(Vua Quang Trung; Vị Anh Hùng Dân Tộc) |
THƠ ĐOÀN NGUYỄN TUẤN
VIẾT KHI
THEO HẦU VUA QUANG TRUNG
*
(Tác giả Phạm Trọng Chánh) |
Ngược lại với Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền do Nguyễn Y ghi
chép; “Đoàn Nguyễn Tuấn cùng Nguyễn
Du khởi nghĩa chống Tây Sơn tại Quỳnh Hải”. Ông anh vợ Nguyễn Du
cùng các bạn thân Nguyễn Nể, Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm, Ninh Tốn. ra
làm quan Tây Sơn được vua Quang Trung trao chức Hàn Lâm học sĩ cùng một
lần với Ngô Vi Quý (Ngô Dụng Hoà) và tiếp sứ cùng Nguyễn Nể (Nguyễn
Đề), anh cùng cha cùng mẹ với Nguyễn Du và đi sứ trong phái bộ Phan
Huy Ích năm Canh Tuất 1790 lúc ông 40 tuổi.
Hải
Ông thi tập * của Đoàn Nguyễn
Tuấn Nhà Xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội 1982 còn ghi chép những bài
thơ quý báu viết bên cạnh vua Quang Trung, thơ viết về triều Tây Sơn,
thơ xướng họa với các bạn đồng triều, thơ viết về sứ bộ Ngô Dụng
Hòa sứ bộ này mang sang quà cáp
Tể tướng Hòa Thân (1750́́̉-1799) nhà Thanh, việc hối lộ này đóng góp
vào thành tích tham nhũng một gian thần bậc nhất Trung Quốc, tài sản
bằng mười năm thu thuế triều đình Trung Quốc, khiến Hòa Thân từ một
người tín cẩn của vua Càn Long bị vua Gia Khánh cách chức xử tội
chết và tịch thu gia sản. Và quý nhất là hai bài thơ gặp gỡ văn nhân
họ Nguyễn (Nguyễn Du) tại Hoàng Châu, trong thời Mười năm gió bụi,
Nguyễn Du đi giang hồ ba năm: “Giang
Bắc Giang Nam một túi không” khắp Trung Quốc.
Trong bài viết này tôi dịch
thơ các bài thơ Đoàn Nguyễn Tuấn làm bên cạnh vua Quang Trung. Các bài
thơ tả cảnh hùng tráng quân Tây Sơn và ca ngợi tài điều khiển quân vua
Quang Trung.
Trong cung vua Quang Trung làm
bài thơ do vua chỉ định. Đoàn Nguyễn Tuấn viết: Gió nổi từ núi Nam
(Tây Sơn), xe ngọc ruổi gấp. Quân hùng như mây đùn chiếm lĩnh bên thành
Thăng Long. Ban ngày cờ quạt cuốn nắng ba đông. Sáng sớm lửa hiệu khói bốc thẳng từ muôn hốc. Mưu chước
đánh dẹp nhờ vua Quang Trung mắt nhìn tay trỏ, câu thơ này ca ngợi
chiến lược chiến thuật vua Quang Trung. Thú vị an nhàn thu vào nhịp
sắt cung cầm. Khi an nhàn triều đình cùng thưởng thức ca hát, Nguyễn
Du trong bài Long Thành cầm giả ca, còn ghi lại cảnh hát xướng tiêu
khiển vua tướng Tây Sơn tại dinh Kim Âu còn hào hoa hơn các công từ
Vương Lăng. Theo tôi vua Quang Trung có mặt tại Thăng Long trong lúc vua
giả Phạm Công Trị sang Trung Quốc trong sứ bộ Phan Huy Ích, ngày ngày
nhà vua gióng ngựa quý sang dinh Kim Âu đ̉ Bích Câu đàm đạo chuyện
quốc sự tâm đắc cùng Nguyễn Nể..
Ý câu này còn nói lên sự hòa hợp của nhà vua và các quan tướng
trong triều. Thị thần quan văn theo hầu vua Quang Trung ngoài việc nhúng
bút không bận gì khác. Thường lên đài cao ngắm trông trời biển.
TRONG CUNG VUA (QUANG TRUNG)
KÍNH GHI
Thể ứng chế
Gió nổi núi Nam
xe ngọc dong,
Quân hùng mây nổi
chiếm bên thành.
Ban ngày cờ xí
ba đông nắng,
Sáng sớm lửa tin
muôn đóm tung.
Mưu chước dẹp yên
tay mắt trỏ,
An nhàn thú vị
nhập cung cầm.
Thị thần vung
bút không gì khác,
Đứng vọng đài
cao ngắm biển xanh.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
NGỰ DINH CUNG KỶ
Ứng chế thể
Phong khởi Nam sơn
ngọc giá suyền,
Vân đồn tì hổ
chiếm thành biên.
Tinh kỳ trú
quyển tam đông nhật
Phong hoả triêu
xuy vạn hác yên.
Đăng định mưu mô
qui chỉ phán,
An nhàn thú vị
nhập đàn huyền.
Thị thần nhiễm
hãn vô dư sự,
Thời thướng cao
đài vọng hải thiên.
Bài Lại vâng lệnh vua làm một bài thơ khắc vào đá. Ông
viết: Một đêm sấm gió bỗng thành cảnh Phật. Sau trận đánh sấm sét
vào đồn Ngọc Hồi, Hà Hồi của vua Quang Trung nay đất nước lại thái
bình như cảnh Phật. Ngàn thu sông núi gìn giữ đài cao. Hai dòng suối
tuôn xuống bay từ sông Ngân biếc. Đôi bờ đá tách ra thông hợp với nắng
ráng hồng chiều tà. Đạo Phật không mất theo một chiếc giày. Theo
Truyền đăng lục chép: Ngài Bồ Đề Đạt Ma thời nhà Tùy từ Tây Trúc
(Ấn Độ) sang Trung Quốc truyền đạo Thiền đời nhà Tùy, tu ở chùa
Thiên Thánh, khi tịch táng tại núi Hùng Nhĩ thuộc tỉnh Hà Nam, Trung
Quốc. Sau Tống Vân người nước Ngụy đi sứ Tây Vực về gặp Đạt Ma,
thiền trượng vác một chiếc giày ở vùng núi Thông Lĩnh thuộc Tân Cương.
Vân hỏi: Nhà sư đi đâu? Sư nói: Về Tây Trúc. Vân về thuật lại với vua.
Vua sai đào mộ mở áo quan ra xem thì chỉ còn một chiếc giày thôi. Ý
câu này nói đất nước sau cuộc xâm lăng Tôn Sĩ Nghị không mất, mà trở
thành thanh bình vẻ vang muôn thuở. Tiếng vượn thường buông từ lưng
chừng mây. Âm vang cuộc chiến thắng vang dội trời mây xanh. Nay theo xe
vua, bỗng như lên đường vàng. Theo xe vua là con đường thái bình thịnh
trị an lành. Muôn ánh hào quang tỏa ra quanh góc núi. Câu này ý nói:
Uy đức nhà vua tỏa sáng khắp núi sông.
VÂNG LỆNH VUA (QUANG TRUNG)
LÀM MỘT BÀI THƠ KHẮC TRÊN
ĐÁ
Sắm sét một đêm
thành cảnh Phật,
Non sông muôn thuở
vững đài sen.
Suối chia hai
ngọn sông Ngân xuống,
Đá dựng đôi bờ,
nắng đỏ thông.
Đạo chẳng đi theo
giày để lại.
Tầng mây vượn hú
vọng âm vang.
Đường vàng bỗng
hiện theo xe ngự,
Sườn núi quanh co
tỏa ánh quang.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
HỰU ỨNG CHẾ́ NHẤ́T THỦ
PHÓ THẠCH
Nhất dạ phong lôi
thành hóa vực,
Thiên thu lưu trĩ
hộ tầng đài.
Tuyền phi Bích
Hán song điều hạ,
Thạch hội đan hà
lưỡng ngạn khai.
Tượng giáo bất
tùy đan lý khứ,
Viên thanh thường
tự bán vân lai.
Hỗ tùng hốt
thướng kim thiên lộ,
Vạn đạo tường
quang nhiễu khúc ôi.
Đoàn Nguyễn Tuấn theo hầu
vua Quang Trung nhân dịp nhà vua về thăm Tây Sơn (Quy Nhơn, Bình Định)
vâng lệnh vua làm bài thơ: Rỡ ràng đất cực Nam tỏa điềm lành. Ngọn
cờ vua Quang Trung về thăm Tây Sơn uy nghi như vua Hán Cao Tổ Lưu Bang về
thăm quê hương đất Bái. Sông núi đón chào hành cung và lều trại dựng
đón tiếp nhà vua, đình thần và đoàn quân hộ giá. Ấ́p thang mộc là
quê hương nhà vua. Đời Chiến Quốc chư hầu đến chầu thiên tử vua nhà
Chu, được thiên tử cho hẳn một nơi để tắm gội trước khi bệ kiến gọi
là ấp thang mộc. Đời sau các nhà
vua đặt ấp riêng thường là quê hương mình là ấp thang mộc. Phần du
rung rinh, mùi hương lò ngự. Phần du là hai loại cây thời xưa hay trồng
làng quê về sau dùng để chỉ làng quê. Hương quê hương thơm tỏa nơi vua
ngự. Sáng tỏa lều tranh, ngợi ơn nhuần tưới. Muôn nhà nhân dân vùng
Tây Sơn ca tụng nhà vua đã ban ơn nồng hậu. Núi Tây cũng ấm áp nhờ
dương khí thịnh vượng của nhà vua về. Thẹn mình hộ giá theo vua không
đủ tài thơ phú. Đời người mấy khi được đến “ao trời”, thiên hoàng nơi
phát tích nhà vua..
VÂNG MỆNH VUA (QUANG TRUNG)
LÀM THƠ
NHÂN DỊP HỘ GIÁ VỀ THĂM
Ấ́P THANG MỘC
Rỡ ràng Nam Cực
tỏa tường quang,
Vua Hán lộng cờ
về Bái thôn.
Sông núi đón
chào cung trại dựng.
Phần du phản
phất ngự lò hương.
Lều tranh sáng
tỏa ơn nhuần tưới,
Núi lạnh ấm
nồng dương khí lên.
Hộ giá thẹn
mình thơ phú kém,
Đời người mấy
thuở đến ao vàng.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt
:
NGỰ GIÁ HỒI THANG MỘC Ấ́P
PHỤNG HỘ TỐNG ỨNG CHẾ
Hoàng hoàng Nam
Cực thốc tường quang,
Hán đế tinh kỳ
phản Bái hương.
Sơn thủy phùng
nghinh hành diện sắc,
Phần du phi phất
ngự lô hương.
Minh sinh bổ ốc
ca minh trạch,
Noãn nhập hàn
nhai báo phục dương.
Từ phú phi tài
tàm hộ tụng,
Nhân sinh kỷ đắc
đáo thiên hoàng.
Nhân dịp theo vua Quang Trung
hỏi tội Nguyễn Bảo con Nguyễn Nhạc làm phản. Đoàn Nguyễn Tuấn viết
bài thơ: Vâng mệnh hầu giá thân chinh kính ghi. Một gợn mây đen giữa
vùng núi biển. Cờ vua thẳng trỏ phương Nam hỏi tội Lưu An. Lưu An là
người tôn thất nhà Hán, vua phong làm Hoài Nam Vương. Tính ông ham đọc
sách, chiêu tập các văn sĩ soạn thuật được nhiều trong đó có cuốn
Hoài Nam Tử. Vua Hán Vũ Đế rất tôn trọng ông, không bắt vào chầu. Sau
mưu phản, vua bèn sai quan Tông Chính đi trị tội, chưa đến nơi thì ông
đã tự sát rồi. Sáu quân hùm gấu nuốt cả búa rìu. Ngàn dậm non sông
phù trì yên ngọc. Chồng chất hiểm trở khôn dấu Giáp Hán. “Chồng chất hiểm trở”: (Tập khảm)
Lời Thoán ở quẻ Kinh Dịch nói: “Tập khảm trùng hiểm dã, vương hầu thiết
hiểm dĩ thủ kỳ quốc“ (Tập khảm là
hiểm trở, bậc vương hầu đặt hiểm để giữ nước.) Giáp Hán tích Cung
Toái nói với Hán Tuyên Đế rằng: “Dân
bị đói rét mà bọn quan lại không thương đến, cho nên những đứa con đỏ
của bệ hạ trộm đùa áo giáp và vũ khí ở trong ao Hoàng trì của bệ
hạ mà thôi.’ Ở đây tác giả mượn điển ấy để nói việc nổi loạn
của Nguyễn Bảo như chuyện con trẻ đùa chơi. Đánh kẻ ngu muội sớm
thấy Khiên Nghiêu. “Đánh kẻ ngu muội”: Hào Thượng Cửu, quẻ Mông Kinh Dịch nói
“Kích mông, lợi ngự khấu” (Đánh dẹp đứa ngu muội, lợi cho việc ngăn
chận bọn cướp) Khiên Ngu: Kinh Thư, thiên Đại Vũ mô: Vua Nghiêu Thuấn múa
lá chắn ở hai bên chái, trong ba tuần mà rợ Hữu Miêu phải đến chầu.
Câu này ý: Đánh đứa ngu muội Nguyễn Bảo sớm nhìn thấy uy danh vua
Quang Trung. Kẻ thư sinh cầm bút ca bài chiến thắng, để khắc vào đỉnh
tháp đá ở phía trong thành (Bình Định.)
VÂNG LỆNH THEO XE HẦ̀U THÂN
CHINH KÍNH GHI
Một đám mây đen
biển núi xanh,
Nam chinh vua hỏi
tội Lưu An.
Sáu quân hùm gấu
thu rìu búa,
Ngàn dậm xuyên
non hộ ngọc an
Nổi loạn ao trời
đùa Hán giáp,
Trỏ đường ngu
muội thấy Nghiêu can.
Thư sinh cầm bút
ca công trận,
Để khắc vào trên
đỉnh tháp thành.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
NGỰ GIÁ THÂN CHINH
PHỤNG HỖ TỤNG CUNG KÝ
Nhất điểm hôn vân
hải lĩnh gian,
Tiết tinh nam chỉ
vấn Lưu An.
Lục sư hùng hổ
thôn nhung phủ,
Thiên lý xuyên sơn
hộ ngọc an.
Tập khản vô năng
tàng Hán giáp,
Kích mông tảo
kiến vũ Ngu can.
Thư sinh xanh hấn
ca hoàn sở,
Lặc hướng thành
trung thạch tháp đoan.
Mời thư giãn với nhạc phẩm MÁI ĐÌNH LÀNG BIỂN
của Nguyễn Cường, qua tiếng hát Tùng Dương:
*
Paris, ngày 10 tháng 12-2019
PHẠM TRỌNG CHÁNH
Tiến sĩ Khoa Học Giáo Dục
Địa chỉ:, Viện Đại Học Paris V Sorbonne.
Email: phamtrongchanh@free.fr
.
…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 11.12.2019.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét