ĐỌC ‘BỮA
CƠM GIỮA CHÙA QUÊ’
THƠ THÍCH
TÍN THUẬN
*
BỮA CƠM GIỮA CHÙA QUÊ
Hè nắng đổ sân chùa
như rực lửa
Bảng hổi lên hiệu
báo bữa cơm thường
Những não phiền bao
hệ phược vấn vương
Tạm ngưng nghỉ để
nhường đường trai ngọ
Cơm một bát tròn
xoe in để đó
Dĩa muống rau mềm mại
ngó mà vui
Miếng đậu tương trắng
toát thiệt rõ bùi
Canh bí đỏ thêm lạc
vùi thơm tháp
Nâng ngang trán một
lòng y như pháp
Ngọt đắng cay chua
mặn nhạt cúng dường
Rõ trần ai khổ vô
ngã vô thường
Trang huyễn mộng chỉ
trò thương hải biến
Búp sen mở cánh xòe
trên bảo điện
Nỗi buồn lo vừa đổi
chuyển lạc an
Sáu căn trần dạ chẳng
buộc duyên phan
Cùng sáu thức quẳng
mơ màng trôi nổi
Cơm một bát đủ ấm lòng
ba buổi
Kinh vẹn thì lục khắc
với năm canh
Nguyện một lòng soi
rọi giúp quần sanh
Thuyền Bát nhã đáp
vương thành tịnh thổ
Trưa hè nắng nhưng
mồ hôi chẳng đổ
Bát cơm lành trưa
đúng ngọ cùng dâng…/.
" Lòng chợt từ
bi bất ngờ...!"
*
THƠ THÍCH TÍN THUẬN
LỜI BÌNH:
Nhà sư Thích Tín Thuận, chùa Chính Phước, Hải
Lăng, Quảng Trị, là một một nhà thơ Phật Giáo mà tôi ái mộ. Tôi có duyên cùng với
nhà thơ Trần Văn Hạng (Đồng Hà) được thăm thầy
một lần. Trưa hôm đó, hai chúng tôi được thầy chiêu đãi bữa cơm chay. Bữa cơm mời
đột xuất cho nên rất thanh đạm nhưng tôi lại nhớ mãi. Thú thật, trong đời tôi,
lần đâu tiên được ăn bữa cơm “thanh tịnh” như thế, thanh tịnh vì chùa yên lặng
mà trong lòng tôi cũng bình tịnh, an vui, thoát tục. (Tác giả Châu Thạch)
Trưa hôm nay mở trang web Hai Bờ Giấy, tôi lại đọc
được bài thơ “Bữa Cơm Giữa Chùa Quê”
của thầy làm tôi sống lại một giờ năm ấy, trong ngôi chùa quê ấy, với bữa cơm
nhà Phật cho tôi cảm thụ điều thú vị khác lạ mà tôi khó tìm được trong đời.
Bài thơ của thầy rất rõ ràng, không có ẩn dụ gì,
không có từ ngữ khó hiểu như thơ của các nhà sư hay các cư sĩ thường làm. Tuy
thế trong thơ thầy, ẩn chứa một thứ hương thiền nhẹ nhàng, khiến khi đọc, tâm hồn
ta tự nhiên thanh thản, trút hết “Những não phiền bao hệ phược vấn vương” như một
câu thơ trong khổ thơ đầu sau đây:
Hè nắng đổ sân chùa
như rực lửa
Bảng hổi lên hiệu
báo bữa cơm thường
Những não phiền bao
hệ phược vấn vương
Tạm ngưng nghỉ để
nhường đường trai ngọ
“Trai ngọ” là gì? Đó là bữa ăn trưa của các vị tu
hành. Bữa ăn trưa của quý thầy thường được gọi là “Thọ trai”. Thọ là thọ dụng, là nhận, ăn hay dùng…. Trai là đời sống
thanh tịnh, thiền định và trí huệ. Thọ trai là thọ dụng thức ăn nuôi sống thân
tâm bằng đời sống thanh tịnh, phẩm hạnh, giới đức, thiền định và trí hụê.”
“Ngày Phật còn tại thế, phần lớn quần chúng
theo Bà La Môn và tu Tứ Thiền Bát Định, nhiều vị tu hành chỉ chăm chú vào thiền
định mà lại không coi trọng ý nghĩa Giải Thoát. Có người thì ngồi thiền định
mãi chẳng ăn uống rồi bỏ thân, có vị thì mê say trong lạc thú của thiền định an
vui cho tự thân, chẳng gieo duyên giáo hóa; có vị thì ăn uống phi thời trở
thành phóng dật, chẳng giữ oai nghi… Vì thế, Phật từ bi chế Giới Ngọ Trai.
Ngọ Trai có hai phần
là thọ thức ăn và giữ ngọ trai (ăn đúng giờ Ngọ)”
Khổ thơ trên cho ta biết rằng các nhà sư không phải
như ta, được gọi thì ngồi vào ăn bất cứ lúc nào mà ngược lại, họ phải ăn vào giờ
ngọ tức khoản từ 11 giờ trưa đến 1 giờ chiều. Khi được báo ăn, việc làm đầu
tiên của họ là “Những não phiền bao hệ phược
vấn vương/Tạm ngưng nghĩ để nhường đường trai ngọ”.
Dầu người Phật tử hay người không Phật tử, tôi
nghĩ nếu cũng buông bỏ được như quý thầy trước phút ngồi vào bàn ăn thì thức ăn
sẽ thấy ngon hơn, tiêu hóa sẽ tốt hơn và tất nhiên niềm vui sẽ len vào ngự trị
tâm hồn ta lúc đó.
Bây giờ xin hãy nhìn vào bữa ăn của tu sĩ được mô
tả sau đây:
Cơm một bát tròn
xoe in để đó
Dĩa muống rau mềm mại
ngó mà vui
Miếng đậu tương trắng
toát thiệt rõ bùi
Canh bí đỏ thêm lạc
vùi thơm tháp
Đúng như vậy, bữa ăn mà thầy Thích Tín Thuân mời
chúng tôi tại chùa Chính Phước năm nọ cũng tương tự thế. Tôi còn nhớ có một món
rất đặc biệt: Bẹ môn dầm muối (dưa môn) chấm nước tương. Chúng tôi ăn hoài ăn
mãi, đến nay nhớ lại thì thèm. Những món ăn này không phải ngoài đời không có,
nhưng sao ăn trong chùa nó trở nên rất ngon. Có lẽ nhà chùa biết dầm muối đúng
cách là một, cái ngon tâm lý trong lòng mình là hai, cọng cả hai cái lại làm
cho bữa ăn thành ra rất tuyệt. Chỉ thiếu một điều là thầy thì “thọ trai” còn
chúng tôi là “ăn trưa”. Tuy thế, nhờ vậy tôi cũng hiểu được một chút hương vị của
buổi “thọ trai” như thế nào. Tôi nghĩ, buổi trưa hôm ấy, nếu tôi mà cũng “Trai
Ngọ” được như thầy chì chắc trong bữa ăn, tâm thần tôi sẽ an vui hơn nữa, linh
hồn tôi sẽ nhẹ như một tờ giấy trắng.
Khổ thơ thứ ba cho ta biết bữa ăn của người tu
hành còn nhiều thủ tục phiền phức khác ta rất nhiều :
Nâng ngang trán một
lòng y như pháp
Ngọt đắng cay chua
mặn nhạt cúng dường
Rõ trần ai khổ vô
ngã vô thường
Trang huyễn mộng chỉ
trò thương hải biến
“Nâng
ngang trán một lòng y như pháp” nghĩa là ngoài những thủ tục mà người tu hành
làm trong bữa ăn thì tâm thần phải giữ cho bửa ăn phải là “Bữa cơm chánh niệm”
đúng như trong Phật pháp đã dạy. Bữa cơm chánh niệm đó, thầy, tác giả bài thơ đã
giãi thích một phần nào trong hai câu thơ cuối của khổ thơ nầy và cả khổ thơ
sau:
Rõ trần ai khổ vô
ngã vô thường
Trang huyễn mộng chỉ
trò thương hải biến
Búp sen mở cánh xòe
trên bảo điện
Nỗi buồn lo vừa đổi
chuyển lạc an
Sáu căn trần dạ chẳng
buộc duyên phan
Cùng sáu thức quẳng
mơ màng trôi nổi
Trước khi hiểu ý nghĩa của những câu thơ trên
đây, ta phải tìm hiểu ý nghĩa của “sáu căn trần” và “sáu thức” mà tác giả đã đề
cập đên trong khổ thơ trên.
“Trong 49 năm hành đạo, đức Phật luôn chỉ dạy
chúng sinh phải giữ tâm mình cho được thanh tịnh và loại bỏ tất cả mọi phiền
não. Bởi vì vọng tưởng và phiền não biến tâm của chúng ta thành mê muội, là cội
nguồn của tham, sân, si. Chính nó là đại lộ kinh hoàng đưa chúng ta vào đường
ác nghiệp và mãi mãi trầm luân trong lục đạo luân hồi. Cái gốc của vọng tưởng
điên đảo là do sáu căn tiếp xúc với sáu trần, sanh ra sáu thức. Tất cả những chủng
tử nghiệp cộng với biết bao nhân duyên đều được xuất phát từ đây.“
Vậy sáu căn là gi?
“Lục căn là chỗ nương tựa, làm gốc cho những
cái khác nảy nở, tạo thành, bao gồm:
1. Nhãn là mắt,
dùng để nhìn.
2. Nhĩ là tai, dùng
để nghe.
3. Tỷ là mũi, dùng
để ngửi.
4. Thiệt là lưỡi,
dùng để nếm.
5. Thân là thân người,
dùng để nhận biết những cảm giác như nóng, lạnh...
6. Ý là tư tưởng,
dùng để phân biệt.”
Sáu căn là như vậy
còn “Sáu căn trần” trong câu thơ là gì?
“Xung quanh chúng ta có biết bao hiện tượng, vật
thể biến đổi không ngừng, chi phối từ tư tưởng đến hành động chúng ta từng giây
từng phút, được gọi là “trần”. Như thế, trần có nghĩa là bụi, luôn luôn đổi dời.
Trần ở đây cũng còn có nghĩa là phần vật chất, hay những cảnh vật xung quanh
con người. Có 6 trần (lục trần):
1. Sắc là màu sắc,
hình dáng.
2. Thanh là âm
thanh phát ra.
3. Hương là mùi
hương.
4. Vị là chất vị do
lưỡi nếm được.
5. Xúc là cảm giác
như cứng, mềm, nóng, lạnh.
6. Pháp là những
hình ảnh, màu sắc, hương vị được lưu lại từ 5 trần ở trên.
Bây giờ sáu thức là
gì?
“Khi Lục căn tiếp xúc với Lục trần, có nghĩa
là: mắt thấy được hình ảnh nào, mũi ngửi được mùi thơm nào đó, lưỡi nếm được chất
chua, cay hay ngọt, tai nghe được điệu nhạc êm đềm, thân thì cảm thấy đau đớn,
hay lạnh lẽo, còn ý thì bắt đầu suy nghĩ, thì ký ức của chúng ta phát sinh ra sự
phân biệt. Và chính sự phân biệt, hiểu biết và phán đoánnày được gọi là thức. Cũng
như Lục căn, thức cũng có 6 thức nên thường được gọi là Lục thức. Do đó Lục thức
gồm có: Nhản thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức và Ý thức.”
Hiểu được căn, trần và thức thì ta hiểu được ý
nghĩa thơ của tác giả trong bữa trai ngọ hay là một bữa ăn chánh niệm. Trong bữa
ăn chánh niệm đó, người tu sĩ phải quán rõ sự vô ngã vô thường, sự huyễn mộng của
kiếp sống, phải tách lìa sáu căn, quẳng đi sự mơ màng của sáu thức để cho tâm
thần trở nên an lạc.
Trong phần thơ còn lại, tác giả thỏa lòng với những
bữa ăn trong cuộc đời tu hành của mình, nhà thơ nguyện với lòng sống vì đạo
pháp để giãi cướu chúng sinh, đưa họ lên thuyền Bát nhã để về cõi Phật nơi tây
phương tịnh độ:
Cơm một bát đủ ấm lòng
ba buổi
Kinh vẹn thì lục khắc
với năm canh
Nguyện một lòng soi
rọi giúp quần sanh
Thuyền Bát nhã đáp
vương thành tịnh thổ
Trưa hè nắng nhưng
mồ hôi chẳng đổ
Bát cơm lành trưa
đúng ngọ cùng dâng…
“Thuyền Bát Nhã là chiếc thuyền Trí huệ do
pháp nhiệm của Phật tạo nên để rước các chơn hồn đắc đạo lên cõi cực lạc.
Thuyền Bát Nhã là từ
ngữ để nói ví dụ so sánh. Con người sống trong cõi trần đầy ô trược nên bị tấm
màn vô minh che lấp, để cho lục dục thất tình cám dỗ khiến sai. Chừng nào phá bỏ
được tấm màn vô minh ấy thì vượt lên khỏi sự cám dỗ của lục dục thất tình, trở
lại làm chủ chúng nó, lúc đó con người hết vô minh, tức nhiên đạt được Trí huệ,
và cái Trí huệ ấy ví như chiếc Thuyền Bát Nhã, đưa con người đến cõi Cực Lạc Niết
Bàn, đắc đạo thành Tiên Phật.”
Người viết bài này, vì cảm động trước bài thơ nhẹ
nhàng mà uyên thâm, thanh bai mà sâu nhiệm, lại nhớ đến bữa ăn mà mình từng được
thụ lảnh, nên tra cứu sách vở để hiểu thêm bài thơ mà viết cảm nhận của mình, hầu
cho những ai có đồng tâm tình thì thưởng thức nó. Những gì người viết tra cứu
được để viết, đều đóng trong ngoặc kép. Kính mong qúy vị lượng thứ trước những
điều sai trật ./.
*.
CHÂU THẠCH (Trương Văn Trạn)
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.
ĐT: 0929128967 - 05113894610
Email: truongvantran@hotmail.com
…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 24.08.2020.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân
Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi
trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét