CHUYỆN Ở ĐẢO THẦN TIÊN
*
GIẤC MỘNG VỢ HỒ
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
Bạn ta ( tác giả tự xưng), Tất Di Am, là người
phóng túng ít ai bì. Khuôn mặt ông ta đẫy đà, râu rậm. Trong đám sĩ lâm đều
biết danh tiếng.
Khi có việc, Tất hay đến nhà riêng ông chú làm quan
thứ sử, lên trên lầu nghỉ ngơi. Người ta thường đồn đại trên lầu có nhiều hồ
tinh. Trước đây, mỗi khi đọc truyện Thanh Phượng do ta chép. Tất tỏ ý rất hâm
mộ, chỉ hận nỗi sao mình chưa một lần gặp được hồ. Nhân ở lầu này, ông lại càng
đắm đuối tơ tưởng.
Ngày ấy, khi trở về buồng thì đã nhá nhem tối, trời
nóng bức quá, ông nằm ngay trước cửa mà ngủ. Trong giấc ngủ, có người lay gọi,
ông tỉnh dậy thấy một người đàn bà trạc ngoại tứ tuần nhưng còn có chiều phong
vận lắm. Tất sửng sốt hỏi là ai, người ấy đáp:
- Tôi là hồ ly đây. Được ông mơ ước bấy lâu, tôi
thầm cảm tấm lòng ấy mà đến.
Tất thấy nói thế mừng cuống, đã giở giọng trăng
hoa. Nhưng người đàn bà cười bảo:
- Tôi đã luống tuổi rồi. Ví bằng người không nỡ
chê, tự tôi đã hổ thẹn trước. Tôi có đứa con gái nhỏ đến tuổi cập kê, có thể
nâng khăn sửa túi cho ông được. Đêm nay xin đừng để cho ai ở nhà này, nó sẽ
đến. Tối hôm sau, Tất đốt lò hương ngồi đợi. Quả nhiên người đàn bà dắt đứa con
gái đến. Thật là một tuyệt thế giai nhân. Người đàn bà dặn con gái:
- Tất lang có duyên túc thế với con. Vậy con ở lại
đây. Sớm mai phải về sớm, đừng có ngủ quên.
Tất nắm tay nàng dắt vào màn, mây mưa vui thú. Xong
rồi cô gái nửa đùa nửa thật cười bảo:
- Gớm chết! Chàng vừa béo nặng vừa cuồng si, ai mà
chịu nổi.
Chưa sáng rõ cô gái đã đi, vừa tối lại đến, bảo Tất:
- Mấy chị em nhà mở tiệc định mời chàng rể mới. Mai
chàng cùng đi với em nhé!
Mãi ở đâu?- Tất hỏi.
- Bà chị cả làm chủ tiệc. Cách đây cũng không xa.
Đêm sau ngồi đợi mãi không thấy cô gái đến. Tất cảm
thấy người mệt mỏi, liền gục đầu lên bàn. Cô gái tới tỏ ý áy náy:
- Chết nỗi! để chàng phải đợi lâu quá!
Nói rồi nắm tay Tất dẫn đi, tới một nơi có nhà cửa
nguy nga. Đi thẳng vào gian chính thất thấy đèn đuốc lấp lánh như sao sa. Giây
lát chủ nhân bước ra, trang phục đơn giản nhưng đẹp tươi vô ngần, khép nép thi
lễ mừng chàng rể mới. Sửa soạn vào tiệc, con hầu bảo cô Hai tới. Cô Hai trạc
tuổi từ mười tám đến mười chín, vừa vào đã hướng vào cô dâu mới cười đùa:
- Em thế là biết mùi đời rồi nhé! Sao? Được anh
chàng như vậy có vừa lòng không?
Cô em cầm quạt đập vào lưng chị, lơ lơ nhìn không
bắt lời. Cô Hai cười, tiếp:
- Nhớ lại chị em mình còn bé hay chơi vật lộn nhau.
Em sợ bị cù vào mạng sườn, người ta chỉ mới giơ ngón tay ra là đã cười lăn cười
lóc. Em tức chị, nguyền chị sẽ lấy phải anh chồng lùn tịt. Chị trả đũa em: con
oắt con thế nào cũng vớ phải anh chàng rậm râu, để khi hôn hít râu nó cù cho
biết tay. Nay đúng thế chứ còn gì?
Chị cả cũng bật cười, giải hòa:
- Cái cô này! Chả trách em Ba nó cáu giận cũng
phải. Ai đời rể mới đang ở dây mà ăn nói không giữ ý giữ tứ gì cả.
Kế đó, mọi người cùng ngồi vào bàn tiệc, trò chuyện
vô cùng rôm rả. Bỗng nhiên một thiếu nữ bế mèo đến, tuổi chừng mười một đến
mười hai, tóc chưa bím nhưng cốt cách đã lộ vẻ thanh tú. Cô cả đon đả:
- Em Tư cũng muốn xem mặt anh rể ư? Nhưng tiếc quá,
đây hết ghế rồi, không có chỗ cho dì út.
Nói rồi bế em đặt lên đùi mình, lấy bánh trái cho
nó ăn. Được một lát bế em vừa đặt vào lòng cô Hai vừa nói:
-Úi chà, nó đè lên đùi tôi đau quá không chịu được.
Cô Hai vội phân bua:
- Con nhỏ này mới bằng ấy tuổi mà thần xác đã nặng
như cối đá. Tôi ốm o thế này chịu sao nổi? Nó muốn xem mặt ông anh rể, thì đây
ngồi lên đùi anh. Ông to béo này mới chịu nổi mày.
Rồi xốc luôn em đặt vào lòng Tất. Tất ôm em vợ vào
lòng hương thơm phưng phức mà cảm thấy nhẹ tênh như không, rồi cùng uống rượu
chung chén với em. Cô Cả nhắc:
- Con ranh chớ có quá chén đấy, kẻo say mà thất thố
thì ông anh cười cho!
Cô bé nghe thế cười khanh khách, lấy tay nghịch mèo
làm nó kêu eo eo. Cô Cả thét lên:
- Sao không vứt nó đi cho rồi? Cứ ôm lấy nó trêu
ngậu lên.
Cô Hai bỗng nãy ý hay:
- Thôi cứ để cho nó ôm mèo. Mượn ngay nó làm tửu
lệnh cho vui cuộc rượu thế này nhé: cái đũa này cứ chuyền tay nhau, đến tay ai
mèo kêu thì người đó phải uống rượu..
Mọi người vỗ tay tán thưởng. Lạ quá đũa này cứ đến
tay Tất là mèo kêu ré lên. Tất vốn là tay bợm rượu, phải uống liền mấy chum
lớn, lúc ấy mới rõ: cứ đũa đến lượt Tất là cô bé lại bóp cho mèo kêu. Phát hiện
ra mọi người cùng phá lên cười. Cô Hai bảo em út:
- Thôi! Em bé đi ngủ đi. Mày ngồi đè nặng đùi ông
anh lâu rồi, sợ chị Ba mày oán đó.
Cô bé vâng lời, ôm mèo quay ra. Cô Cả thấy Tất uống
giỏi quá liền gỡ cái độn tóc (ngày xưa phụ nữ Trung Quốc [hạng trung lưu]
thường đeo tóc giả cuốn quanh một cái độn bằng gô, tựa như cái chén bên trong
gắn sơn. Do đó có thể dùng cái độn ấy đựng rượu) rót rượu vào nàng mời. Tất ngó
cái độn chỉ như cái chén con nhưng khi uống thì lượng rượu nhiều đến dễ bằng
mấy đấu. Uống cạn rượu nhìn lại thì hóa ra tàu lá sen.
Cô Hai cũng tự mình chuốc rượu mừng. Chàng từ chối không
thể kham được nữa. Cô ta lấy hộp son, bé tí như viên đạn, ân cần khuyên mời:
- Chú không uống được nhiều thì tôi chỉ mời một
chút gọi là có thôi.
Tất nhìn cái hộp son bé tí, tưởng chỉ một hớp là
xong. Ai ngờ tiếp đến hàng trăm hớp, rượu vần chưa hết.
Cô Ba- vợ Tất- ngồi bên cạnh thấy thế lấy cái chén
hạt sen bé tí tẹo, thay thế cho cái hộp son, vừa cười vừa bảo chồng:
- Anh đừng để kẻ gian lường gạt!
Vừa nói vừa để cái hộp son lên bàn thì hóa ra là
cái bát to tướng. Cô Hai chọi ngay:
- Việc gì đến cô! Anh chồng mới vài tối mà yêu
thương thân thiết đến thế ư?
Tất cầm lấy cái cái chén hạt sen vợ vừa ý tứ đưa
mời, ngửa cổ làm một hơi hết sạch, tay mân mê cái chén, thấy mềm nhũn, nhìn kỹ
không phải chén mà là chiếc giày thêu (chân con gái phong lưu thường bó chặt từ
thuở bé cho nên chân nhỏ và giày đi thường nhỏ xíu) cực kỳ khéo. Cô Hai vội
giằng ngay lấy, mắng:
-Cái con ranh này! Mày đánh cắp giày tao tự bao giờ
thế. Thảo nào chân cứ lạnh toát.
Rồi đứng dậy vào nhà trong thay giày.
Cuộc rượu đã tàn, vợ Tất nhắc chồng cáo biệt các
chị, tiễn chân ra đến ngoài làng, bảo Tất hãy trở về một mình.
Tất tỉnh dậy thì hóa ra là một giấc mộng, nhưng lổ
mũi lổ miệng còn thơm lừng mùi rượu, tự lấy làm lạ. Buổi tối nàng đến hỏi ngay:
- Đêm qua say rượu chưa chết ư?
Tất cho đó chỉ là giấc chiêm bao. Nàng cắt nghĩa:
- Chị em em sợ chàng say sưa ngông cuồng cho nên
phải thác vào mộng như thế. Thực ra không phải là mộng đâu.
*
Nàng Ba cùng Tất đánh cờ, phần thua thường về chàng
ta. Nàng cười bảo:
- Hàng ngày chàng vẫn ham đánh cờ em cứ tưởng chàng
cao cờ lắm, nay xem ra cũng chỉ bình thường vậy thôi.
Tất nhờ nàng chỉ bảo thêm cho. Nàng nói:
-Nghệ thuật chơi cờ, mỗi người tự lĩnh hội tìm tòi
lâý, em làm sao có thể giúp chàng giỏi lên được. Tốt nhất là ngày một thấm
nhuần rồi sẽ khá lên.
Luyện tập theo cách ấy được vài tháng, Tất cảm thấy
hơi khá lên một chút. Nàng thử lại, vẫn cười mà chê: "Chưa được, chưa
được.", Tất ra ngoài tỷ thí với những bạn cờ trước đây, ai cũng lấy làm
lạ, vì chàng đánh lên tay rõ.
Tất là người ngay thẳng bộc trực, không giữ kín
được điều gì trong bụng, cho nên đã hé lộ với chúng bạn đôi điều quan hệ với hồ
nữ. Thế là nàng biết ngay trách rằng:
- Chả trách các bạn bè đồng tâm không chơi với anh
chàng bô lô ba la như điên này cũng phải. Em đã bao lần dặn anh phải giữ mồm
giữ miệng cho cẩn thận kín đáo, ấy thế mà sao cứ thông thốc tuôn ra hết vậy?
Rồi ra mặt giận định bỏ đi. Tất phải xin lỗi đi xin
lỗi lại nàng mới nguôi. Song cũng do đó nàng đi lại ăn nằm thưa hơn trước.
Ăn ở với nhau hơn một năm, một tối nàng đến ngồi
lặng nhìn Tất, rủ đánh cờ không đánh, kéo đi ngủ cùng không đi. Cứ thế rầu rầu
hồi lâu, nàng mới độ nhiên hỏi:
- Chàng xem em với Thanh Phượng ai hơn?
- Em hơn chứ? Tất đáp.
- Không em tự thẹn là không được bằng Thanh Phượng.
Song ông Liêu Trai với chàng là bạn văn chương, phiền chàng cậy ông chép cho
một thiên tiểu truyện. Ngàn năm về sau, vị tất không có người ao ước như chàng
hiện nay.
- Ấy, tôi cũng có cái ý ấy. Song vì buộc phải theo
lời dặn của em nên còn giữ kín.
- Đành rằng trước đây em dặn thế, nhưng nay sắp sửa
chia tay nhau, còn gì phải dấu giếm nữa.
Tất hỏi nàng đi đâu? Đáp:
- Em cùng dì Tư được Tây Vương Mẫu triệu đi làm Hoa
điển sứ, không trở về được nữa.
Tất xin nàng đôi lời lưu tặng. Nàng đọc: "Dẹp
bực tức bớt lỗi lầm" rồi đứng dậy, nắm lấy tay Tất, nàng âu yếm:
- Chàng đưa chân em một đoạn.
Cùng đi khoảng một dặm dài, đôi bên nhỏ lệ chia
tay.
Nàng còn căn dặn trước khi đi hẳn:
- Đôi ta có chí, biết đâu chẳng có dịp tái ngộ.
*
Ngày ấy tháng chạp năm Khang Hy thứ 21, ông Tất
cùng ta gác chân lên nhau đàm đạo ở Xước Nhiên Đường. Ông ta đã kể tỉ mỉ cho ta
chuyện lạ này. Ta nói: "Cô Hồ tâm giao như thế thì bút lực Liêu Trai này
cũng vẻ vang thay!"
Ta bèn chép lại chuyện này.
LỚP HỌC MA
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
Nhà quan bộ lang họ Khương ở phía Nam sông Vị, có
nhiều ma quỷ thường hiện hình nhát người. Vì thế ông phải dọn nhà đi, chỉ để
lại người đầy tớ trông coi. Người ấy bị ma làm chết, thay người khác cũng bị
chết nốt, cho nên nhà đành phải bỏ hoang.
Trong làng có một người học trò, tên là Đào Vọng
Tam, tính tình phóng khoáng, ưa gần con hát, son cứ rượu ngà ngà là bỏ về. Bạn
bè bảo đào hát chạy theo kéo lại, chàng cười mà không cưỡng, song dù có ở lại
cả đêm chàng cũng không mảy may đụng chạm đến gái. Chàng thường ngủ nhà quan Bộ
lang, có cô hầu gái đến gạ gẫm hiến thân, nhưng chàng cương quyết cự tuyệt
không làm điều dâm loạn. Ông Bô lang thấy thế càng quý trọng.
Nhà Đào vốn nghèo, vợ lại chết, mấy gian nhà tranh
ẩm thấp nóng nực không thể chịu nổi. Vì thế chàng nói với quan Bộ lang cho ở
nhờ ngôi nhà hoang. Ông Bộ lang từ chối, nói thực là nhà có ma không ở được.
Đào liền làm bài văn: Lại luận về không có ma đưa cho ông bộ lang còn nói thêm:
"Ma làm được gì mà sợ". Bộ lang thấy chàng cứ cậy cục mãi như thế
cũng đành phải bằng lòng.
Chàng dọn đến căn chính sảnh, mới chập tối vừa để
quyển sách ở giữa bàn, trở về nhà cũ lấy đồ vặt khác thì quyển sách đã biến đâu
mất. Chàng lấy làm lạ, nằm ngửa trên giường, lặng lẽ chờ xem có sự gì xảy ra.
Chỉ một lát đã nghe thấy tiếng giày dép loẹt quẹt, hé mắt nhìn thấy hai cô gái
từ trong buồng đi ra, đem theo quyển sách vừa mất lúc nãy để lên bàn. Một cô
ước chừng hai mươi tuổi, một cô khoảng mười bảy đến mười tám tuổi đều xinh đẹp
cả, cứ đứng quanh quẩn bên giường trông nhau mà cười. Chàng nín lặng không động
cựa. Cô lớn gác một chân lên bụng chàng, cô nhỏ bưng miệng cười khúc khít. Đào
thấy rạo rực không cầm lòng đặng, nhưng lập tức suy nghĩ đứng đắn trở lại, cuối
cùng không đoái tưởng đến. Cô gái sáp gần lại, tay trái vuốt râu, tay phải khẽ
vỗ lên trán, lên má chàng bem bép. Cô nhỏ tuổi càng cưòi tợn. Đào không chịu
được, bật dậy quát:
- Lũ quỷ, sao dám hỗn xược như thế?
Hai cô gái hoảng sợ, ù té chạy biến mất. Đào ngại
bị quấy nhiễu suốt đêm, đã muốn quay về nhà cũ song lại xấu hổ vì đã nói cứng,
cho nên đành phải khêu đèn ngồi đọc sách. Trong các mảng tối, bóng ma vẫn chập
chờn song chàng cứ làm ngơ , không dòm tới.
Gần nửa đêm chàng cứ để đèn đi nằm. Vừa mới nhắm
mắt đã thấy có vật gì nho nhỏ ngoáy vào lỗ mũi làm chàng hăt hơi ầm lên. Trong
bóng tối có tiếng cười khe khẽ. Đào vẫn chẳng nói chẳng rằng, giả bộ ngủ say
xem chúng còn giở trò gì khác nữa.
Một lúc đã thấy cô nhỏ lấy tự quấn ngay vào bắp vế,
lò dò tới gần, Đào nhổm dậy quát ầm lên, họ lại chui lũi trốn mất biệt, vừa
chợp mắt, lỗ tai lại bị ngoáy, cứ thế suốt đêm không sao ngủ được. Đến khi có
gà gáy sáng, Đào mới được yên mà ngủ một giấc.
Cả ngày không nghe thấy chuyện gì lạ, nhưng không
mặt trời vừa lặn, ma lại hiện hình. Đào bèn nấu cơm về đêm để thức luôn tới
sáng. Cô lớn xếp chân bằng tròn tót lên ghế nhìn chàng đọc, rồi đột nhiên thò
tay bịt lấy sách. Đào tức quá nắm lấy thì ma đã vụt biến mất. Chỉ có một lát
lại bò ra, lại cầm lấy sách. Đào phải lấy tay chặn quyển sách mới đọc nổi. Còn
cô bé thì lùi tới sau lưng Đào, lấy hai tay bịt mắt chàng rồi chạy vụt ra xa
đứng nhăn nhở cười. Đào tức quá trỏ vào mặt mà mắng rằng:
- Đồ quỷ con! Ta mà bắt được ta giết chết cả đôi.
Nhưng hai cô gái vẫn cứ nhơn nhơn không sợ. Nhân
vậy Đào mới đùa rằng:
- Thôi, cái trò lăn lóc chiếu giường đây không có màng
đâu, các cô ghẹo tôi chỉ vô ích.
Hai cô mủm mỉm cười, quay mình vào bếp, kẻ chẻ củi
kẻ vo gạo giúp Đào nấu cơm. Đào ngó vào khen:
- Hai cô cứ làm như thế chẳng hơn là trêu cợt tôi
ư?
Lát sau cơm chín, lại tranh nhau lấy thìa đũa, bát
đĩa bày đặt lên bàn. Đào nói:
- Cám ơn hai cô đã phục dịch, lấy gì để đền đáp
công đức sau đây?
Cô gái lại cười nói dọa:
- Cơm có thuốc độc đấy, cẩn thận kẻo chết!
Đào đối lại:
- Xưa nay tôi với các cô có hiềm oán gì nhau, đâu
nỡ hại nhau đến thế!
Đào vừa ăn hết bát cơm này đã có đầy bát khác, hai
cô cứ giành nhau qua lại đơm tiếp cho chàng. Đào cũng lấy việc đó làm vui, quen
đi thành thường lệ. Ngày lại ngày dần dần quen thân, cùng ngồi nói chuyện
phiếm. Đào hỏi đến họ tên. Cô lớn thổ lộ:
- Em họ Kiều tên Thu Dung. Con bé kia họ Nguyễn tên
Tiểu Tạ.
Lại tỉ tê hỏi từ đâu đến nương tựa chốn này. Tiểu
Tạ cười ranh mãnh:
- Anh chàng ngốc ơi! Đến thân thể còn chẳng dám lộ
cho người ta thấy, ai mượn anh hỏi đến nhà cửa, gia thế, ý chừng muốn cưới xin
hay sao?
Đào giữ nét mặt nghiêm trang, đáp lại:
- Đối diện với người đẹp, bảo tôi làm sao vô tình
cho được.Song vì âm khí nặng nề, người trần gian động vào tất chết. Vậy thì nếu
ở chung với nhau không vui thì nên mỗi người một nẻo. Nếu ở chung với nahu mà
vui thì ai yên phận nấy. Nếu như tôi không được yêu thương thì đâu dám xúc phạm
đến hai cô? Ví bằng tôi được yêu thương thì can chi hai cô đi giết anh chàng
cuồng si?
Hai cô nhìn nhau có vẻ cảm động. Từ đó trở đi không
nỡ đùa nghịch quá quắt nữa. Song thỉnh thoảng vẫn thọc tay vào bụng Đào tụt
quần chàng xuống đất, chàng cũng bỏ qua, không lấy làm điều.
Một hôm chàng đang chép sách dang dở thì có việc
phải đi ra ngoài, đến lúc trở vào đã thấy Tiểu Tạ lúi cúi trên bàn cầm bút chép
tiếp. Thấy Đào về, cô ta buông bút, cười bẽn lẽn. Đào lại gần xem, tuy chữ còn
chưa đẹp nhưng hàng lối ngay ngắn, liền tấm tắc khen:
- Cô viết khá đấy! Nếu cô thích tôi sẽ dạy cho.
Nói rồi ôm Tiểu Tạ vào lòng, cầm lấy tay mà dạy
viết chữ. Thu Dung bất ngờ từ ngoài vào, hơi biến sắc mặt vẻ như ghen tức. Tiểu
Tạ cười nói:
- Thuở bé em thường được cha dạy viết, nay bỏ lâu
ngày cầm bút nó cứ mơ mơ màng màng thế nào ấy?
Thu Dugn vẫn không nói gì. Đào biết ý nhưng giả
tảng như không biết, cũng ôm Thu Dung trao cho cây bút mà bảo:
- Để tôi xem cô có viết được không nào?
Đoạn cầm lấy tay Thu Dung đưa đẩy được mấy chữ rồi
đứng dậy bảo:
- Nét bút cô Thu khá lắm đấy!
Thu Dung lúc này mới nở nang mày mặt. Đào liền rọc
hai tờ giấy làm tờ phóng, giao cho hai cô cùng tập viết, còn chàng châm một
ngọn đèn khác ngồi đọc. Chàng lấy làm mừng vì ai có việc nấy không còn quẫy
nhiễu nhau nữa. Khi viết xong, hai cô kính cẩn mang đến bàn nhờ Đào chỉ bảo.
Trước đây Thu Dung chưa được đi học, chữ viết còn nguệch ngoạc chưa ra chữ,
không được đánh giá không bằng Tiểu Tạ thì có ý thẹn, Đào phải an ủi khích lệ
mãi, Thư mới lấy lại được vẻ thường.
Từ đó, hai cô gái coi Đào làm thầy, khi ngồi thì
gãi lưng, khi nằm thì xoa bóp cẳng, chẳng những không dám khinh nhờn mà còn
tranh nhau chiều chuộng. Được mấy tháng chữ viết của Tiểu Tạ ngay ngắn đẹp đẽ,
Đào buột miệng khen. Thế là Thu Dung xấu hổ tủi thân quá, nước mắt ròng ròng.
Chàng phải đủ lời khuyên giải mới nguôi.
Sau đó, Đào dem sách ra dạy học, cả hai đều thông
minh lạ thường, chi bảo một lượt là nhớ, không bao giờ hỏi lại lần thứ hai. Thế
là thầy trò thi nhau đọc sách, thường suốt cả đêm. Tiểu Tạ còn dẫn cậu em trai
là Tam Lang đến xin học. Cậu ta tuổi chừng mười lăm đến mười sáu, khá điển
trai, mang cái móc vàng đến làm lễ nhập môn. Đào xếp cho Tam Lang học cùng lớp
với Thu Dung. Thế là từ đó tiếng đọc sáchrâm ran cả cửa. Đào trở thành thầy đồ
một lớp học toàn ma. Ông Bộ lang nghe tin đó mà mừng, thỉnh thoảng lại cấp cho
gạo củi.
Được vải tháng Thu Dung và Tam Lang đã biết làm
thơ, thi thoảng lại xướng họa với nhau. Tiểu Tạ ngầm dặn Đào đừng có dạy cho
Thu Dung, chàng gật đầu. Thu Dung bảo đừng dạy cho Tiểu Tạ, Đào cũng ừ.
Đến một hôm Đào phải lên trường thi, hai cô gái
khóc tiễn biệt. Tam Lang can thầy:
- Thầy nên cáo ốm đừng đi. Nếu không, chuyến này có
thể gặp điều chẳng lành.
Đào không nghe, cho rằng cáo ốm trốn thi là một
điều nhục.
Nguyên là chàng hay làm thơ đả kích việc thời sự,
động chạm đến bậc quyền qúy trong huyện. Họ vẫn ngày đêm tính chuyện hãm hại
nhân dịp liền hối lộ các quan học chính để vu cáo chàng hạnh kiểm không tốt,
bắt bỏ ngục. Tiền lưng hết sạch, chàng xin ăn các bạn bè, tự nhủ phen này thôi
thế là hết đường sống. Bỗng có một bóng người lọt vào buồng giam, nhìn ra thì
đúng là Thu Dung. Nàng đem cơm gạo cung đốn cho chàng. Hai người nhìn nhau tấm
tức khóc ròng. Nàng bảo:
- Tam lang đã lo chàng gặp chuyện chẳng lành, nay
quả không sai. Tam Lang cùng đi với em, nay nó đội đơn đến pháp ty kêu oan rồi.
Nàng chỉ nói qua loa dăm câu ba điều rồi quay ra,
không ai trông thấy cả. Hôm sau, quan hình bộ đi xe ra ngoài, Tam Lang đón đường
kêu oan, quan thu lấy đơn. Thu Dung lại vào ngục báo cho chàng, quay ra để thăm
dò tin tức, nhưng ba ngày sau không trở lại nữa. Đào lòng buồn bụng đói, một
ngày đằng đẳng như thể năm trường. Bỗng Tiểu Tạ đến, mặt buồn rười rượi, tưởng
không còn gượng được nữa. Nàng báo tin dữ:
- Thu Dung hôm ở đây trở về, qua miếu Thành Hoàng
bị viên phán quan mặt đen bắt, cưỡng bức làm vợ bé, Thu Dung không chịu nay
cũng bị nhốt ngục tối. Em lặn lội suốt trăm dặm đường, mỏi mệt tưởng chết. Đến
cửa Bắc lại bị gai già đâm giữa gan bàn chân, đau thấu xương, e rằng không thể
đến đây lần nữa.
Nói rồi chìa chân cho Đào coi, máu me bê bết. Nàng
đưa cho Đào ba lạng vàng rồi khập khiễng biến mất.
Quan hình bộ xét đến việc Tam Lang khiếu nại, cho
rằng Tam Lang chẳng có họ hàng thân thích gì với bị can, vô cớ kêu oan hộ thế
là trái lý, liền bắt nọc ra đánh đòn. Tam Lang ngã xuống đất biến mất. Quan lấy
làm kỳ dị, xem đến đơn khiếu oan thấy lời lẽ bi thiết, liền sai giải Đào ra
công đường xét hỏi Tam Lang là người thế nào. Đào giả như không biết. Quan hình
bộ biết là oan, thả cho chàng ra.
Đào trở về nhà, suốt đêm chẳng thấy một ai. Mãi lúc
tàn canh mới thấy Tiểu Tạ tới, rầu rĩ báo:
- Tam Lang ở công đường ra, bị thần coi giữ công
đường bắt giải xuống âm ty. Diêm Vương thấy Tam Lang là người nghĩa khí, cho
thác sinh vào nhà giàu sang trên dương thế. Còn Thu Dung vẫn bị giam cầm, em
đầu đơn kêu tới thành hoàng thì bị ngăn trở không vào được, nay làm thế nào
đây?
Đào nổi giận:
- Thằng quỷ đen, sao dám bạo ngược thế? Ngày mai ta
sẽ đập nát tượng nó ra, gí nát nó thành bùn đất, lại vạch mặt Thành Hoàng mà
hỏi tội: sao dám để cho bọn thuộc hạ tay chân hoành hành? Hắn ta cứ trong cơn
mê mộng bí tỉ như vậy hay sao?
Hai người cùng bưồn bực ngồi suông với nhau, bất
giác canh tư sắp tàn, bỗng Thu Dung vụt đến. Hai người vừa mừng vừa sợ, vội hỏi
han tình hình. Thu Dung khóc sướt mướt:
- Vì chàng mà em phải chịu muôn vàng cay đắng. Lão
Phán quan hằng ngày đem hết gậy lại đao ra bức em, đêm nay bỗng nhiên thả em
về, còn bảo: "Ta chỉ vì yêu thương nàng mà xử xự như thế này chứ không vì
cớ gì khác. Nếu nàng không thuận thì ta cũng chẳng ép buộc. Xin phiền nói với
quan hình bộ họ Đào chớ có khiển trách ta đó!".
Đào nghe cũng hả dạ đôi chút. Nhân lúc cao hứng
muốn chung giường, liền gạ:
- Hôm nay xin vì các em mà chết cũng cam.
Hai cô tỏ bộ không thuận, van nỉ:
- Bấy nay được chàng dạy bảo cũng hiểu ra đôi điều
nghĩa lý, nay nỡ nào vì yêu kính chàng mà lại hại chàng ư?
Hai nàng quyết định giữ gìn không cho chàng ngủ
chung, song vẫn nghiêng đầu bá cổ thân thiết như vợ chồng. Mà hai cô đối với
nhau không còn ghen tức gì nhau nữa.
Một vị đạo sĩ gặp Đào ở đường, nhìn chàng bảo ngay
là có tà khí. Đào thấy lời nói lạ, liền đem hết chuyện nói lại. Đạo sĩ khuyên :
- Ma ấy tốt lắm, chớ nên bỏ đó.
Nói xong, ông vẽ hai lá bùa trao cho Đào, dặn:
- Anh mang về đưa cho hai cô ma, mỗi cô một lá để
tuỳ theo phúc mệnh, ai may thì được, hễ nghe ngoài cửa có tiếng khóc thương con
gái chết thì nuốt ngay lá bùa, ai chạy ra trước thì được sống lại.
Đào vái tạ nhận bùa đem về đưa hai cô, không quên
nhắc lại lời dặn của đạo sĩ. Hơn một tháng sau, quả nghe có tiếng khóc hờ con
gái chết. Hai cô tranh nhau chạy ra,. Tiểu Tạ vội quá quên nuốt lá bùa. Thấy có
xe chạy qua, Thu Dung chạy vụt tới, chui luôn vào áo quan và biến mất. Tiểu Tạ không
chui được tứcc tưởi khóc quay về.
Đào ra xem thì thấy đám tang con gái phú ông họ
Hác. Mọi người đều thấy thấp thoáng bóng một cô gái chui vào áo quan, còn đang
nửa ngờ nửa sợ, bỗng nghe trong áo quan có tiếng động liền dừng lại, mở ra xem,
thì cô gái họ Hác đã sống lại. Nhà tang liền xin gởi tạm nàng ở ngoài nhà học
của Đào và cử người trông coi.
Bỗng nàng mở mắt hỏi ngay đến Đào. Họ Hác gặn hỏi,
cô ta đáp:
- Tôi không phải là con gái họ Hác đâu.
Rồi cô kể rõ sự tình. Họ Hác chưa tin lắm, muốn
khiêng về. Cô gái không chịu, chạy luôn vào buồng học của Đào, nằm đó không ra
nữa. Họ Hác nhận Đào làm con rể rồi đi.
Đào lại gần coi xem, thấy diện mạo cô gái mới sốg
dậy tuy khác Thu Dung song về kiều diễm thì không kém. Chàng mừng quá, thực là
vượt sức mong muốn mới hỉ hả ngồi cùng nhau nhắc lại chuyện cũ. Bỗng nghe có
tiếng ma khóc hu hu, thì ra Tiểu Tạ đang tủi thân ngồi khóc nức nở trong bóng
tối, làm cho cả hai người đều thương cảm. Họ cầm đèn tới soi, tìm lời an ủi, cố
làm dịu nỗi đau thương song nàng vẫn cứ tấm tức không thôi, áo xiêm đẫm lệ, mãi
gần sáng mới biến đi.
Sáng ngày, họ Hác sai con hầu mang rương hòm sang ở
luôn nhà Đào để hầu hạ, cư xử như bố vợ đối với con rể vậy. Đêm đến Đào vào
buồng vợ thì Tiểu Tạ khóc lóc thê thảm, cứ thế sáu bảy ngày, hai vợ chồng cảm
động quá không thể nào làm lễ hợp cẩn được. Đào buồn lo nẫu ruột song đành bó
tay không có cách nào giúp Tiểu Tạ được. Thu Dung chợt nghĩ ra:
- Đạo sĩ là người tiên. Hay ta đi cầu cứu một lần
nữa, may ra người thương mà giúp cho.
Đào nghe lời, tìm đến nơi đạo sĩ ở, quỳ rạp xuống
đất giải bày sự tình. Đạo sĩ cứ khăng khăng xin chịu, không còn phép thuật nào
nữa. Đào vẫn kêu cầu thảm thiết không thôi. Cuối cùng đạo sĩ mới cười bảo:
- Anh chàng si tình này khéo làm rầy người ta quá!
Thôi cũng vì anh còn duyên số với cô ta, ta xin dốc bằng hết mọi sức lực.
Rồi đạo sĩ theo chàng về nhà, đòi ở một gian riêng
tĩnh mịch đóng chặt cửa ngồi trong đó, dặn không được ai gọi hỏi gì, cứ thế hơn
mười ngày không ăn uống. Lên dòm thì thấy ông ngồi thiêm thiếp như ngủ vậy. Một
hôm trời vừa sáng, có một thiếu nữ vém rèm bước vào nhà Đào, mắt sáng long
lanh, răng trắng muốt, vẻ kiều diễm rực rỡ. Nàng cười bảo chàng:
- Tôi phải lặn lội lần dò suốt đêm, mệt tưởng chết.
Bị các người đeo đẳng rầy rà mãi, bôn ba hơn một trăm dặm đường mới tìm được
ngôi nhà tốt. Đạo sĩ đi đón và cũng cùng đến đây. Chờ gặp được người giao lại
là xong.
Mới sẩm tối Tiểu Tạ tới, thiếu nữ đứng vội dậy đón,
ôm chầm lấy. Hai người hòa vào làm một thân thể, ngã quay xuống đất cứng đờ.
Đạo sĩ từ trong buồng đi ra, chắp tay chào rồi đi luôn. Đào vái tạ đưa tiễn thì
cô gái đã tỉnh. Chàng vội ôm đặt lên giường, hơi thở cô gái đã điều hòa, nhưng
còn ôm cẳng kêu đau, vài hôm sau mới dậy đi được.
Sau đó Đào thi đỗ tiến sĩ, có người bạn đỗ cùng
khoa là Thái Tử Kính, nhân có việc đi qua, ghé vào nhà Đào vài ngày. Tiểu Tạ từ
bên hàng xóm về, Thái trông thấy vội đuổi theo sát gót. Tiểu Tạ tìm cách lánh
đi, trong lòng thầm trách con người không đứng đắn. Thái quay vào, nói với bạn:
- Có một việc kỳ quái hết sức, bác có cho phép tôi
nói không?
Đào gặng hỏi. Thái nói:
- Ba năm trước đây, em tôi chết yểu, qua hai đêm
thì thi thể biến đâu mất. Đến nay tôi vẫn còn băng khoăn không biết vì sao? Vừa
rồi tôi thoáng thấy bác gái sao giống em tôi làm vậy?
Đào cười:
- Vợ tôi là kẻ quê mùa, sao giống được cô nương nhà
ta. Song đã là bạn đồng khoa, nghĩa tình chí thiết, có ngại gì không để nhà tôi
ra chào.
Đào vào nhà trong, bảo Tiểu Tạ mặc bộ đồ liệm táng
ngày trước để ra chào khách. Thái vừa trông thấy thất kinh:
- Thực là em tôi đây rồi!
Rồi ông ta khóc rưng rức. Đào thuật lại đầu đuôi
câu chuyện cho bạn nghe. Ông mừng rỡ:
- Thế là em gái tôi chưa chết. Tôi phải về ngay để
báo tin vui cho song thân.
Mấy ngày sau cả nhà họ Thái kéo sang. Sau thường
thường lui tới như nhà họ Hác vậy.
TẤM GƯƠNG HIỆN HÌNH
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
Lưu Xích Thủy người Bình Lạc, thuở trẻ vừa thông
minh vừa đẹp trai, mười lăm tuổi đã vào học trường huyện (theo chế độ khoa cử
thời ấy, vào trường học huyện là có trình độ tú tài). Cha mẹ mất sớm, anh ta
mãi mê chơi bời, bỏ học. Gia cảnh cũng chẳng có gì mà tính lại thích chải chuốt
chưng diện, giường chiếu, chăn đệm nhất nhất đều là những của tốt đẹp, tinh
xảo.
Một tối, Lưu được người ta kéo đi ăn uống, vội quên
tắt đèn. Rượu được vài tuần, sực nhớ ra, anh ta quay về nhà, chợt nghe trong
buồng mình có tiếng rì rầm. Lưu nấp dòm xem, té ra một chàng trai đang ôm cô
gái đang nằm trong giường. Căn nhà nhà vốn là phủ đệ của một nhà quyền quý đã
bỏ phế, thường xảy ra nhiều quái dị. Anh ta biết đôi trai gái kia là hồ ly tinh
nhưng cũng không sợ, xông vào quát lên:
- Giường ta nằm để bay đú đởn hả?
Hai bóng người hoảng hốt vùng dậy, ôm áo, trần như
nhộng chạy trốn. Trên giường còn xót lại cái quần lụa tía, trên dải còn đính
cái bao kim, song đề phòng bị lấy trộm, liền dấu vào trong chăn ôm khư khư lấy.
Chỉ lát sau, một con hầu đầu tóc rối bời, len lén
bước vào phòng, nằn nì xin Lưu trả lại của ấy. Lưu cười, đòi phải có cái gì
chuộc. xin chuộc bằng rượu: không ưng. Bằng vàng: cũng không ưng. Con hầu dường
như bắt được ý quay ra. Lát sau trở lại:
- Cô cả tôi bảo: Nếu cậu bằng lòng cho lại thì xin
hiến cậu vợ đẹp.
Lưu vội hỏi:
- Ai thế?
- Nhà chủ tôi họ Bì. Cô cả là Bát Tiên. Cái người
nằm với cô cả tôi đây là chồng cô, họ Hồ. Cô hai là Thủy Tiên, lấy quan nhân họ
Đinh ở Phú Xuyên. Cô ba là Phượng Tiên, so với hai cô còn đẹp hơn nhiều, thực
không chê vào đâu được. Đáng lắm!
Lưu sợ nuốt lời, đòi phải giao ước rõ ràng ngay.
Con hầu quay về khá lâu, trở lại trả lời:
- Cô cả tôi nhắn với cậu: việc đại sự tốt lành đâu
có phải vội vã được. Cô tôi vừa nói với cô Ba, đang bị cự lại. Xin nấn ná đợi
cho ngày một ngày hai. Nhà chúng tôi không phải là loài chỉ cốt hứa cho xong
việc mà coi nhẹ chữ tín đâu.
Lưu nghe vậy cũng tin liền trao lại cái quần tía.
Đã qua mấy ngày rồi mà vẫn chưa thấy hồi âm. Sẩm tối Lưu ra ngoài trở về, vừa
đóng cửa sổ ngồi chơi, bỗng hai cánh cửa tự mở toang ra: hai người, bốn tay túm
bốn góc chăn, khiêng một cô gái nằm thu lu ở giữa. Họ đặt tất cả lên giường
nói:
- Chúng tôi đưa cô dâu tới đây!
Đoạn quay trở ra ngay.
Lưu lại gần ngó xem : một cô gái nõn nà đang ngủ mê
ngủ man miệng sặc mùi rượu, mặt ửng màu say. Còn ước gì hơn nữa, chàng ta cầm
lấy tay, rút bít tất, cởi giải quần và ôm lấy cô ta. Mà cô gái thì đã hơi tỉnh,
hé mắt nhìn thấy Lưu chân tay như bủn rủn ra, song vẫn có vẻ hận, lẩm bẩm:
- Cái con đĩ Bát Tiên, nó bán rẻ ta thế này!
Lưu ôm ấp vuốt ve cô gái. Cô ta ngán thịt da hở
lạnh, mỉm cười đọc:
Đêm nay là đêm gì đây?
Gặp chàng mê mải thế này chàng ơi!
Lưu tiếp:
Nàng ơi! Nàng ơi! Nàng ơi!
Gặp ta mát mẻ sự đời thế nao? (1)
Vào cuộc giao hoan rồi, nàng còn ca cẩm:
- Cái con vô sỉ đã làm bẩn giường người, lại còn
đem ta đổi lấy cái quần. Được rồi! Thế nào cũng phải báo thù.
Từ đó tối nào cô ta cũng đến chăn gối với Lưu, thật
là đằm thắm. Một hôm cô ta lấy trong tay áo ra một cái xuyến vàng, bảo Lưu:
- Của Bát Tiên đấy!
Mấy hôm sau lại đem đến một đôi giày thêu vàng, dát
hạt châu cực kỳ tinh xảo, nhủ Lưu cứ đưa ra khoe vung lên khắp bạn bè thân
thích (như một chứng cứ người chủ giày đã có tư tình với mình). Những người đến
xem đều mang rượu làm lễ tiếp kiến, do đó vật lạ cứ truyền tụng rộng mãi.
Tối đó, bỗng Phượng Tiên đến từ biệt. Lưu hỏi lý
do. Đáp:
- Bà chị vì việc mấy giày mà giận em cho nên có ý
địch dọn nhà đi xa để cách chia em cho tiện.
Lưu hoảng, có ý muốn trả lại giày. Cô gái can:
-Việc gì phải thế? Chị ta làm vậy hòng uy hiếp em.
Trả lại là trúng mưu đồ đấy.
- Sao em không thể ở lại một mình?
- Cha mẹ em đi xa, nhà hơn mười miệng ăn đều trông
cậy vào một tay anh Hồ xoay vật. Nếu em không đi e đầu lưỡi không xương đớm đặt
trắng đen nhiều chuyện.
Từ đó cô ta không đến nữa. Hai năm trôi qua, nỗi
tưởng nhớ trong Lưu ngày càng da diết. Tình cờ hôm ấy trên đường Lưu gặp một cô
gái cưỡi ngựa có lão bộc giong cương, len sát vào người Lưu mà đi. Cô gái lật
cái khăn lụa che mặt mà liếc nhìn Lưu, phong tư đẹp vô ngần. Lát sau một anh
chàng trai trẻ đi cùng cô ta cũng vừa đến. Lưu bắt chuyện:
- Cô nào thế? Có vẻ đẹp đấy!
Lưu còn khen nức nở hồi lâu. Chàng trai chắp tay
khiêm tốn cười:
- Anh khen quá đấy! Đó là người vợ hèn của tôi đó.
Lưu giật mình ngượng ngùng tạ lỗi. Chàng trai ôn
tồn.
Không hề gì. Song Nam Dương có ba ông Cát thì anh
chiếm được "rồng" rồi (2). Cứ bo bo giữ lấy một mình thì còn đáng nói
gì nữa.
Lưu đã ngờ ngợ về điều anh chàng ấy mới nói. Anh
lại nói tiếp:
- Anh có nhận ra kẻ nằm vụng ở giường anh độ nào
không?
Lúc ấy Lưu mới biết đó là anh chàng họ Hồ, anh em
đồn hao với mình. Thế là hai người trò chuyện, đùa cỡt rất vui. Hồ lại hỏi Lưu:
- Tôi đi thăm nhạc gia đây, chú có cùng đi được
không?
Lưu được lời như cởi tấm lòng, theo ngay chàng ta
đến vùng Vinh Sơn- trên núi trước đây có người tỵ nạn đến ở. Cô gái xuống ngựa
vào trong nhà. Lát sau có mấy người ta nghiêng ngóng trông chừng, vào báo:
- Cả Lưu quan nhân cũng đến!
Khi vào chào hỏi ông bà nhạc, Lưu thấy ở đó có một
chàng trẻ tuổi mặt áo bào, đi giày cao cổ bốt lóng loáng. Ông giới thiệu:
-Đây là anh rể họ Đinh ở Phú Xuyên.
Hai người vái chào nhau, an vị. Lát sau cỗ bàn bày
ra ngổn ngang, mọi người nói cười hồ hởi. Ông cụ đề xướng:
- Hôm nay cả ba chàng rể cùng đến, có thể gọi là
cuộc tụ hội đẹp đẽ. Không có ai là khách lạ, có thể gọi cả bọn con gái ra đây,
mở một đại hội đoàn viên.
Lát sau cả ba chị em cùng ra. Ông xếp đặt chỗ ngồi,
vợ nào cạnh chồng ấy. Bát tiên trông thấy Lưu cứ che miệng cười khúc khích.
Phượng tiên cũng theo đà mà giễu cợt. Chỉ có Thủy Tiên là ra vẻ trầm ngâm, khắc
khổ, mọi người cười nói hể hả, cô ta chỉ mủm mỉm. Rượu vào không khí vui mỗi
lúc một bốc, giày dép lẫn lộn lung tung, mùi hương bay lan xạ tỏa ra sực nức.
Trên đầu giưòng đã thấy bày sẵn các loại nhạc cụ.
Lưu rút ra cây sáo ngọc xin thổi chúc thọ ông nhạc. Ông cụ ra lệnh, ai chơi
được thì cứ cầm lấy thứ ấy. Thế là mọi người tranh nhau chọn, chỉ trừ Đinh và
Phượng Tiên. Bát Tiên bảo Phượng:
- Chú Đinh không sành thì còn được, chứ mày sao lại
không động ngón tay?
Rồi nhặt cái phách ném vào lòng Phượng. Tiếng tơ
tiếng trúc đan nhau nổi lên. Ông cụ vui bụng lắm, nói:
- Tài nhạc người nhà ta tuyệt lắm! Bọn các con đều
biết múa hát, ai có ngón gì sao không trổ hết ra?
Bát Tiên đứng luôn dậy bảo:
- Xưa nay Phượng Tiên vẫn là giọng vàng tiếng ngọc,
không dám để vất vả đến cô ấy. Còn hai chị em ta có thể cùng ca khúc Lạc Phi.
(nữ thần sông Lạc)
Hai chị em cùng múa hát xong, con hầu bưng ra một
mâm hoa quả lạ, không ai biết thứ gì. Ông cụ cho biết:
-Đây là quả "Điền Bà La" (không biết quả
gì, âm từ Hán- Việt) đem từ Chân Lạp sang.
Rồi cụ cầm luôn mấy quả đặt trước mặt Đinh. Phượng
Tiên thấy thế có vẻ không vui:
- Đối với con rể sao cha lại có thể phân ra giàu
nghèo mà yêu ghét?
Ông cụ chưa kịp nói thì Bát Tiên đã vội phân bua
hộ:
- Đây là chú Đinh ở huyện khác, cha coi là khách
nên mới xử sự thế. Còn nếu bàn về ngôi thứ cao thấp ấy mà, đâu phải chỉ có em
Phượng mới có chồn nghèo khó chai tay.
Phượng Tiên cuối cùng vẫn không vui. Nàng cởi áo
hoa, trao trống phách cho con hầu rồi cất gịọng hát một đoạn khúc "Phá
dao" (3). Vừa hát nước mắt vừa ứa xuống. Hát hết đoạn, phát tay áo đi ra.
Bài hát và cử chỉ ấy làm cả nhà mất vui. Bát Tiên nói:
- Cái con ấy vẫn còn hay hờn dỗi như trẻ con.
Đoạn đuổi theo song không biết cô ta đã đi đâu mất.
Lưu tái mặt cũng từ tạ ra về. Đến nửa đường thấy Phượng Tiên đang ngồi bên vệ
đường. Nàng cất tiếng gọi chàng đến ngồi bên cạcnh mà bảo:
- Một trang nam tử như anh mà không thể giúp cho người
đầu ấp tay gối nguôi hận được sao? "Tự trong sách đã có nhà vàng" (4)
xin anh làm được như người ấy. Rồi giơ chân lên bảo Lưu:
- Em ra khỏi nhà vội quá, gai đâm nát cả giày rồi.
Đôi giày thêu em đưa cho anh ngày trước ấy, anh có mang bên mình không?
Lưu vội lấy ra đưa cho nàng thay rồi xin lại đôi
rách. Nàng mủm mỉm:
- Cái anh này chẳng được tích sự gì! Dễ thường cả
những đồ dùng khi chăn gối anh cũng lưu làm kỷ niệm chắc? Thôi, nếu anh có nhớ
em, xin tặng một thứ này.
Nàng trao cho Lưu một tấm gương và dặn:
- Muốn thấy mặt em thì phải đang lúc đèn sách bài
vở. Nếu không đừng hòng bao giờ em đến!
Nói đoạn đã không thấy nàng đâu nữa.
Lưu ủ ê trở về. Giơ gương ra thấy bóng Phượng Tiên
đứng quay lưng lại, cứ như người đi đường ở ngoài tầm trăm bước. Nhớ đến lời
dặn của nàng, Lưu buông rèm tạ khách, một mình chăm chỉ học hành. Hôm khác đem
gương ra coi: nàng đã quay mặt trở ra môi mấp máy như muốn cười. Lưu càng yêu
quý tấm gương, lúc vắng không có ai lại lấy gương ra đối mặt với nàng cho đỡ
nhớ. Được hơn một tháng, ý chí dần suy giảm, chàng ta lại bỏ đi chơi hoài, trở
về giở gương ra xem, nét mặt nàng bỗng trở nên ảm đạm như muốn khóc. Hôm sau
xem lại, bóng đứng quay lưng như trước. Lúc ấy mới hiểu, đó là bóng nàng không
bằng lòng với việc chàng trễ biếng. Từ đó chàng đóng cửa nghiền ngẫm kinh sử,
ngày đêm miệt mài. Qua hơn một tháng, bóng quay mặt lại. Từ đấy nghiệm thấy: hễ
chàng lơ là đèn sách thì bóng buồn, học hành chăm chỉ thì bóng cười vui. Thế là
chàng treo hẳn gương trước mặt, coi như là một thầy giáo phụ vậy. Cứ thế hai
năm, chàng đi thi đỗ luôn. Chàng mừng quá nghĩ bụng:
- Phen này có thể giáp mặt Phượn Tiên của ta rồi.
Đem gương ra coi: nét ngài cong cong, răng ngà hé
lộ, dáng mừng rỡ, khuôn mặt yêu thương hiển hiện trước mắt. Tưởng nhớ đến cồn
cào, chàng cứ chăm chăm nhìn không chớp mắt. Thốt nhiên người trong gương nhoẻn
miệng cười lên tiếng:
- Bây giờ mới đúng là: người yêu trong trnh, tình
nhân rõi bóng. Lưu giật mình mừng rỡ, nhìn khắp bốn bề thì Phượng Tiên đẽ đứng
sau. Chàng nắm tay hỏi thăm tin tức ông bà nhạc. Nàng đáp:
- Từ buỗi chia tay ấy, em chưa từng về nhà mà cứ
nương náu chốn hang động núi non những mong cùng chàng chia sẻ nỗi vất vả.
Lưu đi dự yến mừng ở quận, cô gái xin được đi theo,
lúc hai người ngồi xe mà không ai thấy mặt nàng. Lúc sắp về, nàng bàn riêng với
Lưu giả như làm lễ cưới ở quận. Đến khi trở về nhà nàng mới ra tiếp khách; chăm
sóc việc nhà. Ai nấy cũng kinh ngạc về sắc đẹp tuyệt thế mà tuyệt nhiên không
một ai biết nàng là hồ ly.
Lưu ra làm việc quan dưới quyền quan lệnh Phú xuyên
cho nên phải đến yết kiến. Chàng gặp lại Đinh, được anh ta mời về nhà khoản đãi
rất trọng hậu rồi bảo Lưu:
- Gần đây ông nhạc chuyển đi nơi khác. Nhà tôi đi
thăm cũng sắp trở về. Ta nên gửi thư báo để họ cùng đến chúc mừng chú.
Lúc đầu, Lưu tưởng Đinh cũng là hồ, khi hỏi thăm kỹ
họ hàng quên quán mới biết anh là một nhà buôn bán lớn ở Phú Xuyên. Nguyên
trước đây, Đinh từ một hiệu sách trở về nhà, gặp Thủy Tiên đi một mình, thấy cô
ta đẹp mới đưa mắt liếc nhìn. Cô ta xin ghé đi nhờ ngựa. Đinh vui lòng cho đi
và chở luôn về nhà học cùng ăn cùng ở. Cô ta có thể lách qua khe chấn song mà
vào, lúc ấy Đinh mới biết là hồ ly. Cô ta bảo:
- Chàng chớ nghi ngại. Em thấy chàng là người thành
thực rất mực cho nên em tình nguyện gửi mình nương tựa.
Đinh yêu cô ta, không lấy ai nữa.
Lại nói về Lưu về đến quê, mượn một ngôi nhà rộng
của nơi quyền quý, thu xếp đủ chỗ cho khách ăn nghỉ. Cửa nhà đã quét dọn sửa
sang sạch sẽ, song Lưu còn loay hoay về việc tiệc tùng trần thiết. Qua một đêm,
sáng ra đã thấy nhà cửa được trang hoàng bày tiệc lộng lẫy. Mấy ngày sau, quả
có đoàn người hơn ba mươi người, trương cờ, khiêng rượu chè lễ vật đến, xe ngựa
ngổn ngang đậu đầy đường ngõ. Lưu vái chào ông nhạc và hai ông anh đồng hao
Đinh và Hồ, dẫn họ và nhà khách. Phượng Tiên đón mẹ và hai chị gái vào nhà
trong.
Bát Tiên mào đầu:
- Thôi nhé! Con bé này đã lên bà rồi, đừng oán mụ
mối nữa đấy. Xuyến với giày của tao còng không?
Phượng lục ra đưa lại, trả miếng:
- Giày thì vẫn còn đây, nhưng hàng nghìn con mắt đã
ngắm nhìn nhão ra rồi.
Bát Tiên cầm giày đập vào lưng Phượng:
- Chị đánh mày để gửi truyền cho chú Lưu đấy, nghe
chưa?
Rồi ném giày ra cửa mà chúc rằng:
Lúc mát như hoa nở
Khi cũ tựa hoa tàn
Trân trọng chưa dùng đến
Hằng Nga đã mượn luôn.
Thủy Tiên cũng chúc thay:
Đã từng luồn chân ngọc
Bước ra muôn người khen
Nếu để Hằng Nga mượn
Hẳn thương anh trò hèn.
Phượng Tiên cời tro đọc tiếp:
Đêm đêm lên trời biếc
Một sớm tìm chốn vui
Lưu lại bóng nho nhỏ
Để khắp thế gian coi.
Rồi vun tro vào giữa mâm, cao đến vài đốt tay.
Trông thấy Lưu, nàng bưng tặng: hóa ra đầy một mâm giày thêu, hệt như đôi giày
trước đây. Bát tiên vội bước ra hắt mâm đổ xuống đất, chỉ còn lại vài chiếc
nguyên. Nàng phục xuống đất mà thổi, lúc ấy giày mới tan biến, không còn dấu
tích gì.
Mâý ngày sau, lấy cớ đường xa, hao vợ chồng Đinh về
trước. Bát Tiên còn ham đùa giỡn với em gái, ông cụ và chồng phải thúc giục mấy
lần, đến đúng ngọ nàng mới cùng mọi người ra về.
Lúc họ mới kéo đến, linh đình rầm rộ quá, người
theo coi đông như chợ. Có hai tên cướp trông thấy Bát Tiên và Thủy Tiên đẹp
quá, say chết mê chết mệt. Chúng âm mưu đón đường để cướp. Khi đó thấy họ về,
chúng đuổi theo. Cách nhau độ tầm tên thì xe họ chạy cực nhanh, chúng không
theo kịp. Đến một chỗ hai bên vách đá giáp đường, xe đi hơi chậm, lúc ấy chúng
mới đuổi kịp, huơ đao mà hò hét hâm dọa. Mọi người tùy tùng đều bỏ chạy cả. Một
tên cướp xuống ngựa mở rèm, trong xe chỉ có một bà già. Đang ngờ là nhắm nhầm
bà mẹ, vừa định quay hướng khác liền bị dáo chém vào cánh tay phải và bị trói
ngay tại chỗ. Nó định thần lại thì chung quanh không phải là núi, mà là cổng
thành Bình Lạc. Bà mẹ ngồi trong xe chính là mẹ Lý tiến sĩ từ quê ra. Tên cướp
đi sau cũng bị chặt chân ngựa và bắt trói vào cổng thành. Ông Lý bắt nộp quan
Thái thú. Tra hỏi thì ra chính tên vừa bị bắt là một tên đại bợm đang bị truy
nã.
Lại nói về Lưu. Mùa xuân năm sau chàng thi hội đỗ
luôn tiến sĩ. Phượng Tiên thấy việc vừa xảy ra cũng lo không khéo rước lấy tai
vạ cho nên hết lời từ tạ xin thân bằng cố hữu khỏi đến mừng. Lưu cũng không lấy
vợ khác. Chỉ đến khi làm quan thị lang thì mới mua thiếp, đẻ được hai con trai.
NGHĨA KHÍ CẢI HÓA HỒN
MA
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
Ninh Thái Thần người Triết Giang, tính tình khảng
khái, chính trực, tự trọng. Chàng thường tuyên bố với mọi người:
- Ngoài vợ chính ra bình sanh không biết đến người
đàn bà thứ hai.
Có việc đi Kim Hoa, Ninh đến vùng cổng Bắc, đặt
hành trang ở một ngôi chùa. Trong chùa, điện tháp như không có dấu chân người
qua lại. Hai ngôi nhà tăng bên đông và bên tây, cánh cửa khép hờ, chỉ có căn
nhà nhỏ phía nam, khóa cửa còn mới. Ở ngoài góc đông điện có rặng tre, cây to
bằng chét tay, phía dưới là một cái ao lớn, mặt ao hoa súng nở rộ. Ninh đã có ý
thích nơi thanh u này. Dịp này phủ sở tại mở khoa thi khảo thường kỳ, trong
thành giá cả ăn ở đắt đỏ, cho nên Ninh quyết ở đây cho tiện.
Nghĩ thế, Ninh dạo bước quẩn quanh, đợi nhà sư về.
Trời đã sẩm tối, một sĩ nhân đến, mở cửa căn nhà phía nam. Ninh bước tới chào
hỏi và nói rõý định của mình. Sĩ nhân nói:
- Nhà này không có chủ, tôi cũng chỉ là một người ở
ngụ. Nếu anh không chê cảnh hoang vắng, sớm tối tôi được chỉ giáo thì hay lắm!
Ninh mừng, trải cỏ làm giường, ghép ván làm ghế,
tính kế ở lâu. Tối hôm đó trăng cao lồng lộng, trời trong như gương, hai người
bạn mới quen kề đùi gác vế dưới mái hiên, chuyện trò thân thiết. Hỏi đến tên
họ, sĩ nhân đáp:
- Tôi họ Yến tên là Xích Hà.
Ninh cứ tưởng anh ta là thí sinh đợi thi, song nghe
tiếng không phải là người Triết Giang, hỏi ra quê ở mãi Thiểm Tây. Cứ xem cung
cách nói năng thì anh ta là người chất phác thật thà. Chuyện vãn đã cạn, hai
người chia tay đi nghỉ.
Ninh lạ nhà, mãi không ngủ được, chợt nghe phía bắc
nhà có tiếng rì rầm như có người nói chuyện. Chàng vùng dậy, nấp bên cửa sổ đá,
ghé mắt nhòm qua. Thì ra bên ngoài tường ngăn đá ấy còn có một ngôi nhà nhỏ,
một người đàn bà ngoài bốn mươi tuổi và một mụ vú đang chuyện trò với nhau dưới
ánh trăng. Mụ vú già lưng còng, dáng điệu lọm khọm, mặt một cái áo cũ màu hồng
bợt bạt, búi tóc gài lược to ( phục sức kiểu cổ). Người đàn bà ca cẩm:
- Con Tiểu Thiện sao mãi không thấy đến?
- Ta cứ đợi, nó sẽ đến đấy. - Mụ vú đáp.
Nó có ca thán gì với mụ không?
- Con bé ấy, không việc gì phải nể nang lắm đâu.
Nói chưa dứt lời thì một cô gái trạc tuổi mười bảy,
mười tám đến, trông loáng thoáng có vẻ xinh xắn. Mụ vú cười bảo:
- Không nên tán chuyện người sau lưng. Hai chúng ta
đang nói về mày, thế mà cái con tiểu yêu này lẻn đến lúc nào lẹ thế, không một
tiếng động. May mà chúng ta không nói gì xấu.
Lại nịnh:
- Ôi tiểu nương tử mới xinh tươi như người trong
tranh vậy. Giả sử thân già này là đàn ông ắt hẳn cũng bị bắt mất hồn luông rồi.
Tiếng cô gái:
- Vú mà không tán thơm tôi thì còn có cái gì để mà
nói tốt nói đẹp.
Rồi không rõ họ còn nói với nhau những gì. Ninh cho
đó chỉ là người trong gia đình hàng xóm, cho nên không buồn nghe nữa, quay vào
đi nằm. Lát sau, tất cả lại yên ắng, không còn tiếng rì rầm trò chuyện.
Ninh đang ngà ngà sắp ngủ, bỗng cảm thấy có người
vào chỗ nằm của mình, vội vùng dậy xem ai thì hóa ra cô gái lúc nãy ở bên nhà
phía bắc. Chàng sửng sốt hỏi, cô gái cười và trả lời:
- Đêm trăng không ngủ được, xin đến chung tình.
Ninh nghiêm sắc mặt:
- Cô phải phòng điều dị nghị mà tôi thì sợ lời cười
chê. Chỉ có một bước lỡ chân, còn đâu là liêm sỉ.
Cô gái năn nỉ:
- Đêm hôm ai biết đấy là đâu?
Ninh lớn tiến, nhưng cô gái cứ lần lựa, dường như
còn muốn nói điều gì. Ninh phải quát lên:
- Cút ngay, không tôi kêu to cho người học trò bên
kia biết.
Cô gái có vẻ sợ, lùi ra đến ngoài cửa. Rồi lại vào
đặt một thoi vàng lên chỗ nằm. Ninh cầm quẳng ra sân:
- Của phi nghĩa chỉ làm bẩn túi ra.
Cô gái thẹn, quay ra nhặt lấy vàng, lẩm bẩm một
mình:
- Anh này là sắt đá hay sao ấy!
Sớm hôm sau, có một người học trò ở Lan Khê dẫn
theo một người đầy tớ đến trọ đợi thi, ngụ ở mái đông chùa, tối đến đột nhiên
chết, bắp chân có một lổ nhỏ như dùi đâm, máu rỉ ra. Không ai biết là duyên cớ
vì đâu? Tối sau, người đầy tớ chết nốt, cũng có những vết tích như vậy.
Buổi chiều Yến về, Ninh hỏi tại sao hai người thiệt
mạng. Yến cho là yêu tinh. Ninh vốn là người khí phách cương trường, không cho
là phải. Nửa đêm cô gái lại mò đến, bảo Ninh:
-Tôi đã từng trải nhiều người, không ai có lòng dạ
sắt đá như anh đâu. Chàng thật là bậc thánh hiền, tôi không dám lừa dối. Tôi họ
Nhiếp tên là Tiểu Thiện, chết yểu năm mười tám tuổi, chôn ở cạnh chùa. Tôi bị
yêu tinh cưỡng ép phải làm những điều kinh tởm hèn hạ, mặt dạn mày dầy với mọi
người, thực lòng chẳng vui thú. Nay trong chùa không còn ai giết đượcnữa, sợ
chính quỷ Dạ Xoa sẽ hại tới chàng.
Ninh cả kinh, hỏi cách thoát thân. Cô gái mách:
-Chàng cứ ngủ chung một nhà với Yến sinh là yên.
Hỏi:
- Sao không dám mê hoặc Yến sinh?
- Ông ta là bậc kỳ nhân nên không dám tới gần.
Vậy cô mê hoặc người ta thế nào?
- Ai ôm ấp tôi, tôi giấu dùi đâm vào chân, người đó
lập tức mê đi rồi hút máu cho yêu tinh uống. Hoặc đưa cho vàng, thực không phải
là vàng mà là xương quỷ La Sát để kiếm cớ lưu lại rồi moi hết tim gan. Hai cách
ấy làm được cả thì tốt nhất.
Ninh ngỏ lời cảm tạ, hỏi phải phòng bị vào thời
gian nào? Cô gái mách: đêm mai. Đến khi từ biệt, người con gái khóc mà rằng:
- Thiếp rơi vào bể khô, muốn tìm lên bờ mà không
được. Chàng là người nghĩa khí, ắt có thể cứu thiếp qua khỏi khổ nạn. Chàng có
thể đem nắm xương tàn của thiếp về chôn cho mồ yên mả đẹp, như thế cũng có thể
ví với ơn tái tạo.
Ninh khẳng khái nhận lời và hỏi mộ cũ. Trả lời:
- Ở chỗ cây bạch dương, trên ngọn có quạ làm tổ.
Nói đoạn ra cửa vụt biến mất.
Hôm sau, Ninh sợ Yến đi vắng, ngay từ sớm đã mời
Yến sang chơi, sửa soạn cơm rượu cùng ăn để lưu Yến lại. Ninh còn rủ ngủ chung
giường. Yến lấy cớ ưa tĩnh để khước từ. Ninh không nghe ép phải mang giường
chiếu sang. Yến bất đắc dĩ chiều ý, và còn dặn Ninh:
- Tôi biết túc hạ là bậc trượng phu cho nên rất
kính mộ phong độ. Tôi còn chút niềm riêng chưa sớm bộc bạch được, vậy xin chớ
mở xem cái tráp của tôi. Nếu không cả hai chúng ta đều bất lợi.
Ninh hứa nghiêm cẩn tuân theo. Rồi ai nấy đi nghỉ.
Yến để cái tráp trên cửa sổ, vừa nằm một chút đã gáy vang như sấm. Ninh không
ngủ được. Khoảng gần trống canh một, thấp thoáng có bóng người ngoài cửa sổ.
Một lát, cái bóng ấy tới gần cửa sở nhòm vào, mắt trợn trừng dữ tợn. Ninh hoảng
đang định gọi Yến. Bỗng có một vật gì như dải lụa vọt từ trong tráp bay ra, vút
như một mũi tên, cắt phăng cái chấn song đá cửa sổ rồi vụt quay vào trong tráp
như một ánh chớp lặn biến.
Yến biết trở dậy, Ninh giả vờ ngủ xem sao. Yến bưng
cái tráp, lấy ra một vật, vừa soi vừa nhìn hít ngửi dưới trăng. Nó dài khoảng
vài tấc, đẹp như lá lúa, ánh bạc lóng lánh. Xem rồi, Yến bọc lại mấy lớp cẩn
thận, bỏ vào cái tráp đã thủng, lẩm bẩm một mình:
- Cái con yêu cụ này khá lớn mặt, làm thủng mất
tráp rồi.
Đoạn định đi nằm. Ninh ngạc nhiên không biết ra
sao, liền trở dậy nói hết những điều mình đã trông thấy và hỏi Yến. Yến bảo:
- Đã là bạn tri giao tâm ái với nhau, tôi đâu dám
giấu: tôi là kiếm khách. Nếu không vướng cái chấn song đá thì con yêu tinh kia
tức khắc chết rồi. Tuy nhiên nó cũng bị thương.
Hỏi:
- Vật anh bọc lại đó là cái gì?
- Thanh kiếm đấy. Tôi vừa ngửi thấy có yêu khí.
Ninh muốn được nhìn tận mặt một chút. Yến lấy ra
đưa cho xem một thanh đoản kiếm sán lóa. Ninh càng thêm kính phục.
Hôm sau trở dậy, Ninh xem xét bên ngoài cửa sổ, quả
nhiên vẫn còn vết máu. Ra phía bắc chùa quả có một nấm mồ sè sè dưới gốc bạch
dương, trên có tổ quạ.
Công việc đã giải quyết xong. Ninh thu xếp hành
trang định về quê. Yến bày tiệc tiễn, tình nghĩa thật dạt dào. Rồi chàng đưa
tặng Ninh một cái bao da đã rách, dặn rằng:
- Đây là cái bao kiếm, xin giữ cẩn thận, có nó thì
lũ yêu quái không dám tới gần.
Ninh ngỏ ý xin học đạo. Yến bảo:
- Túc hạ là người tín nghĩa, cương trực, có thể học
được. Song túc hạ thuộc dòng phú quý, không phải là người trong mạch đạo.
Chia tay với Yến rồi, Ninh nói thác là mình có cô
em gái chôn ở đây, đào mồ lấy hài cốt, gói bọc trong quần áo, đưa xuống thuyền
chở về quê.
Thư phòng của Ninh ở rìa làng, sat với cánh đồng
cho nên chàng đem hài cốt Tiểu Thiện chôn và xây mộ ngay ngoài thư phòng. Khi
tế mộ chàng khấn:
- Thương nàng hồn ma côi cút, nên chôn nàng ở cạch
nhà khi cười khi khóc cùng nghe để khỏi lũ quỷ đàn ông làm nhục. Một bát nước mưa
mời uống, có gì chưa được ngọt xin đừng chấp.
Khấn xong quay về, nghe đằng sau có tiếng gọi:
- Xin đợi cùng về với!
Ninh quay lại nhìn thì hóa ra là Tiểu Thiện. Cô ta
vui mừng ra mặt, ngỏ lời cảm tạ:
- Chàng là bậc tín nghĩa, em dù có chết mười lần
cũn không đủ đền đáp. Xin cho được theo về chào lại song thân cho lòng này khỏi
hối.
Chàng nhìn kỹ Tiểu Thiện, da nõn nà như trứng gà
bóc, chân tay thon thả như búp măng non, ban ngày ban mặt lại càng thấy đẹp.
Hai người cùng vào thư phòng. Ninh dặn nàng ngồi đợi, vào trước thưa với mẹ. Mẹ
ngạc nhiên, nhân vợ Ninh ốm đã lâu, dạy rằng chớ có nói cho biết, e chị ta kinh
sợ. Còn đang đôi hồi thì cô gái đã nhẹ nhàng bước vào, phục lạy dưới đất. Ninh
giới thiệu:
- Thưa mẹ, đây là Tiểu Thiện.
Bà mẹ hoảng hốt nhìn cô gái, lòng bứt rứt không
yên. Cô ta thưa:
- Con lênh đênh trơ trọi một mình,xa cha mẹ anh em,
nay nhờ ơn công tử đến từng chân tơ kẽ tóc xin nguyện được sửa túi nâng khăn để
báo đền ân nghĩa lớn.
Bà mẹ thấy cô ta cũng ra dáng xinh xắn đáng yêu,
lúc ấy mới dám tiếp lời:
- Được nương tử chiếu cố đến con tôi, thân già này
mừng không để đâu cho hết. Song tôi chỉ có một mình nó, những mong đợi có giọt
máu nối dõi tông đường, cho nên không dám cho gá nghĩa cùng ma.
Cô gái buồn rầu thưa lại:
- Con thực không dám hai lòng. Người dưới suối vàng
đã không để mẹ tin thì con thờ chàng làm anh trai. Từ nay xin nương tựa nơi mẹ,
sớm tối hầu hạ, như thế có được không?
Bà mẹ cảm thương cô ta lòng thành, tỏ ý chấp nhận.
Cô ta xin vào lạy chị dâu, song bà mẹ can vì chị ta đang ốm. Cô ta lập tức
xuống bếp thay mẹ sửa soạn xơm nước, vào buồng sắp xếp giường chiếu như đã quen
thuộc ở đây lâu. Tối đến bà mẹ vẫn còn e sợ, không dám đặt giường trải nệm cho
cô. Biết ý cô lập tức quay ra. Qua thư phòng, cô định vào lại ra, cứ ngập ngừng
ngoài cửa như e sợ điều gì. Ninh gọi vào, cô ta nói:
Trong nhà có kiếm khí toát ra kinh người. Đi qua em
không dám vào là vì thế.
Lúc ấy Ninh mới biết là vì cái bao da, liền tháo
đem treo sang buồng khác. Cô gái đến ngồi cạnh đèn, không nói không rằng. Lâu
sau mới hỏi:
- Tối anh có đọc sách không? Hồi bé em tụng kinh La
Nghiêm nay quên quá nửa. Xin anh cho mượn một quyển, tối rảnh em đến nhờ anh
chỉ cho.
Ninh nhận lời. Cô ta ngồi yên lặng như trước, mãi
đến canh hai mà chưa muốn đi. Ninh phải giục, cô ta mới ão não nói:
- Ở cõi âm cô hồn này khiếp nấm mồ hoang lạnh lẽo
lắm.
Ninh an ủi:
- Trong thư phòng không có cái giường riêng nào để
nằm. Vả chăng anh trai em gái không nên quá gần cận, tránh hiềm nghi.
Cô gái miễn cưỡng đứng dậy, mặt ủ mày chau, tưởng
sắp phát khóc, loạng choạng cất bước ra khỏi cửa. Cám cảnh xót thầm, Ninh muốn
lưu cô ta ngủ giường khác song lại e mẹ la rầy.
Từ đó, chiều hôm cô ta múc nước, bưng thau hầu mẹ,
xuống nhà chăm sóc việc nhà việc cửa, không điều gì là không theo ý mẹ. Vào
khoảng xẩm tối, cô ta lại cáo lui, đi qua đầu thư phòng đốt đèn tụng kinh. Đến
khi thấy Ninh sắp đi ngủ, cô ta mới buồn bả lủi thủi trở ra.
Từ lâu, vợ Ninh ốm nặng bỏ bê việc nhà, bà mẹ không
kham được nhọc nhằn vất vả. Sau khi Tiểu Thiện đến, bà cụ được thư thái, trong
lòng đã mến cô gái, rồi lâu dần càng yêu quý như con đẻ, không còn bị ám ảnh là
ma nữa. Do vậy bà cụ không nỡ chiều chiều để mặc cô gái ra khỏi nhà mà lưu lại
ngủ chung giường. Lúc đầu cô gái mới đến không hề ăn uống gì, nửa năm sau dần
dần mới hớp miếng canh cháo. Cả hai mẹ con cùng thương yêu cô ta, kiêng không
nhắc đến điều quỷ ma cho nên mọi người cũng không ai biết cô ta không phải là
người.
Không bao lâu vợ Ninh chết. Bà mẹ muốn cho lấy Tiểu
Thiện song lại sợ ma hại. Cô gái thoáng ý ấy, thừa dịp thưa với mẹ:
- Con về đã hơn một năm, hẳn mẹ hiểu thấu lòng con
không phải đi gieo vạ cho người. Con theo công tử chỉ chăm chắm một lòng, không
hề có ý khác, là vì thấy chàng quang minh lỗi lạc, cả trời và người đều khâm
phục, cho nên thực lòng muốn nương tựa và phục giúp cho chàng để nhờ hơi được
chút sắc phong (phong cáo. thời phong kiến một người làm quan, cha mẹ vợ con
thường được tặng phẩm hàm theo) hồn được vẻ vang ở dưới tuyền đài.
Bà mẹ cũng rõ rằng cô ta chẳng có ác tâm, song còn
e không có cháu nối dõi. Nàng thưa:
- Con cái là do số trời. Tên chàng đã được ghi
trong "sổ phúc", rạng vẻ tông đường, có ba con trai, không vì lấy vợ
ma mà bị cắt giảm.
Bà mẹ tin cùng con trai bàn bạc. Ninh được lời mừng
lắm, sửa soạn cỗ bàn để cá với họ hàng bầu bạn. Có người muốn được coi cô dâu
mới. Nàng trang điểm lộng lẫy, thản nhiên bước ra, người đầy một nhà, ai ai
cũng trố mắt nhìn, không dám ngờ là ma mà cứ tưởng là tiên. Bởi vậy họ hàng nội
ngoại đều biện lễ đến mừng, tranh nhau mời mọc làm quen. Còn Tiểu Thiện lại
giỏi họa, nàng vẽ hoa lan,hoa mai lên giấy thước đưa tặng lại đáp lễ. Người nào
được tặng đều vinh dự quý giá, bọc thật kỹ để giữ cho bền.
Một hôm, nàng cúi đầu đứng bên song, vẻ rầu rầu như
mất vật gì. Đột nhiên nàng hỏi chồng:
- Cái bao da đâu rồi ạ?
Đáp:
- Vì mình có ý hãi nó, cho nên tôi bọc lại để chỗ
khác.
- Em tiếp thụ được sinh khí đã lâu nên không còn sợ
nó nữa. Chàng nên lấy về treo ở đầu giường.
Ninh hỏi sao phải thế? Nàng đáp:
- Ba ngày vừa rồi, tim em cứ hồi hộp không yên. Em
e rằng lũ yêu tinh ở Kim Hoa hận em bỏ trốn đi xa, sớm muộn sẽ tìm cho bằng
được.
Ninh đem cái bao da về, Tiểu Thiện lật trái lật
phải xem kỹ rồi nói:
- Bao kiếm này, tiên đã dùng để bỏ đầu người. Nó đã
rách nát đến thế này, không biết số kẻ ác bị giết là bao nhiêu? Bây giờ em
trông thấy đây, vẫn còn sởn cả da gà.
Bèn đem treo. Hôm sau lại bảo Ninh đem treo lên
trên cửa. Đêm đến nàng ngồi bên đèn, hẹn Ninh chớ ngủ. Bỗng có một vật như con
chim bay rơi xuống. Tiểu Thiện hoảng sợ nép vào tấm rèm che. Ninh nhìn coi vật ấy
hình như quỷ Dạ Xoa mắt lập loè như chớp, mồm nhễ nhãi những máu, tay chấp chới
như chộp bắt, lừng lững tiến vào. Đến cửa nó dừng bước quẩn quanh, lúc sau tới
gần cái bao da, lấy móng giật xuống tựa như muốn xé rách. Cái bao da tự nhiên
"soạt" một tiếng, nghe như hai miếng cái sột đập vào nhau, từ trong
bao một nửa hình quỷ ló ra, kéo giật Dạ Xoa vào bao. Bao co rút lại như cũ.
Chứng kiến sự việc kỳ lạ ấy, Ninh cũng bàng hoàng.
Cô gái ra khỏi chỗ nấp mừng rỡ kêu lên: "Yên tâm rồi!" Hai người
cngươilại cái bao, bên trong chỉ có độ mấy bát nước trong mà thôi.
Sau đó mâý năm, Ninh đỗ tiến sĩ, Tiểu Thiện sinh
một con trai. Ninh lấy vợ lẽ, một vợ lại sinh một con trai nữa. Về sau cả ba
con đều đỗ tiến sĩ, có danh tiếng đương thời.
DUYÊN TIÊN ÂM PHỦ
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
Chàng thư sinh họ Vương ở Hán Thủy, mồ côi từ từ
nhỏ, gia cảnh thanh bần, song phong nhã chỉnh tề, quần áo đẹp đẽ, tinh thơm.
Phú ông họ Lan ưng ý Vương, gả con gái và hứa sẽ bù
trì nên cơ nghiệp. Cưới không bao lâu ông Lan chết. Anh em vợ đều coi rẻ Vương,
không đếm xỉa đến. Còn vợ thì kiêu ngạo coi chồng như con ở. Một mình chị ta
chễm chệ ăn uống của ngon vật lạ, còn chồng chỉ có cơm hẩm rau già. Vương ẩn
nhận chịu đựng.
Năm mười chín tuổi, Vương đi thi khoa đồng tử (khoa
thi chọn học trò giỏi, cung cấp cho học trường quốc tử giám) bị hỏng. Ở quận
trở về, vợ đi vắng mà trong nồi có cái đùi dê ninh chín, đang lúc đói bụng
Vương lấy ăn liền. Đang ăn vợ về không nói không rằng, bê luôn nồi thịt cất đi.
Vương xấu hổ quá vứt đũa xuống đất nói phẫn rằng:
- Tình cảnh này chết đi cho rồi!
Vợ nổi đóa hỏi dồn, định bao giờ chết? Rồi ấn luôn
sợi dây treo cổ vào tay anh ta. Vương uất quá, đập bát canh vào trán vợ rồi bỏ
đi. Tự nghĩ nhục nhã thế này không đáng sống nữa. Vương đem theo dây lưng vào
một cái thung sâu trong núi. Đến một cây um tùm, đang chọn cành buộc dây định
tự vẫn, bỗng thấy trong hẻm núi đất, lấp ló có bóng quần đàn bà. Chớp mắt, một
cô hầu gái bước ra, vừa trông thấy Vương đã quay người trở lại như cái bóng
biến hút vào trong vách đất, không để lại dấu vết gì. Vương biết là yêu quái,
song ý đang muốn chết cho nên cũng chẳng còn sợ hãi, bỏ cái dây treo lủng lẳng
đó ngồi đợi xem sao. Lát sau, vách đất lại ló ra nửa khuôn mặt. Anh ta vừa nhác
thấy, nó đã lại lặn biến. Vương nghĩ bụng nó đã là quỷ, theo nó có khi lại tìm
được cái chết vui vẻ cũng nên. Nghĩ thế, liền vớ luôn một hòn đá đập vào vách
đất, kêu to:
- Đất này nếu có thể vào được, xin ai đó chỉ cho
tôi một đường đi! Tôi không tiết nguồn vui mà chỉ đi tìm lối chết thôi.
Đợi hồi lâu không thấy gì, Vương lại đập lại kêu
như trước. Ở trong lòng đất có tiếng vẳng ra thanh lảnh nhưng chỉ ri rí như
tiếng ong bay:
- Nếu cần chết, xin hãy tạm lui, tối đến!
Vương "vâng" rồi cứ ngồi đấy đợi. Không
bao lâu, sao mọc đầy trời, vách núi bỗng hóa thành nhà cao, hai cánh cửa hé mở,
Vương lần theo bậc thềm bước vào. Mới được mấy bước thấy có dòng nước chảy
ngang, khóc bốc nghi ngút tựa như suối nước nóng. Nhúng tay xuống thấy nước
nóng bỏng, song không biết nông sâu thế nào. Vương đoán dây là lối chết mà quỷ
thần dẫn lối đến, liền trầm mình luôn xuống đó. Thế là nóng thấm qua mấy lần
áo, da thịt rát ràn rạt, may mà chàng ta cứ nổi không chìm, lềnh bềnh hồi lâu,
quen dần với nước nóng, Vương cố vùng vẫy mới sang được bờ bên kia, da thịt may
mà không rộp bỏng.
Lên đường, trông thấy xa xa một tòa nhà có ánh đèn,
anh ta vội tới đó. Một con chó dữ xông ra đớp áo, nhay bít tất, Vương nhặt đá
ném, nó mới hơi lùi. Nhưng rồi cả một đàn chó, con nào con nấy to như con bò,
xúm đến sủa ầm ầm. Trong lúc nguy cấp, cô hầu gái chạy ra, quát đuổi lũ chó rồi
bảo anh ta:
- Anh chàng cần chết đã tới đó phải không? Nương tử
tôi thương hại anh gặp cơn khốn đốn, sai tôi đưa anh đến "ngôi nhà yên
vui", từ đây không còn gặp tai ương gì nữa.
Đoạn khêu đèn, dẫn đường, mở cổng sau lẳng lặng mà
đi. Tới một căn nhà, ánh đuốc sáng hắt qua cửa sổ ra ngoài, cô ta bảo Vưong:
- Anh vào đi, tôi về đây!
Vương vào nhà nhìn bốn xung quanh thì ra lại chính
là nhà mình. Quay ngoắt ra thì gặp bà vú vẫn phục dịch. Bà ta bảo:
- Cô tôi cả ngày trông ngóng cậu, sao cậu lại bỏ
đi?
Nói đoạn dắt Vưonội giámvào, chị vợ- chỗ bị thương
buộc khăn- tươi cười xuống giường đón bảo:
- Vợ chồng ăn ở với nhau hương lửa nồng bén đã hơn
năm rồi, đùa nhau một chút mà không biết ư? Em biết em có tội, chàng bị trêu
chơi mà em bị thương thật. Thôi xin chàng bớt giận làm lành!
Rồi lục ở đầu giường ra hai thoi vàng, dúi vào lòng
Vương:
- Nay về sau việc ăn việc mặc xin chàng tùy sở
thích, được không?
Vương chẳng nói chẳng rằng, vội vàng trở lại cứ đẩy
cửa mà đi, định quay vào thung, tới ngôi nhà cao trước đây. Ra đến cánh cổng
thì cô hầu gái lúc nãy còn lững thững bước một, khêu đèn đứng đằng xa ngóng
lại. Vương vừa chạy theo vừa gọi, ánh đèn dừng lại hẳn. Đến nơi, cô hầu bảo:
- Anh lại tới à? Thật là phụ nỗi khổ công của nương
tử tôi lắm đấy!
Vương đáp:
- Tôi thích chết, có nhờ cô để cầu sống đâu? Nương
tử là bậc đại gia, dưới ấy chắc cần đến người làm, tôi xin hết sức phục dịch.
Thực thà tôi khôngòn thấy sống là vui nữa.
- Sao anh nghĩ ngược đời thế. Chết vui vẫn không
bẳng sống khổ. Nhà chúng tôi không có việc gì ngoài việc đào sông, hốt phân,
nuôi chó, dọn xúc. Làm mà không đúng quy định thì cắt tai xẻo mủi, chặt chân,
cắt gót. Anh có chịu được không?
- Được!
Vào đến cổng sau, Vương hỏi:
- Có những việc gì đây? Cô vừa nói việc dọn xác
chết, ở đâu mà nhiều người chết thế?
Đáp:
- Nương tử tôi bản tính từ bi. Người đã lập một sở
cứu tế cho những kẻ cô độc, thu nuôi các hồn ma ở dưới chín suối bị chết bất
đác kỳ tử, không còn chốn đi về. Ma ấy kể có hàng nghìn, ngày nào có người chết
là phải đi vác xác. Anh hãy đi xem qua!
Đi, thấy một cái cổng có chữ đề: "Vườn cứu tế
kẻ cô độ". Vào thấy nhà cửa ngang dọc linh tinh, hôi thối nồng nặc. Ma quỷ
trong vườn thấy có ánh đèn xúm lại, toàn là những thân hình đứt đầu, cụt cẳng,
thảm thương quá không nỡ nhìn. Quay ra định đi tiếp, thấy có hàng dãy xác chết
nằm ngang dưới chân tường, máu thịt tơi tả nhầy nhụa. Cô hầu gái bảo Vương:
- Đó, mới nửa ngày chưa kịp vác đi mà đã bị lũ chó
cắn xé như thế đấy! Rồi cô ta sai luôn Vương chuyển đi. Anh ta cỏ vẻ ngần ngừ,
cô gái bảo:
- Nếu không anh làm được thì xin mời về "ngôi
nhà yên vui' vậy!
Vương khẩn khoản nhờ cô gái liều hời xin cho mình
khỏi phải làm cái công viêệ uế tạp kinh khủng ấy. Cô ta bằng lòng. Đi đến gần
một căn nhà, cô ta bảo:
- Anh tạm ngồi đây, tôi vào thưa với nương tử. Việc
nuôi chó nhẹ nhàng hơn, có thể xin giúp. Nếu được tôi báo cho!
Một lát sau cô ta chạy ra gọi:
- Lại đậy! Lại đây! Nương tử đã ra đấy!
Vương theo vào, trên đại sảnh đèn lồng treo khắp
bốn bên, ngồi gần phía trong cùng là một vị nữ lang tuổi trạc độ đôi mươi phong
thái rõ ràng là người nhà trời. Vương phục lạy dưới thềm. Nữ lang sai đỡ chàng
dậy, phán rằng:
- Đây là một nho sinh, sao để nuôi chó được? Có thể
giao cho việc trông coi sổ sách nhà bên tây.
Vương mừng lạy tạ. Nữ lang lại bảo:
- Anh có vẻ chất phác thật thà. Hãy làm việc của
anh cho cẩn thận. Nều lầm lẫn sai sót, tội ắt không nhẹ đâu.
Vương cứ vâng dạ luôn mồm. Cô hầu gái lại dẫn đi
sang tây. Thấy nhà cửa ở đây sạch sẽ sáng sủa, Vương đã mừng. Khi cảm tạ cô hầu
gái, anh ta mới lựa lời hỏi thăm gia thế mương tử. Cô ta cho biết:
- Tiểu tự nương tử là Cầm Sắt. Người là con gái
Tiết hầu ở Đông Hải. Còn tôi tên là Xuân Yến. Khi nào cần gì, xin anh cứ nói
cho biết.
Cô gái quay ra, đem lại đủ cả áo giày, chăn nệm,
xếp lên giường. Vương mừng được chỗ yên thân. Thế là từ đó, hàng ngày mới sớm
tinh mơ anh đã thức dậy làm việc, ghi chép danh sách ma quỷ. Con hầu, đầy tớ
trong nhà tất thảy đều yết kiến, biếu rượu thịt rất nhiều. Song nhất nhất Vương
đều từ chối. Hai bữa cơm hàng ngày đều từ nhà trong cung cấp ra. Nương tử xét
anh ta giữ được đức liêm cẩn cho nên cấp riêng cho mũ nho sinh, áo tươi màu.
Phàm tiền bạc ban thưởng đều sai Xuân Yến đưa cho.
Cô gái này cũng vào loại lả lơi, khi đã thân thuộc
Vương rồi, lúc qua lại vẫn thường khóe môi làn mắt đưa tình. Vương cẩn thận giữ
mình không dám mảy may buông thả, thậm chí còn phải giả vờ như ngốc nghếch dại
khờ.
Được hai năm sớ tiền thưởng đã gấp bội so vơí lệ
thường, thế mà Vương vẫn giản dị, trước sau sao thế. Một đêm đang ngủ, bỗng
nghe trong nhà có tiếng hô hoán, vội vàng trở dậy, xách dao chạy vào lửa thì
lửa đỏ rực trời, bọn cưóp đã lố nhố đầy sân. Lũ đầy tớ ấy đã sợ hãi lẫn chạy
như chuột. Mọi người giục chàng cùng chạy trốn nhưng chàng không nghe mà còn
bôi mặt, thắt lưng lẩn vào trong đám cướp mà làm bộ thét to lên:
- Chớ làm cho Tiết nương kinh sợ! song phải lưu 1y
của của, chớ bỏ sót!
Lúc bọn cướp đang lùng sục Cầm Sắt ở khắp các dãy
nhà mà chưa thấy, Vương hiểu rằng nàng chưa bị bắt, liền lẻn đến tìm ở đằng sau
nhà. Gặp một bà già đang nép ở đó, hỏi mới biết rằng nàng và Xuân Yến đã vượt
tường ra ngoài. Vương liền trèo qua tường, bắt gặp chủ và tớ ở một góc tối.
Chàng bảo:
- Ẩn náo ở đây sao được?
Nàng đáp:
- Nhưng tôi không thể đi được nữa.
Vương liền bỏ đao cõng nàng, chạy được khoảng hai
ba dặm, mồ hôi nhễ nhại mới rút được vào trong hang sâu, ghé đặt nàng ngồi
xuống.
Thoắt, một con hổ chồm tới. Vương cả kinh định xông
ra chặn thì hổ đã ngoạm lấy nương tử. Vương vội túm chặt tai hổ, đút cánh tay
mình vào miệng hổ để đỡ cho Cầm Sắt. Hổ gầm lên, bỏ cô gái, bập luôn cánh tay
Vương. "Rắc" một cái,cánh tay Vưong rời ra rơi xuống đất. Hổ phóng
vụt đi. Còn Cầm Sắt cứ nức nở:
- Khổ chàng rồi! Khổ chàng rồi!
Vương đang lúc hăng chưa thấy đau, chỉ thấy máu
tuôn ra xối xả, vội nhờ cô hầu xé vạt áo băng bó vết thương, Cầm Sắt ngăn lại,
tự mình nối cánh tay cho Vương rồi buộc chặt.
Trời hừng đông, họ mới chậm rãi quay về. Về đến
nơi, nhà cửa vắng tanh vắng ngắt. Sáng ra con hầu đầy tớ dần dần tụ tập. Cầm
Sắt thân đến nhà tây thăm hỏi Vương. Cởi vải buộc ra, cánh tay đã liền. Nàng
đưa thuốc liều trị vết thương rồi mới đi.
Từ đó, nàng càng quý trọng Vương, mọi đồ ăn thức
uống dùng chàng đều được hưởng ngang như nàng. Khi vết thương khỏi hẳn, nàng
cho đặt rượu ở nhà trong để úy lạo. Đặt ghế cho ngồi, chàng ba lần từ chối, sau
mới dám ngồi ghế vào một góc. Nàng nâng chén mời trân trọng như đối với khách,
lâu sau mới nói:
- Chàng cõng cứu thiếp, hai thân thể gần cận. Nay
thiếp muốn xin theo việc em gái vua Sở với người bầy tôi Chung Kiến (1) hiềm
chưa có người mai mối, nhưng xấu hổ phải tự đến thân.
Vương bàng hoàng sợ hãi:
- Tôi chịu ơn sâu nương tử, thân này dù có tan nát
cũng không đủ báo đền. Xử sự ấy không đúng phận, e búa rìu sấm sét chẳng dung,
bởi vậy tôi không dám theo lệnh. Ví dù nương tử có thương lẻ bóng, cho tôi một
cô hầu cũng đã quá.
Mấy hôm sau, bà chị cả Cầm Sắt là Dao Đài đến. Đó
là một thiếu phụ đẹp, khoảng bốn mươi bốn. Tối, Vương được vời tới, Dao Đài mời
ngồi và bảo:
- Ta từ nghìn dặm tới đây để làm chủ hôn cho em nó.
Đêm nay có thể làm lễ với lang quân.
Vương lại vội đứng dậy tạ từ. Dao Đài sai bày tiệc
rượu, bảo hai người đổi chén. Chàng lại cố từ. Dao Đài ép đổi cho bằng được.
Chàng vái lạy ta rồi mới dám uống. Dao Đài đi ra, Cầm Sắt nói với Vương:
- Xin thưa thực với chàng: Thiếp là tiên trên
thượng giới bị trích giáng. Thiếp tự nguyện xin ở dưới âm nuôi các oan hồn để
chuộc lỗi. Vừa rồi gặp cướp- quỷ trời nên mới có chuyện gắn bó cùng chàng.
Thiếp phải mời bà chị ở xa tới làm chủ hôn lễ cũng là để giúp trông coi việc ở
đây cho thiếp tiện theo chàng về nhà nơi trần thế.
Vương đứng dậy cung kính:
- Ở dưới này vui lắm. Trên thế gian tôi có con vợ
dữ, cửa nhà thấp hẹp, thế không thể về vun đắp cho vẹn tròn để giữ gìn cuộc
sống lâu dài.
Nàng cười nhủ:
- Đừng ngại.
Rượu đã say đi nghỉ, cuộc ái ân rất đỗi đậm nồng.
Mấy ngày sau nàng bảo chồng:
- Vui thú ở cõi âm này không thể lâu. Chàng về ngay
thu xếp nhà cửa, xong thiếp sẽ tự đến.
Đoạn sai đem người ngựa cho Vương, mở cửa đưa ra.
Bức vách núi đất lại liền như cũ.
Vương cưỡi ngựa về làng, người làng trông thấy thảy
đều kinh hãi. Về đến nhà, chốn cũ đã biến thành nhà cao cửa rộng. Nguyên là do:
khi Vương bỏ đi, chị vợ mời hai anh đến báo sự thể gia đình. Tối Vương không
về, họ bổ đi tìm. Có người nhặt được cái giày ở dưới ngòi cho là anh ta đã
chết. Hơn một năm sau vẫn không có tin về Vương. Một anh lái buôn ở Thiểm cặp
kê với vợ Vương đến ở luôn đấy, chỉ nửa năm đã xây cất tòa ngang dãy dọc. Anh
ta buôn bán đi xa về gần lại mua một cô vợ bé đem về. Từ đó trong nhà sinh lục
đục. Anh lái buôn cũng có khi hàng mấy tháng không về.
Vương nghe tin ấy ức lắm, buộc ngựa ở ngoài vào
nhà. Bà vú kinh hãi lạy phục xuống đất. Vương quát mắng một trận, bắt dẫn tới
buồng vợ. Chị ta nghe tin bỏ trốn, thắt cổ chết ngoài thềm nhà. Vương sai
khiêng trả xác cho nhà họ Lan.
Anh gọi cô vợ bé tay lái buôn đến. Ngắm cô ta cũng
xinh xẻo,mới khoảng mười tám mười chín tuổi. Vương giữ lại ngủ. Gã lái buôn nhờ
người làng bắn tiếng xin trả cô vợ bé, nhưng cô ta kêu khóc không chịu đi.
Vương làm đơn kiện gã lái buôn tội chiếm nhà, cướp vợ. gã ta không dám ho he,
dọn hàng quay về Thiểm.
Việc nhà xong đã lâu la, Vương đã tưởng Cầm Sắt phụ
ước. Một tối chàng đang cùng người thiếp ăn uống thì ngựa xe Cầm Sắt xịch đến
cổng. Nàng bảo tất cả tùy tùng ra về, chỉ lưu lại Xuân Yến.
Vào buồng trong, người thiếp chạy ra lạy chào, nàng
bảo:
- Người này có tướng sinh con trai, có thể thay tôi
chịu khổ đây.
Nói rồi đem quần gấm đồ trang sức ra cho. Người
thiếp lạy tạ đứng hầu. Nàng kéo ngồi xuống, nói cười vui vẻ. Lát sau nàng bảo:
- Tôi say rồi, muốn đi ngủ.
Vương cũng cởi dép lên giường cùng nàng, người
thiếp lúc ấy mới đi ra. Đến khi cô ta vào buồng mình thì Vương đã nằm đó. Cô ta
lấy làm lạ, quay trở lại buồng Cầm Sắt dòm xem, đã tắt đèn.
Từ đó, không đêm nào Vương không ngủ lại buồng
người thiếp. Một đêm người thiếp trở dậy nhòm vào buồng Cầm Sắt thì lạ qú,
Vương đang cùng nàng tình tự to nhỏ. Người thiếp lại định nói với Vương thì chỉ
thấy giường không. Sáng ra, người thiếp kể lại với Vương điều ấy. Vương cũng không
tự biết mình thế nào, chỉ thấy mình khi thì ngủ ở buồng người thiếp, khi thì
ngủ ở buồng Cầm Sắt, Vương dặn phải giấu, đừng để hở ra những điều lạ lùng ấy.
Lâu sau, cô hầu gái Xuân Yến có chửa. Cầm Sắt làm như không biết. Đến khi cô ta
trở dạ, khó đẻ liền cất tiếng gọi "nương tử". Nàng vào, thai ra ngay:
một cậu con trai. Cắt rốn xong, đặt vào lòng cô hầu, nàng cười mà bảo:
- Thôi nhé, chớ có đẻ nữa! Nghiệp nhiều thì nạn lắm
đó!
Từ đó, cô hầu gái không đẻ nữa. Người thiếp sinh
năm trai hai gái. Trong ba mươi năm ở cùng Vương, nàng thỉnh thoảng lại trở về
nhà mình, đều vào đêm cả. Một hôm nàng dắt cô hầu gái đi và thôi không trở lại
nữa.
Vương sống đến tám mươi tuổi, đột nhiên đem theo
lão bộc cùng đi đâu không thấy về.
-----------------
(1) Thời Xuân Thu, hai
nước Sở - Ngô đánh nhau. Sở thua phải bỏ đô thành chạy, vua Sở gọi bầy tôi là
Chung Kiến sai đưa em gái vua là Quý Thiên chạy trốn. Sau Quý Thiên xin được
lấy Chung Kiến, người mà mình đã gần gụi hình bóng.
CHUYỆN CON MA
"TRƯỜNG NHŨ "
(Tác giả: Người Khăn Trắng)
Từ chiều đến giờ, Tư Miên đã lai rai đến gần hai xị
đế. Nếu ai biết tửu lượng của Miên thì biết là uống tới đó anh ta đã bắt đầu
gục ngã. Nhưng lạ quá, bữa nay sao uống hoài Miên thấy càng uống càng tỉnh, và
miệng như mỗi lúc một khát thêm cái vị cay xé lưỡi này.
- Cho xị nữa đi chị Tám.
Chị Tám Hà vốn có cảm tình với con người cô độc dễ
thương này, nên có vẻ ái ngại:
- Uống nhiều quá rồi anh Tư. Hay là ăn tô mì cho
chắc bụng đã?
Tư Miên cười nửa miệng:
- Cái bụng tôi bây giờ mà cho ba cái thứ đó vào nó
làm sao thì biết bắt đền ai đây!
Tám Hà nheo mắt:
- Thiếu gì người muốn được bắt đền!
- Cho cái thằng tù không ra tù, tội không ra tội
như tôi hả?
Tám Hà liếc dài:
- Anh cứ cái giọng đó hoài, bởi vậy ra tù đã gần ba
năm rồi mà vẫn chưa chịu làm lại cuộc đời. Tù đày thì có gì đâu mà nhớ hoài vậy
chớ!
Tư Miên chợt phá lên cười, tiếng cười rất khó hiểu.
Rồi sau đó hạ thấp giọng:
- Không nhớ sao được khi một nửa cuộc đời mình đã
gửi lại trong đó!
Cười xong anh lại bật khóc! Anh ta là như vậy đó,
nếu không cười không biết đâu mà lường. Ở khu mỏ đá này ai mà không biết. Nhưng
hôm nay thì lạ hơn. Sau khi cười và khóc thì anh ta lại nhìn chị chủ quán rồi
đột ngột hỏi:
- Cô Tám có yêu bao giờ chưa?
Câu hỏi này đúng ra phải là: "Cô đang yêu ai
vậy?" thì Tám Hà dễ trả lời hơn. Tuy vậy, cô vẫn đáp:
- Yêu thì có, nhưng có mấy ai hiểu mình đâu!
Giọng Tư Miên gay gắt:
- Sao lại không hiểu một người như Tám?
Tám Hà khuấy cà phê, ngẩng lên nhìn Tư Miên:
- Chính anh đó!
Câu nói Miên nghe trong lúc đầu óc đang say túy
lúy, vậy mà anh vẫn kinh ngạc:
- Cô Tám nói... tui?
- Thì anh chớ ai! Bởi vậy, tối ngày cứ ôm chai rượu
hoài thì còn biết tới ai nữa?
Có lẽ lâu lắm rồi Miên mới nghe được một người nói
yêu mình, nên phải mất cả phút thẫn thờ, anh mới nói được:
- Có đáng gì cái thằng tôi mà yêu với đương. Tha
cho tôi đi cô Tám ơi!
Bị chạm vào tự ái, Tám Hà ngừng hẳn công việc, bước
tới kéo ghế ngồi ngay trước mặt Tư Miên:
- Tôi biết anh tên thật là Mến, nhưng bởi cái tính
lang bang, liên miên, không đâu ra đâu nên mới chết danh với tên Tư Miên như
ngày nay. Mà tui nói thật, nhằm nhò gì cái án tù ba năm của anh, chỉ bởi anh
làm ăn bị bể hụi, người ta giật tiền anh, rồi anh mới giật nợ thiên hạ. Xấu xa
gì cho cam!
Bất chợt, chị cầm tay Tư Miên siết mạnh:
- Về ở với em đi. Mình xây dựng lại từ đầu. Em có
ít vốn liếng, anh phụ em phát triển cái quán này. Hoặc anh muốn làm ăn gì đó,
em cũng chịu.
Rồi chị nói thêm:
- Em biết anh đã đứt gánh với người vợ trước, trước
khi đi tù. Con cái cũng không có thì có gì đâu mà bận tâm.
Tư Miên thật sự cảm động với tấm chân tình của
người phụ nữ này. Tuy nhiên, anh bất ngờ hỏi:
- Tôi không dám phụ tấm lòng của cô Tám, nhưng tôi
hỏi thật nếu cô biết, chính vì tôi mà một người đàn bà đã chết trong tù, cô có
còn thương tôi không?
Câu hỏi bất ngờ của Miên làm cho Tám Hà sửng sốt:
- Có chuyện đó sao?
Tư Miên trầm ngâm một lúc lâu rồi nhẹ giọng kể:
- Chuyện này đúng ra tôi giấu kín trong lòng, để
cho nó gặm nhấm tan nác lòng tôi, cho đến khi nào tôi đi theo cô ấy. Nhưng mà
thôi, kể làm gì chuyện đau lòng này.
Tám Hà tha thiết:
- Em muốn nghe, kể đi anh Tư!
Tư Miên lại suy tư... Cuối cùng, khi nhìn vào đôi
mắt rưng rưng lệ của Tám Hà, anh cầm lòng không được, nên nhẹ gật đầu:
- Tôi kể. Nhưng cô phải hứa với tôi một điều...
Tám Hà gật đầu rất nhanh:
- Em hứa!
Tư Miên tỏ ra hài lòng:
- Được rồi...
Chuyện tình trong tù.
Thế là Tư Miên lãnh án ba năm tù giam! Khi nghe tòa
tuyên án, Miên không chút dao động, bởi anh biết trước thế nào rồi cũng sẽ tới
nước này. Nhưng tim anh bỗng đau nhói khi tầm mắt anh chạm phải hình ảnh ở cuối
hàng ghế của phòng xử án: vợ anh cặp tay người đàn ông nhỏ hơn cô ấy đến gần
chục tuổi! Họ có vẻ nhẹ nhõm khi nghe tòa tuyên án. Như vậy có nghĩa ít nhất là
ba năm liên tiếp, họ sẽ được thảnh thơi!
Trước hôm đó, Tư Miên đã nghe phong phanh về mối
tình bất chính của vợ với người tài xế giao hàng cho anh, nhưng mải mê lo làm
ăn nên Miên chưa có thì giờ theo dõi. Cho đến khi bị vỡ hụi và ra tòa...
Lên xe bít bùng về trại giam mà lòng Tư Miên nặng
trĩu bởi sự chán chường. Đã hai hôm rồi anh bị mất ngủ, giờ đây cộng với nỗi
chán chường, nên xe chỉ chạy một đoạn ngắn thì cơn buồn ngủ đã kéo đến.
Đến một ngã tư, xe đang chạy bỗng thắng gấp, khiến
cho mấy tù nhân trong xe ngã dồn vào nhau. Tư Miên choàng tỉnh và... anh ngỡ
ngàng khi thấy mình đang dụi đầu vào một phụ nữ!
Cái ngã người đó đúng là cú ngã định mệnh. Bởi
người nữ tù đó cũng bị kêu án bảy năm tù, loại tù thường phạm như Tư Miên.
Ngay sau đó, hai người biết tên nhau. Tư Miên nói
tên mình cho nàng. Và được biết nàng tên là Hạnh.
Trong nhà giam, tù nam và nữ bị giam riêng, ở hai
khu nhà khác nhau, có rào ngăn cách. Tuy nhiên bệnh xá thì chung.
Nửa tháng sau...
Hôm đó do bất cẩn trong lúc lao động, Tư Miên bị
một vết cắt khá sâu ở bàn tay nên được đưa tới trạm xá. Sau khi băng bó và lãnh
thuốc, vừa định ra về thì anh nghe cô y tá trực lo lắng nói với bác sĩ phụ
trách về trường hợp một bệnh nhân bị xuất huyết nặng, cần phải tiếp máu ngay,
mà bệnh xá lại không có loại máu O khá hiếm!
Thật ra Tư Miên có thể bỏ đi mà không cần quan tâm
trường hợp đó, nếu cô y tá không nói tên bệnh nhân:
- Nữ phạm nhân Nguyễn Thị Hạnh này đã hai lần bị
băng huyết, mà lần này nặng hơn, do xảy ra vào lúc nửa đêm, người chung phòng
không hay nên đưa tới bệnh xá quá trễ, máu bị mất quá nhiều, sợ e...
Chị ta bỏ lửng câu nói, trong lúc vị bác sĩ cũng
chỉ biết đứng nhìn và nhẹ lắc đầu. Nhà tù này ở xa trung tâm thành phố, lại
không có xe cấp cứu, mỗi lần cần đưa bệnh nhân đi phải báo cho trung tâm và chờ
đợi khá lâu. Tư Miên quyết định rất nhanh. Anh bước tới chặn cô y tá:
- Cô nói bệnh nhân cần tiếp máu O?
- Đúng vậy. Anh biết trong số phạm nhân ở đây có ai
thuộc nhóm máu đó không?
- Tôi.
Nhìn Tư Miên từ đầu đến chân một lượt, cô ta quay
về phía bác sĩ nói lớn:
- Có anh này thuộc nhóm máu O nè, bác sĩ ơi!
Thế là Tư Miên được làm "ân nhân" với
người phụ nữ gặp tình cờ sau phiên tòa. Lúc tỉnh dậy sau khi được tiếp máu, cô
phạm nhân tên Hạnh đó đã hỏi ngay ân nhân của mình. Khi được biết đó cũng là
một bạn tù thì cô nàng đã tha thiết xin được diện kiến để cám ơn. Đúng ra nội
quy của trại giam không cho phép như vậy, tuy nhiên vị bác sĩ đã phá lệ và dặn:
- Chị chỉ được gặp ở ngay giường bệnh và cũng không
được tiếp xúc lâu. Tôi sẽ đề nghị cho người đó tới đây ngay.
Khi Tư Miên tới thì Hạnh ngỡ ngàng:
- Là anh sao?
Họ mừng vui, trò chuyện và cảm thông ngay hoàn cảnh
của nhau. Trước khi Tư Miên bị đưa trở lại trại giam, anh nghe Hạnh nói nhanh:
- Mỗi tháng em được tái khám một lần ở đây. Có cách
nào gặp anh không?
Tư Miên đáp rất nhanh:
- Có. Em tái khám định kỳ vào những ngày nào?
- Thứ hai tuần đầu tiên của tháng. Em quen thân với
cô y tá tên An đó, nếu lần nào em không gặp được anh thì em nhờ chị ấy nhắn.
Thế là họ đều đặn gặp nhau hằng tháng. Nửa năm như
vậy...
Mỗi lần gặp, họ chỉ nói vài câu chào hỏi ngắn,
nhưng họ nghĩ ra cách để trao đổi với nhau nhiều lời bằng cách viết những lá
thư dài và trao vội cho nhau mỗi khi gặp. Hoặc lần nào không gặp được thì cô y
tá An là chiếc cầu nối.
Hoàn cảnh của Hạnh cũng rất đáng thương. Cô có
chồng và có hai con, vợ chồng chia cách nhau, người chồng bỏ đi lấy vợ khác.
Quá uất hận đâm quẫn trí, nên một ngày kia nhân lúc anh chồng bội bạc trở về
thăm con và đòi bán căn nhà duy nhất mà Hạnh đang ở để nuôi nấng con cái, Hạnh
đã giết chết tên chồng xấu xa đó bằng can xăng. Lửa cháy bùng lên ngoài dự liệu
của Hạnh, chẳng những giết chết tên khốn kiếp mà còn thiêu cháy luôn cả hai đứa
con đang ngủ, trong đó có một đứa còn nằm nôi!
Điên loạn, Hạnh đã lao vào lửa tự tử. Nhưng rủi
thay, Hạnh không thể chết, bởi có người cứu kịp. Sống trong hoàn cảnh đó thì
khác nào chết, bởi vậy đã nhiều lần Hạnh tìm cách chết nữa mà không xong. Cho
đến ngày ra tòa lãnh án. Ở trong tù, Hạnh là người tù nổi tiếng, bởi suốt ngày
đêm lúc nào chị cũng khóc gào, kêu tên hai đứa con! Từ đó sinh ra bệnh và bệnh
ngày càng nặng thêm... Cũng may, khi gặp Tư Miên thì Hạnh như được hồi sinh!
Chị thường nói với y tá An là chẳng hiểu sao chị có cảm giác là đã tìm lại được
tình yêu đích thực, chị muốn nói với Miên, nếu anh có mãn tù trước thì hãy đợi
chị ra, hai người sẽ xây dựng gia đình chung! An đã nhiều lần tìm cách nói
chuyện với Tư Miên và tìm cách xin cho Miên chuyển tới làm tạp dịch tại trạm xá
để dễ bề liên lạc với Hạnh.
Chuyện tưởng sẽ êm đẹp như vậy, cho tới ngày Tư
Miên sắp mãn hạn tù. Tối hôm đó, y tá An báo tin vui:
- Tối nay Hạnh được nằm lại bệnh xá do tôi tạo ra
bệnh án giả, để hai người có dịp gần nhau. Tối nay anh cũng được ở lại đây để
giúp khiêng xác hai phạm nhân vừa chết. Xong việc, hai người có thể vào phòng
riêng của tôi mà tâm sự, tôi ở ngoài canh cho.
Đêm đó thật bất ngờ, Hạnh đề nghị một việc mà vừa
nghe Tư Miên đã giật mình:
- Em muốn có con? Chính xác hơn là em muốn tìm lại
hai giọt máu của mình! Mấy hôm nay tối nào em cũng nằm mơ thấy anh là người cho
em được ước mơ đó! Hãy cho em đứa con đi!
Không người đàn ông nào có thể chối từ lời đề nghị
hấp dẫn như vậy, dù đang là phạm nhân. Nhưng Tư Miên đã lưỡng lự...
Lý do Miên làm như vậy là bởi anh bị ám ảnh sâu
nặng về hành động phản bội của người vợ trước! Cô ta cũng tha thiết đến với anh
từ ngày hai người còn nghèo, còn cơ cực... Vậy mà khi đã bắt đầu có của đã sinh
tâm...
Với Hạnh thì khác. Bắt đầu hiểu cô, nhận ra cô có
nhiều điểm nổi trội hơn vợ mình, nhất là tính cách. Nhưng dù sao lý trí của Tư
Miên lúc ấy nó mạnh hơn là tình cảm. Đặc biệt, nếu lúc ấy có ai hỏi anh có nghĩ
ngợi gì về cái chết của chồng con Hạnh hay không thì chắc chắn Miên đáp là
không! Tuy nhiên, trong tận tiềm thức của anh, làm sao tránh khỏi những gợn
sóng hoang mang...
Vậy là suốt ba giờ ôm nhau trong phòng của y tá An,
Tư Miên đã rất khó khăn, nhưng cuối cùng cũng đã nói:
- Anh thương em nhiều, thông cảm hoàn cảnh của
em... Tuy nhiên, dẫu sao thì trong lòng anh vẫn còn bị ám ảnh bởi sự bội phản
của người phụ nữ đầu ấp tay gối với anh ngày trước. Vết thương lòng mà bà ấy
gây ra cho anh đến bây giờ vẫn còn đau nhức...
Tư Miên nói thật lòng và vẫn xiết chặt Hạnh vào
lòng như bảo đảm cho cô ấy rằng cuộc đời này mãi mãi họ sẽ chẳng chia lìa nhau!
Nhưng chẳng hiểu sao, bỗng dưng Hạnh im lặng và nhẹ
thở dài khi y tá An ra hiệu, Miên đi ra và còn không quên dặn:
- Chỉ còn hai tháng nữa anh mãn hạn tù, lúc ra
ngoài anh hứa chắc chắn là chạy tìm luật sư thật giỏi để gỡ tội cho em.
Hạnh vẫn chẳng nói lời nào, ngoài nụ cười khó hiểu
trong bóng tối...
Như bị sét đánh mang tai! Sáng hôm sau, cả bệnh xá bàng
hoàng khi hay tin có một nữ bệnh nhân treo cổ tự tử trong nhà vệ sinh! Nạn nhân
chính là Hạnh!
Tư Miên lúc ấy còn ở đó, đang phụ việc ở nhà xác.
Nghe tin dữ, anh chạy tới và chỉ kịp gào lên trước cái xác tím tái của Hạnh:
- Trời ơi, Hạnh ơi!
Y tá An nghi ngờ đưa mắt nhìn Miên. Cô có quyền
nghĩ nguyên nhân cái chết kia là sự góp phần của Tư Miên.
Anh chỉ lặng lẽ lắc đầu. Lát sau đó anh nói thật
lòng với An:
- Chị có thể nghĩ thế nào về tôi cũng được, nhưng
tôi xin nói bằng danh dự của mình rằng tôi yêu Hạnh, tôn trọng Hạnh, chỉ muốn
Hạnh được hạnh phúc.
Đêm đó về trại giam, Tư Miên đã suy nghĩ về cái
chết của Hạnh. Bởi thái độ hững hờ của anh với lời đề nghị muốn có con mà Hạnh
tha thiết đưa ra? Hay còn nguyên nhân nào khác? Không tìm ra ngay lý giải, Tư
Miên thức gần trắng đêm. Mãi gần sáng mới chợp mắt được.
Đang chập chờn, bỗng Tư Miên có cảm giác như có bàn
tay của ai đó chạm vào má mình. Anh choàng mở mắt thì nhận ra toàn phòng giam
rộng, có đến trên ba chục phạm nhân ngủ chung, không một ai thức. Phần nhiều
phạm nhân suốt ngày phải lao động cực nhọc, nên đêm đến họ ngủ rất say, phải
tới năm giờ rưỡi mới dậy theo tiếng keng. Bây giờ mới có ba giờ...
Tư Miên cố ngủ lại để lấy sức.
Nhưng vừa mơ màng thì anh nghe rất rõ có ai đó nói
bên tai, giọng nghe rất quen:
- Nằm sang chỗ khác, hoặc là lấy mền đắp lại giả
như đang ngủ, rồi đi vào nhà vệ sinh mà ngồi. Một lát hãy ra!
Tư Miên mở mắt ra, anh kêu khẽ:
- Tiếng nói của Hạnh!
Anh nhìn quanh, không thấy động tĩnh gì, nhưng nhớ
lời dặn vừa rồi, anh nhẹ nhàng lăn đi chỗ khác, sau khi thực hiện y như lời
dặn. Thời khắc trôi qua thật chậm...
Bỗng lúc ấy từ đầu phòng giam, phía sau lưng tên
gác ngục đang ngủ gà ngủ gật, có hai cái bóng đen nhẹ nhàng bước vào. Bọn chúng
chừng như đã khá quen thuộc với phòng giam, nên di chuyển trong bóng tối không
chút khó khăn.
Nằm cách đó khoảng vài mét, Tư Miên quan sát rất
rõ. Bọn chúng trên tay cầm vật gì đó như cái lọ thủy tinh, chúng bước thẳng tới
chỗ nằm lúc nãy của Miên. Nhanh nhẹn và thuần thục, một trong hai tên đổ nhanh
cái lọ thủy tinh xuống đúng vào phần mặt của người ngủ, đồng thời tên còn lại
đổ bồi thêm một lọ như vậy nữa vào phần dưới. Không nghe tiếng động, chỉ thấy
có khói bốc lên từ chiếc mền và mùi khét!
Xong, cả hai đi nhanh ra ngoài mà không gặp trở
ngại gì. Tư Miên biết chắc là có người trong phòng nhìn thấy, nhưng có lẽ do sợ
nên họ không dám lên tiếng.
Bỗng sát bên chỗ Miên nấp, có người nói rất khẽ:
- Bọn này là đàn em của cai tù. Chúng chuyên thực
hiện các vụ thanh toán trong trại giam khi được ai đó thuê!
Người nói là Sáu Khả, một bạn tù tốt bụng. Tư Miên
thẫn thờ, tim đập nhanh. Anh vừa thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, nếu không
nhờ Hạnh báo tin.
Sáng hôm sau, nhờ sự tố cáo của Sáu Khả nên người
tù tìm ra ngay thủ phạm thanh toán hụt bằng acid đó. Chính là băng đâm thuê
chém mướn Tư Rỗ. Bọn chúng được thuê để thanh toán Tư Miên trước khi anh được
thả ra! Ai là người đứng sau vụ đó không khó để biết, chính là người vợ phản
bội của Miên và thằng nhân tình của ả!
Để bảo vệ tính mạng cho Tư Miên, quản lý trại giam
đã chuyển anh sang khu vực gần với các nhân viên an ninh. Chỗ này chỉ cách khu
giam giữ nữ một hàng rào kẽm gai. Đêm nằm có thể nhìn qua ô cửa nhỏ, thấy sân
bên khu nữ. Tư Miên càng ngậm ngùi khi nhớ về Hạnh.
Đêm đó anh cũng thức rất khuya, mắt cứ nhìn qua bên
kia sân... Bỗng anh thấy một bóng người đi lướt qua sân rất nhanh, rồi dừng lại
cách ô cửa sổ chỉ vài thước.
- Hạnh!
Tư Miên kêu lên khi nhìn rõ mặt người đang đứng đó,
nhờ ánh trăng chiếu xuống. Chỉ lạ một điều là Hạnh lại không mặc áo. Ngực để
trần, lộ ra bộ ngực... dài lòng thòng!
- Trời ơi, chuyện gì thế này?
Miên kêu khẽ, cũng vừa lúc đó có tiếng kẻng đánh
liên hồi bên dãy trại giam nữ. Rồi lát sau lan sang tận dãy trại nam.
Đèn trại giam bật sáng. Có nhiều tiếng huyên náo.
Lát sau, Tư Miên nghe từ phía bên kia có người la lớn:
- Có con ma vú dài chạy khắp các phòng bên này!
Bên dãy nam cũng nghe có người nói:
- Hồi nãy trong lúc đang ngủ chúng tôi thấy có một
người đàn bà để ngực trần, chạy tới từng chỗ nằm của nhiều người cất tiếng hỏi:
Con tôi đâu? Trả con tôi đây, để tôi cho nó bú! Người đó nắm đôi vú của mình
lên, như chuẩn bị cho con bú!
Sáng ra, các chị bên nhà giam nữ thuật rõ hơn:
- Có một hồn ma vào nửa đêm cất tiếng khóc, sau đó
vừa chạy vừa gào lên đòi con! Nhìn kỹ lại thì người đó giống như cô Hạnh vừa
mới chết!
Nhiều người không tin chuyện dị thường đó. Riêng Tư
Miên thì hoàn toàn tin. Anh còn tự nhủ:
- Cô ấy thật sự muốn đi tìm con của mình.
Từ hôm đó, chuyện về hồn ma vú dài, hay nói tránh
đi là "con ma trường nhũ" đã loan truyền rất nhanh. Riêng Tư Miên hầu
như đêm nào anh cũng thấy cái bóng của Hạnh đứng cạnh chỗ mình nằm. Có hôm nàng
còn ngồi xuống bên cạnh, nhiều lần lặp lại câu hỏi:
- Sao không cho em có con?
Y tá An còn kể với Miên:
- Hai đêm rồi, Hạnh đều về đây, ngồi trong phòng
tôi khóc than, nói rằng chỉ có một nguyện vọng duy nhất mà cũng không được đáp
ứng! Nhưng nó nói, nó không trách gì anh cả, chỉ buồn cho số phận mình thôi. Cô
ấy nói rằng dẫu bao nhiêu năm cũng vẫn muốn được cùng anh giữ mãi tình cảm.
Phần anh thì tùy, cô ấy không ép...
Kể xong, y tá An buồn bã thở dài...
Tư Miên lặng người đi rất lâu...
* *
*
Tư Miên ngừng kể. Tám Hà len lén nhìn anh và giật
mình khi nhìn thấy hai hàng nước mắt đang chảy dài trên đôi má đen sạm của
người đàn ông. Chị muốn lên tiếng hỏi mà không dám...
Một hồi rất lâu, câu nói của Tư Miên kèm theo một
tiếng thở dài:
- Chính tôi đã giết nàng. Con ma vú dài mà bây giờ
người ta đang bàn tán đó là do tội lỗi của tôi. Tôi đã từ chối lời đề nghị muôn
phần đúng của nàng, để rồi...
Tám Hà chợt òa lên khóc. Thái độ của chị khiến Tư
Miên ngẩng lên nhìn:
- Cô Tám sao vậy?
Tám Hà bỗng ôm mặt chạy thẳng vào bên trong. Tiếng
khóc của chị vọng ra từng hồi.Tư Miên bất nhẫn than:
- Chỉ mình tôi mà làm khổ bao nhiêu người. Lại là
một cái tội nữa đây!
Anh cầm nguyên chai rượu tu một hơi hết sạch. Rồi
trong cơn túy lúy hơi men, nỗi thống khổ dồn lên, khiến Miên như một anh kép
độc diễn trên sân khấu:
- Hạnh ơi, anh đi theo em đây!
Anh không còn biết phương hướng, nhưng lại đi thẳng
vào phía trong, nơi Tám Hà đang nằm khóc.
- Chuyện gì đã xảy ra?
Bất ngờ, ngay sau đó! Từ trong, Tám Hà dìu Tư Miên
ra, trong tình trạng Miên hầu như đã mê man. Vừa khi ấy có người bưu tá phát
thư dừng lại trước:
- Có cô Tám Hà, Lê Thị Hà ở đây không?
Tám Hà nhìn ra, đáp rất gọn:
- Chị Hà không có nhà. Có gì tôi nhận thay cũng
được.
Chị nhận một phong thư ghi gửi chị Lê Thị Hà mà như
thư của ai chớ không phải của mình!
Lúc đó có một khách quen tới mua hàng:
- Cho mười xu đá chị Tám.
Tám Hà gắt lên:
- Đã nói là Tám Hà không có nhà mà!
Khách vọt xe đi lẩm bẩm:
- Mẹ Tám Hà bữa nay điên rồi chắc.
Thật ra anh ta không nhìn thấy lúc ấy Tư Miên đang
nắm chặt tay Hà mà miệng thì gọi:
- Hạnh ơi, cho anh xin lỗi!
Tám Hà nhẹ giọng, trìu mến:
- Em không giận anh nên mới theo về đấy! Bây giờ em
chỉ có thể cùng anh trong lốt như thế này thôi. Em sẽ mãi mãi ở lại đây...
Câu chuyện khó tin mà có thật! Thân xác của Tám Hà,
chị chủ quán nhỏ, giờ lúc nào cũng ở bên Tư Miên và mỗi khi xưng hô với nhau
người ta nghe thấy:
- Hạnh ơi, cho anh ly cà phê!
- Mình ơi, cho em đứa con, sớm sớm chút!
Lúc đầu thiên hạ đồn ầm cả lên chuyện quái dị của
hai người. Nhưng dần dần họ hiểu ra. Chính oan hồn của Hạnh, người nổi danh
"con ma vú dài" trong trại giam đã nhập vào Tám Hà. Và Tư Miên vừa tạ
lỗi với Hạnh, vừa yêu nàng và yêu cả thể xác của bà chủ quán tốt bụng.
Chuyện của cõi âm thì đâu bình thường như dương
thế.
LÊN CHƠI TRÊN TRỜI
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
Nhạc Vân Hạc và Hạ Bình tử, hai người lúc nhỏ cùng
xom, lớn lên cùng học một trường, chơi với nhau rất thân.
Hạ thông minh từ bé, mười tuổi đã học nổi tiếng.
Nhạc thơ như bậc đàn anh. Hạ lấy tình anh em chăm chỉ khuyên bảo; nhờ đó Nhạc
học ngày càng tấn tới, danh cũng nổi dậy. Duy có thi cử vất vả, khoa thi nào
cũng rớt luôn.
Không bao lâu, Hạ mắc bệnh dịch qua đời, nhà nghèo
quá, không có tiền chôn cất. Nhạc khảng khái nhận hết công việc ấy về phần mình
lo liệu. Hạ chết để lại vợ góa và đứa con còn ẳm trên tay. Nhạc thường lui tới
chăm sóc, kiếm được thưng lúa, đấu gạo nào đều chia làm hai.
Vợ con Hạ nhờ sự giúp đỡ tận tình ấy mà sống. Các
bậc sĩ phu thấy thế càng khen Nhạc hiền đức.
Vốn nhà chẳng có của cải bao nhiêu, lại còn chu cấp
cho vợ con của Hạ, thành ra Nhạc sa sút dần, phải than rằng:
- Tài học như Bình Tử, còn phải lận đận mà chết,
huống chi là ta? Sự sang giàu của đời người cần phải kịp thời, nếu suốt năm cứ
bận lòng rối trí như vậy mãi thì e đến chết bỏ xác ở ngòi rạch, trước lòai chó
ngựa, chẳng hóa uổng phí cuộc đời mình lắm ư? Ta nên sớm tính xoay nghề thì
hơn.
Từ đó, Nhạc xếp sách vở lại xoay ra buôn bán. Làm
nghề này nửa năm, cảnh nhả hơi khá.
Một hôm đi buôn ở Kim Lăng, nghỉ ở trong quán trọ,
thấy một người cao lớn, gân cốt nổi lên, mon men đến bên chỗ Nhạc ngồi, mà sắc
mặt ảm đạm, có vẻ lo buồn. Nhạc hỏi muốn ăn chăng?
Người đó không nói gì hết. Nhạc đẩy mâm cơm ra mời
ăn. Hắn lấy tay bốc ăn ngon lành, giây lát hết sạch.
Nhạc lại gọi một mâm cơm ê hề, cở hai ba người ăn
mới xuể, thế mà một mình người ấy ngốn hết sạch. Nhạc gọi chủ quán cắt đùi heo
và một đống bánh chưng đầy ắp, hắn lại ăn sạch chỗ phần ăn của mấy người đó.
Chừng ấy mới thấy no bụng, tạ ơn và nói:
- Ba năm đến giờ, tôi chưa từng được ăn bữa nào no
nê như hôm nay.
Nhạc hỏi:
- Xem anh ra đáng mặt tráng sĩ lắm, sao bơ vơ trôi
nổi đến thế này?
- Tôi mắc tội trời hành không thể nói ra được.
- Vậy quê quán nhà cửa ở đâu?
- Thưa, trên bộ chẳng có nhà, dưới nước chẳng có
ghe. Sớm đứng đầu làng, tối nằm xó chợ, thế thôi.
Nhạc sửa soạn hành lý ra đi; người ấy theo khít một
bên có ý bịn rịn không nỡ rời nhau. Nhạc cố từ, người ấy nói:
- Anh sắp bị nạn lớn, tôi không muốn quên cái ơn
đức một bữa ăn no.
Nhạc lấy làm lạ bằng lòng cho đi theo. Giữa đường
vào quán cơm, nhạc kéo vào ăn chung với mình, nhưng người ấy lắc đầu:
- Cả năm, tôi chỉ ăn có vài bữa thôi.
Vì thế Nhạc càng kinh ngạc.
Hôm sau, qua sông lớn, sóng gió nổi lên đùng đùng,
thuyền chở thuê chìm sạch. Hai người cùng chìm dưới nước. Một chặp gió yên lặng
rồi, người ấy cõng Nhạc đạp sóng mà lên, ngồi tạm một thuyền khách, rồi lại đạp
sóng rẽ nước đi.
Giây lát kéo về một chiếc thuyền, đỡ Nhạc sang
ngồi, dặn dò canh giữ, rồi nhảy ùm xuống sông nữa. Hai cánh tay ôm bao hàng hóa
ném vào trong khoang thuyền. Xong lại hụp xuống nước. Mấy lần hụp lên hụp xuống
như vậy, ôm hàng hóa bày để bên trong thuyền.
Nhạc cảm tạ:
- Anh cứu tôi sống là đủ lắm rồi, đâu dám mong mỏi
hàng hóa lại được châu về hợp phố?
Kiểm tra lại của cải không mất tí gì, trong bụng
càng mừng, kính phục người ấy là thần Nhạc giục lái ghe mở lái ra đi, người ấy
xin từ biệt. Nhạc cố giữ mãi, bèn cùng nhau qua sông. Khi ghe mới xa bờ Nhạc
cười và nói:
- Tính lại tai nạn này chỉ mất có một cây trâm vàng
mà thôi.
Người ấy muốn đi tìm. Nhạc toan ngăn thì hắn đã
nhào xuống nước mất tăm. Nhạc kinh ngạc giây lâu. Chợt thấy hắn mỉm cười ở dưới
nước trồi lên, trao cây trâm cho Nhạc và nói:
- May quá tôi tìm thấy đây.
Mọi người trên bờ dưới sông đều phải lắc đầu lè
lưỡi lấy làm quái lạ.
Nhạc dẫn về nhà, ăn cùng mâm, ngủ cùng chiếu. Cách
mấy chục ngày hắn mới ăn một lần. Đã ăn thì ăn nhiều vô kể.
Một hôm lại đòi từ giã di. Nhạc cố lưu lại. Giữa
khi ấy, trời tối tăm muốn mưa. Nhạc nói:
- Trên mây chả biết có những gì? Sấm sét là vật
chi? Làm sao được lên mà xem một phen cho biết, trong lòng mới hết nghi hoặc.
Người ấy nói:
- Anh muốn lên mây chơi ư?
Liền đó, Nhạc nghe trong mình mỏi mệt, nằm trên
giường ngủ mơ màng. Chừng tỉnh dậy thấy mình rung rung lắc lắc, không phải cảnh
êm ái như nằm trên giường. Mở mắt ra nhìn té ra là mình đang ở trong đám mây,
chung quanh trắng toát như bông gòn. Bấy giờ mới kinh hoảng đứng dậ, mắt hoa
lên tưởng chừng như đi thuyền nhưng đạp chân xuống thì chẳng thấy ván sạp.
Chàng ngửa nhìn tinh tú như ở ngay trước mặt, bèn
ngờ mình chiêm bao. Dòm kỹ tinh tú dán vào vòm trời, chẳng khác nào hạt sen nhú
ở trên cái đài sen, ngòi lớn như cái lu, ngôi nhỏ như cái chén, lấy tay lắc thử
xem, thấy ngôi sao lớn bám chặt quá, không nhúc nhích còn ngôi nhỏ thì lung
lay, dường như có thể bứt ra được. Chàng liền bứt lấy một ngôi, giáu trong tay
áo, rồi vén mây nhìn xuống dưới, thấy bể bạc mênh mông, thành quách nhỏ li ti
như hạt đậu. Trong trí kinh hãi, tự nghĩ nếu như rủi ro trượt chân, thì chết
còn gì?
Bỗng thấy hai con rồng uốn khúc, kéo theo một chiếc
xe căng màn chạy lại, trên xe để những chiếc khạp chu vi mấy trượng, đựng nước
đầy tràn. Có mấy chục người cầm gáo múc nước, rải khắp trên mây.
họ trông thấy Nhạc cùng lấy làm lạ.
Nhạc nhìn kỹ, té ra người bạn chí thiết của mình ở
nhà cũng có dự trong ấy,. bèn nói với họ:
- Ông này là bạn tôi mà!
Họ lấy một gáo đưa cho Nhạc, bảo múc nước mà tưới
đi.
Lúc đó trơì đang đại hạn. Nhạc tiếp lấy gáo nước,
vạch mây nhìn xuống quê hương, cố tưới thật nhiều.
Một lát, người bạn nói với Nhạc:
- Tôi vốn là thần sấm sét, vì trước mắc lỗi sai hẹn
làm mưa nên bị phạt đày ba năm, giờ đã mãn hạn trời, vậy xin từ đây vĩnh biệt.
Nói đoạn, lấy sợi dây buộc xe dài muôn thước bảo
Nhạc nắm một đầu dây để thả xuống đất.
Nhạc lấy làm nguy, nhưng bạn cười mà bảo:
- Không hề gì đâu mà sợ.
Nhạc y lời vù vù chớp mắt đã xuống tới đất. Dòm lại
thì rơi xuống ngay làng mình, còn sợi dây thì rút dần lên mây, không thấy hút
đâu nữa.
Hồi bấy giờ cả làng này đại hạn lâu ngày, gặp được
trận mưa, ngoài mười dặm nước chỉ ngập ngón tay, duy có làng Nhạc thì hồ trạch
đầy tràn.
Về nhà, mò lại trong túi, ngôi sao đã lấy vẫn còn,
đem đặt lên bàn, ngày xem thì đen xạm như cục đá thường, đêm đến thì sáng lóng
lánh, chiếu rọi khắp nhà. Bởi thế Nhạc càng quý báu, gói lại cất kỹ, mỗi khi
khách uống rượu ban đêm, mới lấy ra thay đèn ngồi chung quanh chơi cho sáng.
Nhìn thẳng vào tia sáng chói cả mắt.
Một đêm, vợ Nhạc ngồi trước ánh sáng đó vấn tóc,
chợt thấy ngôi sao đó nhỏ dần đi, chỉ còn như con đom đóm, mà cựa quậy bay
ngang. Nàng đương kinh ngạc mở miệng muốn la, ngôi sao chui tuột vào miệng,
khạc nhổ chẳng ra, lại xuống cổ nàng; nàng sợ hãi chạy bảo Nhạc, Nhạc cũng lấy
làm kỳ, rồi thì đi ngủ. Đêm nằm chiêm bao, thấy Hạ Bình Tử hiện hồn về nói:
- Tôi chính là ngôi sao Thiên Vi, những việc anh
giúp đỡ gia quyến tôi, tôi hằng ghi nhớ không quên. Anh lại có lòng tốt đem tôi
ở trên trời về, thế là chúng ta có duyên gắn bó, nay tôi xin đầu thai làm con
anh để báo đền đức lớn.
Hồi đó Nhạc đã ba mươi tuổi mà chưa có con, nằm
mộng thấy vậy lòng mừng khôn xiết.
Từ đó vợ thụ thai. Đến khi ở cữ, sáng chiếu khắp
nhà, y như lúc ngôi sao còn để trên bàn làm đèn vậy. Nhân đó lấy chữ Tinh Nhi
đặt tên cho con.
Tinh Nhi thông minh lạ thường, mười sáu tuổi thi
đậu tiến sĩ.
LÂM TỨ NƯƠNG
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
Người ở tỉnh Mân (tên gọi tắt của tỉnh Phúc Kiến,
tên cổ), Trần công tên là Bảo Thược, làm quan đạo Thanh Châu (địa hạt tỉnh Sơn Đông).
Có đêm ngồi một mình, có người con gái vén bức màn che đi và, nhìn coi thời
không quen, mà đẹp quá lắm, tay áo dài ra lối ăn mặc trong cung. Cười nói rằng:
"Đêm thanh ngồi suông một mình vậy, khỏi buồn được sao?"
Ông giật mình hỏi là người nào?
Nói rằng: "Nhà thiếp không xa đây, chỉ gần ở
xóm Tây".
Ông đoán hẳn là ma, mà lòng yêu thích lắm, nắm vạt
áo, kéo mời ngồi. Chuyện nói rất phong nhã. Thích ý quá, ôm lấy, cũng không
chống cự.Rồi bên gối cùng trò chuyện, tự nói là Lâm Tứ Nương. Ông lại hỏi kỹ đến
nơi. Nói rằng: Một đời kiên trinh, đã để cho anh làm khinh bạc đến chết! Có
lòng yêu thiếp, chỉ nên tính sự ái tình với nhau về lâu! Chớ hỏi lôi thôi mãi
làm gì!
Không bao lâu gà gáy, vội dậy mà đi. Từ đó đêm nào
cũng đế. Thường thường đóng kỹ cửa cùng uống rượu chơi, nói đến việc âm nhạc,
thời ra thấu hết các cung bực. Ông bèn đoán là có khi hát cũng hay. Nói rằng:
"Chính là cái việc có học từ lúc bé." Ông xin cho nghe một khúc. Cô
gái nói: "Đã lâu không nhắc đến việc tiếng nữa, cung điêu mất đến quá nửa,
chỉ sợ để tri âm cười thôi!"
Cố nài ép nữa. Bèn cúi đầu đánh nhịp, hát giọng
châu Y, châu Lương (1). Tiếng nghe thảm thương; hát xong rồi khóc. Ông cũng bùi
ngùi đau đớn thay; nhân ôm lấy cô gái mà có câu an ủi rằng: "Mình đừng có
đem cái giọng mất nước ra mà hát như thế, làm cho người ta buồn mất vui".
Cô gái nói: "Tiếng của người ta, là để đem ý
chí của mình ra. Kẻ có sự thương, không thể bảo làm vui; cũng như người đương
vui, không hát cho thương được."
Hai người thân mật nhau hơn là đạo cầm sắt. Lâu lâu
những người nhà nghe trộm; ai nghe thấy tiếng hát, cũng đều phải chảy nước mắt
cả. Phu nhân nhìn thấy dung mạo, ngờ là trên đời người không có của đẹp quái
đến thế, vậy không phải ma, thời tất cũng là hồ. Sợ sẽ làm tai vã cho, khuyên
ông nên tuyệt. Ông không theo được lời khuyên của phu nhân, mà chỉ hỏi cặn kẽ
tích gốc của người con gái. Cô gái buồn bã nói:
-"Thiếp là cung nhân trong phủ Hành, gặp tai
biến mà chết, kể đã đến mười bảy năm nay. Nghĩ ông là bậc người cao nghĩa nên
mong gửi than làm vui; nhưng thực không có dám làm hại nhau. Nên có sự e ngờ
nhau ,thời liền xin từ nay từ biệt".
Ông nói: "Tôi không lấy làm sao cả; nhưng đã
yêu đương nhau như vậy, thời cũng phải nên biết đến thật mà thôi".
Bèn hỏi đến việc ở trong cung thuở xưa. Cô gái tỉ
mỉ kể hết. Nghe lẩm nhẩm thấy hay lắm. Nói đến câu chuyện trong lúc biến cố,
thời nức nở không thành tiếng được nữa.
Cô gái không ngủ lắm, mỗi đêm tất dậy đọc những lời
chú trong các kinh "Bồ Đề, Kim Cương".
Ông hỏi: "ở nơi chín suối, cũng có thể tự sám
hối được à?"
Nói rằng: "Cũng một lẽ thế cả. Thiếp nghĩ suốt
đời luân lạc, muốn cho kiếp sau được giãi thoát đó thôi".
Lại cùng ông bình luận thơ từ, chỗ nào không hay
thời chê ngay; đến câu nào hay thời ngâm tiếng ngâm nga, khiến cho người nghe
quên hết cả sự mệt mỏi.
Ông hỏi: "Có hay thơ không?"
Nói: "Lúc còn sống ngẫu nhiên có làm".
Ông đòi xin làm cho một bài.
Cười, cho rằng: "Lời thơ của đàn bà con trẻ,
đâu đủ đến tai bậc cao nhân".
Cùng đi lại được ba năm, một tối bỗng ảm đạm xin
chào từ biệt. Ông phải giật mình hỏi.
Cười, nói rằng: "Vua dưới âm phủ nói rằng
thiếp trong lúc sống trước không có tội gì, mà vẫn còn chăm chỉ không quên việc
đọc kinh, vậy cho sinh vào một nhà vua; sự biệt nhau ở đêm nay, không bao giờ
cùng gặp mặt nữa".
Nói xong rồi mà buồn rầu. Ông cũng hơi rỏ nước mắt.
Bèn làm rượu cùng uống thật say. Cô gái khảng khái mà hát, làm ra giọng thương
mà khoan thai. Mỗi tiếng nhắc đi nhắc lại đến nhiều lần; đến chỗ thương tâm
thời liền cho nghẹn hơn không thể hát đi được. Dừng mấy bận, hát mấy bận, như
thế mới hát xong một bài. Rượu uống cũng không vui được, bèn đứng dậy xum xoe
thong thả muốn đi. Ông cố lôi lại, mời lại ngồi thêm chút nữa.
Tiếng gà gáy động, bèn nói rằng: "Thôi, tất
không thể ở lại lâu thêm nữa rồi. Những ông vẫn thường lạ vì thiếp không đem
lời thơ dốt để trình hiến; nay đến lúc sắp vĩnh biệt, xin thao lượt làm nên một
bài".
Rồi đòi lấy bút, nghĩ nên thơ. Nói rằng:
"Trong lòng thương xót, ý nghĩ rối loạn, không đắn đo được từng chữ. Vậy
những tiếng dở luật sai, xin rằng chớ có đưa cho người khác biết chi".
Xong, che vạt áo mà đi. Ông tiễn ra đến ngoài cửa,
tan hình ra như khói mà mất.
BÁO ỨNG TRƯỚC MẮT
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
Văn Đăng Cảnh Tỉnh, hơi có tên tuổi, ở cùng xóm với
Trần xinh, nhà học chỉ cách nhau bức tường ngắn. Một bữa trời đã chạng vạngm
Trần sinh qua bãi đất vắng vẻ, nghe trong bụi cây có tiếng con gái khóc. Đến
gần, thấy sợi dây vắt ngang trên cành cây hình như sửa soạn thắt cổ.
Trần hỏi căn do, nàng gạt lệ và nói:
- Mẹ em đi vắng xa, gửi em ở nhà người anh bên
ngoại, không dè quân lang sói có dã tâm, xử với em không trọn thuỷ chung, thành
ra thân phải bơ vơ thế này, không bằng chết đi cho rảnh.
Nói rồi lại khóc.
Trần sinh cởi sợi dây khuyên nhủ nàng tìm người mà
lấy. Nàng lo không biết nương tựa vào ai. Trần mời về nhà ở tạm, nàng nghe
theo.
Về đến nhà, khêu đèn sáng lên nhìn rõ mặt thật xinh
đẹp, trong bụng thấy khoái, muốn vầy cuộc mây mưa. Nàng chống cự lại dữ dội.
Những tiếng cãi lẫy ồn ào thấu qua vách vên kia. Cảnh sinh leo tường sang chơi,
bấy giờ chàng mới buông nàng ra.
Nàng thấy Cảnh ngó lâu không chớp mắt, lâu mới chịu
đi. Hai người cùng rượt theo, nhưng không thấy bóng nàng ngả nào.
Cảnh trở về nhà mình vừa mới đóng cửa đi ngủ, thì
nàng lững thững từ trong buồng đi ra. Cảnh ngạc nhiên hỏi, nàng đáp:
- Hắn ta bạc phước, tôi không nương tựa cả đời
được.
Cảnh mừng lắm, gạn hỏi họ tên quê quán, nàng đáp:
- Ông bà tổ tiên tôi nhà ở đất Tề cho nên tôi lấy
chữ Tề làm họ, tên là A Hà.
Cảnh giở ngón chòng ghẹo, nàng cười mà không ra vẻ
chống cự, bèn cùng ăn nằm. Nhà thường có nhiều bạn bè lui tới, nên nàng hay núp
trong buồng học. Qua mấy hôm nói:
- Tôi hãy tạm đi, bởi chổ này lộn xộn, làm mệt
người ta lắm. Từ nay xin gặp nhau vào ban đêm thì hơn.
Chàng hỏi nhà ở đâu, nàng trả lời không xa. Cứ sáng
ngày đi, đêm tối lại đến, tình yêu càng thấy nồng nàn. Cách mấy ngày lại bảo
Cảnh:
- Tình ái đôi ta tuy đẹp, nhưng vẫn là mới chung
chạ, ngày có ngày không. Nay sẳn dịp ông thân tôi bổ đi làm quan ở miền tây,
sáng mai tôi phải theo mẹ đi. Vậy để tôi về nhà, thừa cơ thú thật với mẹ thì sẽ
ở lại đây luôn với chàng trọn đời.
- Nhưng mình đi độ bao lâu?
- Phỏng một tuần thôi.
Thế rồi nàng đi. Cảnh suy nghĩ ở nhà học không
tiện, bèn dọn vào nhà trong. Nhưng lại lo vợ ghen, tính là không gì hơn là bỏ
vợ là xong. Chàng nghĩ rồi nhất định thực hành như vậy.
Vợ đến, chàng kiếm chuyện mắng chửi, khiến vợ nhục
nhã không chịu nổi, khóc lóc đòi chết. Cảnh dỗ vợ:
- Mày chết làm phiền cho tao, thôi mày về nhà mày
là hơn.
Nói đoạn, giục vợ đi cho mau, vợ khóc và nói:
- Tôi lấy anh mười năm nay chưa từng có chuyện gì
thất đức, sao anh đành dứt tình như thế?
Chàng khăng khăng một mực đuổi vợ càng gấp, vợ phải
cuốn gói bỏ đi.
Từ đó, sớm tối chỉ đợi nàng trở lại, nhưng mây ngàn
hạc nội, chẳng thấy tăm hơi.
Vợ về nhà mình rồi, mấy phen nhờ bạn bè quen thân
nói giùm, xin trở lại với Cảnh, nhưng Cảnh nhất định không nghe, bấy giờ mới
cải giá lấy họ Hạ Hầu.
Làng xóm Hạ Hầu giáp ranh với Cảnh, vì có ranh giới
ruộng mà hai nhà thù hiềm với nhau lâu đời. Nay nghe vợ cũ đi lấy Hạ Hầu, Cảnh
càng tức giận, nhưng trong lòng vẫn còn mong được A Hà trở lại, âu yếm an ủi
tấm lòng.
Trải hơn một năm, càng ngày càng kiệt chẳng thấy
tăm hơi gì cả.
Gặp ngày vái hải thần, trai tài gái sắc tấp nập
trong miếu ngoài sân. Cảnh cũng đến đó, trông xa xa thấy một cô gái, mặt mũi
giống hệt A Hà, chàng mon men đến gần thì nàng xen vào đám đông, chàng theo
dõi, cho tới ra ngoài cửa cũng ra theo. Nhưng nghoảnh đi nghoảnh lại, nàng đi
như bay. Cảnh đuổi theo không kịp, tức giận bỏ về.
Cách sau nửa năm, đang đi trên đường cái, thấy một
cô mặc áo đỏ, cưỡi ngựa đen, lão bộc theo sau, từ đằng kia đi tới. Cảnh nhìn
mường tượng là A Hà, bèn hỏi thăm người tùy tùng: Nương tử là ai? Người này đáp
là vợ kế của Trịnh công tử ở Nam thôn. Cảnh lại hỏi công tử lấy vợ từ hồi nào?
Nghe lão bộc trả lời nhừng nửa tháng nay thôi.
Cảnh bỡ ngỡ có lẽ mình sai lầm chăng? Giữa lúc ấy
người con gái nghe tiếng nói chuyện ở phía sau lưng nên day mặt ngó lại. Cảnh
trông thấy đúng thật là Hà, lại thấy nàng đã lấy người ta, cơn ghen tức sôi gan
óc, cất tiếng kêu lên:
- Cô Hà ơi! Sao lại quên lời hứa cũ?
Người nhà đi theo, nghe gọi tên tục của bà chủ
mình, toan túm lại đấm đá Cảnh; nàng vội ngăn lại, mở tấm vải mỏng che mặt nói
với Cảnh:
- Con người phụ tình, còn mặt mũi nào thấy nhau ư?
Cảnh nói:
- Cô phụ tôi thì có, chứ tôi đâu có phụ cô hồi nào?
Nàng đáp:
- Anh phụ rẫy vợ anh còn bằng máy phụ tôi kia. Với
người kết tóc trăm năm còn thế, huống chi với ai? Trước kia nhờ âm đức ông bà
để lại nên thấy rên anh được ghi vào bảng thi đậu, tôi mới đem thân lấy anh.
Nay vì anh bỏ vợ tấm cám, thần thánh xử phạt đã rút tên anh đi rồi. Khoa thi
này người đậu thứ hai có tên là Vương Xương, thế vào tên anh đó, nói cho mà
biết. Nay tôi đã lấy Trịnh quân, anh đừng mơ tưởng tôi nữa vô ích.
Cảnh cúi đầu, cụp tai, không dám mở miệng thốt ra
một lời tiếng nào. Chừng ngó lên thì nàng đã giục ngựa đi như bay. Chỉ còn có
ấm ức đi về thôi.
Khoa thi ấy, quả nhiên Cảnh rớt; Người đậu số hai
đúng là họ Vương tên Xương, cả Trịnh là chồng nàng cũng đậu.
Từ đó Cảnh mang tiếng là con người phụ bạc, bốn
mươi tuổi không vợ, gia đạo sa sút, thường phải ăn nhờ ở vạ nhà bạn hữu.
Một hôm, ngẫu nhiên đến nhà Trịnh, Trịnh mời ăn cơm
và giữ lại ngủ đêm. Nàng lén nhòm khách mà động lòng thương hỏi Trịnh:
- Người khách ở trên nhà có phải là ảnh Khách Vân
chăng?
Trịnh hỏi từ đâu quen biết, nàng nói:
- Trước khi lấy ông, tôi từng lánh nạn ở nhà y,
được y nuôi nấng cũng khá. Tính hạnh y tuy hèn, nhưng ân đức tổ tiên chưa dứt,
vả lại, đối với ông cũng là cố nhân. Vậy cũng nên cứu giúp y manh quần tấm áo
kẻo để rách rưới tội nghiệp.
Trịnh nghe lấy làm phải, liền sai đưa quần áo mới
cho Cảnh thay và lưu lại khoản đãi mấy ngày.
Nửa đêm, chàng sửa soạn đi ngủ, có con ở đem hơn
hai mươi đồng ra tặng, còn nàng thì đứng ngoài cửa sổ nói:
- Đó là của riêng của tôi để dành, nay tặng cho anh
gọi là đền đáp nghĩa cũ. Anh nên nhận lấy rồi tìm lấy một người tử tế làm vợ.
Còn may là ân đức của tổ tiên dày nặng, đủ mở mày mở mặt cho con cháu mai sau.
Từ nay anh ráng giữ nết nànghẳn hoi, không thì tổn thọ đấy.
Cảnh cảm tạ, về nhà trích ra hơn mười đồng mua một
con hầu ở nhà khoa cử trong miền về làm vợ, vừa xấu vừa dữ, sinh được một con
trai sau đỗ đại khoa.
Còn Trịnh làm quan đến Thị lang lại bộ thì qua đời.
Nàng đưa đám chôn cất rồi về, người ta vén màn che chiếc kiệu xe nàng ngồi thì
là xe không, bấy giờ ai nấy mới biết rõ nàng là chồn hóa thân, chứ không phải
người.
Ôi! Con người ta bất lương, được mới nới cũ, rốt
lại ổ vỡ mà chim bay vụt mất, ông trời báo ứng một cách thảm độc lắm thay!
CHUYỆN Ở ĐẢO THẦN
TIÊN
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
Dương Viết Đán là sĩ nhân đất Quỳnh Châu. Dịp ấy
chàng ta từ một quận khác trở về nhà, đi thuyền qua biển. Chẳng may gặp gió
bão, thuyền sắp đắm, chàng vội nhảy sang một chiếc thuyền không vừa dạt tới.
Nhìn lại, thuyền cũ đã đắm, mọi người trên ấy không thoát một ai.
Gió nổi càng dữ, chàng cứ nhắm mắt mặc cho muốn đến
đâu thì đến. Khi trời lặng, mở mắt ra đã thấy một hòn đảo, nhà cửa san sát.
Chèo thuyền vào bờ, đi thẳng đến cổng làng, trong làng không có tiếng chó sủa,
gà kêu. Chung quanh một tòa nhà cổng quay hướng bắc, bóng tùng trúc ẩn hiện
dưới sương mơ, trong tường vây không biết là cây gì mà nụ hoa chúm chím đầy
cành mặc dù tiết đã bắt đầu đông.
Trước cảnh ngoạn mục ấy, lòng Dương đã thấy vui
vui, liền quanh quẩn tìm vào. Trong nhà chợt có tiếng đàn văng vẳng. Dương ngập
ngừng bước. Một cô hầu khoảng chừng mười bốn mười lăm, xinh xắn tươi đẹp, từ
trong đi ra, vừa trông thấy Dương quay ngoắt vào. Tiếng đàn trong nhà ngừng
bặt. Một chàng trai trẻ bước ra, hỏi khách từ đâu tới. Dương thuật lại từ đầu.
Hỏi họ tên quê quán, Dương kể rõ ngọn ngành. Chàng trai sửng sốt:
- Hóa ra khách là người thân của vợ tôi.
Rồi vội thi lễ, dẫn khách vào nhà. Trong nhà trần
thiết rất mực tinh tế, hoa lệ, tiếng đàn thánh thót ngân vang. Một cô gái trẻ
chỉ khoảng mười tám mười chín, dáng vẻ lộng lẫy đang ngồi gảy đàn, thấy khách
vào buông đàn định đi. Chàng trai giữ lại:
- Đừng vội, khách đây có họ với mình đấy!
Rồi kể tung tích khách. Thiếu phụ mừng rỡ:
- Thế là cháu tôi đó!
Rồi hỏi luôn:
- Bà cháu còn khỏe không? Cha mẹ cháu bao nhiêu
tuổi rồi?
Dương thưa:
- Cha mẹ cháu đều ngoài bốn mươi, khỏe mạnh cả. Bà
cháu đã sáu mươi, ốm yếu lắm, một bước cũng phải có người dìu. Cháu thực chưa
biết cô thứ bậc thế nào trong gia tộc, xin cho được biết để khi về thuật lại.
- Đường xa cách trở, tin tức không thông đã lâu
rồi. Cháu về thưa với cha: Cô Mười hỏi thăm, tự khắc cha cháu biết.
Dương lại hỏi:
- Thưa, dượng họ gì?
Người đàn ông đáp:
- Họ Ân, tên Hải Dư. Nơi đây là đảo thần tiên cách
Quỳnh Châu ba nghìn dặm. Tôi ở đây cũng chưa lâu đâu.
Cô Mười vào nhà trong sai sửa soạn cơm rượu thết
đãi khách, có nhiều món lạ. Dương chưa hề biết. Ăn xong họ dẫn nhau ra ngắm
cảnh vườn đào mận còn đangủ nụ. Dương ngỡ ngàng, Ân giải thích:
- Ở đây mùa hè không nắng nhiều, mùa đông không rét
lắm, hoa nở liên tiếp bốn mùa.
Dương hí hửng:
- Thế thật là cảnh tiên. Cháu về thưa với cha mẹ
chuyển nhà đến đây ở với cô dượng.
Ân chỉ mỉm cười.
Khi trở vào thư phòng, Dương thấy có cây đàn đặt
ngay giá sách, có ý xin được nghe. Ân liền nắn cần, so dây gọi cô Mười từ trong
nhà đi ra:
- Lại đây! Lại đây! Mình gảy cho cháu nghe một
khúc.
Cô Mười ngồi xuống hỏi cháu:
- Cháu muốn nghe bản nào?
Dương thưa:
- Cháu chưa từng đọc về sách đàn, cho nên không
biết thế nào mà nói.
- Thế cháu cứ nêu đề tài ra, cô đều có thể ngẫu
hứng gảy thành điệu, thành bản.
- Thưa, gió chuyển bạt thuyền, có thể thành một
khúc được không?
- Được chứ!
Rồi nâng đàn, bật dây, âm thanh cứ theo ý mà thành
điệu khoan nhặt, bổng trầm, thành thục y như theo một bài bản sẳn có. Dương
lắng nghe mà cảm thấy mình như đang lênh đênh trên thuyền, sóng gió cuồn cuộn
hất lên dội xuống. Dương vừa kính vừa phục, khen nức khen nở, hỏi cô:
- Thưa, có học được không?
Cô Mười trao đàn cho cháu sai gảy thử và bảo:
- Cháu có thể học được. Thíc học gì?
- Cô dạy cho cháu bản "gió bão" vừa rồi,
không biết mấy ngày thì có thể thuộc. Xin cô viết ra trước cho cháu đọc đã.
- Không thể viết thành văn được đâu. Cô chỉ theo ý
mà phổ đàn thôi.
Rồi cô lấy một cây đản khác, gảy trước một đoạn làm
mẫu, bảo Dương tập theo. Tập được hơn một trống canh, tiếng đàn của Dương đã
hợp làn điệu tuy còn thô vụng, thì cô và dượng tạm biệt đi nghỉ. Dương còn ngồi
lại tập trung tinh thần tập gảy dưới đèn khá lâu, đột nhiên bừng hiểu, bất giác
hứng khởi đứng lên múa. Bất chợt ngẩng đầu, Dương thấy cô hầu gái vẫn đang đứng
đó, Dương sửng sốt hỏi:
- Cô vẫn còn đây vẫn chưa đi nghỉ ư?
Cô ta cười nhoẻn:
- Cô Mười sai em thu xếp giường chiếu chu đáo để
chàng yên nghỉ. Lại còn phải đóng cửa tắt đèn.
Dương ngước nhìn kỹ cô ta: đôi mắt long lanh như
làn thu thủy, dáng vẻ tình ý rất mực dể thương. Dương bồi hồi cả thần hồn, ỡm ờ
kêu gọi. Cô lặng lẽ cúi đầu, làn môi mủm mỉm. Dương càng mê mẩn đứng vụt dậy bá
lấy cổ.
Cô ta ngăn lại:
- Chớ! Chớ! Đêm đã canh tư rồi, chủ nhân sắp dậy.
Đây đấy nếu có lòng nào, đêm mai chưa muộn.
Dương đang ôm cô ta, chợt có tiếng dượng Ân gọi:
- Phấn Điệp!
Cô gái thất sắc:
- Chết rồi!
Rồi vội vã bỏ đi. Dương lẻn theo nghe ngóng. Tiếng
dượng Ân:
- Tôi đã bảo con bé này chưa dứt được trần duyên
thế mà mình cứ nhất định thu nhận. Nay làm thế nào? Phải đánh đòn ba trăm roi.
Tiếng cô Mười:
- Cái tâm địa ấy mà nãy nòi thì không thể ngăn giũ
được. chi bằng cho phắt thằng cháu tôi cho rồi.
Dương nghe vậy vừa thẹn vừa sợ quay lại thư phòng,
tắt phục đèn đi ngủ. Sáng trở dậy chỉ có thằng nhỏ đến lấy nước rửa mặt, không
thấy Phấn Điệp đâu. Trong bụng Dương cứ nơm nớp lo sợ sị quở trách. Lát sau
dượng Ân và cô Mười cùng tới, tựa hồ như không có chuyện gì xảy ra, chỉ khảo
ngón đàn Dương mới học. Dương gảy lại, cô Mười khen:
- Tuy chưa đạt đến chỗ thần diệu song đã được chín
mười phần. Cố tập cho thuần thục thì tuyệt đấy.
Dương xin dạy cho khúc khác. Ân truyền cho khúc
Thiên Nữ trích giáng (tiên nữ bị đày xuống phàm trần) trong đó còn đòi hỏi các
kỹ xảo ngón tay như "bẻ" "cắt". Dương tập ba ngày, gảy mới
rõ tiếng. Ân bảo:
- Những khó khăn đại khái đã qua. Nay về sau chỉ
cần sao cho thành thục. Nếu thuộc được hai khúc này, trong kỹ thuật đàm cầm
không còn điệu nào đáng ngại nữa.
Đước ít ngày, Dương nhớ nhà, thưa với cô Mười:
- Cháu ở đây được cô săn sóc dạy dỗ rất vui, chỉ
hiềm canh cánh nỗi tha hương. Đường sá xa xôi cách trở ba ngàn dặm, không biết
ngày nào cháu mới về được đến nhà.
Cô Mười bảo:
- Điều đó chẳng có gì khó. Thuyền cũ của cháu còn
đó, chỉ cần giúp cháu một buồm gió. Cháu không còn gia thất, cô sẽ cho Phấn
Điệp.
Rồi cô tặng Dương một cây đàn, đưa một bọc thuốc mà
dặn:
- Cháu đem thuốc về biếu bà, thuốc này không chỉ
chữa bệnh mà còn kéo dài tuổi thọ.
Đoạn cô tiễn Dương ra bờ biển. Dương tìm mái chèo,
cô bảo:
- Không cần đến đâu!
Rồi ghép quần của mình lại thành buồm, đem mắc buộc
vào thuyền. Dương sợ không biết hướng đi, lạc nẻo. Cô nhủ:
- Đừng lo! Đã có buồm đưa lối, cứ theo nó.
Buộc xong, Dương xuống thuyền. Đang buồn rầu, định
bái biệt cô thì gió nồm thổi mạnh, thuyền đã ra xa bờ. Trong thuyền có sẳn
lương khô, song số lương thực chỉ ăn đủ khoảng một ngày, bụng Dương oán cô sao
hà tiện? Bụng đói nhưng chàng không dám ăn nhiều, chỉ sợ mau hết. Song khi ăn
một cái bánh nướng ấy vừa ngọt vừa thơm, còn sáu bảy cái nữa cất đi dành bữa
sau thì lạ thay không thấy đói.
Bóng chiều đã ngả. Đang hối không mang theo đèn
đuốc thì chỉ nháy mắt sau đã thấy khói bếp đất liền. Thì ra thuyền đã tới đất
Quỳnh rồi. Thuyền cập bờ, Dương mừng quýnh, thu quần áo bọc bánh về nhà.
Vào đến cửa cả nhà sửng sốt vừa sợ vừa mừng. Thì ra
chàng ta đã vắng nhà mười lăm năm trường và mới biết vừa qua đã gặp tiên. Bà
nội Dương bệnh đã kịch, chàng đưa thuốc cô Mười ra cho uống, mọi chứng bệnh tật
khắc tiêu tan. Chàng kể lại những điều mắt thấy tai nghe. Bà cụ mới bảo:
- Đó là cô ruột cháu đấy!
Xưa bà có người con gái út tên là cô Mười, sinh ra
đã có dáng vẻ tiên nữ. Gia đình hứa gả cho họ Ân. Chú rể mới mười tuổi vào núi
không thấy trở về. Cô Mười đợi đến hai mươi tuổi, bỗng nhiên không đau ốm gì mà
mất, chôn cất đến nay tính ra đã hơn ba chục năm rồi.
Khi nghe Dương kể lại chuyện ở đảo thần tiên, mọi
người đều ngờ là cô Mười chưa chết. Dương đưa cái quần dùng làm buồm ra thì
đúng là cái mà trước đây cô vẫn hay thường mặc. Dương chia bánh cho mọi người,
chỉ ăn một chiếc thôi mà cả ngày không thấy đói, lại có cảm thấy tinh thần phấn
chấn gấp bội. Người nhà đào mả cô Mười lên coi thử thì chỉ còn quan tài không.
Trước đây Dương đã lấy người vợ họ Ngô, song hơn
chục năm đi vắng, chị ta đã đi lấy chồng khác. Lúc ấy Dương mới tin lòi cô Mười
và có ý mong Phấn Điệp. Song đã hơn một năm mà vẫn tuyệt vô âm tín, lúc ấy
chàng mới đi tìm đám khác. Ở huyện Lam có ông tú tài họ Tiền có con gái là Hà
Sinh nổi tiếng gần xa là đẹp, mới mười sáu tuổi mà ba chàng rể chưa cưới đã
chết. Dương nhờ mối lái đính hôn, chọn ngày lễ. Khi cô dâu về nhà chồng, Dương
nhìn kỹ thì đúng cô dâu mới là Phấn Điệp. Dương hỏi đến chuyện cũ ngoài đảo
Thần Tiên, cô ta cứ mơ mơ hồ hồ. Thì ra khi cô ta bị đuổi, chính là lúc cô ta
giáng sinh đầu thai vào nhà họ Tiền. Chỉ lúc nghe Dương gảy đàn Thiên Nữ trích
giáng thì cô ta mới chống má trầm tư tựa như có sự cảm thụ, xúc động sâu sắc
vậy.
THẦN HOA CÚC
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
Thiên lý bình cân bốc ẩn cư
Tửu hương hoa khí mộng tinh sơ
Lương duyên ưng vị mai hoa đố
Xử sĩ phong lưu chuyển bất như
Huyện Thuận Thiên, tỉnh Hà Bắc, có người họ Mã, tên
Tử Tài, có vợ họ Lã, tính rất hiền thục.
Gia tư Tử Tài cũng chỉ vào hàng khá giả, có hai dãy
nhà nam bắc, cách nhau một chiếc sân lớn. Mỗi dãy dài chừng bốn chục thước,
tiếp giáp với một khu vườn chừng nửa mẫu đất. Khu bắc có trồng hoa cúc còn khu
nam thì bỏ hoang.
Ông, cha Tử Tài đều yêu hoa cúc song Tử Tài còn mê
hoa cúc hơn cả cha, ông. Tử Tài chỉ trồng hoa cúc để thưởng ngoạn chứ chẳng đem
bán bao giờ vì Tử Tài vẫn giữ ý nghĩ cổ truyền của cha, ông, cho việc bán hoa
cúc là một việc làm vô liêm sỉ. Hễ nghe nói ở đâu có hoa cúc đẹp là Tử Tài lại
lặn lội tìm tới mua, chẳng kể đường xá gần xa, giá cúc đắt rẻ. Vì thế mà gia tư
lụn bại dần.
Một hôm, có người khách quen từ thủ phủ Kim Lăng,
tỉnh Giang Tô, lên Thuận Thiên có việc, ghé thăm Tử Tài. Trong khi đàm đạo,
khách nói có một người bà con ở Kim Lăng mua được hai giống cúc đẹp lắm, không
thấy có ở miền bắc. Tử Tài mừng quá, tức khắc vào nhà trong bảo vợ sửa soạn
tiền bạc, hành trang để mình theo khách xuống Kim Lăng tìm mua hai giống cúc
ấy.
Tới nơi, Tử Tài đưa tiền nhờ người bà con của khách
đi mua giùm được hai giò cúc lạ. Tử Tài quý hai giò cúc ấy lắm, chăm sóc như
bảo vật.
Hôm sau, Tử Tài biệt khách, đem hai giò cúc về
Thuận Thiên. Mới lên ngựa phóng đi được một quãng thì Tử Tài thấy một thiếu
niên phong lưu, tuấn tú, cưỡi ngựa theo sau một cỗ xe. Thiếu niên thấy Tử Tài
đi cùng đường với mình thì mỉm cười, chắp tay vái chào làm quen, nói:"Ðệ
họ Ðào, tên Trọng Túy, quê ở đất Kim Lăng này, còn quý danh là gì, quý quán ở
đâu?" Thấy Trọng Túy nói năng lịch sự, tao nhã, Tử Tài chắp tay đáp lễ,
nói:"Ðệ họ Mã, tên Tử Tài, quê ở huyện Thuận Thiên tỉnh Hà Bắc"
Hỏi:"Dám hỏi túc hạ xuống đây có việc chi?" Ðáp:"Ðệ xuống đây
tìm mua hai giống cúc đẹp không thấy có ở miền bắc!" Trọng Túy cười,
nói:"Cúc nào là cúc chẳng đẹp, chỉ có người trồng tỉa chẳng biết cách chăm
sóc mà thôi!" Rồi thao thao giảng thuyết về cách thức chăm sóc cúc. Nghe
xong, Tử Tài mừng lắm, hỏi:"Bây giờ túc hạ đi đâu thế?" Ðáp:"Ðệ
theo gia tỉ dọn nhà lên Hà Sóc, phía bắc sông Hoàng Hà!" Hỏi:"Quê túc
hạ ở miền nam này, sao lại dọn nhà lên ở miền bắc?" Ðáp:"Tuy chị em
đệ quê ở miền nam, song gia tỉ chán cảnh ở đây rồi, muốn dọn nhà lên ở miền
bắc!" Tử Tài mừng lắm, nói: "Nếu túc hạ cùng lệnh tỉ chẳng chê đất
Thuận Thiên là nơi hoang lậu thì xin mời nhị vị lên tệ xá cư ngụ!" Trọng
Túy bèn rong ngựa tới cạnh xe, hỏi vọng vào: "Em vừa làm quen với Mã huynh
ở Thuận Thiên, Hà Bắc. Biết chị em mình đang dọn nhà lên Hà Sóc, Mã huynh mời
chị em mình lên nhà Mã huynh cư ngụ, chị có thuận không?" Tử Tài chăm chú
theo dõi thì thấy một nữ lang tuyệt sắc, tuổi chừng hai mươi, vén rèm xe lên
nhìn Trọng Túy, đáp: "Lên đó ở nhờ thì cũng chẳng sao song nhà cửa phải
rộng rãi, tuy chẳng cần phải sang trọng!" Nghe thấy thế, Tử Tài vội phóng
ngựa tới cạnh xe, nói:" Tệ xá tuy thô lậu song cũng rộng rãi lắm!"
Hai chị em bèn quyết định theo Tử Tài lên Thuận Thiên.
Tới nhà, Tử Tài vào nói chuyện với vợ. Lã thị cũng
mừng vì có thêm bạn gái mới. Tử Tài bèn ra nói với Trọng Túy: "Vợ chồng đệ
cùng lũ gia nhân chỉ ở hết dãy bắc, còn dãy nam thì bỏ trống, xin mời túc hạ
cùng lệnh tỉ dọn vào đó cư ngụ!" Trọng Túy mừng lắm, liền dắt chị vào dọn
dẹp dãy nam để ở. Rồi hai chị em cùng sang dãy bắc chào Lã thị. Lã thị vồn vã
đón tiếp, hỏi nữ lang: "Hiền muội tên chi?" Nữ lang đáp:" Thiếp
họ Ðào, tên Hoàng Anh" Thấy Hoàng Anh nói năng lịch sự nhã nhặn, Lã thị
quý mến lắm. Khi hai chị em cáo biệt, Lã thị sai gia nhân đem gạo muối và rau
thịt sang biếu.
Hôm sau, Trọng Túy sang trồng giùm Tử Tài hai giò
cúc mới. Rồi ngày nào Trọng Túy cũng sang chăm sóc vườn cúc cho Tử Tài. Thấy
cây nào khô, Trọng Túy liền nhổ lên, chiết cành mới trồng vào chỗ cũ. Vì thế,
chỉ ít lâu sau, vườn cúc nhà Tử Tài trông thực tốt tươi đẹp đẽ, khác hẳn khi
trước. Tử Tài thầm cám ơn Trọng Túy nên ngày nào cũng giữ Trọng Túy ở lại yến
ẩm với mình. Hoàng Anh cũng thường qua dãy bắc kéo tơ, may vá giùm Lã thị nên
Lã thị càng quý mến.
Tháng sau. Một hôm Trọng Túy nói với Tử Tài:
"Túc hạ vốn chẳng giàu có chi mà ngày nào cũng giữ đệ ở lại yến ẩm, rồi
còn sai gia nhân đem gạo muối rau thịt sang cho thì đệ thấy ngại ngùng quá. Ðệ
đâu có thể ngồi không mà nhận ân huệ mãi như thế được? Bây giờ đệ tính xoay qua
nghề trồng tỉa hoa cúc để bán lấy tiền, tự túc mưu sinh!" Nghe thấy thế,
Tử Tài đâm ra khinh khi Trọng Túy, rồi nói thẳng: "Trước kia đệ cứ tưởng
túc hạ thuộc hàng cao sĩ, nay nghe nói mới biết cũng chỉ thuộc loại phàm phu.
Muốn bán hoa cúc để cầu lợi thì thực là nhục cho hoa cúc lắm!" Trọng Túy
cười, nói: "Lấy việc bán hoa cúc làm nghề sinh nhai thì có chi là đáng
khinh bỉ? Tuy con người chẳng nên làm giàu một cách bẩn thỉu song cũng chẳng
nên cầu nghèo chỉ vì không dám làm một nghề lương thiện!" Tử Tài im lặng.
Trọng Túy bèn đứng dậy, cáo biệt. Từ đó, Trọng Túy không sang chăm sóc vườn cúc
cho Tử Tài nữa. Tử Tài đành phải chăm sóc lấy một mình, cứ thấy cây nào hơi héo
là nhổ lên vứt đi, chất thành đống. Tuy thế, hai bên vẫn chưa đến nỗi tuyệt
giao. Thỉnh thoảng Tử Tài vẫn sai gia nhân đi mời Trọng Túy sang nhà mình đàm
đạo.
Trọng Túy về nhà, đánh luống khu nam thành một khu
vườn tuyệt đẹp. Rồi sang xin đống cúc vứt đi của Tử Tài, vác về lựa lấy những
cây còn sống đem ra vườn trồng. Ngày nào Trọng Túy cũng làm cỏ, tưới nước, cuốc
bỏ gốc xấu, chiết cành tốt trồng vào chỗ cũ. Chẳng bao lâu, vườn cúc của Trọng
Túy trông thực tốt tươi đẹp đẽ. Mùa thu năm ấy, cúc nở kín vườn.
Sau tiết Trung thu. Một sáng, Tử Tài đang ngồi
trong nhà thì chợt nghe có tiếng ồn ào như chợ vỡ ở phía nam. Lấy làm lạ, Tử
Tài chạy ra coi thì thấy Trọng Túy đang đứng giữa cả trăm chậu cúc xếp trong
vườn, phần lớn đều có trồng những giò cúc lạ, rất đẹp, mà mình chưa được thấy
bao giờ. Dòng người đi chợ ghé vào mua cúc rất đông, ồn ào như thác lũ, liên
miên chẳng dứt, kẻ thì chất lên xe, người thì vác lên vai. Cho là Trọng Túy
tham tiền, Tử Tài khinh khi lắm. Lại thấy Trọng Túy giấu các giò cúc lạ để
trồng bán lấy tiền, chẳng cho mình giò nào, Tử Tài càng thêm giận, nảy ý tuyệt
giao. Tử Tài bèn xăm xăm chạy sang nhà Trọng Túy gõ cửa. Nghe tiếng gõ cửa,
Trọng Túy từ ngoài vườn chạy vào mở. Thấy Tử Tài, Trọng Túy vồn vã cầm tay mời
vào nhà. Thấy Trọng Túy vồn vã như thế, Tử Tài khựng lại, chẳng nói được lời
nào. Ðưa mắt nhìn ra vườn, Tử Tài thấy nửa mẫu đất hoang của mình khi trước,
nay đã biến thành một vườn cúc tuyệt đẹp. Trừ một miếng đất nhỏ được dùng để
dựng chòi canh, còn các chỗ đất khác đều được trồng cúc.
Trọng Túy dẫn Tử Tài ra coi vườn cúc. Nhìn kỹ các
cây cúc trong vườn, Tử Tài thấy toàn là những cây mà mình đã nhổ vứt đi! Sau
khi dẫn Tử Tài đi coi những giò cúc mà mình mới trồng hồi sáng, Trọng Túy chắp
tay nói: "Vì nhà đệ nghèo nên đệ phải xoay qua nghề bán cúc. Sáng nay đệ
bán liền tay, cũng kiếm được chút ít, đủ để mời túc hạ lưu lại say sưa với đệ
một bữa!" Thấy Trọng Túy vồn vã tiếp đãi mình như thế, Tử Tài chẳng nỡ
chối từ. Trọng Túy bèn vào nhà lấy bàn ghế đem ra vườn đặt cạnh luống cúc, rồi
trở vào lấy rượu và chén đũa đem ra. Chợt Tử Tài nghe thấy tiếng Hoàng Anh từ
trong nhà gọi: "Tam đệ!" rồi thấy Trọng Túy chạy vụt vào nhà. Lát
sau, Tử Tài thấy Trọng Túy bưng ra bốn đĩa thức ăn, đặt lên bàn, chắp tay nói:
"Mấy món này đều do gia tỉ nấu. Xin mời túc hạ hãy cùng đệ nâng chén!"
Tử Tài đành ngồi vào bàn yến ẩm với Trọng Túy song chẳng nói một lời nào. Lát
sau, đột nhiên Tử Tài lên tiếng hỏi: "Sao lệnh tỉ chưa xuất giá?"
Trọng Túy đáp: "Vì chưa tới lúc!" Hỏi: "Bao giờ mới tới
lúc?" Ðáp: "43 tháng nữa!" Hỏi: "Sao túc hạ biết?"
Trọng Túy mỉm cười, chẳng đáp, chỉ nâng chén mời Tử Tài. Thấy Tử Tài chưa cạn
chén đã say, Trọng Túy bèn dìu về nhà.
Sáng sau, Tử Tài lại sang thăm vườn cúc của Trọng
Túy. Thấy những giò cúc Trọng Túy mới trồng sáng qua, sáng nay đã cao đầy
thước, Tử Tài ngạc nhiên lắm, nói: "Túc hạ chỉ cho đệ thuật trồng cúc mọc
nhanh như thế này đi!" Trọng Túy đáp: "Thuật này chỉ dùng để chóng có
cúc thường mà bán thôi chứ chẳng thể dùng để có cúc đẹp mà thưởng ngoạn được!
Túc hạ đã chẳng muốn làm nghề bán cúc thì học thuật này làm chi?" Tử Tài
bèn thôi không hỏi nữa.
Ðầu tháng chín, khi khách mua hoa đã vãn, Trọng Túy
bèn gói những giò cúc dư vào bao cói mỏng, buộc thành bó, chất đầy một xe, rồi
từ biệt chị và vợ chồng Tử Tài, đem xuống miền nam bán.
Nửa năm sau, vào độ cuối xuân, Trọng Túy lại đem từ
miền nam về Thuận Thiên nhiều giống cúc lạ. Tới chợ huyện, Trọng Túy dừng chân,
dựng một quán bán cúc. Mười ngày sau, bán hết cúc, Trọng Túy về nhà. Thế rồi,
Trọng Túy lại bắt đầu trồng tỉa chăm sóc đợt cúc mới.
Tới mùa thu, cúc nở hoa, thiên hạ lại nô nức kéo
nhau tới khu vườn của Trọng Túy để mua cúc. Nhiều người năm ngoái đã mua song
vì không biết cách chăm sóc, để cúc chết, nên năm nay lại tới mua. Bán được
nhiều cúc, Trọng Túy trở thành giàu có.
Năm sau, Trọng Túy để dành đủ tiền, bèn xin mua đứt
dãy nhà với khu vườn phía nam. Tử Tài bằng lòng bán, rồi thuê người rào kín
ranh giới hai khu nam bắc. Trọng Túy mua xong, thuê thợ nới rộng dãy nhà cũ ra,
phá hết khu vườn cũ đi để xây biệt thự. Rồi đem tiền đi mua một khu vườn mới
rộng rãi hơn, xây tường kín vây quanh, trồng cúc ở bên trong. Lại nuôi nhiều
gia nhân để trồng tỉa cúc và giúp việc nhà.
Năm sau. Một hôm Trọng Túy nhẩm tính thời gian thì
thấy hai chị em mình đã tới Thuận Thiên cư ngụ được hơn hai năm. Tới mùa thu, sau
khi bán cúc cho dân chúng trong vùng, Trọng Túy lại chở cúc dư xuống miền nam
bán. Trọng Túy vừa đi được ít lâu thì ở nhà, Lã thị bị bạo bệnh mà qua đời. Sau
khi làm tang lễ cho vợ, Tử Tài thấy mình cô đơn nên nghĩ đến chuyện nhờ bà mối
tới ướm ý Hoàng Anh xem có chịu làm vợ kế mình không. Bà mối tới hỏi thì Hoàng
Anh mỉm cười, đáp rằng phải chờ hỏi ý kiến của em trai đã.
Hết mùa xuân, Trọng Túy vẫn chưa về. Hoàng Anh phải
đứng ra đốc thúc gia nhân trồng tỉa, chăm sóc cúc theo đúng cách thức cũ của
em. Tới mùa thu, Trọng Túy cũng vẫn chưa về. Hoàng Anh lại phải đứng ra bán
cúc. Thấy tiền thu vào nhiều quá, Hoàng Anh liền đem đi mua thêm hai chục mẫu
vườn ở ngoài thôn để trồng cúc. Thấy tiền vẫn còn dư, Hoàng Anh lại đem ra tu
bổ cửa nhà cho thêm phần khang trang, tiện lợi.
Nửa năm sau. Một hôm có khách buôn từ Kim Lăng lên
Thuận Thiên có việc, tìm đến nhà Tử Tài, trao cho Tử Tài một lá thư. Tử Tài mời
khách vào nhà ngồi dùng trà rồi mở lá thư ra coi thì thấy là lá thư của Trọng
Túy hỏi thăm mọi chuyện trong gia đình mình. Cuối thư Trọng Túy viết: "Xin
túc hạ cho tiện tỉ được coi lá thư này!" Rồi Trọng Túy lại viết:
"Thân gửi chị Hoàng Anh: Em nghe tin Lã tẩu đã qua đời. Em nghĩ Mã huynh
cô đơn, thế nào cũng hỏi chị làm kế thất. Nếu Mã huynh có hỏi, em khuyên chị
nên ưng thuận!" Coi xong, Tử Tài gấp lá thư cất vào túi rồi hỏi khách:
"Ðào lang nhờ tôn ông chuyển lá thư này từ bao giờ?" Khách
đáp:"Từ năm ngoái, song vì bỉ nhân bận việc, phải ghé nhiều nơi, nên năm
nay mới tới đây được!" Tử Tài nhẩm tính thời gian thì thấy Trọng Túy đã
viết lá thư từ hồi vợ mình mới mất, tính ra cũng đã trên một năm. Nếu tính từ
ngày mình ngồi đối ẩm với Trọng Túy trong vườn thì vừa tròn 42 tháng.
Lát sau, khách cáo biệt. Tử Tài cám ơn rồi đứng dậy
tiễn khách ra cổng. Khách đi rồi, Tử Tài vội chạy sang nhà Hoàng Anh, đưa lá
thư cho coi. Chờ cho Hoàng Anh coi xong, Tử Tài mới hỏi:"Hôm nọ bỉ nhân có
nhờ bà mối tới đây thưa chuyện cùng nương tử thì nương tử trả lời là còn chờ
hỏi ý lệnh đệ. Nay lệnh đệ đã đưa ý như ở trong thư thì phải chăng nương tử sẽ
thuận theo lời khuyên của lệnh đệ?" Hoàng Anh mỉm cười gật đầu. Tử Tài bèn
hỏi: "Thế thì bao giờ nương tử sẽ cho bỉ nhân làm lễ nghênh hôn?"
Hoàng Anh đáp: "Tháng tới" Hỏi: "Nương tử muốn lấy sính lễ như
thế nào?" Ðáp: "Thiếp không lấy sính lễ!" Rồi tiếp: "Nhà
lang quân cũ kỹ tồi tàn quá! Sau ngày cưới, lang quân nên dọn sang nhà thiếp mà
ở! Lang quân cứ coi như mình đi ở rể vậy, có sao đâu?" Tử Tài lắc đầu,
nói:"Ðàn ông đi cưới vợ thì phải đón vợ về nhà mình chứ chẳng thể tới nhà
vợ ở rể được!" Hoàng Anh im lặng, chẳng nói chi thêm.
Tháng sau, Tử Tài chọn ngày lành giờ tốt để làm lễ
nghênh hôn. Sau ngày cưới, Hoàng Anh thuê thợ trổ một cổng xuyên qua hàng rào
để hai nhà thông nhau.
Cưới Hoàng Anh về rồi, Tử Tài lại đâm ra ngượng
ngập, cứ sợ thiên hạ cười mình là cưới vợ giàu để nhờ vả. Vì thế, Tử Tài cứ căn
dặn vợ là phải làm sổ sách chi thu riêng biệt cho mỗi ngôi nhà. Hoàng Anh cười
mà vâng lời. Vì nhà Tử Tài nghèo quá, Hoàng Anh thường phải về nhà mình lấy đồ
gia dụng đem sang. Thế nhưng, hễ Tử Tài thấy có vật gì mới lạ ở trong nhà thì
lại bắt gia nhân phải đem trả lại nhà vợ, cấm không được lấy sang nữa. Song le,
vì nhà Tử Tài thiếu nhiều thứ quá nên chỉ một tuần sau, đâu lại vào đấy. Cuối
cùng Tử Tài cũng đành bó tay. Thấy thế, Hoàng Anh cười, nói: "Có ai liêm
khiết mà không bị mệt sức đâu!" Tử Tài ngượng lắm song chẳng biết cãi ra
sao. Thế rồi Tử Tài buông xuôi, để mặc cho vợ muốn làm chi thì làm. Hoàng Anh
được thể, thuê thợ phá hết hàng rào ngăn cách hai ngôi nhà, sửa lại ngôi nhà cũ
của chồng rồi nối liền hai ngôi nhà làm một.
Hàng ngày, Hoàng Anh vẫn ghé về nhà mình, đốc thúc
gia nhân trồng tỉa, chăm sóc cúc. Vì bán cúc được nhiều tiền, hai vợ chồng chỉ
ngồi hưởng thụ, chi tiêu còn rộng rãi hơn cả các thế gia trong vùng. Thấy thế,
Tử Tài áy náy lắm, đứng ngồi chẳng yên. Một hôm Tử Tài hỏi vợ: "Nàng vẫn
còn ham làm giàu để làm chi?" Hoàng Anh đáp: "Thiếp có ham làm giàu
đâu? Thiếp chỉ muốn kiếm đủ tiền cho lang quân được sống sung túc thôi!"
Tử Tài nói: "Ta đâu có cần được sống sung túc?" Hoàng Anh nói:
"Nếu lang quân không được sống sung túc thì sẽ bị đời sau chê cười!"
Tử Tài hỏi: "Sao lại bị đời sau chê cười?" Hoàng Anh đáp: "Vì
đời sau, thế nào chẳng có kẻ cười rằng đời trước có một người mê hoa cúc đến độ
nhà đang khá giả mà hóa ra lụn bại!" Tử Tài nói: "Suốt ba mươi năm
qua, ta là một người đàn ông khí phách, nay vì lụy nàng mà phải chiều theo ý nữ
nhân! Miếng cơm manh áo cũng phải nhờ vào nữ nhân, thực chẳng còn chút khí
phách nào của kẻ trượng phu! Người ta ai cũng mong được giàu song riêng ta thì
lại chỉ mong được nghèo thôi!" Hoàng Anh cười, nói: "Nghèo mà mong
giàu thì mới khó chứ giàu mà mong nghèo thì dễ lắm. Cứ đem hết tiền trong nhà
ném ra ngoài đường là sẽ được nghèo ngay. Lang quân cứ ném hết đi, thiếp chẳng
tiếc đâu!" Tử Tài nói: "Thế nhưng phung phí tiền do người khác làm ra
thì lại là kẻ vô liêm sỉ!" Hoàng Anh cười, nói: "Ðã thế thì thiếp
thấy chúng mình khó lòng mà chung sống với nhau được. Lang quân thì chẳng mong
giàu mà thiếp thì lại chẳng mong nghèo. Nếu chẳng thỏa thuận được với nhau thì
chúng mình nên ở riêng ra, ai trong sạch cứ việc trong sạch, ai đục bẩn cứ việc
đục bẩn, có trở ngại chi đâu?" Tử Tài đành im lặng. Thấy chồng chịu thua
mình, Hoàng Anh cũng thương hại nên chiều ý chồng, đóng cổng vườn cúc, chẳng
làm nghề bán cúc nữa.
Hoàng Anh bèn thuê thợ cất một túp lều tranh ở vườn
sau rồi bảo chồng dọn ra đó mà ở. Tử Tài thích lắm, vội dọn ra ngay. Hoàng Anh
liền chọn hai tì nữ xinh đẹp sai ra lều tranh ở để hầu hạ chồng. Ðược ba ngày,
Tử Tài nhớ vợ, bèn sai tì nữ vào nhà gọi vợ ra lều tranh ở với mình. Hoàng Anh
nhất định không chịu ra. Vì thế, cứ ban đêm thì Tử Tài vào nhà ở với vợ rồi ban
ngày thì lại ra lều tranh ở một mình. Lâu rồi thành lệ.
Tháng sau. Một hôm Hoàng Anh cười, nói với chồng:
"Ăn đông, nằm tây, có người quân tử liêm khiết nào mà cư xử như vậy
chăng?" Tử Tài đuối lý, chẳng biết đối đáp ra sao. Suy đi nghĩ lại, Tử Tài
cũng tự thấy là mình gàn nên lại dọn vào nhà ở với vợ như trước.
Mấy tháng sau. Tới mùa thu, hoa cúc lại nở.
Một hôm, Tử Tài có việc phải xuống Kim lăng. Tới
nơi, thuê quán trọ để ngủ. Sáng sau, thu xếp xong công việc, Tử Tài ra chợ coi
hoa thì thấy ở chợ có rất nhiều quán, bán đủ mọi loại hoa. Thấy có một quán bán
toàn hoa cúc, Tử Tài bèn ghé coi. Thấy có nhiều giò cúc to, đẹp, giống như
những giò cúc mà Trọng Túy vẫn bán trước kia, Tử Tài bèn vào quán nói với người
bán cúc: "Xin cho gặp chủ nhân" Người bán cúc mời Tử Tài ngồi, rồi
chạy vào nhà trong báo cho chủ nhân hay. Khi chủ nhân bước ra quán thì Tử Tài
nhận ra là Trọng Túy. Tử Tài mừng quá, vội chạy tới nắm lấy tay Trọng Túy, hỏi
chuyện ở Kim Lăng. Trọng Túy trả lời rồi hỏi lại chuyện ở Thuận Thiên. Tử Tài
cũng trả lời rồi thuật chuyện mình kết duyên với Hoàng Anh. Nghe xong, Trọng
Túy giữ Tử Tài ở lại quán cúc. Tối ấy, sau khi cơm nước, hai người ngồi đàm
đạo. Tử Tài nói: "Bây giờ ngu huynh với lệnh tỉ đã thành gia thất, hiền đệ
hãy về Thuận Thiên mà cư ngụ với vợ chồng ngu huynh" Trọng Túy lắc đầu rồi
rút ra một gói tiền, nói: "Quê tiểu đệ vốn ở đất Kim Lăng này mà tiểu đệ lại
đang làm ăn khá giả nên chẳng thể di cư đi nơi khác được. Vả lại tiểu đệ cũng
sắp cưới vợ ở đây rồi! Tuy nhiên, cuối năm nay, tiểu đệ có việc phải lên Thuận
Thiên và phải tiêu pha một món tiền ở trên ấy. Vì thế, tiểu đệ muốn nhờ đại ca
cầm món tiền này về đưa cho gia tỉ, bảo cất đi giùm để cuối năm tiểu đệ lên
trên ấy, sẽ tới xin lại!" Tử Tài từ chối, nói:"Chắc là hiền đệ sợ gia
đình ngu huynh nghèo nên muốn giúp đỡ món tiền này chứ gì? Ngu huynh chẳng nhận
đâu!" Trọng Túy đành nói:"Thú thực với đại ca, trong hai năm qua tiểu
đệ mở quán bán cúc ở đây, phát tài lắm. Bây giờ tiểu đệ rất giàu, có thể nghỉ
bán cúc mà vẫn đủ tiền chi tiêu tới già. Ðây là món tiền tiểu đệ vẫn dành riêng
để biếu gia tỉ khi xuất giá" Tử Tài nhất định từ chối.
Sáng sau, Tử Tài từ biệt Trọng Túy, ra về.
Tử Tài vừa đi thì đột nhiên Trọng Túy đổi ý, muốn
lên Thuận Thiên cư ngụ gần chị. Trọng Túy liền hạ giá cúc để bán cho mau hết.
Vì giá rẻ, chỉ một tuần sau, Trọng Túy đã bán hết cúc. Trọng Túy bèn trả lại
quán cho chủ, trả tiền công hậu hĩ cho gia nhân rồi cho gia nhân nghỉ việc. Sau
đó, Trọng Túy thu xếp hành trang, thuê riêng một chiếc thuyền lên Hà Bắc, tới
Thuận Thiên.
Tới nhà Tử Tài, Trọng Túy thấy chị đã dành riêng
cho mình ngôi biệt thự mới, tựa hồ như biết trước là mình sắp về. Vào phòng
ngủ, Trọng Túy thấy có giường đệm, chăn gối mới tinh. Sau khi cởi bỏ hành
trang, Trọng Túy vội chạy ngay ra mở cổng vườn cúc, vào coi hoa.
Hôm sau, Trọng Túy sai gia nhân tới vườn trồng tỉa
chăm sóc cúc, giống hệt như mấy năm về trước. Tuy nhiên, bây giờ Trọng Túy chỉ
muốn có hoa cúc đẹp để thưởng ngoạn thôi chứ chẳng còn muốn có hoa cúc thường
để bán nữa. Ngoài việc chăm sóc cúc để có hoa thưởng ngoạn, Trọng Túy chẳng làm
ăn chi cả, chỉ sai gia nhân đi mời Tử Tài sang đấu cờ với mình suốt ngày. Vì Tử
Tài ít uống rượu nên Trọng Túy thường uống một mình. Trọng Túy uống rượu hào
lắm, chưa say bao giờ.
Hoàng Anh muốn kén vợ cho Trọng Túy song Trọng Túy
từ chối, nói rằng mình chỉ thích sống độc thân. Hoàng Anh bèn sai hai tì nữ
sang ở biệt thự để hầu hạ Trọng Túy. Bốn năm sau, một tì nữ hoài thai với Trọng
Túy, sanh được một bé gái, đặt tên là Tiểu Cúc.
Tử Tài có một người bạn họ Tăng, tên Sính, tửu
lượng rất cao, trong vùng chưa có đối thủ. Một hôm, Tăng Sính ghé thăm Tử Tài.
Tử Tài liền sai gia nhân đi mời Trọng Túy sang uống rượu. Khi Trọng Túy sang,
Tử Tài giới thiệu hai người với nhau rồi đề nghị hai người uống thi. Ðôi bên
cùng hoan hỉ nhận lời. Uống thi từ sáng tới tối, Tử Tài thấy mỗi người đã uống
hết trên trăm chén. Hai người cùng phục tửu lượng của nhau, rồi cứ tiếc rằng
chẳng được gặp nhau sớm hơn. Tăng Sính say khướt, nằm lăn ra ngủ, còn Trọng Túy
cũng say mèm, đứng dậy trở về biệt thự. Tử Tài sợ Trọng Túy say quá, một mình
chẳng về được nên theo sau để phòng khi cần dìu dắt.
Từ trong nhà Tử Tài, Trọng Túy bước ra tới vườn thì
lảo đảo, dẫm bừa lên luống cúc rồi cởi chiếc áo choàng ném xuống đất, nằm vật
xuống cạnh chiếc áo mà ngủ. Vừa chạm mình xuống đất, đột nhiên Trọng Túy biến
thành một cây cúc cao bằng đầu người, trên cành có mười mấy đóa hoa to bằng nắm
tay. Tử Tài kinh hãi quá, vội chạy vào nhà báo cho vợ biết. Hoàng Anh vội chạy
ra vườn, nhổ cây cúc, đặt nằm trên luống, rồi lấy chiếc áo phủ lên mà
trách:"Sao hiền đệ lại uống say đến thế?" Trách xong, Hoàng Anh nắm
tay chồng dắt vào nhà, dặn: "Từ giờ tới sáng mai, lang quân chớ có ra đây
nhìn cây cúc này! Lang quân mà ra nhìn thì nguy hiểm cho tính mạng của Túy đệ
lắm!" Tử Tài gật đầu.
Nhớ lời vợ dặn, hôm sau Tử Tài phải chờ tới giữa
trưa mới dám ra vườn để coi xem cây cúc tối qua có biến hóa gì không. Ra tới
nơi thì thấy cây cúc đã biến trở lại thành Trọng Túy, đang nằm đắp chiếc áo
choàng mà ngủ trên luống cúc. Lúc đó Tử Tài mới hiểu rằng hai chị em Trọng Túy
đều là thần hoa cúc. Từ đó, Tử Tài lại càng yêu thương, kính trọng hai chị em
hơn.
Từ lúc Trọng Túy để lộ hình tích cho Tử Tài biết
chị em mình là thần hoa cúc thì Trọng Túy chẳng còn giữ gìn gì nữa, cứ uống
rượu liên miên. Trọng Túy tự tay ngâm một vò rượu thuốc lớn để uống dần.
Một hôm Trọng Túy viết thiếp, sai tì nữ đem đi mời
Tăng Sính tới vườn nhà mình uống rượu, rồi sai gia nhân đem bàn ghế ra bày cạnh
luống cúc, khiêng vò rượu thuốc ra đặt ở cạnh bàn. Khi Tăng Sính tới, Trọng Túy
dẫn ra vườn rồi sai gia nhân bưng đồ nhắm ra. Trọng Túy mời Tăng Sính nhập
tiệc, hẹn rằng hai người phải cùng nhau uống hết vò rượu mới thôi. Tăng Sính
cười rồi gật đầu ưng thuận. Gia nhân bèn chạy đi báo cho Tử Tài hay. Tử Tài
liền ra vườn để rình xem tửu lượng của hai người tới đâu. Khi thấy vò rượu sắp
cạn mà hai người còn tỉnh, Tử Tài sai gia nhân vào nhà lấy thêm rượu ra, lén
rót vào vò. Hai người cứ tiếp tục uống. Khi vò đã cạn, Tăng Sính say quá, gục
đầu xuống bàn mà ngủ. Tử Tài bèn sai hai gia nhân thay phiên nhau cõng Tăng
Sính về nhà. Trọng Túy cũng say, lại cởi chiếc áo choàng ném xuống đất rồi lại
nằm lăn xuống luống mà ngủ. Ðột nhiên, Trọng Túy lại biến thành cây cúc. Vì đã
được thấy Trọng Túy biến hóa như thế một lần nên lần này, Tử Tài chẳng sợ nữa,
cứ bắt chước vợ mà nhổ cây cúc, đặt nằm trên luống, rồi lấy chiếc áo phủ lên.
Tử Tài đứng cạnh để chờ xem cây cúc biến trở lại thành Trọng Túy như thế nào?
Thế nhưng lần này, Tử Tài chỉ thấy lá cúc héo dần. Kinh hãi quá, Tử Tài vội
chạy vào nhà thuật lại cho vợ nghe. Hoàng Anh tái mặt, thốt lên:"Lang quân
đã giết chết bào đệ của thiếp rồi!" Thốt xong, Hoàng Anh vùng chạy ra
vườn. Tử Tài cũng vội chạy ra theo. Tới nơi, Tử Tài thấy gốc rễ cây cúc đã héo
khô. Hoàng Anh đau khổ lắm, bẻ một cành còn tươi, cắm vào một chậu đất sẵn có ở
trong vườn, rồi tưới nước, bưng về trưng trong phòng mình. Tử Tài theo vợ về
phòng, trong lòng hối hận là đã giết chết Trọng Túy. Suy nghĩ miên man, Tử Tài
đâm ra oán hận Tăng Sính.
Hôm sau, Tử Tài toan sang nhà Tăng Sính để trách
mắng thì nghe tin Tăng Sính đã chết vì cơn say rượu bữa trước ở vườn cúc nhà
Trọng Túy.
Hàng ngày, Hoàng Anh tưới nước cho cành cúc trong
phòng mình. Ít lâu sau, cành cúc bén rễ rồi sinh ra nhiều nhánh nhỏ. Chín tháng
sau, cành cúc nở hoa. Hoàng Anh chiết các nhánh nhỏ đem trồng thì các nhánh này
lại sinh ra một giống cúc mới, thân thấp lè tè, cánh hoa có phấn, tỏa ra một
mùi thơm tựa như mùi rượu. Vì thế, về sau giống cúc này được gọi là Túy Ðào Cúc
(Cúc Ðào Say). Nếu được tưới bằng rượu thì giống cúc này nở đầy hoa rất đẹp.
Từ đó, trong nhà Tử Tài chẳng còn chuyện gì lạ xảy
ra nữa. Hoàng Anh sống rất hạnh phúc bên chồng.
Mười lăm năm sau. Con gái của Trọng Túy là Tiểu Cúc
đã tới tuần cập kê. Hoàng Anh bèn đem gả cho con trai của một thế gia trong
vùng.
CHUYỆN Ở ĐẢO
THẦN TIÊN
Chịu trách nhiệm xuất bản:
BÙI CAO TIÊU
Biên tập: NGUYỄN
CẨM HƯƠNG
Sửa bản in: GIANG MINH TRƯỞNG
Trình bày bìa: SONG THÀNH
In 1.200
cuốn khổ 13x19cm, tại Xưởng in NXBGTVT
Số trích
ngang xuất bản: 377-2009/CXB/27-53/ThaH,
In xong
và nộp lưu chiểu Quý II năm 2010
.............................................................................................................
- Cập
nhật theo bản lưu trữ tại tại Công ty TNHH Văn Hóa Bảo Thắng.
- Vui
lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét