BÙI GIÁNG
TRONG CÁI NHÌN
CỦA PHÊ BÌNH
VĂN HỌC
Ở MIỀN NAM
TRƯỚC NĂM 1975
*
(Tác giả Trần Hoài Anh) |
1. Nói đến
Bùi Giáng, người ta thường nghĩ đến một nhà thơ vừa quen lại vừa lạ. Quen vì
thơ ông vốn mang âm hưởng lục bát của ca dao, của truyện Kiều, dễ thuộc, dễ
nhớ, được nhiều người yêu mến, tìm đọc. Nhưng lạ, vì để hiểu đời và thơ Bùi
Giáng là điều không đơn giản. Vì vậy, Bùi Giáng luôn là một hiện tượng thu hút
rất nhiều sự quan tâm của độc giả cũng như các nhà nghiên cứu, phê bình văn học
trong và ngoài nước từ khi ông còn hiện hữu trên cõi đời cho đến lúc ông đi ra
ngoài cõi sống.
Trong
văn học miền Nam 1954-1975, đời và thơ Bùi Giáng luôn được các nhà phê bình văn
học chủ tâm nghiên cứu. Bùi Giáng đã hiện diện trong các công trình phê bình,
nghiên cứu văn học ở miền Nam như: Những nhà thơ hôm nay (Nhà
văn Việt Nam xb, Sài Gòn, 1957) của Nguyễn Đình Tuyến; Văn học hiện
đại, thi ca và thi nhân (Quần Chúng xuất bản, Sài Gòn, 1969) của Cao
Thế Dung; Những Khuynh hướng trong thi ca Việt Nam (Khai Trí xuất
bản, Sài Gòn, 1962) của Minh Huy; Thơ Việt Nam hiện đại 1900 – 1960 (Hồng
Lĩnh xuất bản, Sài Gòn, 1969) của Uyên Thao; Tác giả tác phẩm (Tác
giả xuất bản. Sài Gòn, 1973) của Trần Tuấn Kiệt… Đặc biệt cùng với Trịnh Công
Sơn, Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Đình Toàn, Nhật
Tiến, Thế Uyên, Thế Phong, Võ Hồng, Bùi Giáng là một trong mười khuôn mặt văn
nghệ được Tạ Tỵ nói đến trong tác phẩm chân dung văn nghệ có tên Mười
khuôn mặt văn nghệ hôm nay nổi tiếng của mình do Lá Bối xuất bản, Sài
Gòn, 1972.
Và càng
đặc biệt hơn khi Tạp chí Văn, một trong những tạp chí nghiên cứu, phê bình văn
học có uy tín trong đời sống văn học miền Nam trước 1975 đã dành hẳn số 11 ra
ngày 18/5/1973 để giới thiệu về Bùi Giáng với các bài: “Bùi Giáng, hồn thơ bị vây khổn” của Thanh Tâm Tuyền; “Thi ca và tư tưởng” của Tuệ Sỹ; “Bùi Giáng, về cố quận” của Nam Chữ; “Bùi Giáng, cải lương ca” của Cao Huy
Khanh; “Bùi Giáng trên đường về cố hương”
của Trần Hữu Cư; “Ẩn ngữ, cung bậc thi ca”
của Thục Khưu; “Chung quanh vấn đề Bùi
Giáng” của Trần Tuấn Kiệt; “Thư từ”
trao đổi giữa Nguyễn Xuân Hoàng và Bùi Giáng và một số sáng tác thơ, văn của
ông …
Ngoài ra
Bùi Giáng còn xuất hiện trên nhiều báo, tạp chí, công trình nghiên cứu khác ở
miền Nam trước 1975 mà do điều kiện khó khăn về việc tìm kiếm tư liệu, người
viết bài này chưa có thể sưu tập được. Tuy nhiên qua những gì hiện có, chúng ta
cũng có thể khẳng định rằng Bùi Giáng là một trong những hiện tượng văn học khá
nổi bật thu hút ngòi bút của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học ở miền Nam
trước 1975. Và nói như Tạ Tỵ: “Bùi Giáng
là một hiện tượng, người yêu thơ phải nhìn Bùi Giáng qua phong cách độc đáo, ở
đấy, mỗi dòng, mỗi chữ, mỗi ý, được viết ra là máu thịt của thi nhân dâng hiến
cho đời. Thơ Bùi Giáng không thuộc trường phái nào hết. Nó không cũ, chẳng mới.
Nó có thể là thơ, là tư tưởng, đôi khi thơ và tư tưởng lẫn lộn giao hòa tạo
thành một vùng “mờ mịt thức mây”. Thơ
Bùi Giáng như cơn đau chưa dứt, như nỗi bàng hoàng chiêm bao chợt tỉnh, để rồi
lại chìm vào chiêm bao khác. Nó bâng khuâng ở mỗi vần, mỗi chữ. Có lúc, nó buồn
bã như niềm tuyệt vọng! Người yêu thơ cứ phải men lần theo, như đi trên một
hành lang trú ngụ. Nhiều điều bí mật. Mỗi khúc quanh lại mở ra những kỳ dị phi
thường” (1)
Nhận
định trên đây của Tạ Tỵ về Bùi Giáng có lẽ cũng là cảm thức chung của các nhà
phê bình văn học ở miền Nam trước 1975 khi nghiên cứu về đời và thơ Bùi
Giáng.
2. Buffon nói “Văn là người”. Điều
đó rất đúng với Bùi Giáng. Đi vào cõi thơ Bùi Giáng tức là đi vào cõi người của
Bùi Giáng. Mà cuộc đời Bùi Giáng thì phiêu bồng như thơ ông. Vì vậy, để hiểu
đời và thơ Bùi Giáng có lẽ người đọc cũng phải để hồn mình bồng bềnh phiêu lãng
trong cõi thơ của ông. Bởi Bùi Giáng đã từng quan niệm “Cõi thơ là cõi bồng phiêu ”. Đi vào cõi thơ Bùi Giáng tức là đi
vào cõi bồng phiêu của đời Ông. Vì vậy khi tìm hiểu các bài
nghiên cứu, phê bình văn học ở miền Nam trước 1975 viết về Bùi Giáng, chúng tôi
đều thấy chất phiêu bồng này đan xen trong tâm thức và cảm
quan của người viết. Thế nên, để hiểu Bùi Giáng, các nhà phê bình, nghiên cứu
phải xuất phát từ nhiều điểm nhìn, nhiều hệ quy chiếu khác nhau thì may ra mới
chạm đến cõi thơ và cõi đời Bùi Giáng. Bởi theo Tạ Tỵ, Bùi Giáng là người “đã đi vào chiêm bao giữa cuộc sống vì cuộc
sống vừa khủng khiếp vừa nên thơ, con người không thể dùng lý luận để biện minh
phải trái. Nhưng dù nói gì mặc lòng, đích thực thơ Bùi Giáng bị cái hàng rào
triết học bủa vây thật chặt chẽ” (2). Và theo chúng tôi, đây chính là một
yếu tính trong đời và thơ Bùi Giáng.
Nói đến
thơ và đời Bùi Giáng là nói đến sự hợp hôn diệu kỳ giữa thi ca và triết học.
Chính vì vậy đi vào cõi thơ Bùi Giáng, người đọc cần có một tầm đón đợi phù
hợp, phải xuất phát từ nhiều điểm nhìn khác nhau cùng với một vốn sống, vốn văn
hóa phong phú may ra mới thấu cảm được với hồn thơ của thi sĩ. Đây cũng là điều
mà các nhà phê bình văn học ở miền Nam trước 1975 tập trung lý giải. Bởi theo
Nguyễn Đình Tuyến “Thơ Bùi Giáng được rất
nhiều ca tụng nhưng đồng thời cũng gặp nhiều ngộ nhận. Đó là hiện tượng không
thể tránh được đối với các thi tài lớn. Từ lâu, nhà thơ đã linh cảm những bất
trắc trên đường sự nghiệp, nhưng với một khát vọng thiết tha và mãnh liệt khởi
sự từ mưa nguồn chớp bể, nhà thơ vẫn đi theo tiếng gọi của nàng thơ và không
thể chiều ý tất cả chúng ta” (3)
Tuy
nhiên với sự đồng cảm và tri âm sâu sắc của những tâm hồn đồng điệu, các nhà
phê bình văn học ở miền Nam đã đến với đời và thơ Bùi Giáng bằng một sự trân
quí, sẻ chia. Chính vì vậy, trước bao nhiêu câu hỏi của người đời về hiện tượng
điên hay không điên của Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền trong bài viết “Bùi Giáng, hồn thơ bị vây khổn” với tất
cả sự cảm nhận, tinh tế của một thi sĩ và trách nhiệm của một nhà phê bình đã
xác tín “Không. Bùi Giáng không điên, ông
là một nhà thơ sáng suốt cực kỳ. Ông là một nhà thơ “ngộ”. Đừng hiểu chữ
“ngộ” trong cái nghĩa đơn giản của Đạo giáo…” (4). Và chúng tôi hoàn toàn chia
sẻ với nhận định này của Thanh Tâm Tuyền.
Quả
thật, Bùi Giáng không phải là một nhà thơ điên như có người
nhầm lẫn. Trạng thái điên “nếu có” ở Bùi Giáng chính là sự phóng chiếu của
những ẩn ức, đam mê trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Và nếu nhìn từ lý
thuyết phân tâm học của Freud chúng ta sẽ thấy rõ vấn đề này. Chính vì vậy,
trong cái nhìn của các nhà phê bình văn học miền Nam trước 1975, Bùi Giáng là
một thi nhân luôn gắn với cuộc sống con người và hồn thơ của ông luôn neo đậu
trong cõi người. Nếu có phiêu bồng thì đó chỉ là sự
phiêu bồng của những phút thăng hoa trong sáng tạo. Nói như Cao Thế
Dung: “Đọc thơ Bùi Giáng ai cũng nhận
thấy có cái độc đáo từ chiều sâu thẳm trong cõi tiềm thức. Chiều sâu ấy như
chiều sâu của vô cùng với khắc khoải của khát vọng từ xa vắng người mà rất
người” (5). Và cũng theo Cao Thế Dung, tìm vào cõi thơ Bùi Giáng: “người ta chợt nhớ ra cái bóng dáng xa xăm
của Verlaine khi bắt đầu dấn thân vào cuộc đời. Nỗi buồn của thơ Bùi Giáng tựa
như âm thừa của trận mưa nguồn, của cỏ nội. Nỗi buồn dâng thiệt cao trong cơn
say rồi thoát giữa hư vô để tìm lại bóng con người. Nỗi buồn ấy thấm sâu rồi
lan nhẹ theo từng mảnh tâm tư trước cơn dao động của ý thức” (6)
Song cõi
thơ Bùi Giáng không chỉ đậm đặc nỗi buồn mà còn chất đầy nỗi cô đơn của thân
phận trước những dâu bể cuộc đời. Nỗi cô đơn ấy nhiều khi ám ảnh cả đời
người mà nếu không “vịn” vào một cái gì đó để “đứng dậy” thì con người
cũng dễ bị gục ngã trước cuộc sống. Trong cõi thơ Bùi Giáng nỗi cô đơn là một
căn tính mà các nhà phê bình văn học ở miền Nam trước 1975 đều nhận thấy. Vì
vậy, khi nhận định về vũ trụ thơ Bùi Giáng, Tạ Tỵ đã thốt lên một cách xa xót:
“Bùi Giáng thường gặp mình giữa hồn mình.
Cô đơn và cô đơn trước bạt ngàn vướng mắc” (7). Còn Trần Hữu Cư thì cho
rằng: “Bùi Giáng vẫn còn đó, có lẽ Bùi
Giáng chỉ nhận những lời ngợi khen hay thống trách, nhưng có lẽ quá hiếm người
hiểu ông muốn làm gì trên cõi đời này… Cho nên Bùi Giáng vẫn sống cô độc”
(8)
Quả thật
những suy nghĩ của Tạ Tỵ và Trần Hữu Cư về nỗi cô đơn trong đời và thơ Bùi
Giáng thật đúng với cõi đời và cõi thơ của ông. Cô đơn vốn là một căn tính
trong bản thể. Tùy theo thân phận / nhân vị của mỗi người mà nỗi cô đơn đó hiện
hữu như thế nào!? Ở Bùi Giáng, theo chúng tôi, nỗi cô đơn của ông là nổi cô đơn
của định mệnh, của duyên nghiệp. Ông không chỉ cô đơn trong đời mà còn cô đơn
trong thơ, cô đơn trong tư tưởng của mình. Sự cô đơn ở Bùi Giáng như một hệ lụy
tất yếu của số phận, không thể lý giải. Vì thế, đã lâu rồi, người ta vẫn cứ đặt
nhiều câu hỏi về đời và thơ của ông. Và từ những góc nhìn, những suy tưởng
riêng của mình mà mỗi người có cách lý giải khác nhau. Nhưng nếu bảo rằng chúng
ta đã hiểu và chia sẻ hết những gì hiện hữu trong đời và thơ Bùi Giáng, thì đó
là điều không thể !? Nói như Trần Hữu Cư: “Bùi
Giáng vẫn sống trong cô độc”. Bởi theo Tạ Tỵ: “Thơ với Bùi Giáng đích thị không phải là cứu cánh, chỉ được thực hiện
nhằm giải tỏa ám ảnh về thân phận trong vòng đai cuộc sống nhiều băn khoăn với
ý thức siêu hình”. (9)
Vì vậy,
trong cái nhìn của các nhà phê bình văn học ở miền Nam, thơ Bùi Giáng là “cuộc hội thoại giữa thi ca và tưởng…”.
Nó “luôn luôn là những tương ứng của
chung và riêng” (10). Và cuộc hội thoại nầy chính là một đặc điểm trong thi
pháp thơ Bùi Giáng mà theo Cao Huy Khanh trong bài tiểu luận “Bùi Giáng, cải
lương ca” thì “Văn chương Bùi Giáng là một nỗ lực giải quyết và thực hiện tư
tưởng triết lý tồn sinh một cách sống động và thơ mộng” (11). Tính chất
triết lý này chi phối rất sâu sắc cõi sống và cõi thơ của Bùi Giáng. Vì vậy, Tạ
Tỵ cho rằng: “Bùi Giáng đi vào cõi thơ
luôn đeo bên mình niềm ám ảnh của triết học” (12). Và chính vì thế “Bùi Giáng làm thơ nhưng chẳng bao giờ thừa
nhận thi ca là lẽ sống duy nhất của đời mình. Người thơ coi kiếp sống như một
hiện hữu bất đắc dĩ, nên làm thơ cho khuây khỏa ám ảnh, cái ám ảnh thực sâu đậm
bi thương giữa cõi đời hỗn mang và suy tưởng thuần khiết” (13). Và cũng
theo Tạ Tỵ: “Bùi Giáng thoát hồn vào ảo
giác để nhận ra sự thật” (14). Nhận xét nầy có thể xem là một gợi mở, là
chìa khóa để giải mã hành trình sáng tạo thơ của Bùi Giáng cũng như sự hiện hữu
khá dị thường của ông trong cuộc đời mà hiện nay vẫn còn nhiều câu hỏi chưa có
lời đáp!?
Một điều
lý thú mà hầu hết các nhà phê bình ở miền Nam trước 1975 đều tập trung nghiên
cứu với những nhận định khá sâu sắc và xác đáng đó là lĩnh vực ngôn ngữ trong
thơ Bùi Giáng. Văn chương là nghệ thuật của ngôn từ. Ngôn từ trong thơ bao giờ
cũng là một trong những giá trị đặc biệt làm nên phong cách nhà thơ. Ngôn ngữ
trong thơ Bùi Giáng là một vũ trụ ngôn ngữ mà ở đó cuộc hôn phối diệu kỳ giữa
thi ca và tư tưởng được thể hiện một cách sâu sắc. Vũ trụ ngôn ngữ trong thơ
Bùi Giáng là vũ trụ của những tiếng nói vang vọng từ trong chiều sâu tâm thức
và tâm cảm cho nên nó là một thứ ngôn ngữ phi / siêu logic, ngôn ngữ nghệ thuật
phi / siêu nghệ thuật. Vì vậy trong cái nhìn của Cao Thế Dung “Thơ Bùi Giáng vốn là sự khó hiểu vì ông đã
phá cái trật tự của ngôn ngữ, ông đã đảo lộn cái cơ cấu tạo hình ngôn ngữ. Ngôn
ngữ qua thơ ông chỉ còn là một thứ trò chơi. Ông dỡn với từng chữ, đùa cợt với
âm thanh thơ” (15) . Còn Tạ Tỵ lại cho rằng: “Thơ Bùi Giáng mang nhiều ẩn dụ ở chiều sâu ngôn ngữ” (16). Và theo
Nam Chữ: “Mặc dầu có khi trái ngược nhau
đến cực độ, ngôn ngữ thi ca của ông (Bùi Giáng – THA) ngụ ý một cách sâu xa.
Người ta biết rõ ràng những dung từ khó khăn nhất, những âm vận ngắn củn nhất,
đôi lúc đến quá liều lĩnh, khi đi vào trong cung cách lập ngôn của ông đều trở
nên linh hoạt dị thường, đều trở nên nhẹ nhàng và âm điệu réo rắc như nhịp tấu
của một tay gảy đàn tài tử, không còn câu nệ ở hình thức cây đàn nữa”. (17)
Mặt
khác, từ góc nhìn truyền thống Cao Huy Khanh cho rằng: “Thơ Bùi Giáng cốt yếu là một hiện tượng ngôn ngữ độc đáo tựu thành từ
mối đam mê nguồn thơ lục bát (đặc biệt truyện Kiều) phối hợp với âm điệu ca dao
thuần túy dân tộc” (18). Song phải chăng, ngôn ngữ trong thơ Bùi Giáng là
sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa thi ca và tư tưởng, giữa
nghệ thuật và triết học. Và điều nầy đã tạo nên một phẩm chất riêng có trong
thơ ông, nên khi nhận định về ngôn ngữ thơ Bùi Giáng, Nguyễn Đình Tuyến cho
rằng: “lời thơ rộng rãi luôn luôn thay
đổi bình diện, thâm trầm trang nhã mà không xa lời ca nơi đồng ruộng, thôn
trang, bình dị mà tân kỳ, đó là tính chất của thơ Bùi Giáng” (19)
Tuy
nhiên khi nói đến ngôn ngữ thơ Bùi Giáng, các nhà phê bình văn học không chỉ
nói đến mặt sáng tạo, mặt thành tựu mà còn chỉ ra những mặt hạn chế. Đó là sự
dễ dãi, đùa cợt, sáo rỗng trong ngôn ngữ ở một số bài thơ của Bùi Giáng mà theo
Cao Thế Dung là kỹ thuật thơ của Bùi Giáng “chưa
phải là điêu luyện vì cách sử dụng ngôn ngữ của ông còn nhiều điểm đáng chê vì
nó không thể hiện được phần yếu tính của thơ”. (20) Không những thế, Cao
Thế Dung còn cho rằng có lúc Bùi Giáng sử dụng những “ngôn từ quá cũ, sáo rỗng, chẳng hạn như “Nữ Chúa Nương” và nhiều khi
còn dùng những ngôn ngữ mà với thi ca nó sẽ tầm thường như con chuồn chuồn, con
kiến” (21)
Theo
chúng tôi, ý kiến nầy tuy có phần xác đáng nhưng cực đoan. Vì không nhất thiết
cứ là thơ thì ngôn ngữ phải là những “lời có cánh” bay bỗng, sang trọng, xa
cách cuộc sống đời thường. Và nếu cho rằng dùng những ngôn từ trong cuộc sống
làng quê như chuồn chuồn, con kiến sẽ làm tầm thường hóa thơ
ca thì đây là ý nghĩ có phần hàm hồ . Bởi vì, ngôn ngữ thơ, suy cho cùng cũng
là ngôn ngữ từ đời sống được nhà thơ chưng cất lên mà thôi. Vì vậy, vấn đề đặt
ra ở đây, là nghệ thuật và kỹ thuật sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ như thế nào
trong quá trình sáng tạo thơ ca, chứ không phải là việc dùng từ “bình dân” hay
“bác học”. Bởi lẽ, nói như Rimbaud: “Tiếng
nói kia của nhà thơ sẽ là hồn của tâm hồn, thu gom hết sự vật, hương, thanh
sắc, nó sẽ là ý tưởng móc vào ý tưởng mà lôi kéo đi”. (22)
Một bình
diện khác trong thế giới nghệ thuật thơ Bùi Giáng mà các nhà phê bình văn học ở
miền Nam cũng đề cập đến đó là giọng điệu mà theo Uyên Thao: “Bùi Giáng cũng
tạo được một cái lạ” đó là “cái ngang” và chính “cái ngang” này đã làm cho “Bùi
Giáng có cái giọng bạt đó và cái giọng bạt đã ảnh hưởng vào âm vận của thơ
Giáng” (23). Và trong cái nhìn của Uyên Thao thì Bùi Giáng là một trong không
nhiều gương mặt thơ tiêu biểu của thơ ca hiện đại Việt Nam.
Thục
Khưu trong bài Ấn ngữ, cung bậc thi ca Bùi Giáng, đã cảm nhận
vẻ đẹp trong giọng điệu thơ Bùi Giáng bằng những cảm xúc rất tinh tế và sâu
sắc. Theo Thục Khưu cái ngân nga trong thơ điệu Bùi Giáng “là một bức thông điệp mỹ miều đồ sộ của tâm hồn” (24). Thơ là tiếng
nói của tâm hồn. Giọng điệu trong thơ bao giờ cũng là giọng điệu của tâm hồn
thi nhân. Đây là một trong những yếu tố thi pháp làm nên nét riêng trong phong
cách của mỗi thi nhân. Giọng điệu ấy bao giờ cũng là phương thức hữu hiệu nhất
chuyển tải tâm thức và tâm cảm của thi nhân đến người tiếp nhận. Vì thế, Tạ Tỵ
cho rằng: “Thơ Bùi Giáng súc tích chứa
đựng nhiều u uẩn. Cái khung trời sáng láng hồn hậu chan hòa mơ ước, phiêu bồng
của buổi nào xa xôi, vẫn thấp thoáng hiện về trong thi nhân qua những vần điệu”
(25).
Không
chỉ lạ lẫm trong giọng điệu, thơ Bùi Giáng cũng khám phá nhiều lĩnh vực của
hiện thực và đó là một hiện thực luôn vận động: từ truyền thống đến hiện đại,
từ thế giới hữu hình đến vô hình, từ hiện thực cuộc đời đến hiện thực tâm linh…
Sự vận động này vô cùng linh hoạt và biến sinh theo sự biến đổi của đời sống.
Nó phiêu bồng và chuyển dịch như cuộc đời của thi nhân. Chính vì lẽ đó, Nam Chữ
cho rằng: “Phần lớn, đề tài trong thi ca
Bùi Giáng còn phức tạp hơn cả người ta tưởng tượng được. Nó còn đảo lộn hơn cả
cái người ta hiểu. Nghĩa là đã có một sức cảm quan như vượt qua sự rung động
thuận lợi của một cá nhân hơn là một con người” (26). Vì vậy, cũng theo Nam
Chữ hành trình tiếp nhận thơ Bùi Giáng cũng là một hành trình đi từ chối
bỏ đến tham dự, từ ngoại vi đến trung tâm… Và đây là một hành
trình lâu dài.
Ta hãy
nghe Nam Chữ giãi bày hết sức thành thực về hành trình tiếp nhận thơ Bùi Giáng
trong đời sống văn học lúc bấy giờ: “Một
trường hợp rất bi đát nhưng có thực trong đất nước Việt Nam này, chúng ta có
ngờ nỗi đâu một người suốt đời tận tụy với nghệ thuật, đã có hơn mấy chục tác
phẩm được in ra (tiểu luận, phê bình, dịch, thi ca…) giờ đây lại thêm một mớ
tóc trắng phất phơ về chiều, trừ một số rất ít chịu thần phục, thơ ông, lại gần
như không có độc giả… Một vài tác phẩm, nhất là về thi ca cái giá trị đúng mức
của nó, lần đầu tiên xuất hiện đã không được đón nhận rộn rịp như một số thi sĩ
trước ông và sau ông vài năm. Thực ra phải đợi đến nhiều năm, gần 10 năm sau
tác phẩm thơ ca của ông ra đời người ta mới hốt hoảng và tìm đọc lại những tác phẩm
trước kia của ông” (27). Phải chăng, đây cũng là qui luật hằng thường trong
tiếp nhận các hiện tượng văn học của người đời. Đến nỗi, một thiên tài như
Nguyễn Du mà còn phải thở than: Bất tri tam bách dư niên hậu / Thiên hạ
hà nhân khấp Tố Như… nghe sao mà chua chát thế!
Và cũng
theo Nam Chữ cách lập ngôn của Bùi Giáng “là
cách ông muốn im lặng đến cùng. Ông muốn nói một thứ tiếng nói im lặng, chẳng
ai hiểu ông cả. Trừ phi một người nào đó trong chúng ta cùng đứng trên vực thẳm
lặng lờ như ông, cùng nhìn xuống đáy sâu không đáy kia.” (28). Theo chúng
tôi cái im lặng của Bùi Giáng là im lặng của một người đã đốn ngộ. Và ông dùng
thơ ca để chuyển tải sự im lặng của mình như một ứng phó trước những nhiễu
nhương của cuộc đời mà ông chỉ dự phần như một kẻ bên lề.
Song,
cuộc đời đã không để Bùi Giáng sống trong lặng im. Bởi càng ngày, người yêu thơ
Bùi Giáng, người quí mến, kính trọng văn tài của Bùi Giáng càng nhiều và luôn
có sự tiếp nối giữa các thế hệ mà Hội thảo khoa học kỷ niệm 15 năm ngày mất của
ông hôm nay là một minh chứng. Đây có phải là niềm hạnh phúc với ông chăng?!
Bởi như Trần Tuấn Kiệt trong bài viết chung quanh vấn đề Bùi
Giáng đã xác quyết: “Ta có thể
so sánh con người Bùi Giáng ngày nay với Đức Phật thời Ngài mới bắt đầu thuyết
pháp ở vườn Lộc Uyển. Trong khi đó ma vương quỉ sứ và môn đệ Bà La Môn giáo đến
châm chích đủ điều. Nhưng Đức Phật vẫn là Đức Phật và ma quỉ gì đó vẫn là ma
quỉ” (29)
3. Có thể nói, Bùi Giáng hiện hữu giữa đời như một ngôi sao
lạ, mà theo thời gian, hào quang của nó chắc chắn sẽ còn mãi tỏa sáng. Cuộc đời
và văn nghiệp của ông có thể còn những uẩn khúc, những bí mật cần được giải mã.
Song một điều, ai cũng phải thừa nhận đó là tài năng của ông. Những tháng
năm còn “làm kiếp con người” (từ dùng
của TCS), Bùi Giáng chẳng có gì cả: học vị, học hàm, địa vị xã hội, tài sản…
nghĩa là ông không có một chút lợi danh gì cả ngoài những ngày tháng phiêu
bồng. Ông là một người “vô sản” đúng nghĩa chứ không phải là những người “vô
sản” chỉ được phủ một lớp vỏ danh từ. Nhưng tài sản mà ông để lại cho đời thật
vô giá nhất là sự nghiệp thơ ca của ông mà nói như Tạ Tỵ: “Bùi Giáng không nói gì cả, nhưng toàn bộ thi phẩm của Bùi Giáng đã khơi
động một trời thơ rộng rinh, bát ngát. Thi nhân không dấn thân vào đâu hết, coi
cuộc đời như cõi dong chơi tạm bợ. Làm thơ cũng là đi vào thơ như đi vào cõi vô
định. Không có chọn lựa hay thử thách chỉ có xúc cảm và ngôn ngữ giao thoa,
diễn đạt những gì ám ảnh trong hồn” (30)
Văn
nghiệp của ông dù trải qua những biến thiên của cuộc sống nhưng nó vẫn vượt qua
mọi giới hạn, mọi rào cản của đời sống chính trị xã hội để tồn sinh với cuộc
đời. Bởi lẽ, cái làm nên giá trị văn chương của Bùi Giáng không chỉ có ở tài
năng của ông mà còn ở tấm lòng của ông đối với quê hương đất nước. Và theo Trần
Hữu Cư cảm hứng “tư cố hương” là một niềm khắc khoải không nguôi trong thơ Bùi
Giáng. Vì vậy “Tất cả những gì ông làm
trong thơ, viết lách, dịch thuật…v…v… tất cả đều làm một cuộc lên đường tìm lại
một “màu hoa trên ngàn”, một “tình
yêu quê hương” cho thời hiện tại, thời mà chúng ta đang sống trong nỗi mất quê
hương” (31) Phải chăng đây là cái gốc tạo nên hệ giá trị nhân bản của mọi
sáng tạo nghệ thuật của Bùi Giáng trong đó có thơ ca mà theo Cao Thế Dung đó là
“biết yêu sự thực, biết quí trọng những
gì cao đẹp trong con người, tình yêu, nghệ thuật” (32)
Chính
giá trị nhân bản này là bệ phóng chắp cánh cho hành trình sáng tạo của ông và
nó cũng là nhân tố kết nối ông với cuộc đời, với con người, làm cho văn nghiệp
của ông nói chung và thơ ca nói riêng sẽ vượt lên mọi giới hạn để mãi mãi tỏa
hương trong cuộc đời. Và có thể nói, Bùi Giáng là người đã vượt qua giới
hạn của vận mệnh con người và định mệnh nghệ thuật để vươn đến sự bất tử thường
hằng như những câu thơ giản dị mà đầy tính triết luận của ông:
Hỏi
tên? Rằng biển xanh dâu
Hỏi
quê? Rằng mộng ban đầu rất xa.
Gọi
tên rằng một, hai, ba
Đếm
là diệu tưởng, đo là nghi tâm.
_________________________________________________
Chú
thích:
(1) (2) (7) (9) (12) (13)
(14) (16) (25) (30) Tạ Tỵ, Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay, Lá Bối
xuất bản, Sài Gòn 1973, tr.583 – 584, tr. 563, tr.557, tr.568, tr.571, tr.575,
tr.575, tr.579, tr.563, tr. 587.
(3) (19) Nguyễn Đình Tuyến, Những nhà
thơ hôm nay, Nhà văn Việt Nam xuất bản, Sài Gòn 1967, tr.18, tr.17.
(4) Thanh Tâm Tuyền, “Bùi Giáng, hồn
thơ bị vây khổn”, Văn số 11, ra ngày 18 /5/ 1973, tr.8
(5) (6) (15) (20) (21) (32) Cao Thế
Dung, Văn học hiện đại thi ca và thi nhân, Quần chúng xuất bản, Sài Gòn
1969, tr. 42; 42, tr.44, tr.48, tr.48, tr.48
(8) (31) Trần Hữu Cư, “Bùi Giáng trên đường
về cố hương”, Văn 11, ra ngày 18 /5/ 1973, tr.69, tr.56
(10) Tuệ Sỹ, “Thi ca và tư tưởng”,
Văn số 11 ra ngày 18/5/1973, tr.27
(11) (18) Cao Huy Khanh “Bùi Giáng, cải
lương ca” Văn 11, ra ngày 18 /5/ 1973 tr.60, tr.65
(17) (26) (27) (28) Nam Chữ, “Bùi Giáng, về
cố quận”, Văn 11, ra ngày 18 /5/ 1973 tr.45, tr.43, tr.43, tr.48
(22) Trần Hoài Anh , Thơ – Quan niệm
và cảm nhận, Nxb. Thanh niên, H, 2010, tr. 280
(23) Uyên Thao, Thơ Việt Nam hiện đại
1900 – 1960, Hồng Lĩnh xb, Sài Gòn 1969, tr.455
(24) Thục Khưu, “Ẫn ngữ, cung bậc thi ca”,
Văn 11, ra ngày 18 /5/ 1973, tr.74
(29) Trần Tuấn Kiệt, “Chung quanh vấn đề
Bùi Giáng”,Văn 11, ra ngày 18/5/1973, tr. 79
*.
TRẦN HOÀI ANH
Địa chỉ: nhà số 130/2 đường 30, phường 6
quận Gò Vấp, thành phố Sài Gòn.
Điện thoại: 0905.704.888
Email: anhhoai1108@gmail.com
.
.
.............................................................................................................
- Cập nhật từ email: haivc08@gmail.com,
ngày 28.06.2020.
- Bài viết không thể hiện quan
điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét