ông bà, tổ tiên. Những
người sống trong hiện tại có thể cách quá khứ khổ đau đến 30, 100 hay 1000 năm
lại phải trả thù những người mà họ không hề có mối quan hệ hận thù trực tiếp
với nỗi khổ niềm đau trong quá khứ. Hâm nóng lại những nỗi khổ niềm đau đã chết
trong quá khứ là không khôn ngoan. Nhớ lại kinh nghiệm khổ đau quá khứ không
mang lại giá trị hạnh phúc ở hiện tại.
Đức Phật dạy, nên buông xả khổ đau. Hãy nghĩ
những gì đã xảy ra trong quá khứ, đã lặng yên như nắm mồ là tro bụi dĩ vãng,
cần quên lãng. Người đời thường lý luận, không biết lịch sử và quá khứ thì
không thể có hiện tại. Bao nhiêu thế hệ cha ông đổ máu xuống để có được cuộc
sống hôm nay. Trả thù kẻ đã tạo ra chiến tranh tang tóc cho quê hương và người
thân là đền ơn tổ quốc và những người đi trước. Lý luận đó chỉ đúng về phương
diện chính trị. Ở phương diện cảm xúc, từ bỏ thái độ trả thù thì hạnh phúc
nhiều hơn. Giải pháp cao thượng và tích cực vốn có giá trị hơn nhiều.
Trong ảnh dụ cái da mèo, đức Phật dạy không nên
nỗ lực vô bổ tạo ra âm thanh trên da đã luộc chín, vì nó vốn không còn khả năng
tạo ra âm thanh nữa thì đừng mất thời gian, công sức để bội thực lòng sân vốn
đã lịm tắt trong quá khứ.
Nội kết là kẻ thù chung của nhân loại. Nó có thể
tồn tại như một mâu thuẫn hay xung đột. Xung đột về bản ngã, quyền lợi. Nếu
càng để lâu chừng nào thì khổ đau giữa mình và người càng tăng trưởng nhiều
chừng đó. Do vậy, là người con của bậc giác ngộ, đừng bao giờ chấp nhận, nuôi
dưỡng những nội kết, mà cần tìm giải pháp để tháo gỡ. Có những giải pháp rất an
toàn là buông xả, hỷ xả, bao dung độ lượng và đừng đẩy người khác vào những
tình huống khó xử. Cần tạo cho họ đứng bằng đôi chân vững vàng, giúp họ có
không gian để thở, thực phẩm ngon để ăn và thở bằng oxy thay vì cacbonic. Cần
trồng nhiều cây xanh trong quan hệ trực và gián tiếp trong cuộc đời. Nên gợi ý
cho họ có quyết định về vấn đề có lợi cho cả hai. Nếu không, nội kết sẽ có
những biến dạng rất nguy hiểm. Do vậy, cần tháo gỡ tất cả những nội kết để được
an vui, hạnh phúc trong cuộc đời!
Lời đức Phật dạy, con người không phải là kẻ thù
của nhau. Con người cần chuyển hóa những khổ đau bắt nguồn từ tình cảm, khác
biệt từ những xung đột quyền lợi cá nhân và chuyển hoá từ xấu trở thành tốt,
bóng tối thành ánh sáng, thù thành bạn, đối lập thành hợp tác. Được như vậy thì
cuộc sống sẽ an vui, hạnh phúc!
*
Thượng tọa THÍCH NHẬT TỪ
Địa chỉ: Chùa Giác Ngộ, 92 Nguyễn Chí Thanh,
phường 3, quận 10, thành phố Sài Gòn.
Email: thichnhattu@yahoo.com
.
.............................................................................................................
- Cập
nhật từ email tranchicuong27@yahoo.com.vn ngày 12.13.2019.
- Bài
viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui
lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét