THƠ THẾ SỰ CỦA NGƯỜI SỐNG
TRONG
“MỐI,
MỌT, GIÁN, CHUỘT, BÓNG TỐI…”
*
(Đọc tập “Người lặn biển”
của Thạch Quỳ,
Nhà xuất bản Nghệ An, 2018 )
(Tác giả Nguyễn Anh Tuấn) |
Tôi biết đến nhà thơ Thạch Quỳ từ hồi sinh viên
văn khoa, từng đọc thơ ông, nhưng lần đầu tiên mới được gặp ông tại một đám
đông hội hè, giữa khu lưu niệm Nguyễn Du - Nghi Xuân, Hà Tĩnh đầu năm 2019. Đó
là một ông già gầy gò, người quắt lại như lõi lim, đôi mắt sáng có vẻ hơi chế
diễu nhưng không mất đi sự nhân hậu đằm thắm…
Qua sự giới thiệu của một nhà Kiều học là người
Nghệ An, ông trịnh trọng bắt tay tôi, và tặng cho tập thơ mới nhất của ông. Công
việc lu bu mãi, cho đến những ngày mưa dầm tháng bảy này, tôi mới giở tập
“Người lặn biển” ra đọc, với lòng Thương - Kính sẵn có đối với những “Ông đồ xứ
Nghệ” là các thầy cũ của tôi, các bậc đàn anh trong giới chữ nghĩa mà tôi quý
mến, và các bạn tôi… Không hiểu sao, sau khi lật giở vài trang, bài đầu tiên
đập vào mắt tôi lại là bài: Mối, mọt, gián, chuột, bóng tối…
Và không hiểu sao nữa, những liệt kê của lão thi
sĩ về các vật dụng trong ngôi nhà “như nấm mộ” đó lại khiến tôi phải chăm chú
chép lại, như bị thôi miên, không thiếu vật gì:
“Mối, mọt, bóng tối, chuột, gián, sách cũ,
bàn gỗ, ghế gỗ, chai thủy tinh, bình gốm, lọ sứ, cuội, đá, hoa khô, mẫu hóa
thạch, tranh cổ, bùa, chú, xương, răng, vua, quan, hình nộm và các loài bò sát
đất nung từ thời tiền sử”.
Tôi chợt nhớ đến nơi ở trống trải của Đại thi
hào Nguyễn Du một thời, mà nổi bật nhất chỉ là “cạnh gối có chồng sách vở đỡ
tấm thân bệnh tật” (Chẩm bạn thúc thư phù bệnh cốt. Tạp ngâm 2). Còn những
đồ vật trong ngôi nhà Thạch Quỳ tuy có phong phú hơn về chủng loại, song chỉ là
những thứ đồ sưu tầm nhặt nhạnh của một trí thức nghèo thời hiện đại chẳng đáng
giá là bao vẫn làm bạn với mối, mọt, chuột, gián, bụi… Và sự “liệt kê”
này khiến tôi liên tưởng tới căn nhà dơ dáy với các đồ vật nghèo nàn do thi sĩ
Áo R. Rilke từng kể trong tuổi thơ chật vật, mà triết gia M. Heidegger có trích
dẫn lại để tìm đến cái “căn nguyên” (original) sự tồn-tại-trong-cõi-sống
của một tác giả trước khi có sự xuất hiện văn chương của ông(1).
Sau sự “liệt kê” mang bóng dáng sự thực
đó, là cuộc miêu tả sự sống hiện tại và quá khứ của bản thân bằng biểu tượng
Tình yêu không thành qua một vở kịch không lời, một bộ phim câm đen trắng về
một người đàn bà từ tuổi thanh xuân đến khi tóc bạc trắng đến gõ cửa “nấm mồ”,
nhưng “suốt bốn mùa im lìm đóng cửa”, và người thơ có lúc tự tách mình
ra để hỏi nhân vật trữ tình là chính mình:
“Ắng/ Lặng/ Như trong nấm mộ/ Còn thức/ Hay
đã ngủ/ Còn sống hay đã chết/ Hỡi ông già/ Trong ngôi nhà/ Suốt bốn mùa im lìm
đóng cửa?// Người đàn bà yêu ông/ Từ tuổi thanh xuân nàng đến đập cửa/ Tóc
trắng trên đầu nàng đập cửa tìm ông/ Cửa vẫn đóng/ Cánh cửa của nấm mồ không mở!”
Lại thêm hai lần nữa tác giả lặp lại sự “liệt
kê” đồ vật trót mang linh hồn của ông, và hé mở cái sự thật vì sao ông từ chối
cái mối tình đến điên cuồng của người đàn bà:
“Mối mọt, mọt, bóng tối, chuột, gián bình
gốm, lọ sứ, cuội, đá, hoa khô sách cũ/ Trong ngôi nhà/ Người đi tìm tự do/ Đã
tìm cách tự tù!// Trước ngôi nhà/ cuội, đá, hoa khô, bùa, chú, xương, răng,
vua, quan, bò sát đất nung, khủng long hóa thạch…/ Người đàn bà/ Mang khát vọng
tình yêu/ Đập cửa đập cửa đập cửa…”
Nhưng: “Trong ngôi nhà/ Người đàn ông hóa đá”.
Có thể trong đời ông đã từ chối một tình yêu có
thực nào đó, nhưng ở đây cần hiểu là ông đã từ chối những thú vui đầy cám dỗ
của “đám đông”, để lầm lụi đi tìm Tự do đích thực trong nhiều năm ròng,
và khi không tìm thấy, khi tuyệt vọng, “Đã tìm cách tự tù”… Bài thơ là
một cách nói cực tả về thái độ “bất cộng đới thiên” của ông với lối sống thực
dụng, phù phiếm, giả dối; một lối cự tuyệt kiểu nhà nho khí khái trước thói đời
đi ngược lại quan điểm sống cố hữu của tác giả. Một cách hành xử muốn học theo
Khuất Nguyên: “Cả thiên hạ đều say, chỉ mình ta tỉnh”. Một biểu hiện của
người mang tâm sự thường trực: “Tôi cô đơn dưới đất/ Chúa cô độc trên trời/
Thiên đường càng cô độc/ Mơ làm gì chúa ơi! (Thơ 5 chữ). Một phản kháng của
người có lúc tưởng mình phát điên: “Tuổi tác chồng lên, vui buồn dần cạn/ Có
thể về với thiên nhiên tìm chút thảnh thơi?/ Chưa giải tỏa sau lưng, đám dây
nhợ nợ nần đã hiện lên trước mắt/ Mây trắng bay mờ mịt cả chân trời!//Xương máu
để làm chi hở bạn/ Nếu tự do hạnh phúc không về/ Một nghìn năm rồi trăm năm có
lẻ/ Sông núi bàng hoàng hư thực máu xương kia!//Ta tỉnh thức hay ta ngây dại?/
Lặng im ta như bóng tối ngu hèn/ Tiếp tục nói cười, tiếp tục sống giữa mọi điều
sai trái/ Ta chưa điên cũng thể quá người điên// Tuổi tác trên đầu ngày một
chồng lên…” (Tuổi tác).
Cả khi ông sống trong ngôi nhà “Tự tù”
kia hay đi khắp nơi, bao giờ ông cũng bộc lộ là một người yêu nước nồng nhiệt,
người mang tinh thần Dân tộc thuần khiết: “Buồn vui muôn năm cũ/ Vẫn trước
mắt đó mà” (Hoa ngoài cửa sổ). Khi ngắm nhìn “Những bông lau trên đỉnh
Lão Sơn”, người thi sĩ đã quặn lòng: “Đất nước tôi nhành cây ngọn cỏ/
Cũng nghìn năm xương trắng máu hồng” (Lau biên giới)…
Nhưng, cũng bởi lòng yêu nước, lòng yêu dân tộc
trở thành hòn đá thiêng trong tâm hồn ông, ông đã nhiều lần phải trĩu lòng đau
đớn trước thế sự… Ông đi trên một con tàu, hết ga đầu lại về ga cuối, rồi tàu
quay lại, ông tự hỏi: “Rằng ông già nghễnh ngãng/ Đi đâu/ Và/ Về đâu?...”
(Ông già nghễnh ngãng). Và ông cũng “chờ đợi”, “một mình ngồi trên ghế đá
mùa đông” (Bên tượng Puskin) giống như nhân vật của Samuel Beckett “Chờ đợi
Godot”… Trong lúc “chờ đợi”, có lần ông đã chứng kiến cảnh này để liên hệ với
cả một xã hội “giả vờ” im lặng khoanh tay trước cái ác, cái phi lý hoành hành:
“Bọn trấn lột lên tàu/ Cả toa tàu im lặng/ Người giả vờ đọc sách/ Người giả
vờ nhìn ra/ Người giả vờ cúi đầu/ Người giả vờ quay mặt/ Người giả vờ nhắm mắt/
Người giả vờ ngủ gật/ Tất cả đều giả vờ/ Chỉ trấn lột là thật” - trong lúc
đó, “Con tàu vẫn băng lên/ Lầm lì đi trong đêm” (Toa tàu). Trong khi đi
và chờ đợi, ông đã chứng kiến bao chuyện cười ra nước mắt, như cảnh: “Ngỡ
như người chăn vịt thì sẽ nói về kỹ thuật chăn vịt/ Nhưng họ vẫn thao thao bất
tuyệt/ Về các địa tầng, thủy tầng trong đáy các đại dương…” (Người lặn
biển); đã mục sở thị bao chuyện đau xót đáng phẫn nộ, như chuyện: “Cuộc thí
nghiệm kéo dài non thế kỷ/ Kéo thêm kỷ nữa, chắc gì đã xong/ Họ hàng nhà chuột
bạch/ Tiếp tục bị cấy ghép, bị tiêm chích, bị mổ xẻ, bị nhiễm khuẩn, bị nhiễm
trùng, nhiễm thuốc độc/ Con mù mắt, con suy tim, con loạn thần, con lăn cù cù,
con xoay lòng vòng, con co giật/ Thương thay loài chuột bạch/ Không biết nói
như người/ Để có thể kêu lên!” (Chuột bạch), như chuyện: “Tự úp lên đầu
chiếc mũ/ Hình bán cầu/ Gói gọn thế giới trong tầm mắt/ Nhìn xa từ 4 đến 10 cây
số!” (Từ 4 đến 10 cây số), như chuyện về những anh chàng “sáng bóng
com-lê, cà-vạt” nhưng thực ra chỉ “Là cái loa để phát/ Những mệnh đề di
ngôn/ Những lời nói gói sẵn” khi “đang quay mặt trước sự thật” và “Thum
thủm bốc mùi” (Mùi cổ lỗ), và đau đớn nhục nhã nhất là cái “Trật tự tủ
lạnh” đang được thực thi, còn “Dưới tín hiệu dùi cui, tất cả lộn tùng
phèo/ Có phải ta đã trọn đời phục vụ chân lý?/ Tên sen đầm hất hàm hỏi tiếp/-
Vâng, thưa ngài, Chân Lý Dùi Cui!” (Chân lý dùi cui)…
Những bài thơ ngắn của ông vừa mang bóng dáng ưu
thời mẫn thế của các thi sĩ-nho gia thời Trung - Cận đại, vừa chất chứa bao
niềm suy tư trăn trở về thời cuộc, về lẽ sống, về lý tưởng của một Công dân
trong thời đại mới: “Đôi khi buồn chẳng biết làm chi/ Ngồi lặng lẽ nhìn mưa
ngoài cửa sổ/ Bụi mưa ướt mờ nhoè khung kính cửa/ Lá ngô đồng rỏ nước khóc ngày
đi…” - “Những lý thuyết đạo đức chưa bị nghi ngờ/ Những tư tưởng vì sao
tư tưởng đó?/ Có chén rượu, ta e dè ngọn gió/ Biết gió lành, gió độc thổi về
đâu…” - “Chúi mũi, dụi đầu vào cát/ Thuyền như con bọ chết trương nằm/
Biển dọc miền Trung đầy cá chết/ Dặm dài không một bóng ngư dân…” - “Buồn
vui theo lịch xé rồi/ Khóc cười thì đã khóc cười từ lâu/ Như người lạc giữa
sông Ngâu/ Vô tâm sợ viết thành câu vô tình/ Nghêu ngao mình nhại thơ mình/ Vẫn
e có kẻ đang rình trộm nghe!...” - “Tôi chiến đấu không bao giờ chiến
thắng/ Với nỗi buồn lẩn quất trong tôi/ Nhưng nỗi buồn/ Là thù hay bạn? Tôi hỏi
tôi/ Tôi không dễ trả lời!” - “ “Cái gọi là Chân lý khách quan/ Đã biến
thành Ông quan chân lý” - “Tôi chiến đấu không bao giờ chiến thắng/ Với
nỗi buồn lẩn quất trong tôi/ Nhưng nỗi buồn/ Là thù hay bạn? Tôi hỏi tôi/ Tôi
không dễ trả lời!” (Những bài thơ ngắn) - “Khi con chó bỏ đi/ Nồi cám đã
trống rỗng// Ấy là lúc vịt gà ngan, ngỗng/ Cất tiếng reo mừng khúc hát tự do//
Khi chúng có tự do// Cám trong nồi đã hết!” (Tự do) - “Đêm đen đến vô
vọng/ Ngày trắng đến vô cùng// Tiếp tục sự vô ích/ Lại viết thêm mấy dòng…
(Nhật ký 15/7/2018).
Nhưng đằng sau những nỗi chua chát có không ít
âm hưởng bi quan, đau đớn, ta vẫn thấy nụ cười hóm hỉnh và niềm tin yêu cuộc
sống & con người của tác giả, nhất là những thông điệp âm thầm mà gay gắt
về Đạo lý của một người thơ “Không lá, không hoa, cây còn cái lõi/ Thơ lõi
lim - Tặng phẩm lúc lim già…”
Thơ ông là thơ của một tác giả đến giai đoạn cao
nhất của sáng tạo thi ca là “trực ngôn”, rút tinh túy lòng mình ra để cắm sâu
vào tâm trí người đọc - không phải bằng những câu chữ ngọt ngào làm duyên làm
dáng, bằng vần điệu du dương; sự thật là ông đã không để lọt vào thơ mình một
câu chữ nào của các “hoạn quan trữ tình” (Maiacovski) đang đầy rẫy trong
thơ ca Việt hiện đại…
Bài thơ hay nhất trong tập “Người lặn biển”, theo tôi là bài thơ “Đói”, mang đậm “chất Thạch Quỳ” - bài thơ còn mang tính thời sự lâu
dài, và nói hộ được nỗi niềm của nhiều người Việt Nam đã/ đang trải qua những
sóng gió đời thường và lịch sử:
ĐÓI
Tớ nói thật, tớ có tài nhịn đói
Nhịn từ tuổi thiếu niên qua tuổi trung niên
Bát cơm trắng như giấc mơ cổ tích
Trong chiêm bao thường vẫn hiện lên
Tôi nhịn đói hơn sáu mươi năm có lẻ
Rồi quen đi, không đói nữa ngày nào
Cái cảm giác thèm ăn dần biến mất
Bát cơm trắng ngày nào cũng biến mất khỏi chiêm bao
Giờ nếu bạn mời tớ vào cuộc nhậu
Tớ nể tình ngồi lại, tớ không ăn
Xin bạn hãy cảm thông cho tớ
Cả một đời nhịn đói đã quen thân
Và cũng vậy, tự do, tình yêu… những gì nữa nhỉ
Với đời sống tinh thần tựa nước uống cơm ăn
Nhưng chẳng lẽ, như dạ dày của tớ
Trái tim người đói mãi cũng thành quen…?
Tôi xin thay mặt những người đọc nói chung,
người yêu thơ nói riêng trước hết cảm ơn nhà xuất bản Nghệ An đã làm “bà đỡ”
cho tập thơ giản dị, gai góc song đầy rung cảm này được ra đời, sau đó là cảm
ơn thi sĩ “lão thực” Thạch Quỳ - một bông hoa quỳ bằng đá quý hiếm trên xứ
Nghệ!
_______________________
1.
Triết học nghệ thuật của Heidegger, Julian Young, Như Huy dịch, tr.82, Nxb Thế
giới, Hà Nội, 2019.
*
Mai An NGUYỄN ANH TUẤN
Địa chỉ: Phố Thái Hà, quận
Đống Đa, Hà Nội
Email: tranthanhban1956@gmail.com
Điện thoại: 091.217.49.47
........................................................................................
- Cập nhật từ messenger Nguyễn Anh Tuấn gửi ngày 07.08.2020
- Bài viết không thể hiện quan
điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét