(Nguồn ảnh: internet) |
LIỄU PHÀM TỨ HUẤN
TU
ĐỨC - TÍCH PHÚC CẢI TẠO VẬN MẠNG
*
Tác giả: Viên Liễu Phàm
Chuyển ngữ: Thích Thiện Siêu
CHƯƠNG MỘT
THAY ĐỔI SỐ MẠNG
I. LUẬN VỀ LẬP MỆNH
Tôi bị mồ côi cha từ nhỏ. Mẹ tôi cho theo nghề y
học và nói với tôi rằng:
Học nghề làm thuốc vừa có thể nuôi sống vừa có
thể giúp người. Vả lại luyện tập một nghề danh y có tăm tiếng, chính là sở
nguyện của cha con khi trước.
Sau đó, có một hôm tôi đến lễ Chùa Từ Vân, nhân
gặp một cụ già râu dài tướng đẹp, dáng mạo phơi phới như Tiên, tôi đem lòng
kính mộ.
Cụ nói với tôi: “Ta coi cậu là người trong
chốn quan trường, sang năm đã đến khoa thi tấn học, sao cậu không chịu đọc
sách?”.
Tôi trình bày lý do và hỏi thăm tên họ quê quán
của cụ.
Cụ bảo: Ta họ Khổng, người đất Vân Nam. Ta được
chánh truyền phép lý số trong sách Hoàng Cực của Thiệu Ưng Tiên Sinh. Ta muốn
truyền lại cho cậu. Tôi liền dẫn cụ về nhà giới thiệu với mẹ tôi, mẹ tôi dạy
tiếp đãi cụ rất hậu, và yêu cầu cụ thử chấm số của tôi xem ra thế nào, thì quả
nhiên từ những việc mảy may đều được cụ đoán trúng rành mạch.
Từ đó tôi nảy sanh ý muốn đọc sách, và đem chuyện
bàn với người anh cô cậu là Trầm Sinh. Anh ấy bảo tôi, hiện nay có Úc Hải Cốc
Tiên Sinh đang mở khóa giảng tại nhà ông Trầm Hữu Phu, để anh gởi em tới đó
học, rất tiện.
Sau đó tôi trở thành học trò của Thầy Úc Hải Cốc.
Khổng Tiên Sinh chấm số tôi như vậy, lúc nhỏ thi Huyện đậu thứ 14, thi Phủ đậu
thứ 71, thi Tỉnh đậu thứ 9.
Quả nhiên năm sau tôi đi thi cả ba nơi đều có tên
đậu đúng như lời đoán. Cụ lại đoán cả việc lành dữ trong suốt đời tôi, năm nào
thi đậu thứ mấy, năm nào được bổ chức Bẩm Sinh, năm nào được bổ chức Cống Sinh.
Sau đó năm nào được bổ chức Tri Huyện Tỉnh Tứ Xuyên, nhưng làm Tri Huyện đủ ba
năm rưỡi lại cáo thối và thọ đến 53 tuổi, chết vào giờ sửu ngày mười bốn tháng
tám. Đáng tiếc số người không có con.
Các lời đoán này tôi đều ghi lại và nhớ cẩn thận.
Từ đó về sau, phàm mỗi lần thi cử, tên tuổi đậu đạt đứng trước đứng sau của tôi
thế nào đều đúng như lời Tiên Sinh dự đoán, duy có điều này làm tôi hơi nghi là
Tiên Sinh đoán tôi hưởng lộc trong thời gian giữ chức Bẩm Sinh đủ số 91 thạch 5
đấu gạo (1 thạch là 10 đấu) thì được bổ chức Cống Sinh. Nhưng cập kỳ tôi mới
tiêu hết số gạo 71 thạch, đã được Ðồ Tông Sư (quan đề học) phê chuẩn cho tôi bổ
Cống Sinh, nên tôi nghi điều này Tiên Sinh đoán sai, không ngờ sau đó tôi bị
quan đại lý Dương Công bác khước. Phải kéo dài thời gian mãi đến năm Ðinh Mão
mới nhờ Minh Tôn sư thấy quyển văn thi của tôi tại khoa trường.
Khen rằng: Năm thiên sách này chính là năm thiên
tấu nghị lên Triều Đình, người có tài văn bài thế này há lại để vùi lấp mãi ở
chỗ song môn sao? Rồi ông trình văn bài của tôi lên quan Huyện và tôi được phê
chuẩn bổ Cống Sinh.
Kiểm điểm lại số gạo tiêu trong thời gian này
cộng với số gạo 71 thạch khi trước thì vừa đủ số 91 thạch 5 đấu không sai. Do
đó tôi càng tin chắc đời người tiến thối có số mạng, mau chậm có vận thời.
Nên tôi cứ dửng dưng không còn để ý mong cầu một điều gì.
II. VÂN CỐC THIỀN SƯ KHUYÊN CẢI TẠO VẬN MỆNH
1. NGUYÊN LÝ CỦA VIỆC CẢI TẠO VẬN MỆNH
Sau khi bổ Cống Sinh tôi phải vào Yến Đô
học tại Quốc Tử Giám. Suốt một năm lưu lại Kinh Đô, tôi chỉ thường ngồi lẳng
lặng, không buồn xem văn thư gì cả.
Qua năm Kỷ Tỵ đi dạo Nam Ưng. Trước khi vào Quốc
Tử Giám, tôi có đến viếng thăm Thiền Sư Vân Cốc Hội ở núi Thể Hà. Ngồi chung
với Thiền Sư một nhà suốt ba đêm ngày liền, mắt không hề nhắm.
Thiền Sư hỏi tôi: Người ta ở cõi đời sở dĩ không
làm được Thánh Hiền chỉ vì bị vọng niệm ràng buộc. Nay ông ngồi suốt ba ngày mà
không thấy khởi lên một vọng niệm nào, là tại làm sao?
Tôi trả lời: Thưa Thiền Sư, tôi được Khổng
Tiên Sinh chấm số, cho biết mọi điều vinh nhục tử sinh đều do số định, dầu có
nóng lòng mơ tưởng điều gì cũng vô ích, vì vậy tôi không cần nghĩ tưởng điều
gì.
Thiền Sư cười: Lâu nay tôi đãi ông như bậc
hào kiệt, không ngờ ông chỉ là một kẻ phàm phu chay. Tôi giật mình, hỏi Thiền
Sư cho biết lý do.
Thiền Sư dạy: Những người chưa được “Tịnh tâm”
mới phải bị âm dương chi phối, số mệnh buộc ràng. Nhưng số mệnh chỉ câu
thúc kẻ phàm phu, không thể câu thúc được người cực thiện cũng như cực ác, ông
suốt 20 năm nay chịu bó tay trước số mệnh không chuyển đổi được tí gì, như thế,
không phải phàm phu thì là gì?
Tôi hỏi, thưa Thiền Sư, vậy số mệnh có thể tránh
được ư?
Thiền Sư dạy: Số mệnh do ta gây ra, họa phúc
chính ta tìm lấy. Ðó là điều sách vở đã dạy rành rành.
Kinh Phổ Môn, Phật dạy: Cầu giàu sang được giàu
sang, cầu con trai con gái, được con trai con gái, cầu sống lâu được sống lâu.
Ôi! Vọng ngữ là một giới cấm nặng của nhà Phật, há lẽ Chư Phật Bồ Tát lại khinh
cuồng người đời mà nói ra câu ấy hay sao.
Tôi hỏi tiếp, thầy Mạnh Tử nói: Hễ cầu thời
được, ấy là nói cầu những điều chính nơi tâm mình có thể làm được kia, như điều
đạo đức nhân nghĩa thời có thể ra sức mong cầu. Còn như công danh phú quí là
đều ngoài năng lực mình, làm sao mong cầu được?
Thiền Sư nói: Thầy Mạnh Tử nói không lầm,
chỉ tại ông hiểu lầm thôi. Ông không nghe Ngài Lục Tổ Huệ Năng nói sao. Ngài
nói, hết thảy phúc điền, không ngoài gang tấc, hễ tâm cầu chi đều cảm thông
nấy. Cầu ngay nơi ta, không những được đạo đức nhân nghĩa, cũng được luôn công
danh phú quý.
Hễ trong đạt được thì ngoài đạt được, nên càng
thấy rõ hiệu nghiệm của tâm hướng nội mong cầu. Người nào không chịu khó ngó
lui mình để tu tỉnh, cứ như một bề dong ruổi tìm cầu bên ngoài, tuy họ có lập
cách tìm cầu thế nào chăng nữa, kết quả vẫn tùy số mệnh định đoạt cả thôi. Lối
mong cầu này hoài công vô ích.
Những người không chịu hồi tâm tu tỉnh, lo
cầu mong phú quí công danh bằng con đường đạo đức nhân nghĩa, lại chỉ lo tìm
cầu mọi thủ đoạn gian ác, rốt cuộc họ phải bị thiệt thòi cả hai mặt, là công
danh phú quí không thành mà đạo đức nhân nghĩa cũng hỏng.
2. PHƯƠNG PHÁP CẢI TẠO VẬN MỆNH
2.1. BIẾT LỖI THỰC SỰ HỐI CẢI
Thiền Sư lại hỏi tôi về việc chấm số của Khổng
Tiên Sinh, tôi thuật lại đúng cả mọi điều.
Thiền Sư hỏi lại tôi: Bây giờ ông thử xét lại ông
còn có hy vọng thi đậu không?
Tôi ngẫm nghĩ một hồi lâu rồi trả lời: Không thể.
Người khoa giáp phải là người có phúc tướng, còn
tôi chỉ là kẻ bạc phúc, lại không biết dồn chứa công hạnh làm nền tảng phúc
đức, không chịu khó giúp ai, không khoan dung đại độ, có khi còn cậy mình
tài trí lấn lướt kẻ khác, nghĩ gì làm nấy, nói năng khinh suất dối trá, chẳng
nể vì ai.
Ðấy toàn là những tướng của kẻ bạc phúc, làm sao
tôi mong cầu được khoa giáp.
Vả lại phàm đất nhớp mới có nhiều vi trùng sinh,
nước trong thì đâu có cá lội, thế mà xét lại tính tôi vốn ưa tinh khiết, nên
tôi không con là phải. Phàm khí tiết ôn hòa mới nuôi dưỡng muôn vật, thế mà xét
lại tính tôi hay nóng nảy, thế nên không con là phải. Phàm nhân ái là gốc sinh
hóa, nhẫn tâm là gốc suy tàn, thế mà xét lại tính tôi cứ khư khư danh tiết hão
huyền.
Chẳng hề hy sinh giúp ai, thế nên tôi không con
là phải. Ðó là chưa kể tôi còn có tật nói nhiều làm tổn khí, tật ưa uống
rượu làm tán tận, tật ưa ngồi suốt đêm không biết bảo tồn khí cốt và nếu kể hết
tật xấu của tôi thì hẳn còn nhiều nữa.
Thiền Sư nói: Không riêng gì một việc thi
cử, chính tất cả mọi việc thế gian này thảy đều nằm trong lý nhân quả. Những
người có được sản nghiệp trị giá ngàn vàng, tức là người có được cái phúc hưởng
ngàn vàng đó. Những người có được sản nghiệp trị giá trăm vàng tức là người có
được cái phúc hưởng trăm vàng đó. Những người bị chết đói tức là người có cái
nghiệp chết đói đó. Thế mà người đời không nhận rõ lẽ này, cứ đổ dồn cho Trời
đất xui nên, kỳ thật Trời đất bất quá chỉ ra những điều mình đã tạo sẵn, chứ
Trời đất có bao giờ sanh được mảy may họa phúc nào cho ai đâu.
Ngay đến việc sinh con cũng thế. Người nào có
công đức trăm đời thời sẽ sinh con cháu trong mười đời kế tiếp gìn giữ. Người
nào có công đức ba đời, hai đời thời sẽ sinh con cháu trong ba đời, hai đời kế
tiếp gìn giữ. Còn người nào tuyệt nhiên không con, ấy là người chỉ có công đức
mỏng manh vậy.
Nay ông đã biết chỗ khuyết điểm của mình, ông hãy
tận tình gột bỏ cái tướng không phát khoa giáp và không sinh con kia đi. Và
muốn vậy, ông phải lo tích đức, phải mở lòng bao dung, phải giữ niệm hòa ái,
phải yêu tiết tinh thần, bao nhiêu việc trước đập tan như ngày qua đã chết, bao
nhiêu việc sau phát khởi như ngày nay đã sinh. Được vậy tức là ông tự làm một cuộc
tái sinh đầy nghĩa lý đó.
2.2. VIỆC TRIỆT ĐỂ SỬA LỖI
Cái thân xác thịt còn có vận số, huống cái thân
đầy nghĩa lý này lại không cảm thông cùng Trời đất? Thiên Thái Giáp trong Kinh
Thi có câu: Bởi tiền nhân nay chịu hậu quả, mình có thể tránh, mình làm ương
nghiệt không thể nào tránh.
Kinh Thi nói: Con người phải luôn luôn tự xét lấy
mình mà ăn ở, cư xử sao cho hợp thiện đạo, làm lành lánh dữ ắt hẳn phải được
thiện báo. Đó là tự mình biết cầu được nhiều phúc.
Trước đây Khổng Tiên Sinh đoán số ông không phát
khoa giáp, không sinh con. Đó là điều ương nghiệt do số mệnh nó có thể tránh
gỡ. Nếu ông mở rộng đức tính, gắng làm việc thiện, dồn chứa âm công, mình gây
ra phúc, há mình không được hưởng thụ hay sao?
Kinh Dịch là Bộ Kinh mưu tính việc sưu các ty
hung, giúp cho người quân tử, hạng người biết phản tỉnh tu đức. Nếu thật có cái
thiên mạng cố định, ai tốt cứ tốt, ai xấu cứ xấu, thì đâu có thể nói đến chuyện
mưu tính suy các ty hung?
Mở đầu Kinh Dịch còn có câu: Nhà nào chứa điều
thiện sẽ có thừa điều phúc “Tất thiện chi gia tất hữu dư khánh”, ông có tin nổi
điều ấy chăng?
III. TU ĐỨC TÍCH PHÚC THẮNG SỐ
Tôi tin lời Thiền Sư nói, nên thành tâm bái lãnh.
Tôi liền đến trước Phật đài tận tình phát lộ sám hối bao nhiêu tội cũ của mình,
và dâng một sớ bạch, trước hết cầu được đăng khoa giáp, tiếp phát nguyện làm ba
ngàn điều lành, để báo đáp ân đức của Trời đất Tổ Tông.
Thiền Sư đưa bảng “Công hóa cách” chỉ cho tôi,
khiến cứ mỗi ngày có công việc thiện ghi vào, còn làm ra mấy việc ác thì thối
trừ. Gắng chuyên Trì Chú Chuẩn Đề, như thế sở nguyện của ông tất có hiệu
nghiệm.
Thiền Sư lại dạy tiếp: Một nhà Phù Lục thường nói
rằng, người họa phù mà không hiểu cách thức, tất bị quỷ thần chê cười, song bí
truyền của cách họa phù không chi lạ. Chỉ cốt giữ tâm không lay động mà thôi.
Khi cầm bút họa phù, điều cần thiết trước tiên phải giũ sạch muôn mối duyên lự
trong lòng, tâm đừng khởi lên mảy may tưởng nghĩ nào cả. Ngay khi tâm bất động
ấy, hạ bút chấm một chấm gọi là hỗn độn khai cơ, rồi từ đó tiếp huơ bút họa
viết. Không để một tư lự nào móng lên, được như thế là điệu phù thành linh
nghiệm. Phàm người kỳ đảo Trời đất cầu sửa đổi số mệnh cũng phải làm như thế,
phải do từ cái tâm không vọng động, không loạn tưởng khởi mới có cảm ứng.
Khi thầy Mạnh Tử luận đến cái học lập mạng có
câu: Yểu và thọ không hai.
Thực tế ta thấy chết yểu và sống lâu hai điều
khác xa nhau, tại sao thầy Mạnh lại nói khác? Nên biết khi tâm không vọng niệm,
thì ngay đó đâu có phân chia số mạng thọ yểu, giàu nghèo cùng thông. Chỉ từ tâm
móng khởi thiện ác mới tạo nên những số mệnh sai khác giữa giàu nghèo v.v…
Nhưng phàm đã sinh ra ở đời, ai không coi việc chết sống là quan trọng.
Nên trên đây chỉ nói đến việc sống lâu và chết
yểu. Kỳ thật ý đã bao gồm tất cả mọi sự thuận nghịch xảy ra trên suốt cả đời
người.
Ðến như câu “Tu thân dĩ sĩ chi” mà Mạnh Tử đã nêu
lên, là cốt nhắc người đời nhớ lấy điều tích đức tu nhân làm hệ trọng.
Hễ tu được nhân đức dầu có mọi tội lỗi vẫn cải bỏ
được hết, và nói chờ đợi “Sĩ” tức có ý nói gắng lo tu nhân tích đức đến khi
công phu sâu dầy, tự nhiên số mệnh thay đổi, chứ không phải chỉ đem cái hy vọng
suông cầu cho được thế này thế kia mà được kết quả thế này, thế kia.
Người thông đạt đạo lý, dù một mảy may hy vọng
cũng chẳng để dính mắc trong lòng, được như thế mới đạt đến cảnh giới bất động
niệm hồn nhiên, mới đạt đến chỗ thật học cao siêu.
Nay Ông chưa được thanh tịnh, chưa được nhất tâm
bất loạn, còn vọng tưởng, phân biệt chấp trước. Ông hãy Trì niệm Chú Chuẩn Đề,
cần niệm mãi không gián đoạn, không cần kể số ít nhiều, trì niệm đến khi nào
được thuần thục, trong Trì niệm mà không Trì niệm, trong không Trì niệm mà
Trì niệm, thì bây giờ được tâm không lay động, mà có sự ứng nghiệm rõ ràng.
Sau khi được Thiền Sư chỉ dạy, tôi liền đổi hiệu
Học Hải trước kia để lấy Liễu Phàm, vì từ đây đã hiểu cái lý nghĩa lập mạng là
thế nào, không muốn để mình rơi vào sào huyệt phàm phu nữa. Từ nay trở đi, suốt
ngày gìn giữ cẩn thận, do đó tôi tự thấy ngày nay khác xa ngày trước. Ngày
trước tôi chỉ là con người lêu lỏng buông xuôi, nhưng từ nay tôi đã biết lo gìn
lòng giữ ý, cẩn thận từng khắc từng giờ. Dẫu ở chỗ kín đáo riêng tư, lòng vẫn
sợ lỡ làm điều chi sai quấy, mắc tội với Trời đất, quỷ Thần, hoặc dẫu gặp ai
ganh ghét, phá phách, tôi cũng cố giữ tánh điềm nhiên hỷ xả.
Bước sang năm sau, Bộ Lễ mở khoa thi, Khổng Tiên
Sinh đoán bộ sẽ khảo thí từ tên đậu ba trong khóa trước trở xuống, nhưng nay bộ
lại khảo thí từ tên đậu nhất. Thế là lời dự đoán của Khổng Tiên Sinh lần này
không ứng nghiệm, và Tiên Sinh không đoán tôi được đậu Cử Nhân thế mà tôi đã
đậu Cử Nhân trong kỳ Hương thi mùa thu.
Tuy nhiên tôi tự xét việc hạnh nghĩa mình làm
chưa thuần thục, sai sót còn nhiều.
Hoặc có khi thấy việc lành mà làm không hăng hái.
Hoặc có khi cứu giúp người mà tâm còn do dự. Hoặc có khi thân gắng làm lành mà
miệng có nói ác. Hoặc khi tỉnh thì tháo vát mà khi say lại phóng dật… Tôi đem
tội chiết tính bù trừ với công, thì thấy hẳn có nhiều ngày mình sống uổng.
Tôi phát nguyện từ năm Kỷ Tỵ mà mãi đến năm Kỷ
Mão, suốt 10 năm, mới hoàn thành ba ngàn việc thiện. Khi rời Lý Tiệm Am Tiên
Sinh để vào Bản bộ Trung Quốc, tôi chưa kịp làm lễ hồi hướng ba ngàn việc thiện
kia.
Năm Canh Thìn có dịp trở lại Nam Biên, tôi thỉnh
các Hòa Thượng Thánh Không, Huệ Không đến Ðồng Tháp Thiền đường chứng minh cho
lễ hồi hướng,nhân đó tôi lại phát nguyện làm thêm ba ngàn điều lành khác để cầu
sinh con. Và đến năm Tân Tỵ, tôi đã may mắn hạ sinh một quý tử.
Mỗi lần làm một việc gì, tôi liền lấy bút ghi vào
sổ, vợ tôi không viết được, nên hễ làm được việc gì thì lấy nắp bút chấm son ấn
vào tờ lịch một khoanh tròn. Chẳng hạn như bố thí cho người nghèo, mua vật
phóng sinh, tính ra mỗi ngày có đến mười khoanh.
Sang tháng tám năm Quí Mùi, tính lại đủ số ba
ngàn điều lành, sau khi đã khấu trừ các điều ác. Tôi lại thỉnh các Hòa Thượng
Thánh Không, Huệ Không đến nhà chứng minh lễ hồi hướng.
Ngày mười ba tháng chín, tôi lại phát nguyện làm
thêm một vạn điều lành, cầu thi đậu Tiến Sĩ, Quả nhiên năm Bính Tuất tôi thi
đậu và được bổ làm Tri huyện Bửu Ðê.
Trong lúc làm Tri huyện, tôi sắm sẵn một tập sách
để ghi thiện ác, đặt tên là Trị Tâm Thiền “Sách sửa lòng”. Cứ mỗi sáng dậy, gia
nhân đem nó giao lính hầu đem đến để trên án làm việc. Nếu trong ngày, tôi làm
được điều lành điều dữ nào dù lớn dù nhỏ đều ghi rõ ràng vào sách, đêm đến
thiết án giữa Trời. Bắt chước ông Triệu Duyệt Ðào thắp hương cáo với Trời đất.
Vợ tôi thấy đã lâu mà chẳng làm được bao nhiêu
việc lành, mới chau mày buồn bã nói: Trước ông ở nhà có tôi giúp sức, nên
ông đã làm đủ ba ngàn điều lành theo sở nguyện. Nay ông nguyện làm thêm
một vạn điều, nhưng ở tại công đường chẳng có việc gì để làm, thì biết bao giờ
ông mới làm đủ số ấy.
Ðêm đó, mộng thấy một Thần Nhân, tôi mới than thở
về lý do khó làm đủ các điều lành minh đã hứa. Thần Nhân bảo: Chỉ một
việc giảm khinh tiền thuế cho dân của ông vừa rồi, cũng đủ sánh bằng một vạn
điều lành.
Nghe lời Thần Nhân bảo, tôi liền xét lại nhớ mình
có làm việc đó thật. Vì khi trước thuế ruộng của huyện Bửu Ðê, mỗi mẫu phải
đóng 2 phân 3 ly 7 hào, xét ra quá nặng đối với muôn dân nên tôi đã khu xữ làm
cho giảm xuống mỗi mẫu chỉ đóng 1 phân 4 ly 6 hào. Tuy vậy, tôi vẫn hồ nghi
không hiểu tại sao việc làm đó lại có thể sánh bằng một vạn điều lành. May đâu
gặp được Huyền Như Thiền Sư vừa từ núi Ngũ Ðài đến. Tôi đem chuyện nằm mộng ra
hỏi có đáng tin không. Thiền Sư trả lời: Hễ có thiện tâm chân thiết, thì một
việc lành có thể đương được muôn việc lành. Huống chi giảm thuế cho cả một
huyện, muôn dân đều chịu ơn. Tôi liền cúng một số tiền lương, nhờ Thiền Sư đem
về Ngũ Ðài trai Tăng một vạn vị Sư, gọi là để làm lễ hồi hướng cho tôi.
Khổng Tiên Sinh trước kia đoán tôi đến năm 53
tuổi sẽ đoản mạng, nhưng đến năm đó chẳng có gì xảy ra, dù tôi không hề cầu đảo
xin tăng thọ, và nay thì tuổi tôi đã 69 rồi.
Trong Kinh Thi có câu: Trời không dễ tin, mạng
không định thường.
Lại có câu: Vận mạng chẳng nhất định. Những câu
ấy đâu phải là lời dối trá. Do đó tôi biết chắc rằng, họa phúc đều phải
cầu ngay nơi mình, đó mới thật đúng ý của Thánh Hiền. Ngược lại người nào nói
họa phúc do mệnh Trời, thì đó là lối suy luận thông thường của kẻ thế tục.
IV. DẠY CON BIẾT SỬA LỖI, TU ĐỨC,
TÍCH PHÚC
Hiện tại số mệnh mỗi người thế nào chưa dễ biết
được. Vậy đang khi được hiển vinh hãy tưởng như gặp điều không vừa ý. Đang khi
được thuận lợi hãy tưởng như gặp điều trái nghịch. Đang khi được sung túc hãy
tưởng là thiếu nghèo.
Đang khi được mọi người ái kính hãy tưởng khi bị
khuất phục. Đang khi gia thể trọng vọng hãy tưởng như mình ở hạng thấp hèn.
Đang khi có chút học vấn uyên thâm hãy tưởng mình còn thiển cận. Xa về trước,
nghĩ tới công đức Tổ Tiên để lo kế tuyên dương. Gần hiện tại, nghĩ tới lầm lỗi
của cha mẹ mà tìm cách bồi bổ. Trên lo đền ơn trước. Dưới lo tạo phúc gia đình.
Ngoài thì giúp người tai nạn. Trong thì lo ngăn ngừa tà ác chính mình. Cốt phải
ngay thấy chỗ sai quấy của mình để lo toan hối cải. Nếu một ngày không tự biết
mình quấy tức một ngày an lòng tự cho mình là phải. Một ngày không ăn năn hối
quá tức một ngày không tiến bộ.
Hạng người thông minh tuấn kiệt trong thiên hạ
đâu phải hiếm. Nhưng nếu họ không gắng lo tu đức, mở mang thiện nghiệp. Họ cũng
chỉ sống một đời đình trệ, an phận dật dờ gặp chăng hay chớ mà thôi.
Cái thuyết lý an thân lập mạng của Vân Cốc Hội
Thiền Sư trao dạy trên đây thật là chí tình, chí lý, chí chân, chí chánh. Nếu
biết ngẫm kỹ và thực hành sẽ khỏi một đời luống trôi vô ích vậy.
CHƯƠNG HAI
PHƯƠNG PHÁP VÀ HÌNH THỨC
SỬA ĐỔI LỖI LẦM
I. CÁI NHÂN CỦA VIỆC SỬA LỖI
Những quan Đại Phu thời Xuân Thu, thường quan sát
sự nói năng hành động của mọi người để đoán định điều họa phúc của họ, phần
nhiều đúng nghiệm cả. Những điều này đều có ghi trong các bộ Tả truyện, Quốc
ngữ, hãy đọc đến tất thấy.
Hầu hết những triệu chứng tốt xấu, đều manh nha
từ trong tâm ý rồi hành động ra tay chân. Nếu một người thiên hẳn về nhân hậu
đạo đức họ thường được phúc, một người thiên hẳn về khắc bạc chỉ tham cho riêng
mình họ thường mang họa. Song người phàm mắt tục ít ai thấy rõ điều này, mới
vội cho họa phúc báo ứng mâu thuẫn khó lường.
II. NỀN TẢNG CỦA VIỆC SỬA LỖI
Hễ người nào đem tâm thành tín làm việc thiện tất
yếu việc làm của họ hợp cùng chân lý, thì hạnh phúc sẽ đến với họ. Trái lại thì
tai họa theo chân. Cứ xem ở điều lành điều ác của họ làm, người ta cũng biết
trước việc đó. Nhưng những người muốn lánh họa cầu phúc, hãy lo ăn năn
cải hoá, trước khi nói tới việc làm lành.
1. LÒNG HỔ THẸN
Theo pháp cải hoá, đầu tiên phải có tâm
biết hổ thẹn, nghĩ rằng ta cũng là bậc trượng phu nam tử như cổ Thánh Tiên
Hiền, thế sao các Ngài làm Thầy cả thiên hạ, được muôn đời tôn thờ, còn ta lại
cứ lẹt đẹt thấp hèn một đời ngói bể, cứ lo say đắm dục tình, thầm lén làm điều
bất nghĩa, còn cho là không ai biết. Vênh mặt ngạo nghễ không chút thẹn thùng,
đến đỗi mỗi ngày mỗi sa đọa xuống hàng cầm thú mà không tự biết, thật chẳng còn
chi hổ nhục cho bằng.
Thầy Mạnh Tử nói: Ðiều lớn lao khẩn yếu thứ
nhất, đối với con người là tâm biết hổ thẹn. Vì rằng hễ người nào giữ được tâm
đó thì trở nên Thánh Hiền, kẻ nào bỏ mất tâm đó thì chẳng khác chi cầm thú. Cho
biết tâm hổ thẹn là động cơ chính trong việc cải hoá tự tâm.
2. LÒNG UY KÍNH
Thứ hai, phải có tâm sợ hãi. Hãy nghĩ rằng mình
làm việc gì đều có Thánh Thần ở trên mình, xung quanh mình biết rõ, không dối
trá được. Dẫu mình có phạm tội lỗi nhỏ nào, người đời đều không thấy. Hễ tạo
tội nặng, có trăm họa kéo theo. Gây tội nhẹ thì giảm mất phúc báo hiện tiền.
Như vậy sao được không dè dặt sợ hãi.
Chẳng những thế thôi, ngay lúc nhàn cư,
Thần Linh càng thấy rõ. Mặc dù ta có che dấu những điều mình làm kín đáo đến
đâu, trau chuốt khéo léo thế nào, oan trường vẫn bị bại lộ, cuối cùng không thể
tự dối. Huống chi đã bị mọi người dòm thấy thì dù một chút giá trị chẳng còn,
như vậy há không đáng cẩn thận sao?
Vả lại, khi còn hơi thở, dù có gây ác tày Trời
vẫn còn mong hối cải, nên lắm người một đời tạo ác, đến phút lâm chung biết hối
ngộ, nhất một niệm thiện tâm mãnh liệt, họ vẫn có thể hưởng được một cái chết
an lành.
Cổ Đức nói: Một niệm lành mãnh liệt đủ rửa sạch
tội trăm năm. Ví như cái hang sâu tối ngàn năm, chỉ rọi một ngọn đèn, bóng tối
kia liền biến mất. Vậy không kể tội lỗi đã tạo lâu hay mới tạo, miễn biết thành
thật hối cải là tội hết. Trần thế vô thường, mạng người chẳng mất, khi hơi thở
ra không vào, dù muốn hối cải chẳng kịp nào. Kẻ làm ác đã phải mang tiếng ác
suốt trăm ngàn năm trên dương thế, không con hiền cháu thảo nào rửa sạch, lại
phải chịu ngục báo trầm luân muôn vạn đời, dù Thánh Hiền, Phật, Bồ Tát cũng khó
lòng cứu vớt. Như thế là không kiêng sợ được ư?
3. LÒNG DŨNG MÃNH
Thứ ba, phát tâm dũng mãnh. Những người
không ăn năn hối cải hoá, phần nhiều là những người dần dà có tánh thụt lui.
Biết vậy, ta cần phải dũng mãnh hăng hái, đừng nên do dự, đừng nên chần chờ,
hãy xem tội nhỏ như bị mũi nhọn châm làm thối thịt, mau mau khoét vứt. Sợ
tội lớn như bị rắn độc cắn tay, mau mau cắt bỏ, không được trì trễ phút nào.
Càng trễ càng nguy, càng mau càng có lợi.
Những người có đủ ba thứ tâm nói trên, dù có tội
lỗi đến đâu vẫn cải đổi được như băng sương gặp ánh mặt Trời làm sao không tan
biến. Nhưng nên biết có những tội lỗi được cải đổi do việc làm thực sự, có
những tội lỗi được cải đổi do triệt ngộ đạo lý, có những tội lỗi được cải đổi
do tận tâm. Công phu không đồng nên hiệu quả cũng khác.
III. PHƯƠNG PHÁP SỬA LỖI
1. THEO SỰ TƯỚNG
Chẳng hạn ngày trước sát sanh nay sẽ răn đe
đừng giết. Ngày trước nóng giận nay phải răn dè đừng nóng. Đó là cách hối lỗi
do việc làm thực sự. Lối này chỉ mới là lối cưỡng chế bên ngoài, khó lòng sạch
tội, vì bệnh căn còn chất chứa trong lòng, thì tội dù diệt bên đông lại mọc bên
tây, nên hối cải hoá này chưa phải là hoàn hảo cứu cánh. Vậy muốn dứt lỗi triệt
để, trước khi cưỡng chế sự việc phải thấu rõ đạo lý.
Như muốn chừa bỏ tội sát sanh trước hãy rõ lẽ
này: Trời đất vốn hiếu sinh, muôn loài đều tiếc mạng, giết vật để nuôi mình,
làm sao yên lòng được. Vật bị giết đã đành phải chịu cắt xẻ, nếu đau đớn tận
xương tủy, ảo não muôn phần, mà ta ăn vào dù béo bổ ngon bùi đến đâu hễ nuốt
khỏi cổ liền trở thành đồ hôi thối rồi tiêu ma. Chi bằng rau dưa vẫn no
bụng, còn tránh khỏi cái tội sát sanh làm tổn phúc mình không ít.
Vả chăng, phàm là loài huyết khí đều có tính linh
tri, đã có tính linh tri thì cùng ta không khác “Vật ngã nhất thể”. Ví bằng
không thực hành nổi những điều chí đức khiến chúng nó kính ta, thân ta, thì
cũng chớ nên mỗi ngày sát phạt sinh linh, khiến chúng nó mãi oán ta thù ta đời
đời kiếp kiếp. Người nào đã nghĩ được như thế thì dẫu muốn giết vật ăn thịt,
cũng thấy thương tâm chẳng ham ăn nữa.
2. THEO LÝ CẢI SỬA
Lại nếu muốn trừ bỏ tật hay nóng giận thì
trước hãy suy nghĩ: Người có chỗ hư hỏng không bằng ta là người đáng thương.
Còn người trái lẽ xâm phạm ta, lỗi ấy thuộc về họ, chớ ta can dự gì mà nổi cơn
giận dữ. Huống hồ trong thiên hạ không đấng hào kiệt nào là người nặng tánh tự
thị, cũng không bậc học thức nào là người hay oán trách tha nhân. Vì họ biết rõ
việc mình làm không thành là bởi đức tu của mình chưa thấu đáo, cho cảm ứng
chưa tới nơi, họ luôn luôn phản tỉnh, nên đối với họ dù gặp những điều hủy
báng. Cũng xem như cơ hội tốt để mà luyện tâm đức, mà luôn luôn hoan hỷ đón nhận
không hề phẫn nộ.
Khi nghe lời hủy báng mà không phẫn nộ thì dù
ngọn lửa bài báng cao ngất Trời xanh cũng tự nhiên tắt biến như phóng lửa đốt
Hư Không.
Trái lại hễ nghe lời dèm chê vội nóng giận thì dù
có khôn ngoan xảo biện đến đâu, cũng chỉ như tằm xuân kéo kén, càng kéo lại
càng buộc chặt mình. Nóng giận chẳng những vô ích mà còn gây nên tai hại
đến thế.
Ngoài các tính nóng giận còn bao nhiêu tính xấu
khác đều có thể suy biết, và hễ rõ thấu lẽ này thì tội lỗi nào cũng trừ diệt
được.
3. THEO TÂM ĐỊA
Thế nào là tội từ tâm cải? Tội lỗi vô vàn đều do
tâm tạo, tâm không vọng động thì tội lỗi dựa vào đâu phát sinh? Kẻ học thức
không cần phải phanh tìm từng bệnh hiếu sắc, hiếu danh, hiếu tài, hiếu nộ,
nhưng chỉ cần nhất tâm hành thiện.Giữ gìn chánh niệm tự khắc tiêu tan như vầng
thái dương chiếu giữa Hư Không, mọi thứ ma mị đều bặt dấu.
Tội lỗi do tâm tạo tất cũng do tâm cải đổi. Như
muốn chặt cây độc, chỉ chặt ngay gốc nó, chớ cần chi phải tỉa từng nhánh lá
nhọc công lâu lắm.
Ðại thể cách đối trị tâm bệnh hay nhất là giữ
lòng cho thanh tịnh. Hễ tâm vừa móng động liền giáo biết, biết tất liền tiêu.
Hoặc không tiêu, hãy quán xét lý lẽ nói trên để trừ đoạn, nếu cũng không trừ
được, thì lại lấy sự để không khởi ý niệm. Trước lo tu tâm sau lo khởi công
hạnh sự. Như thế mới là lối sửa chữa tội lỗi đắc sách nhất.
4. HIỆU NGHIỆM CỦA VIỆC SỬA LỖI
Khi phát nguyện cải quá cần phải nhờ thiện
hữu đề huề, cầu Hiền Thánh chứng tri. Nhất tâm sám hối ngày đêm không giãi đãi.
Trải qua một thất (bảy ngày), hai thất, cho đến một tháng, ba tháng, tất sẽ có
hiệu nghiệm rõ ràng. Hoặc tự thấy tâm thần thoải mái, trí tuệ mở mang. Hoặc
đang trong chỗ phiền toái rối ren mà gặp đâu thông suốt đó. Hoặc gặp oán cừu mà
họ bỏ giận làm lành. Hoặc mộng thấy khạc nhổ vật đen, mộng thấy được các bậc
Thần, Thánh, Tiên, Hiền đề huề tiếp dẫn. Hoặc mộng thấy bay đi giữa Hư Không.
Mộng thấy Tràng Phan bảo cái đưa rước. Tóm lại là gặp được các chuyện tốt lành
nhờ lỗi tiêu, tội diệt hiện ra. Tuy nhiên, không được cố chấp lấy đó để tự cao
tự đại, lãng quên bề tiến hóa.
Xưa ông Cừ Bá Ngọc. Đang lúc 20 tuổi đã biết xét
tội lỗi lúc thiếu thời để lo chừa bỏ, đến lúc 21 tuổi vẫn thấy rõ lỗi trước
chưa sạch. Đến 22 tuổi lại thấy lúc 21 tuổi còn như kẻ ở trong mộng. Cứ
mỗi năm lại mỗi năm, ông không ngớt cải đổi, đến lúc 50 tuổi ông không còn thấy
gì sai quấy lúc 49 tuổi. Cái lối cải quá của người xưa như thế thật đáng phục
thay.
Chúng ta hiện mang thân phàm tục, tội ác nặng nề,
thế mà ít ai xét thấy, đó phải chăng là vì tâm còn thô và mắt bị lòa. Dù thấy,
không thể mặc lòng, hễ đã tạo tội ác sâu dày tất không tránh khỏi những điều
bất hảo. Hoặc tâm thần hôn muội, chưa nhớ đã quên. Hoặc thường sinh phiền
não dẫu không việc gì xúc động. Hoặc gặp người quân tử thì hoảng sợ mặt đỏ hồn
tiêu. Hoặc chẳng ưa nghe lời hay lẽ phải. Hoặc giúp người mà lại bị người oán.
Hoặc mộng thấy điên đảo, đến nỗi nói cuồng thất chí. Đó toàn là các tướng quái
nghiệt của tội ác hiện ra. Người nào gặp cảnh như thế này cố gắng dõng mảnh cải
quá tự tâm. May ra mới khỏi điều mê hoặc.
CHƯƠNG BA
PHƯƠNG PHÁP TÍCH THIỆN
Kinh Dịch nói: “Nhà nào chứa lành sẽ có dư phúc”.
Xưa nhà họ Nhan trước khi muốn gả con gái cho
Thúc Lương Ngột đã không quên tra xét công việc chứa đức của Tổ Tông nhà ấy để
suy xét con cháu về sau chắc chắn hưng thịnh.
Ðức Khổng Tử có lời khen vua Thuấn là đại hiếu
rằng: Ông Thuấn mà tế Tổ Tông, thì Tổ Tông chứng hưởng. Phúc để con cháu, thì
con cháu được trông nhờ.
Ông Dương Vinh người đất Kiến Ninh làm quan đến
chức Thiếu Sư, nhà đã nhiều đời sống với nghề đưa đò. Có một lần xảy ra cơn mưa
lụt nước ngập tràn phá hại dân cư, nhiều người bị trôi theo dòng nước. Trong
lúc đó, mọi kẻ khác lo bơi thuyền vớt của, riêng cụ nội và ông nội của Thiếu Sư
lại lo tìm vớt người, chẳng chút để tâm tới tài vật. Người chung quanh thấy thế
chê là ngu. Nhưng từ ngày sinh ra phụ thân của Thiếu Sư, nhà ông dần dần thịnh
vượng.
Có một Thần Nhân gia hình Ðạo Sĩ đến nói với ông
rằng: Tổ phụ nhà người có âm đức, con cháu sẽ nên quý hiển. Quả thật sau sinh
Thiếu Sư, mới 20 tuổi đã đậu Tiến sĩ, làm quan tới chức Tam Công (tức Thiếu Sư,
Thiếu Phó, Thiếu Bảo, hay Thái Hư Sư, Thái Phó, Thái Bảo). Cả Tăng Tổ, cụ nội,
ông nội và thân phụ của Thiếu Sư đều được phong chức quan lớn. Ai cũng biết
dòng dõi nhà này đến nay vẫn phát nhiều người hiền tài xuất chúng.
Ông Dương Tự Trừng, người huyện Ngân, tỉnh Triết
Giang. Được làm Huyện lại, giữ lòng nhân hậu, ngay thẳng, xử đoán công minh.
Nhân một lần ông gặp quan Tri Huyện đánh khảo một tù nhân máu tuôn lai láng mà
vẫn chưa đã giận. Dương Tự Trưng mới quỳ gối khuyên giải.
Ông Tri huyện trả lời: Những kẻ làm điều vượt
pháp trái lẽ thế này, khiến ai không giận được.
Dương Tự Trưng cúi đầu nói: Quan trên đã bỏ rơi
pháp luật, khiến dân tâm thất tán từ lâu rồi. Nay giả sử quan Huyện xét thấy
người kia quả có tội phạm, nên động lòng thương xót buồn bã. Thế mà xử trị sợ
còn chưa được công minh, huống lại nổi giận đùng đùng, làm sao công minh được.
Nghe câu ấy Quan Huyện liền dịu lòng thôi giận.
Dương Tự Trưng tuy nhà rất nghèo, nhưng ai tặng
biếu gì cũng không nhận. Hễ gặp tù nhân thiếu thốn ông thường tìm cách giúp đỡ.
Một lần nọ có vài người tù đang đói đến xin. Gặp
lúc nhà ông thiếu gạo, nếu giúp cho tù thì người nhà phải nhịn đói. Còn để cho
người nhà ăn, thì cảnh tù đói đáng thương, ông mới thương lượng với vợ.
Vợ ông hỏi: Các người tù ấy đâu đến?
Ông đáp: Từ Hàng Châu đến.
Nhận thấy họ đi xa đói khát, mặt mày xanh xao hốc
hác đáng thương. Vợ chồng ông liền đem phần gạo của mình nấu cháo cho họ ăn.
Về sau hai vợ chồng sinh được hai trai, một tên
Thủ Trần, một tên Thủ Chí. Cả hai đều làm quan tới chức Lại bộ tả hữu thị lang,
một người ở Nam Kinh, một người ở Bắc Kinh. Cháu trưởng làm Hình bộ thị lang.
Cháu thứ làm chức Liêm hiến Tỉnh Tứ Xuyên. Hiện nay (tức vào thời của Liễu Phàm
Tiên Sinh) Sở Đình hay Đức Chính cũng đều là dòng dõi của gia đình đó. Toàn là
những vị Triều Thần tên tuổi còn để tiếng đời nay.
Khoảng niên hiệu Chánh Thống đời Minh, có Ðặng
Mậu Thất nổi loạn tại Tỉnh Phúc Kiến. Sĩ dân trong xứ theo rất đông, Triều Đình
cử quan Đô hiếu Trương Giai người ở Huyện Ngân dùng mưu bắt giặc. Sau ông này
lại ủy quan Bố Chánh họ Tạ làm chức Ðô Sự tìm giết đánh giặc.
Tạ xét trong sổ hễ thấy người nào nghi không thực
sự oan phạm, thì âm thầm trao cho một lá cờ nhỏ vải trắng, dặn khi nào quân
binh đi đến thì cắm cờ ấy ra trước cửa, đồng thời ra lệnh cho quân lính không
ai được giết càn. Nhờ đó hàng vạn người sống sót khỏi bị chết oan. Về sau
con của Tạ là Thiên, thi đỗ Trạng Nguyên, làm Tể Tướng. Cháu Tạ tên Phỉ, thi đỗ
Thám Hoa.
Nhà họ Lâm ở huyện Phố Ðiển, nhiều đời trước
trong nhà có một bà lão ưa làm việc thiện. Bà thường lấy bột gạo làm thành từng
cái bánh để bố thí. Hễ ai đến xin là cho, không hề tỏ vẻ buồn chán. Có một vị
Ðạo Nhân hằng ngày đến xin sáu, bảy cái, bà lão vẫn vui lòng cho. Suốt ba năm
liền như thế.
Vị Ðạo Nhân biết bà thật có lòng thành bố thí mà
không cầu mong gì cả, mới bảo rằng: Tôi ăn của bà suốt ba năm, bây giờ biết lấy
gì báo đáp. Thôi tôi chỉ cho bà biết ở sau Phủ bà ở có chỗ đất tốt. Bà hãy dặn
con cháu say này đem bà đến đó an táng. Tất con cháu sẽ phát tước lộc lớn. Về
sau con cháu y lời dặn táng bà. Quả thật đời thứ nhất có tới chín người đỗ đạt.
Tiếp tục nhiều đời nhà này trở thành một nhà thế kiệt trâm anh.
Đến đỗi tại Tỉnh Phúc Kiến có câu ca dao:
Thiếu mặt người họ Lâm thì bảng vàng không nở.
Tóm lại những điều trên, tuy thi hành với nhiều
lối, nhưng rốt lại đồng là việc thiện. Những việc thiện này nếu gia tâm xem xét
kỹ sẽ thấy có chân có giả, có thẳng có cong, có âm có dương, có thị có phi, có
thiên có chánh, có nửa có toàn, có lớn có nhỏ, có khó có dễ. Nếu làm lành mà
không thấu đạt lý lẽ này, nhiều khi khổ công nhọc trí, chẳng đem lại lợi ích
gì.
CHƯƠNG BỐN
HIỆU QUẢ CỦA ĐỨC HẠNH KHIÊM TỐN
I. TỰ MÃN CÓ HẠI, KHIÊM TỐN CÓ LỢI
Kinh dịch nói Thiên Đạo vào Địa Đạo không ưu
doanh (doanh mãn), mà làm lợi cho cho khiêm (khiêm hư), là muốn biến cải con
người để tự biết sửa mình. Bởi thế nên làm gì việc kiêu ngạo tự mãn (doanh) thì
sẽ chuốc lấy tổn thất, còn nhún nhường (khiêm) coi mình như không thì lại được
lợi ích.
Như trái núi quá cao thì dễ bị lở, chỗ trũng
thường được nước chảy tới làm đầy. Quỷ thần cũng thường gây hại cho người tự
kiêu, và làm lợi ích cho người khiêm tốn nhũn nhặn.
Khiêm hư là điều mà Trời đất, quỷ thần và người
đều trọng.
Trong Kinh Dịch có quẻ khiêm là một quẻ đại cát vì
lục nào cũng đều tốt cả.
Kinh Thư nói: Người tự kiêu tự mãn thường bị nạn,
kẻ khiêm nhượng hư tâm thường đắc ích.
Theo Kinh Dịch và Kinh Thư thì khiêm nhượng là
điều tốt nhất.
Tôi từng cùng bạn bè nghiệm thử, thường thấy kẻ
hàn sĩ khi sắp hiển đạt, bao giờ cũng có một đức khiêm tốn hiện trên nét mặt.
Khoa thi năm Tân Mùi, tôi cùng mười người bạn ở
huyện Gia Thiện đi thi. Trong đó có anh Ðinh Kính Vũ, người tuy trẻ mà rất có
tính khiêm nhượng hư tâm. Tôi nói với anh Phí Cẩm Pha, thế nào khoa này anh
Ðinh Kính Vũ cũng đỗ.
Anh Phí gạn lại: Làm sao biết?
Tôi đáp: Chỉ người có đức khiêm hư mới được phúc.
Anh thử xem trong bọn mười người chúng ta, có ai có tính khiêm nhượng bằng anh
Ðinh Kính Vũ đâu?
Có ai bị trêu chọc mà không đối trả, bị chê bai
mà không biện bạch như anh Ðinh Kính Vũ đâu? Người có đức nết như thế, thế nào
cũng được Thiên địa quỷ thần đều trợ giúp cho, làm sao không phát được. Quả
nhiên lúc treo bảng thấy có tên anh Ðinh đậu cao.
Năm Ðinh Sửu tôi ở chung với anh Bằng Dữ Chi tại
Kinh Đô, bỗng thấy anh có phong độ khiêm tốn hư tâm khác hẳn tính tình hồi nhỏ.
Bạn anh ta, ông Lý Tế Nham,
là người cương trực mà thành thực. Thường thẳng thắn chỉ lỗi anh ngay mặt,
nhưng lúc nào cũng thấy anh bình tĩnh nghe theo chẳng hề thốt một lời cãi cọ.
Thấy vậy tôi nói thầm phúc có phúc hiện ra, sau họa có họa phát ra trước. Anh
này quả có hư tâm khiêm tốn như thế, anh chắc chắn gặp được điều hay, thế nào
anh ta cũng đậu kỳ này. Sau quả thật đúng như lời tôi dự đoán.
Ông Trương Úy Nham người huyện Giang Âm, học rộng
văn hay, có nhiều tiếng tăm trong văn giới. Năm Giáp Ngọ ông đến thi Hương tại
Nam Kinh, nhân ở lại một ngôi Chùa. Khi treo bảng thấy không có tên mình, mới
nổi nóng mắng nhiếc giám khảo là đồ lòa mắt chẳng trông thấy văn mình. Một vị
Ðạo Nhân gần bên nghe thấy mỉm cười, Trương giận luôn vị Ðạo Nhân.
Vị Ðạo Nhân nói: Văn của tướng công chắc không
hay lắm.
Trương càng giận, nộ rằng: Ông không thấy văn
tôi, sao biết văn tôi không hay.
Vị Ðạo Nhân nói: Tôi từng nghe kẻ làm văn quý ở
tâm khí bình hòa, nay thấy tướng công nóng giận mắng nhiếc lung tung, không có
chút chí hòa khí thì văn hay vào đâu được.
Trương bỗng đổi giận, tỏ lòng kính phục và xin
chỉ giáo.
Ðạo Nhân nói: Thi hỏng hay đậu là do mạng. Mạng
không đậu thì dù văn hay cũng vô ích, vậy ông cần để ý chuyển biến mạng mình.
Trương nói: Đã là mạng thì làm sao chuyển biến
được?
Ðạo nhân nói: Tạo mạng do nghiệp xưa, lập mạng do
nghiệp nay. Nếu ông gắng làm việc thiện, dồn chứa âm đức, thì có phúc gì mà
không cầu được.
Trương nói: Tôi chỉ là một tên bần sĩ, làm sao
làm được sự này.
Ðạo nhân nói: Việc lành, âm đức đều do tâm tạo.
Thường bảo tồn tâm đó thời công đức vô lượng. Ngay như đức tính khiêm hư đâu
phải mất tiền mới làm được. Thế mà ông không biết tự tỉnh để mà làm, lại giận
trách quan trường dốt nát. Phải chăng đó chỉ là tự ông không muốn làm chớ không
phải không thể làm?
Từ đó Trương để ý kiềm chế kiêu khí, ngày ngày tu
nhân bồi đức. Năm Ðinh Dậu, Trương mộng thấy đi đến một căn phòng cao lớn, gặp
được một bảng ký lục chuyện thi. Thấy ở giữa có nhiều hàng bỏ trống không tên.
Một người đứng bên nói, đây là bảng ghi chép khoa thi năm nay.
Trương hỏi: Sao bỏ trống nhiều chỗ không tên?
Người ấy đáp: Về việc thi cử cứ ba năm xét
một lần, hễ người nào chứa nhiều công đức, thì mới có tên vào đó. Chỗ bỏ trống
trong bảng ký lục này là tại trước kia người có công đức đáng đậu, sau vi phạm
tội ác mà tên bị xóa đi.
Cuối cùng lại thấy một dòng chữ rằng, nhà ngươi
ba năm lại đây giữ thân cẩn thận, tên ngươi có thể được điền vào bảng này, hy
vọng ngươi cố gắng. Quả nhiên khoa ấy, Trương được đậu thứ 105 trên bảng vàng.
Lời xưa nói: Người có chí ở công danh tất được
công danh. Người có chí ở giàu sang tất được giàu sang. Người có chí như cây có
gốc. Khi đã lập chí phải thường nên tập tính khiêm tốn. Dè chừng mọi điều hành
động. Được như thế tự nhiên cảm động Trời đất quỷ thần mà phúc đức đầy đủ nơi
ta vậy.
II. LÒNG KHIÊM TỐN, NHÚN NHƯỜNG, NHẪN NHỊN
NGUỒN GỐC CỦA PHÚC
Theo đấy mà xét, chỉ ngẩng cao đầu ba thước ắt đã
có Thần Minh soi xét, muốn tránh hung hiểm họa tai, hay muốn mong được sự việc
tốt lành, hẳn nhiên đều do tự ở nơi ta biết giữ lấy thiện tâm, một mực làm lành
tránh ác, không một chút nào đắc tội với Thiên địa quỷ Thần, lại biết khiêm tốn
nhũn nhặn. Không tự cao, tự đại, khiến Thiên địa quỷ Thần thường có lòng thương
mới mong có được hưởng phúc. Người mà đầy lòng kiêu ngạo, tự mãn, nhất định khí
lượng hẹp hòi, dù cho có phát đạt cũng chỉ một thời mà thôi, chẳng được lâu bền
và cũng chẳng được phúc.
Người đã có chút kiến thức ắt phải có độ lượng
rộng rãi, bụng dạ không hẹp hòi mới không tự mình bỏ lỡ cơ hội được hưởng phúc,
huống chi người khiêm tốn tự hạ mình thường hay được người đời vui lòng chỉ
đường hay chỉ lẽ phải cho, lợi ích thực vô cùng tận.
Đây là điều mà những người tu học không thể không
hiểu biết và không thể thiếu được vậy.
Lời người xưa có nói: Người có chí hướng cũng như
cây có gốc rễ thì mới sinh trưởng ra hoa, ra trái. Người có chí muốn lập công
danh thì nhất định sẽ được công danh, muốn được phú quý ắt hẵn sẽ được phú quý.
Đã lập chí thì nên thường tự nhắc nhở lấy mình cần phải khiêm hư nhún nhường dù
có chuyện thật nhỏ nhặt, đối với mọi người cũng phải để ý cư xử nhũn nhặn thì
mới cảm ứng được với Trời đất, và cũng nên hiểu rằng việc tạo phúc là do tự
mình thành tâm mà tạo nên, chẳng hạn như muốn cầu được đỗ đạt ắt phải vững ý
chí chân thành buổi ban đầu, chứ không phải chỉ nay hứng chí thì cầu , mai
không hứng thì lại thôi.
CHƯƠNG NĂM
BÌNH DẠY VỀ PHƯƠNG PHÁP TÍCH
I. BÌNH LUẬN RÕ RÀNG VỀ THIỆN
Nếu xét một cách tinh tường mà nói, thì thiện
có chân có giả, có ngay thẳng. Có khuất khúc. Có âm dương. Có phải hay chẳng
phải. Có thiên lệch hay chính đáng. Có đầy có vơi. Có tiểu có đại. Có dễ hay
khó. Tất cả đều cần bàn luận rõ ràng.
Làm việc thiện mà không hiểu rõ đạo lý, cứ tự cho
việc mình làm là hành thiện, ắt không khỏi tạo nghiệp, uổng phí mất tâm tư một
cách vô ích.
Thế nào là chân thiện và giả thiện?
Xưa có một số Nho sinh yết kiến Trung Phong Hoà
Thượng (một vị Cao Tăng Triều Đại nhà Nguyên), mà hỏi:
Nhà Phật bàn thiện ác báo ứng như bóng theo hình.
Tức làm lành gặp lành, làm ác gặp ác. Nay có người nọ thiện mà con cháu không
được thịnh vượng. Mà kẻ kia ác thì gia đình lại phát đạt. Vậy là Phật nói về
việc báo ứng thực vô căn cứ sao?
Hoà Thượng nói: Người phàm tâm tính chưa
được tẩy sạch, chưa được thanh tịnh, tuệ nhãn chưa khai. Thường nhận thiện làm
ác, cho ác là thiện. Người như vậy không phải là hiếm có. Đã tự mình lẫn lộn
phải trái cho ác là thiện, cho thiện là ác, điên đảo đảo điên mà không hay. Lại
còn oán trách Trời cho báo ứng là sai, là không công bằng ư.
Nho sinh lại hỏi: Mọi người thấy thiện thì cho là
thiện, thấy ác thì cho là ác, sao lại bảo là lẫn lộn đảo điên vậy?
Hoà Thượng bảo họ thử thí dụ xem sự tình thế nào
là thiện thế nào là ác.
Một người trong họ nói: Mắng chửi đánh đập
người là ác, tôn kính lễ phép với người là thiện.
Hoà Thượng nói không nhất định là như vậy.
Một người khác cho là tham lam, lấy bậy của người
là ác, gìn giữ sự thanh bạch liêm khiết là thiện.
Hoà Thượng cũng bảo không nhất định là như vậy.
Mọi người đều lần lượt đưa ra thí dụ về thiện và
ác. Nhưng Trung Phong Hoà Thượng đều bảo là không nhất định là như vậy.
Nhân thế bọn họ đều thỉnh Hoà Thượng giảng giải
cho.
II. ĐỊNH NGHĨA CHỮ THIỆN
Hoà Thượng Trung Phong chỉ dạy rằng: Giúp
ích người gọi là thiện, chỉ vì ích mình gọi là ác. Vì giúp ích người cho nên dù
có đánh mắng cũng vẫn là thiện. Trái lại chỉ vì ích mình nên dù có kính trọng
người cũng vẫn là ác.
Vì vậy người làm thiện đem lại ích lợi cho người
là công. Mà công tức là chân. Còn vì lợi mình ấy là tư. Mà tư tức là giả.
Lại việc thiện tự lòng phát ra là chân. Tập theo
thói cũ là giả. Không chấp tướng mà làm là chân, chấp tướng mà làm là giả.
Lại nữa làm việc thiện mà xuất phát từ tấm lòng
thành là chân thiện. Còn hời hợt chiếu lệ mà làm là giả thiện.
Hơn nữa hành thiện mà không nghĩ đến một sự báo
đáp nào cả là chân thiện. Trái lại còn hy vọng có sự đền đáp là giả thiện. Đó
là những điều tự mình cần khảo sát kỹ lưỡng.
1. THẾ NÀO LÀ ÂM THIỆN, DƯƠNG THIỆN
Phàm làm việc lành mà người ngoài biết được
là dương thiện. Làm việc lành mà người ngoài không biết được là âm đức. Âm
đức được phúc báo. Dương thiện hưởng danh thơm. Nhưng danh thơm thường là
điều đáng húy kỵ. Vì xưa nay biết bao nhiêu người vì háo danh thành thử bị danh
làm hại, lâm vào cảnh tai họa. Ngược lại những người không tội lỗi mà cứ bị
thiên hạ chê oan. Thì lắm lúc con cháu họ được phát đạt.
Cái lẽ âm dương như thế, phải để tâm nhiều mới
hiểu hết.
2. THẾ NÀO LÀ PHẢI VÀ CHẲNG PHẢI
Nước Lỗ xưa có luật. Người Lỗ nào chuộc
được người bị bắt làm kẻ hầu hạ ở nước khác về. Thì được quan phủ thưởng tiền.
Tử Cống (học trò đức Khổng Tử tên là Tứ) chuộc người về mà không nhận tiền
thưởng.
Đức Khổng nghe biết lấy làm buồn phiền mà bảo
rằng: Tứ làm việc thất sách rồi.
Ôi Thánh Nhân xử sự nhất cử nhất động có thể cải
sửa phong tục thay đổi tập quán. Làm gương mẫu cho bách tính noi theo. Chẳng
phải cứ nhiệm ý làm những việc thích hợp với riêng mình.
Nay nước Lỗ người giàu thì ít, người nghèo thì
nhiều. Nếu nhận thưởng cho là tham tiền là không liêm khiết. Còn không lãnh
thưởng thì người nghèo sao có tiền tiếp tục chuộc người? Từ nay về sau chắc
không ai chuộc người ở các Nước Chư Hầu về nữa.
Tử Lộ (tên Do, học trò Đức Khổng) cứu người khỏi
chết đuối, được tạ ân một con trâu, Tử Lộ nhận lãnh. Khổng Tử hay chuyện hoan
hỷ bảo rằng: Từ nay về sau ở nước Lỗ sẽ có nhiều người lo cấp cứu kẻ chết đuối.
Cứ lấy mắt thường tình mà xem. Việc Tử Cống
không nhận tiền bồi thường là cao quí. Tử Lộ nhận trâu là thấp hèn. Nhưng Ðức
Khổng Tử lại khen Tử Lộ mà chê Tử Cống.
Vậy nên biết làm người không nên chỉ nghĩ đến lợi
ích trước mắt. Mà cần xét xem hành động đó có ảnh hưởng tệ hại gì về sau này
không.
Không nên bàn tới lợi ích nhất thời ở đời này. Mà
phải nghĩ tới tương lai xa. Cũng chẳng nên chỉ nghĩ riêng cho cá nhân mình, mà
phải nghĩ cho cả thiên hạ đại chúng nữa.
Việc làm hiện nay tuy bề ngoài là thiện nhưng
trong tương lai lại di hại cho người, thì thiện mà thực chẳng phải thiện.
Còn việc làm hiện thời tuy chẳng phải thiện, nhưng
về sau này lại có lợi ích cứu giúp người, thì tuy ngày nay chẳng phải thiện mà
chính thực là thiện vậy.
Ở đời có nhiều sự tình tương tự. Chẳng hạn như
tưởng là hợp lễ nghĩa, là có trung tín, từ tâm mà thực ra, lại trái lễ nghĩa,
không phải trung tín hay từ tâm, đều phải quyết đoán chọn lựa kỹ càng.
3. THẾ NÀO LÀ THIÊN LỆCH VÀ CHÍNH ĐÁNG
Xưa ông Lã Văn Ý, lúc mới từ chức Tể Tướng,
cáo lão về quê. Dân chúng bốn phương đến nghênh đón như Thái Sơn Bắc Đẩu. Nhưng
có một người làng say rượu mạ lỵ ông. Lã Công điềm nhiên bất động bảo gia nhân,
kẻ say chẳng chấp làm gì, đóng cửa lại mặc kệ hắn.
Qua một năm sau, người đó phạm tội tử hình. Lã
công hay biết sự tình mới hối hận rằng, giá mà ngày ấy ta bắt hắn đưa quan nha
xử phạt, thì hắn có thể bị phạt một tội nhẹ mà tránh khỏi phạm trọng tội về
sau.
Ta lúc đó chỉ muốn giữ lòng nhân hậu tha thứ cho
hắn. Không ngờ hoá ra nuôi dưỡng tính ngông cuồng của hắn để phạm tội tử hình
như ngày nay vậy.
Đó là một sự việc do làm thiện hoá ra làm ác. Cho
hay có khi tâm lành mà hành sự lại ác. Có khi tâm ác mà hành sự lại lành.
4. THẾ NÀO LÀ ĐẦY VÀ VƠI?
Kinh Dịch nói việc thiện mà không tích luỹ
cho nhiều không đủ để được danh thơm tiếng tốt. Việc ác mà không đọng lại nhiều
chẳng đủ để mang hoạ sát thân.
Kinh Thư có nói nhà Thương tội ác quá nhiều như
nước vỡ bờ vì thế mà Trụ Vương bị diệt. Việc tích thiện cũng như lưu trữ vật
dụng, nếu chăm chỉ cất giữ ắt sẽ đầy kho. Còn biếng nhác không chịu tích lại,
thì vơi chứ không đầy. Chuyện làm thiện được đầy hay vơi là vậy.
Xưa có một nữ thí chủ vào Chùa lễ Phật, muốn cúng
dường nhưng lại nghèo. Trong túi chỉ còn hai đồng, đem cả ra để cúng.
Vị Trụ Trì đích thân làm lễ bái sám hồi hướng
cho.
Sau nữ nhân đó được tuyển vào cung, tiền tài phú
quý có thừa. Đến Chùa lễ Phật đem cả ngàn lượng bạc cúng dường. Hoà Thượng Trụ
Trì chỉ sai đồ đệ thay mình làm lễ hồi hướng mà thôi.
Nữ thí chủ nọ thấy vậy liền hỏi: Trước đây tôi
chỉ cúng dường có hai đồng mà Trụ Trì đích thân làm lễ bái sám, hồi hướng cho.
Nay cúng cả ngàn lượng bạc mà Ngài không tự mình làm lễ là sao vậy?
Vị Hoà Thượng đáp: Trước kia tiền bố
thí quả thật ít ỏi nhưng xuất phát từ tấm lòng thật chân thành. Nếu bần Tăng
không đích thân làm lễ thì không đủ báo đáp được ân đức ấy. Nay tiền cúng dường
tuy nhiều, nhưng tâm bố thí thì không được chí thành như trước. Nên bảo đồ đệ
thay bần Tăng làm lễ cũng đủ.
Với lòng chí thành bố thí cúng dường chỉ hai đồng
mà việc thiện được viên mãn. Còn bố thí cả ngàn lượng bạc mà lòng không được
chí thiết thì công đức đó chỉ được bán phần mà thôi.
Chung Ly Quyền chỉ dạy cho Lã Động Tân cách luyện
đan chuyển sắt thành vàng, có thể đem dùng để cứu giúp người đời.
Lã Động Tân hỏi rằng vàng đó sau có thể biến chất
không?
Chung Ly Quyền bảo 500 năm sau vàng đó sẽ trở về
nguyên bản chất là sắt.
Họ Lã nói : Như vậy sẽ gia hại cho người đời 500
năm về sau, ta chẳng học phép ấy.
Chung Ly Quyền bảo: Muốn tu Tiên cần tích luỹ
công đức 3000 điều. Nhưng chỉ một lời của nhà ngươi nói đó cũng đủ mãn 3000
công đức rồi.
Đây lại thêm một thuyết nữa về đầy vơi hay bán
mãn vậy.
Làm lành mà tâm không chấp trước thì mỗi việc đều
được viên mãn. Trái lại tuy làm suốt đời mà việc lành cũng chỉ có được một nửa.
Ví như đem của giúp người mà trong không thấy mình giúp. Ngoài không thấy người
nhận. Trung gian không thấy vật đem giúp. Thì được gọi là bố thí tam luân thanh
tịnh hay nhất tâm thanh tịnh.
Bố thí như vậy, dù một lon gạo cũng có thể
gây vô lượng phúc. Một đồng bạc có thể tiêu ngàn kiếp tội. Nhược bằng tâm khư
khư chấp trước, thời tuy bố thí cả thoi vàng, phúc đức cũng chỉ có được một
nửa. Ðây lại một cách xét việc lành đầy, lưng, nửa, toàn vậy.
5. THẾ NÀO LÀ ĐẠI VÀ TIỂU
Xưa Vệ Trọng Đạt, một quan chức ở Hàn Lâm Viện bị
nhiếp hồn đưa xuống Âm Phủ. Diêm Vương sai các Phán Quan trình những cuốn sổ
ghi điều thiện và ác ra để xét. Nếu đem so sánh thì những sổ ghi điều ác chất
đầy một đống còn sổ ghi điều thiện có mỗi quyển mỏng dính.
Diêm Vương cho đem lên bàn cân thì bên một cuốn
sổ mỏng dính kia lại nặng hơn tất cả các cuốn ghi điều ác cộng lại.
Trọng Đạt nhân thế mới hỏi: Năm nay tôi mới chưa
đến 40 tuổi đời mà sao tội lỗi lại có thể nhiều đến thế?
Diêm Vương bảo: Mỗi một niệm ác kể là một tội
không cần đợi đến lúc có thực sự phạm phải hay không.
Trọng Đạt lại hỏi trong cuốn sổ mỏng kia có ghi
việc thiện gì vậy.
Diêm Vương bảo: Triều Đình đã từng dự tính khởi
đại công tác tu sửa cầu đá ở Tam Sơn. Nhà ngươi dâng sớ can gián, sớ văn đó có
ghi chép vào sổ vậy.
Trọng Đạt thưa: Bản chức tuy có dâng sớ, nhưng
Triều Đình không y theo lời tấu trình, thì sự việc đâu có ích gì?
Diêm Vương lại bảo cho hay là: Tuy Triều Đình
không y theo lời tấu, nhưng một niệm thiện đó của nhà người là vì lợi ích của
toàn dân. Muốn cho họ khỏi bị đi lao công vất vả, khỏi bị sưu cao thuế nặng,
nếu mà lời tấu trình được Triều Đình y theo, thì công đức nhà người thật vô
cùng lớn lao.
Cho nên nếu có chí nguyện làm việc lợi ích cho
Quốc Gia thiên hạ, cho đại chúng thì tuy việc làm đó có nhỏ mà công đức lại
lớn. Còn nếu chỉ nghĩ làm lợi riêng cho thân mình thì tuy có làm nhiều mà công
đức lại nhỏ vậy.
6. THẾ NÀO LÀ KHÓ VÀ DỄ
Các vị Tiên Nho xưa có nói muốn khắc phục mình,
muốn thắng được tâm mình thì nên bắt đầu từ chỗ khó khắc phục mà khởi tâm
trước.
Đức Khổng Tử bàn về nhân ái cũng nói bắt đầu từ
chỗ khó mà thi hành trước. Tức là từ chỗ phải thắng được lòng mình vậy, bởi lẽ
khó mà làm được thì dễ ắt cũng làm xong.
Chẳng hạn như ở Giang Tây có ông già họ Thư làm
nghề dạy học. Nhân gặp một người nghèo thiếu tiền quan. Vợ người ấy sắp bị quan
bắt làm tôi tớ. Ông liền bỏ số tiền nhập học của học trò mà ông đã dồn được
trong hai năm ra chuộc, nhờ đó vợ chồng người kia khỏi bị ly tán.
Ông già họ Trương ở tỉnh Trực Lệ, nhân gặp một
người bị nợ khốn, phải đem cầm vợ con. Ông liền bỏ số tiền mình để dành được
trong 10 năm ra chuộc. Nhờ đó vợ con người kia được an toàn.
Bỏ tiền cứu người như hai trường hợp trên thật là
hiếm có, ít ai làm nổi.
Lại như ông già họ Cận ở Trấn Giang tuổi đã cao,
không có con nối dõi. Lân gia có người đem đứa con gái còn trẻ đến nạp cho làm
thiếp. Ông không nhẫn tâm thu nạp mà đem hoàn trả lại. Đó là chỗ khó có
thể nhẫn mà nhẫn được. Vậy nên phúc báo Trời cho hưởng sẽ hậu.
Phàm những người có tiền tài, có quyền thế mà họ
muốn làm phúc thì thực là dễ. Dễ mà chẳng làm là tự huỷ hoại mình. Người nghèo
hèn khốn cùng muốn làm phúc thật là khó. Khó nhưng mà làm được, đó mới thực là
đáng quý vậy.
III . TÙY DUYÊN HẾT SỨC HÀNH THIỆN
Tuỳ lúc gặp duyên lành cứu giúp người. Hay tuỳ hỷ
công đức mà hành thiện. Nếu phân biệt ra từng loại thì rất nhiều. Nhưng đại
khái có mười loại như sau:
- Trợ giúp người cùng làm thiện.
- Giữ lòng kính mến người.
- Tùy hỷ việc thiện của người.
- Khuyến khích người làm thiện.
- Cứu người gặp nguy khốn.
- Kiến thiết tu bổ có lợi ích lớn.
- Xả tài làm phúc.
- Gìn giữ bảo hộ Chánh Pháp.
- Kính trọng Sư Trưởng.
- Thương tiếc mạng sống loài vật.
1. THẾ NÀO LÀ TRỢ GIÚP NGƯỜI CÙNG LÀM THIỆN
Xưa Vua Thuấn lúc chưa tước vị thấy những người
đánh cá ở đầm Lôi Trạch, đều tranh chiếm chỗ nước sâu dầy nhiều cá, còn người
già yếu phải tìm chỗ nước nông cạn chảy xiết ít cá mà đánh. Nên có lòng trắc ẩn
bất nhẫn, bèn cùng tới đánh cá. Thấy người nào tranh dành chỗ thì ông im lặng
không đả động gì đến tánh xấu ấy. Còn thấy người nào mà có lòng nhường chỗ thì
ông hết lời khen ngợi, mà theo gương đó cũng nhường chỗ cho người khác.
Một năm sau những người đánh cá ở chỗ nước sâu ai cũng có lòng nhường chỗ cho
nhau mà không tranh dành nữa.
Vua Thuấn thực sáng suốt, há chẳng phải mất lời
mà khuyên bảo giáo hoá được người sao! Tuy không dùng lời mà dùng chính
bản thân mình làm gương mẫu cho người khác sửa đổi. Đây là chỗ khổ tâm và
khéo dụng công của Vua Thuấn vậy.
Chúng ta ở thời Mạt Pháp này, chẳng nên thấy mình
có chỗ sở trường mà khinh khi chèn ép người. Chẳng nên lấy chỗ hay giỏi của
mình mà đem so sánh xét người. Ẩn ác dương thiện tức là thấy người ta dở, có
lỗi lầm thì gặp riêng khuyên bảo, đừng ra ngoài nói xấu làm người ta mất hết
danh dự. Gặp được việc làm tốt của ai thì nên ghi nhớ mà học theo, đồng thời
hết sức ca ngợi để mọi người cùng được biết.
2. THẾ NÀO LÀ THÀNH TOÀN VIỆC THIỆN CỦA NGƯỜI
Một hòn đá trong có ngọc nếu bị ném bỏ ắt
sẽ vỡ tan như hòn ngói. Nhưng nếu đem mài dũa chạm trổ ắt sẽ thành khuê trượng
hốt ngọc. Cho nên phàm thấy người làm việc thiện. Hoặc thấy ý chí và tư chất
của họ có thể tiến thủ thành công. Thì đều nên khuyến dụ trợ giúp họ. Hoặc khen
ngợi khích lệ. Hoặc gìn giữ bảo bọc họ. Hoặc biện bạch hộ cho họ, hay chia xẻ
cùng họ nỗi oan ức bị người ghen tị mà vu hoạ phỉ báng họ. Cốt sao giúp cho họ
được thành công mà thôi.
Đại khái con người thường không ưa thích những
người không giống như mình. Chẳng hạn như ác không ưa thiện. Tiểu nhân không
thích quân tử. Người trong một xóm làng, thiện thì ít mà xấu ác thì nhiều. Vì
thế người thiện ở đời bị kém thế khó có thể tự lập được vững vàng.
Hơn nữa người hào kiệt, thông minh tài cán, tính
tình cương trực không trọng bề ngoài. Không ưa tiểu tiết nên hay bị người ta
hiểu lầm mà chỉ trích phê bình. Vì thế cho nên việc thiện thường dễ bị hư hỏng.
Mà người thiện thường bị nhạo báng, cười chê. Chỉ duy có người trưởng giả nhân
hậu mới hiểu rõ được sự tình mà luôn phù trợ giúp cho họ được thành công. Thành
toàn cho người thì công đức thực là lớn lao vô cùng.
3. THẾ NÀO LÀ KHUYẾN KHÍCH NGƯỜI LÀM THIỆN
Con người ta đã sinh ra làm người, ai mà
không có lương tâm. Đường đời mênh mông mù mịt rất dễ bị sa đoạ chìm đắm vì lợi
danh. Đối với những người còn mải mê tham danh tham lợi tạo thành nghiệp ác. Ta
nên tìm cách cảnh tỉnh họ cho thoát khỏi sự mê hoặc. Cũng giống như họ đang
trải qua một giấc mộng lớn trong đêm dài mà ta giúp họ đoạn diệt, bạt trừ hết.
Thì ân huệ đó thật vô biên vô lượng.
Hàn Dũ đời nhà Đường có nói: Dùng lời thì
khuyên người được một đời. Làm sách thì khuyên người được trăm đời.
Việc khuyên người làm lành ở đây đem so với việc
cùng người làm lành ở trên có phần sút kém. Song theo bệnh cho thuốc, theo thời
khuyên răn vẫn thâu được hiệu quả rất nhiều.
Còn như dùng chính bản thân mình hành động làm
mẫu mực, làm gương cho người trông thấy để họ tự nhiên tỉnh ngộ biết được lỗi
lầm mà sửa đổi thì hiệu quả cũng chẳng kém mà không để lại hình tích gì.
Có hai phương tiện này đều chẳng thể bỏ qua.
Muốn giúp người, khuyên người cần phải thông minh
sáng suốt. Biết tuỳ thời, tuỳ người không để mất lời tức phí lời mình nói mà
người không nghe. Cũng không để mất người, tức là gặp người có thể khuyên cải
được mà mình không hành động để lỡ mất dịp làm lành, như thế là kém hiểu biết
không có trí tuệ vậy.
4. THẾ NÀO LÀ CỨU NGƯỜI NGUY CẤP
Người ta ai cũng có lúc gặp phải sự tai
ương hoạn nạn xảy ra. Vậy khi gặp ai lâm cảnh ách nạn hãy xem như chính mình
lâm nạn mà lo vội vã cứu trừ. Hoặc lấy lời biện bạch an ủi. Hoặc dùng phương
chước khôn ngoan giải trừ.
Thôi Tử có nói: Làm ân không cần phải đợi lớn lao
mới làm. Chỉ cần cứu kịp người lúc cấp nạn là quý. Ðó thật là lời của kẻ
có lòng nhân vậy.
Người đời lấy cơm ăn áo mặc làm mạng sống, cho
nên rất quý trọng đồng tiền. Nay chúng ta có thể xả bỏ được tức là trong lòng
bỏ được tính keo kiệt. Ngoài mặt thì cứu giúp được người lúc cần cấp. Lúc mới
bắt đầu thì có vẻ miễn cưỡng mà làm, nhưng rốt cuộc xả bỏ quen rồi thì an nhiên
tự tại hành động, có thể rửa sạch được lòng riêng tư, vị kỷ, trừ bỏ được tính
biển lận.
5. THẾ NÀO LÀ GIỮ GÌN BẢO HỘ CHÁNH PHÁP
Góp phần công đức xây dựng Đạo Tràng. Chăm
làm việc Phật Sự. Ấn tống Kinh Điển. Lưu truyền sách vở bài giảng của các bậc
cao Tăng Đại Đức Tổ Sư và các bậc Thánh Hiền là bảo hộ Chánh Pháp.
Bản thân mình thì học, hiểu và thực hành đúng
Chánh Pháp. Rồi đem Chánh Pháp đó lan truyền đi cho những người khác. Ấy cũng
là bảo hộ Chánh Pháp.
CHƯƠNG SÁU
TÓM TẮT CUỘC ĐỜI
CƯ SĨ VIÊN
LIỄU PHÀM
Liễu Phàm vốn tên là Viên Hoàng, tự là Không Nghi
người huyện Ngô Giang, tỉnh Giang Tô. Lúc còn nhỏ, Tiên Sinh ở rể tại nhà họ
Thù, Huyện Gia Thiện, tỉnh Triết Giang. Nhân đó được cấp học bổng làm công độc
sinh tại huyện Gia Thiện.
Vào năm Long Khánh thứ 4 (1570 TL) đời Minh Mục
Tông, Tiên Sinh đỗ Cử Nhân trong kì thi Hương. Năm Vạn Lịch thứ 14 (1586 TL)
đời Minh Thần Tông, đỗ Tiến Sĩ, vâng lệnh đến huyện Bửu Để tỉnh Hà Bắc làm
Huyện trưởng. Bảy năm sau, Tiên Sinh được thăng làm Chủ quản Ty Chức phương
thuộc Bộ Binh, vừa mới nhận chức thì quân Nhật xâm phạm Triều Tiên.
Triều Tiên cầu cứu Trung Quốc gửi binh. Quan Kinh
Lược (Trưởng quan về quân sự đóng tại Triều Tiên) là Tổng Ứng Xương tấu trình
cho Liễu Phàm giữ chức “Quân tiền tán hoạch” (tham mưu trưởng) kiêm đốc đạo
quân đội Triều Tiên. Đề đốc Lý Như Tùng đang nắm binh quyền, bàn chuyện với
quân Nhật, giả hứa sẽ cấp chức bổng lộc cho.
Quân Nhật tin thật nên không đề phòng gì. Lý Như
Tùng phát binh đột kích, phá tan những nơi địa thế hiểm yếu, do đó mà đánh bại
được quân Nhật.
Tiên Sinh Liễu Phàm nhân sự việc ấy mà chỉ trích
Lý Như Tùng rằng không nên dùng thủ đoạn xảo trá để đối với quân Nhật, như thế
là làm tổn hại uy danh Quốc Gia của trình đại Minh. Vả lại bọn binh sĩ thủ hạ
của Lý Như Tùng giết hại dân bừa bãi, lại được ghi công đầu. Liễu Phàm cứ lấy
lý mà đấu tranh với Lý Như Tùng.
Lý Như Tùng giận dữ, không những không tiếp nhận
lời khuyên bảo, lại còn tự ý mang quân đội tiến về phía Đông, khiến đội quân do
Liễu Phàm suất lĩnh bị cô thế, không có quân cứu viện. Quân Nhật thừa cơ tấn
công đội quân của Liễu Phàm, may mà Liễu Phàm có cơ trí ứng phó, đẩy lui được
quân Nhật.
Còn đội quân của Lý Như Tùng thì sau cùng bị quân
Nhật đánh bại. Muốn tìm cánh chạy tội, Lý Như Tùng bèn nêu ra mười tội danh gán
cho Viên Liễu Phàm. Liễu Phàm nhanh chóng bị đề nghị đưa ra xét xử, cuối cùng,
đang giữ chức Thập Di (Gián Quan), ông bị buộc ngưng chức mà về quê.
Tại quê nhà, Liễu Phàm hết sức thành khẩn thiết
thực, chuyên làm việc thiện.
Ngài Tu hành tinh tấn theo Pháp Môn Tịnh Độ, niệm
Phật Vãng Sinh Tây Phương Cực Lạc năm 74 tuổi.
Vào năm Thiên Khải đời Minh Hy Tông, án oan của
Liễu Phàm mới được trắng rõ, Triều Đình truy cứu lại công lao chinh thảo quân
Nhật của Tiên Sinh. Phong tặng Tiên Sinh quan hàm “Thượng Bửu Ty Thiếu Lang”.
Tiên Sinh Liễu Phàm từ khi còn là học sinh đã rất thích nghiên cứu học vấn, bất
luận sách xưa hay nay, chẳng kể việc nhẹ hay nặng, Tiên Sinh đều hết lòng
nghiên cứu và thông đạt tất cả, như: Thiên văn, Luật pháp, Thủy lợi, Lý số,
Đinh bị, Địa lý…
Trong lúc làm Huyện trưởng tại huyển Bửu Để, Tiên
sinh Liễu Phàm hết sức chú trong đến phúc lợi của nhân dân, luôn luôn tìm cách
làm sao cho địa phương được lợi. Bấy giờ huyện Bửu Để thường bị nạn ngập nước,
Tiên Sinh tích cực xây dựng thủy lợi, khai thông ba nhánh sông với nhau, xây đê
phòng chống lũ lụt, lại còn chỉ bảo nhân dân trồng liễu ven biển, mỗi khi nước
biển tràn vào mang đất cát đổ lên bờ, gặp các cây liễu dồn đọng lại lâu ngày
biến thành một dãy đê. Tiên Sinh đốc thúc chỉ đạo dân chúng đào các ngòi lạch
trên đê, lại khuyến khích dân chúng trồng trọt, do đó đất bỏ hoang dần dần được
khai khẩn. Tiên Sinh lại miễn cho dân các thứ tạp dịch để thuận tiện trong sinh
hoạt của dân, khiến dân được an cư lạc nghiệp.
Trong nhà Tiên Sinh Liễu Phàm chẳng có tài sản
gì, sinh hoạt trong nhà rất đơn sơ nhưng Tiên Sinh lại rất ưa thích bố thí. Mỗi
ngày Tiên Sinh đều Tụng Kinh, Trì Chú, Tham Thiền, Tọa Định, tu tập chỉ, quán.
Không kể công việc công tư bận rộn, Tiên Sinh đều theo đúng thời biểu đã định,
không bao giờ gián đoạn.
Qua đó, Tiên Sinh viết ra bốn chương đoạn văn,
bấy giờ gọi là “Giới tử văn” (văn răn dạy con) để dạy con mình, sau đó được lưu
hành rộng rãi trong đời, tức là sách “Bốn bài giáo huấn của Liễu Phàm” (Liễu
Phầm Tứ Huấn) này đây.
Phu nhân của Tiên Sinh Liễu Phàm rất hiền thục,
thông minh, thường giúp Tiên Sinh hành thiện, bố thí, lại y theo các công đức
Tiên Sinh đã làm mà ghi vào sổ công quá cách (sổ ghi các điều thiện, điều ác đã
làm). Vì không từng được học nên bà không biết viết chữ, do đó bà dùng khoanh
mực chấm mực đỏ mực đen, mỗi ngày đều ký hiệu lên cuốn lịch.
Có lần bà may áo khoác mùa đông cho con, định mua
sợi lông để làm áo trong.
Tiên Sinh hỏi: “Trong nhà có bông tơ vừa nhẹ vừa
ấm, sao lại mua sợi lông?”
Phu nhân đáp: “Bông tơ khá đắt tiền, sợi lông rẻ
hơn nhiều, tôi định đem bông tơ nhà mình đổi sợi bông, như thế thì có thể đủ
may mấy cái áo bông tặng cho người nghèo khổ mặc qua mùa đông.
Tiên Sinh nghe thế thì vui mừng mà nói: “Bà còn
bố thí cung kính thành khẩn như thế thì chẳng sợ gì con chúng ta không có phúc
báo”.
Con của hai người là Viên Nghiễm về sau đỗ Tiến
Sĩ, ông về hưu khi đang giữ chức Huyện Trưởng Huyện Cao Yếu Tỉnh Quảng Đông.
TIỂU
SỬ HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN SIÊU
“Sư
tên thật là Võ Trọng Tường, sinh ngày 15 tháng 7 năm Tân Dậu 1921 âm lịch trong
một gia đình mộ đạo Phật ở làng Thần Phù, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Năm 14 tuổi (1935), sư xuất
gia học học Phật pháp tại chùa Trúc Lâm, Huế -
trường Phật học đầu tiên của Hội An Nam Phật Học - trải qua các chương trình
Phật học sơ cấp, trung cấp rồi đến cao cấp.
Năm 23 tuổi (1944), sư trở thành giảng viên của trường Phật học
nói trên - lúc này đã chuyển địa điểm sang Đại Tòng Lâm Kim Sơn, Huế.
Từ năm 1950 đến năm 1955, sư được cử làm Chánh Hội trưởng Tỉnh hội
Phật giáo Thừa Thiên.
Từ năm 1957 đến năm 1962, sư được cử làm Đốc giáo Phật học đường
Trung Việt tại chùa Hải Đức, Nha Trang.
Năm 1962, sư trở lại Huế và làm giảng viên Phật học và tham gia
công tác của Tổng trị sự Phật giáo Trung phần và Tỉnh hội Phật giáo Thừa Thiên
- Huế.
Ngày 20 tháng 8 năm 1963, sư bị Chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam vì phản đối chính quyền này đàn áp
Phật giáo. Đến khi Diệm bị lật đổ, sư mới được thả.
Từ năm 1964 đến năm 1974, sư được của làm Phó đại diện Phật giáo
miền Vạn Hạnh; điều hành và giảng dạy lớp Cao đẳng Phật học chuyên khoa Liễu
Quán tại chùa Linh Quang, Huế. Sư cũng tham gia giảng
dạy các lớp Phật học ở nhiều tỉnh miền Trung khác.
Từ năm 1973 đến năm 1974, sư được cử giữ chức vụ Viện trưởng Viện
Cao đẳng Phật học Hải Đức, Nha Trang.
Năm 1981, sư được cử làm Trưởng phái đoàn, đại diện cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
nhất dự đại hội thống nhất Phật giáo cả nước tại chùa Quán Sứ, Hà Nội.
Tại đại hội này, sư được suy cử chức vu Trưởng ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương
Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Từ năm 1981 đến năm 1984, sư được mời giảng dạy tại Trường Cao cấp
Phật học ở chùa Quán Sứ.
Từ năm 1982 đến năm 1988, sư làm Trưởng ban Trị sự tỉnh Phú Khánh liên
tiếp hai nhiệm kì.
Từ năm 1984 đến năm 1988, sư được cử làm Phó hiệu trưởng Trường
Cao cấp Phật học tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 1984, sư được cử làm Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự
Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Năm 1988, khi Viện Nghiên cứu
Phật Học Việt Nam được thành lập, sư được cử làm Phó Viện
trưởng.
Từ tháng 4-1987 đến khi qua đời, sư được bầu vào Đại biểu Quốc hội
liên tiếp ba khóa VIII, IX và X.
Năm 1991, Giáo hội cử sư làm Phó chủ tịch Hội đồng Phiên dịch Đại tạng kinh Việt Nam,
đặc trách Hán tạng.
Từ năm 1994 đến năm 2001, Giáo hội cử sư làm Hiệu trưởng Trường Cơ
Bản Phật học (nay là Trường Trung cấp Phật Học), Thừa Thiên – Huế.
Năm 1997, sư được Giáo hội cử làm Viện trưởng Học viện Phật giáo
Việt Nam tại Huế và đảm nhiệm vị trí này cho đến ngày qua đời.”
(Theo:
vi.wikipedia.org)
Đặng Xuân Xuyến giới thiệu
0 comments:
Đăng nhận xét