Truyện ma - truyện liêu trai: BÍ ẨN TRONG KHÁCH SẠN THỦY TIÊN - Nhiều Tác Giả

Leave a Comment

 

BÍ ẨN TRONG KHÁCH SẠN

THỦY TIÊN

*

HỒN AI DƯỚI MỘ

(Tác giả: Người Khăn Trắng)

 

Bọn họ gồm bốn người: Hà, Hạnh, Tuyết và Hữu, nhân vật nam duy nhất trong nhóm.

Họ được lời mời của Thiện, bạn cùng khóa, lại là người có quê ở Thủ Dầu Một. Các bạn cứ đi xe đò về tới khỏi chợ Búng 200 mét, thấy cây dầu lớn đầu tiên thì dừng lại, xuống xe đứng đó đợi, mình sẽ ra đón, lúc 2 giờ chiều nhé.

Thiện là người đúng nguyên tắc, trọng giờ giấc và lời hẹn, nên bọn bốn người cố tranh thủ đi đúng giờ. Từ Sài Gòn lên cũng không xa lắm, vả lại đường quá quen thuộc, bởi họ thường cùng nhau đi vườn trái cây Lái Thiêu gần đó nhiều lần, nên lúc kém 10 phút 3 giờ thì cả bọn đã đến nơi. Hà là cô bạn vui tính nhất bọn, nói đùa: - Nếu chút nữa mà ông Thiện cho bọn này leo cây thì bắt ông Hữu này bao cả bọn một chầu bánh bèo bì xứ Búng nhé!

Hạnh lên tiếng phản đối: - Sao ông Thiện lỡ hẹn mà lại bắt Hữu phải gánh chịu?   

Hà, Tuyết đều cười to:

- Coi người ta bênh nhau kia!

Ai cũng biết Hạnh và Hữu yêu nhau, nên có dịp là họ trêu chọc. Chỉ có Hữu là xởi lởi: - Được rồi, bao ăn cho bể bụng luôn, lúc gặp Thiện bắt đền nó chớ lo gì!

Nhưng họ không phải chờ lâu, Thiện đã xuất hiện như cái máy thời gian. Anh chàng cười thân thiện: - Mình đoán các cậu thế nào cũng đúng giờ, nên đã chuẩn bị đủ thứ ở nhà rồi mới ra đây đón các bạn. Nào, bây giờ ta cuốc bộ một đoạn cho giãn gân nhé!

Hà kêu lên:

- Phải đi bộ với đôi giày mới cáu thế này sao?

Hữu trêu chọc lại:

- Hà tiểu thư nghe nói về quê Thiện nên đã sắm ngay đôi giày xịn, cưng như cưng trứng từ sáng đến giờ đó nghe!

Vừa đi bộ vừa đùa giỡn như thế nên chỉ khoảng 15 phút sau cả bọn đã đến nhà Thiện, một ngôi nhà ngói xưa với chung quanh là vườn cây ăn trái khá rộng. Bà mẹ của Thiện đã gần 70, chỉ có Thiện là con trai nên rất quý bạn bè của con, bởi vậy khi nhìn thấy một đám đông gồm đủ trai, gái về chơi, bà mừng lắm, cứ nắm lấy tay hết đứa này đến đứa kia vồn vã:

- Tụi con về chơi má mừng lắm. Sao lâu nay không thấy đứa nào về hết? Đứa nào là thằng Hữu, má nghe thằng Thiện nhắc hoài?

- Dạ, con đây má. Nhưng hình như thằng Thiện còn nhắc ai khác nhiều hơn, chớ đâu phải con?

Tuyết đã chủ động nắm tay Hà kéo tới trước mặt bà mẹ: - Đây mới là người phải ra mắt má. Làm lễ đi tân nương!

Hà thẹn đỏ mặt, khác xa với sự lém lỉnh lúc nãy. Được dịp cả bọn còn trêu dữ hơn:

- Con dâu tương lai của má đó! Coi, con nhỏ không biết lễ phép gì hết sao chưa ra mắt mẹ chồng?

Thiện cũng phát quýnh: - Má, đây là....

Cũng may là bà già rất tâm lý:

- Tụi con làm quá con gái cưng của má ngượng. Được rồi, con dâu của má đâu? Lại đây má coi nào.

Bà nắm tay Hà kéo lại bộ ván gõ gần đó, ngồi xuống, bà kéo Hà ngồi cùng:

- Con đừng ngại, tụi nó chọc làm con run, nhưng má còn run hơn, bởi lâu nay má chờ hoài mà có nghe thằng Thiện nói gì đến chuyện vợ con đâu...
Thật sự tự dưng trong lòng Hà rộn lên cảm xúc lạ thường. Đời con gái mấy ai không rung động trước tình huống này... Nhất là từ lâu nay tình yêu mà cô và Thiện dành cho nhau chỉ giữ riêng cho hai người, chưa dám công khai với ai trong gia đình hai bên.

Hữu phá tan bầu không khí: - Tối nay ta bắt hai cô cậu làm lễ ra mắt cho ra trò đấy nhé!

Tiếng cười rộn rã trong gian nhà rộng mà bấy lâu nay vốn dĩ âm thầm, lặng lẽ, người vui nhất có lẽ là bà mẹ già, bởi vậy bà Tám hối con:

- Thiện, con biểu đứa nào đó lo dọn cơm ngay, chắc tụi nó đói lắm rồi. Nấu thêm nồi cháo gà nữa.

- Dạ, xong rồi má.

Bà Tám mắng yêu con trai:

- Tao biết là mày đã lo từ hồi giữa trưa lận. Chính nó làm cá, làm gà, đặc biệt là món cá lóc hấp, nó nói là các con thích lắm.

Hạnh nói to: - Đó là sở thích của chỉ một người thôi má ơi, đó là con dâu tương lai của má đó!

- Ủa, té ra con thích ăn cá hấp?

Hà ngượng nghịu thấy mà tội:

- Dạ, con... Con thích...

Thiện cứu bồ:

- Hà khoái cá lóc hấp nên con có hứa, lúc nào về đây con sẽ đãi món đó. Nào, bây giờ mình xuống ăn kẻo nguội hết.

Cả bọn kéo xuống nhà sau, Tuyết đi gần Hà trêu chọc: - Còn bị chọc nữa, cho chừa!

Tuổi sôi nổi, đùa đó, quên đó, rồi chuyển sang đề tài khác. Suốt bữa ăn họ cười nói, chọc ghẹo nhau đủ thứ chuyện. Thấy vui với cảnh đó, bà Tám dặn Thiện:

- Con nhớ tối nay cho bạn con ăn thêm món gì đó cho ngon, má đã dành sẵn hơn 10 con gà cho tụi con tha hồ mà nấu nướng. Trái cây thì đầy vườn, muốn ăn gì cứ hái, đứa nào không leo cây được thì bắt thằng Thiện nó leo hái cho ăn.

Trăng bắt đầu lên sau rặng tre. Hữu là người hăng hái nhất:

- Chờ chút nữa cho trăng sáng, mình nấu cháo gà bày ra gốc nhãn vừa ăn vừa thi kể chuyện, ai thua phải uống!

Mấy cô gái phản đối:

- Ai dám uống ba thứ cay xè đó mà đố!

- Uống rượu không được thì ăn. Hễ ai thua thì một là uống một ly, hai là phải ăn một chén cháo!

Qua phân công của Thiện đi bắt gà, Hữu chuẩn bị bếp dã chiến dưới gốc nhãn, còn ba cô gái thì lo làm gà, nấu cháo và dọn ăn. Vào khoảng gần 10 giờ đêm thì mọi thứ cơ bản đã xong. Hà được cử đi mời mẹ chồng, nhưng lát sau cô trở ra cho biết bà Tám mệt nên không thức khuya được, có nhắn là cả bọn cứ vui chơi thoải mái, nhưng đừng uống nhiều rượu.

Trong lúc chờ cháo sôi, Hữu gợi ý:

- Hôm nay mình thi kể chuyện tiếu lâm, mấy bà dám tham gia không?

Hạnh và Tuyết xua tay quyết liệt:

- Thôi đi cha, ghê thấy mồ! Kể chuyện vui thôi!

- Thì chuyện vui mang chất tiếu lâm, có như thế mới lý thú chớ! Chỉ có điều là cấm “Tiếu lâm nặng”.

Hà cũng lắc dầu: - Ai mà cản được mấy ông quá đà, thôi đổi đề tài đi!

Chợt Thiện đưa ý kiến:

- Mình có chuyện này, đố ai làm được thì được cả bọn gọi bằng anh, bằng chị. Chỉ tiếc là...

Anh hơi do dự. Hữu chen vào:

- Còn điều kiện gì nữa?

Thiện nhìn ba bạn gái, ái ngại:

- Phải có thêm vài nam nữa thì vui hơn. Nữ e rằng hơi khó.

- Sao lại khó, bộ mấy ông chê bọn này hả, phân biệt đối xử hả?

Đó là phản ứng của Hạnh. Thiện phải nói rõ:

- Đây là cuộc đánh cược đòi hỏi phải có thần kinh thép và cả sức lực nữa, đó phải là nam giới, chớ nữ thì e không xong. Ở đây chỉ có mỗi mình với Hữu, nên không hứng thú lắm, nhất là sợ Hữu không đủ can đảm…

Chưa biết nội dung thi ra sao, nhưng bị chê, nên Hữu sung lên:

- Không sao! Có hai người cũng chơi, để mấy cô làm trọng tài!

Thiện hơi ngập ngừng, nhưng rồi cuối cùng cũng nói về cuộc chơi:

- Cách chỗ mình ngồi khoảng 500 mét là nghĩa địa của làng, nơi đó có nhiều mồ mả, đặc biệt là ngôi mộ bằng đá đỏ lâu đời, được tiếng là có nhiều chuyện bí ẩn, thiên hạ đồn rằng: Đêm đêm thường có ánh sáng lập lòe từ mộ bốc lên, kể cả những tiếng kêu, rú lạ lùng cũng từ phía đó... Ở xứ này từ lâu có lệ đố nếu ai có can đảm vào nửa đêm đến đó rồi quay trở về sẽ được thưởng lớn. Đêm nay mình vừa ra thách đố lại cũng sẵn sàng tham gia nếu không có ai nhập cuộc.

Các cô vừa nghe xong đã thè lưỡi, kêu lên:

- Thôi, ghê lắm, đừng chơi dại!

Nhưng Hữu thì lại khác, anh chàng bình tĩnh lên tiếng:

- Mình thích cuộc chơi cảm giác mạnh như thế này. Mình nhận lời!

Tuyết là người ngăn đầu tiên:

- Không, anh Hữu đừng có điên lên.

Nhưng Hữu đã trấn tỉnh người yêu:

- Có gì đâu mà sợ, như đi dạo ấy mà.

Không cần nghe về giải thưởng nếu thắng cuộc. Hữu đã đứng lên hăng hái:

- Được, cho mình mượn con dao phay và cây đèn pin, mình sẽ đi ngay ra đó.

Mặc cho Tuyết cố ngăn lại, Hữu vẫn băng mình vào trong đêm tối. Chỉ năm phút sau, anh đã ra tới khu đất hoang, có nhiều mồ mả. Trong lúc anh còn soi đèn tìm đúng ngôi mộ mà Thiện nói thì đột nhiên một luồng ánh sáng xanh từ ngôi mộ đá bay vọt lên.

Hữu che mắt lại để tránh luồng sáng, khi mở ra anh giật mình kêu lên: - Cô là ai?

Trước mặt anh, một cô gái mặc y phục toàn trắng, đang đứng dựa người vào mộ bia, mái tóc xõa dài xuống tận lưng đang bay bay theo chiều gió thổi ngược từ sau tới. Nhìn Hữu một lượt rồi cô nàng mới lên tiếng giọng nhỏ nhưng rõ ràng:

- Là chủ ngôi mộ này!

Vốn là người dạn dĩ nhất bọn, tánh lại hay ngang tàng, liều mạng, vậy mà sau khi nghe cô gái nói Hữu vẫn còn chưa tin hẳn anh hỏi lại:

- Cô muốn đùa tôi?

Không đáp, cô ta bước thẳng tới trước mặt Hữu và bất thần lao thẳng vào người anh! Hữu không kịp tránh, nhưng lạ quá khi người cô ta chạm vào Hữu thì anh không hề có cảm giác gì, mà chỉ nghe như có luồng gió thoảng qua.

Còn đang ngơ ngác thì Hữu nghe có tiếng cất lên từ sau lưng: - Anh tin tôi là người cõi âm chưa?

Hữu quay lại thì thấy chính cô nàng đứng cách mình vài bước chân. Lần này giọng nàng gay gắt hơn:

- Anh hăng hái quá mức nên để bị người ta lợi dụng rồi!

Hữu cau mày: - Lợi dụng việc gì? Ai lợi dụng?

- Anh bạn thân thiết của anh chớ còn ai.

- Bạn thân của tôi thì hiện ở đây cũng có đến vài người...

- Thiện!

- Cô quên là Thiện mời chúng tôi về đây. Anh ta là chủ nhà tốt bụng nữa.

Đột nhiên nàng phá lên cười. Tiếng cười như xé màn đêm bay xa theo gió. Rồi chợt chùng xuống:

- Các anh chỉ mới quen thằng Thiện đó vài năm nay thôi, khi anh ta lên học ở thành phố. Chớ thời gian anh ta còn ở chốn quê này có biết anh ta ra sao không?
Câu hỏi cô nàng khiến Hữu lúng túng:

- Đúng là chúng tôi chỉ mới quen Thiện ở thành phố. Nhưng anh ấy tốt bụng, được lòng mọi người...

Cô nàng cười gằn:

- Đặc biệt là tốt bụng với các người đẹp.

Một cách vô tình Hữu nói:

- Đúng như vậy! Hôm nay về đây còn có người yêu của Thiện nữa. Cô ấy yêu Thiện, họ có thể làm đám cưới một ngày gần đây nữa.

- Tôi đang chờ cái đám cưới ấy đây và chờ anh ta nữa! Đồ mặt dày, đồ bội bạc!

Những lời này cô nàng nói vừa nghiến răng, khiến cho

Hữu ngạc nhiên:

- Cô... cô là gì của Thiện?

Nàng chỉ vào bia mộ:

- Anh nhìn xem tôi là gì của anh ta?

Lúc này Hữu mới để ý. Anh đọc được mấy dòng chữ: - Chi Lan, người vợ hiền của tôi, Ngọc Thiện.

Hữu kêu lên:

- Thằng Thiện bạn tôi!

- Làng này chỉ có một người tên Ngọc Thiện mà thôi. Là anh ta đó!

Hữu lẩm bẩm:

- Có lẽ nào…

Nàng nói chậm để Hữu nghe rõ:

- Tôi là người được anh ta yêu hơn năm năm, cho đến khi tôi báo tin là có thai thì anh ta hốt hoảng xúi tôi đi phá cái thai. Tôi quyết liệt từ chối và buộc anh ta phải làm đám cưới. Chẳng còn cách nào khác, nên anh ta chấp nhận. Đám cưới được tổ chức rình rang, nhưng ngay trong đêm động phòng thì anh ta đã hạ thủ: Cho tôi uống một ly nước có chứa chất hủy thai. Tôi uống xong bị thuốc hành, bị băng huyết và chết khi chưa kịp chuyển đến bệnh viện! Để che miệng thế gian, anh ta lập mộ đàng hoàng, nhưng từ ngày tôi chết, anh ta bỏ đi biệt ở Sài Gòn. Gần đây mỗi lần về nghe người ở đây đồn là oan hồn tôi thường hiện về, anh ta sẽ bị báo thù, cho nên vừa rồi anh ta đi nhờ một tay thầy bùa yếm bùa phép vô con dao phay mà anh đang cầm trên tay. Thâm ý của anh ta khi đưa ra lời thách đố khi nãy là muốn mượn tay anh trừ khử tôi, để anh ta rãnh nợ mà cưới vợ mới! Dẫu anh ta thừa biết là khi anh thực hiện việc này anh có thể bị vong mạng!

Hữu tái mặt đưa con dao lên xem. Quả nhiên trên bảng dao có viết những chữ màu đỏ ngoằn ngoèo không thể đọc được, theo kiểu bùa chú mà Hữu từng thấy qua. Giọng anh hơi run:

- Có… có chuyện này sao?

Cô gái buông một tiếng thở dài:

- Lòng dạ đàn ông là thế đó! Tôi đã cho anh ta cả cuộc đời con gái, vậy mà kết cuộc như bây giờ đây...

Nàng bước thẳng tới phần mộ, nói với Hữu:

- Tôi thừa sức báo thù hắn ta và thừa sức để hại anh, nhưng tôi nghĩ lại, thà cứ để hắn ta tiếp tục thủ đoạn của hắn. Vậy anh cứ cắm con dao xuống đầu mộ đi, tôi sẽ vĩnh viễn biến mất!

Hữu bất nhẫn, anh ném con dao xuống dòng sông gần đó, nói như lời thề:

- Tôi không bao giờ làm chuyện vô đạo đức này!

Anh quay bước đi nhanh trở vào nhà. Thiện và các bạn đang đợi bên nồi cháo gà. Vừa thấy anh về Tuyết đã chạy tới, giọng lo lắng:

- Em lo quá...

Riêng Thiện thì quan tâm đặc biệt hơn, anh ta bước tới gần hỏi khẽ:

- Làm đúng như vậy chớ?

Hữu nhìn thẳng vào mắt anh ta, gằn giọng:

- Cô Chi Lan hỏi thăm mày!

Thiện đang tươi rói, chợt sa sầm mặt, rồi run cả người. Hà kêu lên:

- Anh Thiện! Sao vậy?

Hữu vẫn dửng dưng quay đi trong khi Thiện lảo đảo gần ngã xuống đất.

- Đưa nó rời đây ngay đi, sắp có chuyện đó!

Chẳng ai hiểu gì, chỉ biết đưa mắt nhìn nhau và chờ câu nói tiếp của Hữu...

Thiện đã bỏ nhà đi Sài Gòn ngay sáng hôm sau. Hữu kể hết mọi chuyện cho bà mẹ của Thiện nghe, bà rầy la Thiện một trận dữ dội, rồi đích thân bà sắm lễ vật đem ra mộ của Chi Lan cúng vái rất trọng thể. Bà xin linh hồn của cô con dâu tha cho con trai bà.

Phần Thiện thì có lẽ đã biết sợ, biết lỗi, nên từ đó anh lánh xa Hà luôn, không hề tính chuyện cưới xin gì nữa. Có lẽ oan hồn cũng biết thứ tha, nên từ ấy không ai thấy những hiện tượng lạ quanh ngôi mộ của Chi Lan nữa. Ngày ngày bà mẹ chồng đều ra đốt nhang, ngồi trước mộ nàng dâu mà khóc và van vái cho cô siêu thoát.

Những bạn bè của Thiện dần dần biết chuyện, họ thành tâm đi theo Hữu thỉnh thoảng về đốt nhang cho Chi Lan. Trong số này có cả Hà.

Chẳng hề thấy hồn ma làm hại gì Hà cả.

 

SUỐI MÁU

(Tác giả: Người Khăn Trắng)

 

Người thứ nhất bước xuống xe và bước thẳng về con đường mòn dẫn xuống suối. Đó là một nam nhân bận trang phục màu xám sang trọng, đầu đội mũ phớt kiểu Châu Âu. Đặc biệt trên môi ông ta có ngậm chiếc tẩu thuốc đắt tiền đang phì phà khói.

Người thứ hai cũng là nam nhân. Nhưng cách ăn mặc thì khác hẳn. Ông ta bận bộ y phục đặc trưng của người dân tộc thiểu số, với khố và áo bằng thổ cẩm, miệng cũng ngậm tẩu thuốc, nhưng là loại tẩu bằng thân tre dài hơn hai tấc. Loại tẩu thuốc của hầu hết người dân tộc vùng rừng núi hay dùng.

Người thứ ba là một nữ nhân. Đúng hơn đó là một cô gái rất đẹp, mặc chiếc váy màu trắng tinh khiết, nổi bật giữa cây xanh đất đỏ vùng Tây nguyên này.
Cả ba người cùng đi về một hướng, trước sau và chỉ thoáng chốc đã không còn thấy bóng. Bỏ lại sau lưng chiếc xe hơi bóng lộn. Người chứng kiến từ đầu sự việc là một cậu trai mười bảy tuổi tên gọi là A Miên. Cậu mê mẫn ngắm nhìn những người sang trọng kia, đặc biệt là với cô gái đi sau cùng. Đã từ lâu lắm rồi, A Miên chưa hề thấy người con gái thị thành nào đẹp như thế tới đây, nên mê nhìn mà quên cả giỏ cá vừa bắt được dưới suối, đang nhảy ra khỏi giỏ, biến vào bụi rậm!

Chợt Miên kêu khẽ:

- Cô ấy đánh rơi chiếc khăn tay!

Anh chàng thiếu niên tốt bụng vội quên giỏ cá, chạy tới nhặt chiếc khăn lên nhìn ngắm, lạ lẫm...

Chiếc khăn tay màu hồng nhạt thơm lừng mùi nước hoa khiến A Miên phải buột miệng:

- Thơm quá!

Trên một góc khăn có thêu hình đóa lan rừng và một con bướm, cả hai đều cùng một màu tím nhạt, cùng hai chữ L Đ lồng vào nhau, mềm mại, xinh xắn.

Định chạy theo trả lại cho cô gái, nhưng vừa bước được hai bước thì tự dưng A Miên khựng lại. Hương thơm dịu từ chiếc khăn đang làm cho anh chàng chùn bước, lưỡng lự... Cuối cùng thay vì đem trả, Miên lại đút chiếc khăn vào túi áo rồi quay lại chỗ giỏ cá. Hai con cá vừa bắt được đã xổng mất, nhưng chưa kịp tìm thì A Miên đã giật mình khi nhìn lại không còn thấy chiếc xe hơi đâu nữa.

- Mới đây mà?

Lúc nãy A Miên đã quan sát kỹ, chính người đàn ông mặc âu phục màu xám lái xe, hai người kia ngồi, kẻ trước người sau, ngoài ra không còn ai, vậy ai lái xe đi chỉ trong nháy mắt?

Nhìn xuống phía trước, nơi dẫn xuống vực sâu mà đã đôi lần A Miên nghe kể chuyện có vài chiếc xe đã tuột thắng lao xuống đó. Anh chàng còn đang ngẩn ngơ thì bỗng nghe một tiếng rầm vang lên từ phía vực!

- Chiếc xe rơi xuống vực!

Bỏ chiếc giỏ nằm lăn lóc đó, A Miên cắm đầu chạy về nhà. Vừa tới trước hàng rào cổng, cậu ta đã kêu to:

- Tai nạn ba ơi!

Ông A Mạn đang làm cỏ sau vườn, nghe kêu thì ngẩng lên hỏi:

- Gì mà như ma đuổi vậy?

A Miên lắp bắp:

- Xe rơi xuống vực!

Ông Mạn vừa rồi cũng đã nghe tiếng rầm vang lên nên không ngạc nhiên lắm!

- Có ai việc gì không?

A Miên đem mọi chuyện thuật lại và kết luận:

- Cũng may cả ba người trong xe vừa rời khỏi xe đi về phía suối Máu.

- Rồi họ đã biết xe bị tuột xuống vực chưa?

A Miên lắc đầu:

- Lúc con chạy về đây thì chưa thấy họ trở lên. Có cả một cô gái nữa.

Nghe con kể không đầu đuôi thì ông Mạn lắc đầu: - Cái thằng, vẫn cái kiểu kể chuyện tào lao. Đang nói chuyện chiếc xe chưa xong, lại cô gái nào đó nữa...
A Miên, chợt thọc tay vào túi rồi lôi ra chiếc khăn tay thơm phức. Vừa trông thấy, bỗng ông Mạn nhào tới chụp lấy xem ngay.

- Cái... cái này... ở đâu con có?

Miên định giấu, nhưng vốn tính thật thà, nên cậu ta đành nói ra:

- Con nhặt được của một người.

- Của ai?

- Của cô gái đi trên chiếc xe vừa rơi xuống vực.

Vừa rồi khi nghe con trai thuật chuyện có mấy người kinh đi trên xe đi về phía suối, ông Mạn chưa kịp hỏi, giờ ông hỏi kỹ hơn:

- Họ là ai?

Miên đáp:

- Con cũng không biết. Lúc vừa ở suối lên thì con thấy có một người đàn ông bận âu phục, đầu đội mũ phớt, ngậm ống điếu kiểu Tây, một người dân tộc và một cô gái mặc váy đầm trắng. Cô ấy là chủ nhân chiếc khăn tay này.

Bỗng dưng Miên thấy cha mình run rẩy, làm rơi chiếc rựa chặt cây trên tay xuống đất:

- Cha bị sao vậy?

Sắc mặt ông Mạn biến đổi xanh dờn. Ông nói mà như nói với ai đó trong cõi vô hình:

- Không lẽ... họ về sao? Cả Hậu, già làng B’Râu và Tuyết Lan nữa? Họ đó sao?

A Miên phải chụp tay cha, hỏi lại:

- Cha nói ai vậy?

Ông Mạn giờ mới bừng tỉnh, ông vẫn lảm nhảm:

- Nếu thật là họ thì… trời ơi!

Rồi bất thần ông vụt chạy ra cửa trước, nhắm hướng suối Máu mà lao tới.

A Miên không hiểu chuyện gì cũng tức tốc chạy theo. Hai cha con kẻ trước người sau theo con đường cũ lúc nãy mà A Miên đã đi, chạy thật nhanh. Chỉ chưa đầy mười phút sau thì hai cha con tới bên dòng suối, nước đang chảy xiết, bốn bề im ắng, không một bóng người.

Đang còn nhìn quanh, bỗng A Miên reo lên:

- Có vật gì của ai kìa cha!

Trước mặt họ, cách chừng chục bước chân, có một bộ áo váy trắng, một đôi giày Tây cao gót cũng màu trắng, nằm phơi trên cỏ.

Lần này thì ông Mạn gào lên:

- Tuyết Lan!

Trên ngực chiếc váy có cài một đóa lan màu tím, mà nếu ai sành về lan ắt biết đó là lan Hồ Điệp. Hình như đây là một biểu tượng mà chỉ có ông Mạn mới biết. Cho nên, gần như ông đã khẳng định:

- Chính là nàng ấy! Tuyết Lan ơi, em ở đâu?

Ông Mạn gọi thật to, khiến tiếng ông vang vọng cả một vùng, trôi theo dòng suối nước đang cuồn cuộn chảy. Một lần... Hai lần... và đến cả chục lần như vậy, ông Mạn vẫn gọi đúng cái tên Tuyết Lan! Nhưng đáp lại lời ông chỉ có tiếng gió rừng và âm thanh róc rách của nước suối chảy.

Thấy cha mình càng lúc càng bị kích động, A Miên phải gọi giật ngược:

- Cha! Đâu có ai mà cha gọi hoài vậy?

Bấy giờ ông Mạn mới ngừng gọi, cầm chặt chiếc váy trong tay, ông thảng thốt:

- Nàng về đây rồi sao lại biến đi đâu! Dòng suối ư… lại dòng suối này ư?

Lúc ấy Miên lại phát hiện thêm chiếc mũ phớt và đôi giày nam hai màu nâu và trắng, liền gọi cha:

- Còn cái này nữa đây, cha!

Ông Mạn nhìn thấy là nhận ra ngay:

- Của thằng ấy. Thằng Hậu đây mà!

Miên nhớ lại, lúc nãy nó thấy mấy người trên xe hơi mặc những quần áo này. Nó hiểu ra:

- Ba đang nói tới mấy người lúc nãy!

Quay sang chụp tay con, ông Mạn hỏi dồn:

- Họ đâu rồi?

A Miên lắc đầu:

- Con đâu biết, có thể họ xuống suối tắm...

Bỗng ông Mạn ôm đầu gục xuống, giọng ông thê lương đến lạ lùng: - Họ đã tắm suối gần chục năm rồi mà đâu có lên!

Miên chẳng hiểu, hỏi lại:

- Cha nói ai?

Ông Mạn khóc nức nở, vai run lên từng hồi. Bỗng một cơn gió mạnh bất ngờ thổi xoáy ngay chỗ cha con ông đang đứng. Miên phải bám lấy cha mới giữ cho cả hai không bị cơn lốc xoáy xô đi. Nhưng những quần áo ông Mạn cầm trên tay và mấy món còn nằm trên cỏ đã theo gió bay tung theo gió, lùa ra giữa dòng suối!

Ông Mạn hốt hoảng bất kể hiểm nguy, đã vùng tay ra khỏi con, lao về phía trước. A Miên bằng bản năng tự nhiên, chụp lấy áo cha, kéo lại nên giữ không để ông lao xuống suối. Mà cú lao đó đồng nghĩa với sự tự sát, bởi bên dưới là những tảng đá nhô lên chẳng khác gì cái bẫy giết người.

Kéo cha mình ra bờ suối, Miên trấn an:

- Có thể họ đã trở lên rồi.

Nhưng ông Mạn hầu như không còn nghe con trai nói. Ông cứ nhìn ra giữa suối rồi lẩm bẩm:

- Tuyết Lan, em nhẫn tâm với anh quá...!

Chợt có tiếng ai đó phía sau lưng hai cha con:

- Ông Mạn ơi, nhà có khách tìm!

Quay lại thấy Liêng Lây, người hàng xóm, Miên hỏi:  - Khách nào vậy?

- Không biết. Có ba người khách sang trọng lắm. Họ đứng chờ nãy giờ. Về nhanh lên đi, hình như trong số họ có một cô gái đang bị té sông, đang mê man bất tỉnh.

Nghe đến đó tự nhiên ông Mạn vụt đứng lên, hỏi dồn: - Họ còn ở đó không?

Không đợi đáp, ông ta chạy trước, A Miên theo sau hỏi Liêng Lây:

- Họ có nói tìm cha tui về chuyện gì không?

Liêng Lây lắc đầu:

- Tui hổng biết. Có một người B’Râu cùng đi, hình như biết cha Mạn của mày là thầy lang, họ muốn chữa trị cho người bệnh sao đó.

Lúc họ về tới nơi thì chẳng có người khách nào. Liêng Lây quả quyết: - Mới rồi họ còn đứng đây. Họ có ba người, hai người đàn ông khiêng một cô gái mình mẩy ướt sũng nước.

Chợt nhìn thấy chiếc váy trắng và đôi giày cao gót, Miên kêu lên: - Cái này mới hồi nãy đây...

Ông Mạn ngồi sụp xuống ngay ngạch cửa, ông đã hiểu, nên bảo Liêng Lây:

- Anh không phải nói gì về họ nữa, tôi biết họ rồi. Họ không còn ở đây nữa...

A Miên cố hỏi, nhưng cha vẫn im thin thít. Khi Liêng Lây về rồi ông mới bảo con trai:

- Con ở nhà, đừng đi theo cha. Để cha làm cho xong việc này đã...

Ông bảo thêm A Miên: - Con đem cái áo, đôi giày này cất vào chỗ cha cất các giấy tờ, cả chiếc khăn tay nữa, đừng giữ trong mình.

Nói xong ông đi nhanh ra ngoài. A Miên không dám đi theo, nhưng rất lo lắng, đứng ngồi không yên. Nghe lời cha, Miên đem cất các đồ vật. Nhưng khi cậu cầm đưa tới chỗ cất giữ thì đột nhiên tất cả biến mất! Duy chỉ có chiếc khăn tay thì còn lại, Miên sợ nó biến mất nên vội nhét vào túi áo. Điều làm cho cậu ngạc nhiên là hương thơm phát ra nhiều hơn, hình như không phải từ chiếc khăn tay. Miên có cảm giác như cô gái chủ nhân chiếc khăn tay đang hiện diện trong nhà, bởi hương thơm nức mũi ấy chỉ có thể phát ra từ chính thân thể cô ta?

A Miên nhìn quanh và bỗng dưng rùng mình. Một cảm giác sợ hãi đang lan dần trong đầu của Miên. Và cũng lúc này anh nhớ những lời cha khi nhắc tới người nào đó tên là Tuyết Lan. Tuyết Lan là ai? Bỗng dưng Miên chợt hiểu, kêu lên: - Dòng suối máu!

Một lần nữa Miên đuổi theo cha.

A Miên đi dọc theo bờ suối một đoạn dài mà vẫn không thấy bóng dáng của cha nên lo lắng vô cùng. Lúc đi ngược trở lại, về hướng chỗ vực sâu, nơi chiếc xe rơi lúc nãy, thì phát hiện hương thơm càng lúc càng gần.

Cuối cùng Miên lần xuống những bậc đá nhấp nhô, leo xuống vực sâu, nơi đã từ lâu Miên chưa một lần đặt chân tới.

Trời chiều dần...

Bất chợt Miên nhìn thấy một bóng người đang ngồi phục trước một mô đất giữa hai phiến đá to.

Bước tới gần thì Miên hốt hoảng kêu lên:

- Cha!

Ông A Mạn hầu như không hay biết khi Miên bước tới gần. Ông vẫn ngồi bất động.

- Cha!

A Miên lay vai cha thì càng kinh hãi khi phát hiện ông đã ngất đi.

- Cha!

Ôm chầm lấy cha, nhận ra người còn nóng, nghe vẫn còn nhịp nhẹ, Miên định cõng cha lên lưng chạy về nhà. Nhưng vừa khi ấy anh nhận ra chiếc váy trắng và đôi giày cao gót đang nằm trước mô đất giống như ngôi mộ. Thì ra hương thơm phát ra từ chỗ này.

Miên ngẩn người một lúc, nếu không phải vác cha trên vai thì chắc anh đã còn đứng đó thêm một lúc nữa. Cõng cha về tới nhà thì ông tỉnh lại. Câu đầu tiên ông thốt lên là hỏi:

- Con thấy gì ở chỗ ấy?

- Chỗ ngôi mộ?

- Có phải chỗ nấm đất vừa rồi?

Ông Mạn thở dài:

- Là cô Tuyết Lan và hai người đàn ông?

Ông Mạn gật đầu, giọng buồn bã:

- Cả ba người họ ở trong đó. Mà đáng lý ra chính ta phải chôn họ tử tế, mỗi người một mộ mới phải...

Biết con không hiểu, ông tiếp tục kể:

- Ba người mà con nhìn thấy đi chung xe sáng nay chính là ba người nằm trong ngôi mộ đó!

Miên giật nảy người: - Họ là... hồn ma?

Ông Mạn gật đầu:

- Những oan hồn về đòi mạng!

Miên càng kinh ngạc hơn: - Đòi mạng... ai?

- Ta!

Ông Mạn đáp lạnh lùng. Rồi bất ngờ đứng lên đi thẳng vào trong. Từ bên trong ông hỏi vọng ra:

- Chiếc áo và đôi giày đâu?

- Đã biến mất ngay lúc cha vừa ra khỏi nhà. Mà vừa rồi con thấy chúng ở chỗ ngôi mộ.

Ông Mạn nhẹ thở dài: - Ta quên khuấy mất.

Rồi ông chợt nhớ ra: - Ta hiểu rồi! Sáng nay con nhìn thấy cảnh chiếc xe lao xuống vực là cách mà Tuyết Lan muốn con hiểu là có người chết bằng cách đó. Chiếc xe lúc sáng lao xuống là xe không, nhưng mười tám năm trước thì trong xe có đến ba người! Cả ba đều đã chết. Trong đó có Tuyết Lan.

Miên thắc mắc: - Sao cha rành chuyện ấy?

Giọng ông Mạn như tiếng kêu ai oán: - Bởi ta chính là người làm cho chiếc xe mất thắng, lao xuống vực, trong lúc họ vô tình không hay biết?

Miên ngơ ngác:

- Cha nói thế có nghĩa là... là...

- Là kẻ giết người!

A Miên lần đầu tiên nghe cách nói chuyện đầy xúc động của cha. Anh đưa mắt nhìn thẳng vào cha. Ông Mạn hạ thấp giọng hơn: - Mà kẻ giết người có dự mưu. Nạn nhân lại chính là người yêu của mình. Còn gì ác và đáng nguyền rủa hơn!

Ông bất ngờ hỏi: - Chiếc khăn tay còn không?

A Miên móc nó ra khỏi túi: - Còn đây, cha.

Ông cầm lấy, mở rộng chiếc khăn ra, nhìn vào hình thêu, nấc lên:

- Đóa lan Hồ Điệp là tên của nàng ấy, còn ba chính là con bướm này. Ba là Điệp chớ không phải A Mạn như con và mọi người biết giờ đây.

Không để cho Miên hỏi lôi thôi, ông chủ động kể tiếp: - Mười tám năm trước, trên chiếc xe nhà của Tuyết Lan, trên đường đi Đà Lạt, có cả thảy bốn người: Cha, Tuyết Lan, Hậu và ông già B’Râu. Ông già B’Râu là quản gia đồn điền trà cho nhà Tuyết Lan, theo xe lên Đà Lạt tiếp quản công việc thay người quản gia cũ vừa nghỉ việc. Và đó là chuyến đi cuối cùng của ông ta…

A Miên sốt ruột, chặn ngang lời cha: - Nhưng tại sao những người kia chết còn cha thì không?

Ông Mạn hơi lưỡng lự, một lúc sau mới lấy từ trong áo ra một tập giấy đã nhàu nát qua thời gian, đưa cho con trai:

- Cha viết ra kể hết mọi việc, đợi đến khi con đủ mười tám tuổi cha mới đưa con đọc. Bởi khi đó con mới đủ trưởng thành để tiếp quản cơ ngơi này của cha và cũng là thời điểm cha sẽ phải ra đi. Đi để đền tội... Tuy nhiên…

Ông ngừng lại như để lấy can đảm:

- Hiện nay phải còn gần một năm nữa con mới đủ tuổi. Nhưng không còn kịp nữa rồi, e rằng nếu cha không cho con biết thì cha sẽ không còn sống trên cõi đời này nữa. Cha muốn con hiểu hết mọi việc và lập tức rời khỏi nơi này. Con hãy đọc một mình. Còn cha, cha cần nghỉ ngơi một lát…

Ông đi vào trong. A Miên cầm xấp giấy đã úa vàng, lòng bồn chồn không yên... …“Tuyết Lan rủ đi đồn điền chơi mấy hôm, mình nhận lời ngay. Bởi đây không phải lần đầu, mà đã vài lần rồi, Lan và mình thường lợi dụng những chuyến đi như thế này để hẹn hò và hưởng với nhau những giây phút tuyệt vời nhất của cuộc tình đã kéo dài ngót ba năm, dù cha mẹ Lan không đồng tình chuyện mình và Tuyết Lan yêu nhau, nhưng Lan thì không màng tới điều đó. Nàng thường nói với mình rằng khi yêu thì con tim có lý lẽ riêng của nó, không phải cha mẹ quyết định là được!

Tuy nhiên, sáng nay khi Lan lái xe tới nhà đón mình đi thì con tim mình như vỡ tung ra, khi trên xe còn có một người con trai khác! Tuyết Lan vẫn hồn nhiên giới thiệu người đồng hành mà mình không mong đợi...

- Đây là Hậu, người bạn thuở thơ ấu của Lan. Anh ấy du học ở Pháp vừa về. Hậu sẽ cùng chúng ta lên đồn điền...

Trong suốt đường đi, khi Tuyết Lan lái xe, thỉnh thoảng Hậu lại quàng tay qua vai nàng, thân mật quá trớn ngay trước mặt mình. Vậy mà Lan chẳng có một phản ứng gì dứt khoát. Đôi lúc nàng lại lên tiếng:

- Văn minh phương Tây thoải mái hơn tập quán cổ hủ của ta nhiều, phải không Điệp!

Nàng còn cố ý chọc tức mình nữa! Mình đã bắt đầu nóng mặt. Nhưng cũng chưa lên đến đỉnh điểm, cho đến khi xe dừng lại uống nước ở một quán bên đường. Tuyết Lan đi nhà vệ sinh, anh chàng Hậu đi theo và mình có linh tính không hay nên cũng đứng lên theo sau họ. Và chuyện động trời đã xảy ra. Nó diễn ra ngay trước mắt mình:

- Mình bắt gặp hai người đang hôn nhau trước cửa phòng vệ sinh. Tuyết Lan hơi lúng túng, nhưng vẫn cười chống chế.

- Tụi em vẫn thường hôn nhau từ nhỏ. Anh em, bạn bè mà!

Mình tức đến nghẹn cả lồng ngực, nhưng vẫn cố làm ra vẻ bình tĩnh, mình cười gượng rồi đi nhanh lên xe ngồi ngay chỗ tay lái.

Khi họ trở ra, mình đề nghị:

- Ngồi không anh bứt rứt quá, vậy em và anh Hậu ngồi băng sau, để anh lái cho.

Mình vẫn lái xe của Lan, nên nàng đồng ý ngay. Tới Định Quán, Tuyết Lan bảo:

- Anh ngừng lại đón ông già B’Râu, ba thuê ông ấy lên giữ đồn điền thay ông Muôn vừa nghỉ việc. Sau khi rước lão B’Râu lên xe, mình đề nghị:

- Còn sớm vậy mình ghé suối Máu để thư giãn, đồng thời cho anh Hậu ngắm cảnh.

Tuyết Lan từng cùng mình ghé qua thắng cảnh ấy, nên tán thành ngay:

- Hay đấy!

Lúc ghé Suối Máu, mình chủ động đề nghị:

- Các bạn xuống ngắm cảnh, mình ở lại chỉnh lại cái thắng xe, hình như thắng không ăn.

Thật ra mình đã xả bỏ thắng tay, chỉ chêm hờ một cục đá nhỏ dưới bánh xe trước. Sau hơn mười phút ngắm suối, khi họ trở lại xe, mình cố tình mở cửa chờ họ lên trước, tìm cách kéo Tuyết Lan lại. Nhưng Hậu đã giằng mạnh Lan ra, đẩy cô nàng lên xe, chừng như cố không để mình thân mật với Lan! Tuyết Lan hình như hiểu ý mình lúc đó, nên muốn dừng lại, nhưng không còn kịp nữa, nàng đã bị Hậu xô nhanh vào băng sau vừa cười hô hố!

Vừa khi ấy chiếc xe đậu chỗ dốc lại không gài thắng tay, nên tuôn nhanh tới trước. Mình quýnh lên bởi có Lan trong xe, nên lao theo cố giữ chiếc xe lại. Nhưng đã quá trễ, chiếc xe đã lao nhanh xuống vực. Mình nghe những tiếng thét kinh hoàng của Tuyết Lan và cả Hậu nữa! Rầm một tiếng. Âm thanh ghê rợn đó có lẽ ám ảnh mình suốt đời!

Hối hận, bàng hoàng! Mình đã ở lại suối Máu nhiều ngày, cố leo xuống vực sâu tìm thi thể họ, nhưng hoàn toàn vô vọng. Những người quanh vùng bảo rằng có thể cả chiếc xe và thi thể họ đã chìm dưới dòng suối sâu, mà đoạn suối chảy qua đó như một cái hố sâu, nghe đồn là ăn thông ra một nơi nào đó cách vài cây số!

Vừa ăn năn, hối hận lại vừa sợ trách nhiệm, nên mình không trở về nhà. Trốn biệt ở vùng suối Máu này. Vừa hy vọng kiếm tìm tung tích Tuyết Lan, vừa tránh mọi người. Đó là lý do mình đổi tên thành một người thiểu số, từ nay mình là A Mạn.

Vào một đêm, lúc giật mình tỉnh giấc mình nghe tiếng ai đó gọi vọng vào, bảo mình ra nhận con! Mình còn đang ngơ ngác thì đã nghe tiếng trẻ con khóc bên ngoài! Mình bước ra soi đèn thì bắt gặp một trẻ sơ sinh bọc trong một cái chăn bông ướt đẫm nước. Đứa bé nhìn vào mình và càng khóc lớn. Mình chưa biết phải làm gì thì nghe âm thanh giống như lúc nãy vọng lại:

- Con anh sao còn chưa nhận? Nó bị rơi theo em dưới suối, em chết, nhưng số nó chưa tận, nên đủ ngày tháng em sanh nó ra, gởi lại cho anh nuôi!

Nhớ trước lúc chết, Tuyết Lan từng báo tin là nàng có thai được hai tháng! Vậy ra… Mình bàng hoàng ôm đứa trẻ sơ sinh vào lòng thấy chung quanh nó ướt sũng, nhưng thân thể nó thì ấm, nên mình ẵm nó đưa ngay vào nhà. Từ hôm đó mình bỗng dưng có con! Để mọi người không dị nghị, mình nói dối rằng nhặt được nó trong rừng, thấy tội nghiệp nên đưa về nuôi. Mình đặt tên cho nó là A Miên.

Tháng ngày trôi qua… chuyện cũ dần trôi vào quên lãng. Hồn phách Tuyết Lan cũng không ám mình nữa. Có lẽ nàng cảm thông và tha thứ cho mình, bởi mình đã cưu mang giọt máu còn lại khá chu đáo.

Lúc A Miên lên mười tuổi thì mình nằm mộng thấy có một ông lão râu tóc bạc phơ, gọi đúng tên mình và bảo: Khi nào thằng bé A Miên sắp mười tám tuổi thì có chuyện xảy ra đấy! Coi chừng trong hai người, nhà ngươi và thằng bé, sẽ có người mẹ về bắt đi đấy!

Ngày… tháng… năm… - …………”

Những trang nhật ký viết đến đó thì dứt. Vừa đọc xong A Miên đã gọi lớn: - Cha ơi!

Không nghe cha lên tiếng, Miên chạy thẳng vào giường. Không có ông A Mạn ở đó.

Linh tính có điều chẳng lành, Miên lại chạy về hướng suối Máu. Leo xuống vực mất hơn hai chục phút và Miên đứng sựng lại vài giây rồi mới thét lên:

- Cha!

Ông A Mạn toàn thân đầy máu, đang nằm ngửa trên nấm đất hình ngôi mộ. Khi Miên tới xem thì biết chắc cha mình đã ngừng thở, cây rựa chặt cây của ông thường ngày đang cắm sâu vào bụng, mũi rựa xuyên thẳng xuống đất!

- Cha ơi!

Tiếng gọi của Miên nghe giống như tiếng của ông A Mạn khi gọi Tuyết Lan. Lần này âm thanh của Miên còn vang xa và vang rất lâu theo gió rừng.

Thay vì chôn ngay xác cha mình, A Miên tự quyết định một mình đào nấm đất giống như ngôi mộ chỗ ông A Mạn nằm chết. Đào xuống không sâu lắm thì gặp ba bộ xương người còn nguyên vẹn, nằm tách biệt nhau. Có một bộ xương nhỏ hơn hai bộ kia, chừng như của người nữ. Miên nhặt được từ cổ của hài cốt một sợi dây chuyền có chiếc mặt ngọc màu xanh còn nguyên vẹn, chiếc mặt ngọc hình cánh hoa Lan Hồ Điệp!

- Bà Tuyết Lan!

Tự dưng có mùi hương thơm quen thuộc bay ra từ bộ xương ấy, khiến Miên buột miệng:

- Chính bà ấy! Chính là... mẹ!

Miên sụp xuống, chấp tay lạy liền mấy lạy, vừa kêu khẽ: - Mẹ!

Rồi chẳng cần suy nghĩ, A Miên tách bộ xương của mẹ mình ra, đặt nằm cạnh thi thể của cha, chung trong mộ huyệt vừa mới đào. Anh khấn thành kính:

- Con xin cha mẹ hãy ở bên nhau mãi! Con xin mẹ tha thứ cho cha, cha con khổ lắm rồi...

Thế là ở mảnh đất nhỏ dưới vực sâu đó mọc lên hai nấm mộ. A Miên chỉ khắc lên mộ bia hình đóa hoa lan và con bướm, chớ không để tên. Anh nói như một lời thề: - Con sẽ mãi mãi ở bên cha mẹ!

Một năm sau ngày A Mạn mất thì xóm suối máu hay tin A Miên lấy vợ: Cô dâu là người con gái lạ từ đâu tới chẳng ai biết. Chính A Miên cũng hết sức ngạc nhiên khi vào một đêm anh nghe có tiếng ai gọi tên mình ngoài cửa. Tiếng nghe rất quen:

- Ra mà đón vợ con vào. Phải sống cho thật hạnh phúc, đừng bao giờ như cha mẹ!

A Miên mở cửa ra thì bắt gặp một cô gái đang đứng co ro ngoài cổng. Mở cửa cho cô ta thì cô nàng rất tự nhiên nói:

- Em là Dạ Lan. Em sẽ ở đây cùng anh!

A Miên hỏi nàng quê quán, cha mẹ, thì Dạ Lan chỉ đáp mơ hồ: - Em cũng không nhớ mình ở đâu nữa. Khi sanh ra được mấy ngày thì em hôn mê cho đến đêm qua mới tỉnh lại, rồi chẳng biết ai đưa em tới đây, nói là về với chồng! Anh là A Miên?

Chỉ cần bấy nhiêu đó thôi, đủ để hai người gắn bó với nhau. Trong thâm tâm họ hiểu là có một nguyên nhân sâu xa nào đó đã đưa họ đến và sẽ bên nhau dài lâu. Nhưng đâu nhất thiết phải hiểu thêm làm gì, khi đã là duyên nợ…

Đôi vợ chồng trẻ sống gắn bó, yêu thương nhau chân thành. Họ thường xuyên ra thăm mộ cha mẹ. Cô con dâu Dạ Lan luôn quỳ trước mộ rất lâu và khấn vái những gì rất thành khẩn mà dù muốn biết, nhưng Miên không làm sao biết được.

Dòng suối Máu vốn lâu đời có màu nước đỏ như máu và cũng chính vì thế nên có tên như vậy. Bỗng dưng nước không còn đỏ nữa. Màu nước trở nên trong xanh như bao dòng suối khác. Cũng chẳng hiểu tại sao…

Mỗi lần đến thư viện thì tôi lại gặp hắn, như ngồi mãi một chỗ, chăm chú vào cuốn sách để trước mặt.

 

NỬA ĐÊM CẦU CƠ

(Tác giả: Người Khăn Trắng)

 

Phần 1:

Lưỡng lự rất lâu, cuối cùng Tiến cũng đồng ý để các bạn bày bàn cầu cơ ra. Sinh, người bạn khá rành chuyện này đề nghị: - Cầu cơ cần một không gian yên tĩnh, một quãng thời gian thích hợp thì có rồi, bây giờ là 11 giờ đêm, rất tốt cho việc này, còn phòng này thì e không đạt.

Anh ta đưa tay chỉ lên lầu trên:

- Lầu thượng có ai ngủ không?

Tiến lắc đầu:

- Trên đó chỉ để lâu lâu lên ngắm trăng thôi. Phòng bỏ trống.

- Tốt, ta lên đó đi.

Cả bọn lỉnh kỉnh dọn đồ nghề lên phòng trên sân thượng. Có tất cả bốn người tham dự, ngoài Tiến và Sinh, còn có Hương và Lộc. Là người nữ duy nhất nên Hương được soi rất kỹ, bị Sinh hỏi thẳng thừng:

- Tôi hỏi điều này có hơi kỳ một chút, nhưng theo lệ của một buổi cầu cơ thì... không được dơ mình. Chẳng biết bà...

Hương thẹn đỏ mặt:

- Nhiều chuyện! Nhưng... người ta đâu phải lúc nào cũng... dơ đâu!

Sinh cười lớn:

- Vậy là ổn rồi, ta có thể tiến hành buổi cầu cơ!

Rồi anh ta quay lại Hương nói thêm:

- Cái này không phải do anh vẽ ra, mà bắt buộc nó như vậy. Đã mấy lần rồi, tụi anh cầu mà không linh, bởi trong số người tham dự có cô đang bị kẹt...

Hương xua tay:

- Hiểu rồi, nói rồi, tiến hành đi!

Tiến chen vào nói đỡ:

- Mày nói tới nói lui hoài. Hương đã gồng mình ngồi dự vụ này đã là quá cỡ rồi, hãy để cho cô ấy còn dũng khí để mà tiếp tục chứ.

Hương thấy có đồng minh thì tự tin hơn:

- Có anh Tiến em chẳng sợ gì!

Mấy người bạn đều nheo mắt cười. Bởi ai cũng biết Hương là người yêu của Tiến.

Lộc nói nhẹ nhàng: - Người ta có băng đảng với nhau đó nghen, thằng Sinh liệu hồn!

Sinh yêu cầu mọi người cùng khấn theo công thức anh đưa ra, sau đó anh hỏi:

- Hôm nay ai muốn trực tiếp cầu?

Tiến nhìn Lộc, rồi nhìn sang Sinh, anh bảo:

- Một trong hai đứa bay làm đi.

Lộc nhìn Tiến:

- Sao không phải là mày?

Sinh thì lại nói:

- Theo tao thì người thích hợp nhất để đứng ra trực tiếp cầu là Hương. Tụi bay biết sao không, cầu cơ phải theo tuần trăng, đêm nay trăng sáng là thuộc âm vượng, như vậy người phụ nữ cầu là thích hợp nhất.

Hương nghe vậy xua tay lia lịa:

- Thôi, em không làm đâu.

Nhưng bất ngờ Tiến lại nói:

- Hương thử đi.

Trố mắt nhìn Tiến, Hương ngạc nhiên:

- Sao anh muốn em làm?

Tiến nghiêm giọng:

- Em là người nữ duy nhất ở đây, lại là thời điểm thích hợp nữa, sao lại không thử?

Hương lưỡng lự:

- Nhưng mà em... em sợ.

Tiến động viên:

- Cứ thử một lần xem sao.

Mấy người kia đều tán thành:

- Ý kiến hay, Hương làm đi!

Chẳng còn cách nào hơn, Hương đành rụt rè nói:

- Mấy anh xúi đó nghen, nếu có gì thì...

Lộc cười to:

- Thì thằng Tiến chịu!

Sinh hướng dẫn:

- Em cứ đặt tay lên con cơ này, như vậy đó, ngồi ngay ngắn lại, tập trung tư tưởng thật thành tâm, đừng nghĩ gì khác ngoài cầu cho ai đó về để mình hỏi.

- Nhưng... biết hỏi ai?

- Nếu không nhắm hỏi người nào cụ thể, thì cứ thành tâm cầu, không cần nói tên, có người nào hợp vía mình sẽ về giúp mình ngay!

Hương vẫn hơi sợ:

- Em ngại quá... hay là em cầu vong ba em vậy!

Cô đặt tay lên miếng cơ nhắm mắt lại và lâm râm khấn: - Từ ngày ba mất, con chưa một lần thấy ba về, vậy nay ba thử về với con, nói cho con nghe xem ba đang cần gì?

Lần đầu tiên tham gia trò này, nên Hương rất nghiêm túc thành tâm, nhắm mắt thật lâu mà chưa dám mở ra. Gần hai phút trôi qua vẫn chưa thấy có gì lạ. Bỗng ngay sau đó ở ngón tay đặt trên cơ có dấu hiệu tê tê nhẹ, rồi như có luồng điện năng chạy qua và con cơ chuyển động lướt rất nhanh trên tờ giấy có những ô chữ từ A đến Z. Ban đầu con cơ dừng rồi chạy và lại dừng... chưa rõ là muốn dừng ở đâu, muốn nói gì.

Sinh là người rành, nên nhìn là biết ngay cuộc cầu cơ đã có kết quả! Anh bảo khẽ vào tai Tiến:

- Đừng ai lên tiếng, để cho Hương cứ tự nhiên.

Sau vài giây chưa ổn định, mấy vòng sau thì con cơ theo ngón tay của Hương đã bắt đầu chậm lại và ngừng lại ở ô chữ B. Sinh lấy giấy ra ghi lại trên đó những chữ mà cơ dừng lại. Tiếp theo là chữ A, rồi chữ M, chữ U, chữ N, chữ G. Ngập ngừng một lúc nữa, tay của Hương lại chạy tiếp đến chữ G, chữ A, chữ P, chữ L, chữ A, chữ I, chữ C, chữ O và chữ N. Ngừng lại một lúc lại tiếp ở chữ C, chữ O, chữ N, chữ L, chữ O, chữ N, chữ Q, chữ U , chữ A.

Sinh ráp lại và đọc nhỏ cho hai bạn nghe:

- Bài cơ vừa rồi cho mấy chữ như thế này: BA MỪNG GẶP LẠI CON, CON LỚN QUÁ.

Tiến giật mình, anh hỏi khẽ:

- Ba của Hương về thật hả?

Ra dấu cho bạn không hỏi lớn, sợ kinh động đến Hương. Anh bảo khẽ: - Hãy để cô ấy cầu, tao sẽ ghi đầy đủ rồi chuyển dịch lại cho tụi bay nghe!

Hương như quên chung quanh, cô chú tâm vào và con cơ lại tiếp tục chuyển động. Cứ hết chữ này lại sang chữ khác. Chợt đến một lúc thì tay của Hương run lên, cô suýt làm văng con cơ ra ngoài bản chữ! Lúc này toàn thân Hương như bị kích động theo cái gì đó, mà thoạt nhìn Tiến hốt hoảng kêu lên:

- Hương, sao vậy?

Nghe tiếng kêu của Tiến, bỗng dưng Hương ngã bật ra phía sau! Vừa lúc Sinh tiếc rẻ:

- Phải chi Hương cố gắng một chút nữa thì có thêm chi tiết lạ lắm!

Anh ta cầm tờ giấy ghi được lúc Hương chuyển động nhanh trước khi ngã, đọc cho mọi người nghe:

- Sau câu BA MỪNG GẶP LẠI CON, CON LỚN QUÁ là đến câu: BA NHỚ NHÀ LẮM, MUỐN VỀ MÀ KHÔNG ĐƯỢC. BỮA NAY MUỐN NÓI MÀ BỊ… BỊ… HỌ GIÀNH, HỌ KHÔNG CHO…, GẶP EM RỒI! GẶP ĐƯỢC NGƯỜI MÀ ANH ĐỢI LÂU NAY…

Tiến lo cứu tỉnh Hương, cũng may là sau đó Hương tỉnh lại, cô kêu nhức đầu, chóng mặt. Cho cô uống ly nước xong, Sinh hỏi liền:

- Lúc nãy Hương thấy gì vậy?

Hương lắc đầu: - Có thấy gì đâu, chỉ cảm giác như ai đó lôi ngón tay mình đi, khiến mình không tự chủ được, vậy mình làm gì lúc nãy?

Đưa cho cô xem bảng chữ Sinh ghi được, Tiến hỏi: - Cái này là ý gì vậy?

Hương lại lắc đầu: - Em không biết.

Sinh giải thích:

- Lúc đó là thần giao cách cảm. Giữa âm dương được nối với nhau bằng con cơ. Người chết muốn nói gì đó thì nhập vào con cơ và tay người sống tiếp nhận thông tin từ người chết qua thần giao ấy. Ở đây có điều lạ là giữa lúc ba của Hương đang nói, chẳng hiểu sao lại có ý khác chen vào? Đúng là bác ấy đã bị hồn nào đó khống chế, chen để nhập vào cơ, khiến cho Hương chịu không nổi phải ngã ngang!

Hương xác nhận:

- Em đang lâng lâng thì tự nhiên điện trong người như bị chạm, khiến đầu óc em quay cuồng, không làm chủ được bản thân!

Tiến trách Sinh:

- Hương không quen chuyện này, mày làm cho cô ấy bị thế này...

Hương gượng cười:

- Không sao đâu. Giờ thì em khỏe lại rồi. Thôi, mấy anh tiếp tục làm đi, em ngồi coi.

Lạ là từ phút đó chẳng một ai cầu cơ được nữa kể cả Sinh cũng chịu thua. Anh ta nói:

- Thôi mình để hôm khác. Bữa nay bày ra nhậu một chầu đi!

Hương cũng tham gia, nhưng tự dưng cô mất vui. Đầu óc Hương như có cái gì đó lởn vởn…

Đến gần nửa bữa nhậu thì Hương đòi về, Tiến phải đứng lên đưa người yêu ra tận cửa. Anh chuẩn bị dắt xe ra thì Hương ngăn lại:

- Em hơi chóng mặt, để em về xích lô tốt hơn.

Tiến lo lắng hỏi lại:

- Em có sao không?

- Không, chẳng sao cả. Em về đây.

Tiến cứ nhìn theo, anh lo lắng cũng phải, bởi rõ ràng trong sắc diện của Hương thì dường như đã có điều gì đó không ổn. Anh tự trách là lúc nãy đã không ngăn chuyện Hương tham gia cầu cơ.

- Lên nhậu tiếp chứ anh chàng si tình, đứng ngẩn ngơ hoài vậy!

Bị các bạn giục mãi nên Tiến đành phải trở lên tham gia cuộc vui, nhưng đầu óc nghĩ mãi về thần sắc không bình thường của người yêu. Một lúc sau, Tiến vẫn còn nhắc lại với Sinh:

- Cậu quá vô ý, Hương mà có chuyện gì mình không cho cậu yên đâu!

Sinh phải trấn an:

- Làm gì có chuyện mà lo cho mệt! Cả triệu người cầu cơ chứ có riêng gì Hương đâu.

- Nhưng Hương thì khác. Nhất là chuyện ba cô ấy lúc nãy, mình sợ sợ…

Lộc là anh chàng vô tâm nhất trong bọn, chen vào nói:

- Cầu cơ chỉ là chuyện đẩy một miếng ván đi tới đi lui, các cậu quan trọng hóa nó chi cho mệt!

Sinh là người cuồng tín về cầu cơ, nghe Lộc nói vậy anh ta chĩa mũi dùi sang Lộc:

- Cậu biết gì mà bình với luận! Cậu có biết miếng cơ làm bằng gì không? Nó làm từ miếng ván lấy ở nắp hòm chôn người chết lâu năm! Phải là ván nắp hòm mới linh nghe chưa!

Thấy hai người sắp cãi vả căng thẳng Tiến xua xua tay:

- Thôi, dẹp chuyện đó qua một bên đi. Cũng dẹp luôn vụ nhậu này, tao mất hứng!

Tiến bỏ đi về phòng mình ở tầng dưới và ở luôn, mặc cho các bạn muốn làm gì thì làm...

Tuy bị Tiến bỏ ngang buổi nhậu, nhưng bởi chỗ quá thân tình, từng ngủ nhà của nhau bao nhiêu lần, nên sau khi Tiến bỏ đi về phòng riêng thì Sinh và Lộc vẫn tiếp tục cuộc vui. Sinh nói:

- Để cho thằng Tiến nó ngủ đi, tao với mày chơi tới sáng. Mà nếu hứng thì một lát mình lại cầu cơ xem thử coi có gặp hồn ma nữ nào mình mời về.

Lộc tròn mắt nhìn bạn:

- Mày ăn nói không giữ mồm giữ miệng gì hết!

Sinh cười xòa:

- Nói chơi vậy chứ cỡ bợm nhậu như tao với mày thì cầu cơ ai về mà cầu cho mất công! Muốn cầu thì phải trai tịnh, phải lòng thành. Mày thấy con Hương không, nó còn con gái, lại trong sáng, nên vừa cầu là ứng ngay! Chính tao cũng hoảng hồn vì vụ hồi nãy!

- Theo mày thì con Hương nó bị gì vậy?

Đang bô bô cái miệng do men rượu, vậy mà khi nói tới chuyện này Sinh cũng hạ thấp giọng:

- Nó gặp cái vong của ai đó!

- Tức hồn người chết chứ gì?

- Tao tin là chuyện đó có thật! Mày thấy mắt con

Hương lúc đó không?

- Phải, xanh mét! Lúc ấy tao sợ điếng hồn luôn!

- Có điều là khi thằng Tiến hỏi, tao phải giả vờ là không có chuyện gì. Thật ra cho tới lúc này tao vẫn còn run!

Lộc uống một hơi cạn ly rượu trong tay:

- Từ nay dẹp cái chuyện cầu cơ đi, tao không thích cái trò này!

Thay vì gật đầu tán thành, Sinh lại đáp ỡm ờ:

- Nhưng nó lại có cái hay riêng. Thú vị thì đúng hơn. Tao vẫn thích chơi nó, bởi không không gì có thể vừa sống ở cõi đời này lại có thể hiểu được người ở thế giới bên kia!

Lộc đang định nói gì đó thì chợt nghe tiếng la lớn từ tầng dưới! Sinh hốt hoảng:

- Tiếng của thằng Tiến!

Khi họ chạy xuống thì thấy Tiến nằm dài trên sàn nhà trong phòng anh ta, ở cổ vẫn còn sợi dây thòng lọng bị đứt!

Họ tức tốc vực Tiến dậy rồi thay nhau cõng Tiến chạy ra cửa, đưa đi trạm xá gần đó. Bởi nhà Tiến lúc ấy không có ai khác, mà việc cấp cứu thì Sinh và Lộc đều không rành, và lại thấy tình trạng của Tiến như vậy họ đều sợ thất thần, đâu dám tự lo ở nhà.

Cuối cùng, người ta cũng giúp cho Tiến tỉnh lại.

Người mừng nhất là Lộc, người được phân công ngồi trực suốt mấy tiếng đồng hồ ở trạm xá.

- Lạy trời, mày tỉnh lại rồi!

Tiến nhìn bạn mà mãi một lúc sau mới nhận ra:

- Ủa, mày hả Lộc? Mày làm gì ở đây hả?

Lộc vừa đáp vừa ngáp dài:

- Sợ mày chết, nên ngồi canh từ tối qua tới giờ chứ làm gì!

Tiến ngồi bật dậy, nhưng phát hiện cổ mình bị đau, kêu lên:

- Cổ tao...!

- Mày bị ai đó cột cổ, hay tự mày treo cổ tự tử, mà lúc tao với thằng Sinh chạy xuống thì thấy sợi dây thòng lọng còn dính trên cổ mày. Sao vậy Tiến?

Từ từ Tiến nhớ lại, anh đưa tay sờ nhẹ lên cổ và rùng mình:

- Nó muốn giết tao!

- Mày nói ai?

Giọng của Tiến vẫn còn run:

- Thằng nào đó kỳ lạ lắm, nó như từ dưới nước chui lên, người nhớp nháp, tay chân lạnh như băng và chẳng hiểu sao tự dưng nhào tới ôm chầm lấy tao, đè tao xuống rồi rít lên: “Mày phải chết! Mày không được quyền yêu nàng ấy!”.

Tiến cứ sờ lên chỗ đau ở cổ và kể tiếp:

- Tao cũng chẳng hiểu sao thằng đó nó nhấc nổi tao chỉ với một tay, còn tay kia thì cột tao lên cây quạt trần trong phòng. Tao ngạt thở quá nên kêu thét lên, đồng thời vùng vẫy dữ dội, thế rồi…

Lộc tiếp lời: - Tao và thằng Sinh nghe mày kêu nên chạy xuống thì kịp nhìn thấy mày nằm dài trên sàn, ở cổ còn sợi dây thòng lọng bị đứt. Chắc là do dây mục, mày vùng vẫy mạnh quá nên nhờ vậy mày mới thoát chết!

- Tụi bay có gặp thằng đó không?

Lộc ngạc nhiên:

- Thằng nào?

- Thì cái thằng đã treo cổ tao!

- Có thấy ai đâu. Hay là mày nằm mơ?

Tiến chợt nhớ lại từng lời hắn nói, anh bỗng đứng phắt dậy, kêu lên:

- Không xong rồi, Hương của tao!

Lộc không hểu:

- Hương bị sao?

Tiến vọt chạy ra cửa, vừa nói vọng lại:

- Tao phải đi tìm Hương, cô ấy nguy mất!

Lộc chạy theo nhưng không còn kịp, bởi tuy mới vừa tỉnh lại, nhưng Tiến chạy nhanh như một vận động viên điền kinh, chỉ loáng một cái, anh ta đã mất hút phía trước…

Khoảng hơn mười lăm phút sau thì Tiến đã có mặt ở trước nhà của Hương, anh không theo thông lệ gọi cửa từ tốn, lại dộng cửa ầm ầm:

- Hương ơi Hương!

Gọi tới lần thứ hai thì nghe có tiếng dép lê từ trong đi ra, giọng của mẹ Hương:

- Ai mà kêu réo như giặc vậy?

Tiến quên cả lịch sự:

- Hương. Hương có nhà không?

Bà Thoa nhìn Tiến với vẻ ngạc nhiên:

- Có chuyện gì vậy Tiến?

- Dạ, con hỏi Hương có nhà không?

Bà Thoa nghiêm giọng:

- Bác đang trông đứng trông ngồi nó đây. Tối qua cháu tới đây chở nó đi mà đến khuya vẫn không thấy về, cả nhà không ai ngủ nghê gì được vì chờ nó. Sao bây giờ cháu còn hỏi?

Tiến điếng hồn:

- Hương đâu còn ở nhà cháu. Hương... Hương...

Vừa lúc ấy, Phượng, em gái của Hương từ trong nhà bước ra nói:

- Hồi gần sáng em với thằng Hải qua nhà anh gọi cửa mà chẳng có ai ở nhà, đèn trong nhà tắt tối thui. Chị Hương từ lúc đi với anh thì đâu có về đây!

Tiến giục: - Biết đâu tối qua Hương về mà khuya quá không dám gọi cửa, em thử vào phòng cô ấy xem.

Bà Thoa cũng nói:

- Con vào coi thử thế nào!

Phượng chạy vào lát sau trở ra hốt hoảng nói:

- Không có chị Hương trong đó, nhưng có bộ đồ chị ấy mặc tối qua khi đi với anh!

Tiến nhìn thì đúng là bộ đồ Hương mặc tối qua. Anh lặng người đi…

Bà Thoa cứ hết ngồi khóc rồi lại nằm khóc. Đã ba ngày rồi con gái bà vẫn chưa trở về. Mà Hương có thể đi đâu được chứ, khi mà từ nào đến giờ cô chưa một mình rời khỏi nhà bao giờ, cũng chẳng có bà con thân thuộc nào khác ngoài những người mà mấy hôm nay bà và Phượng đã chia nhau đi tìm mà chẳng có kết quả gì.

Thằng Hải, đứa em út trong nhà rất thương chị Hương, nên cũng bị suy sụp theo mẹ. Nó cũng nằm vùi, nhưng mỗi khi nhớ ra điều gì, nó đều bật dậy và chạy đi tìm. Vẫn là sự thất vọng, bởi kể cả những người bạn thân, sơ gì của Hương đều quả quyết:

- Từ ba ngày qua không hề thấy Hương tới.

Phượng thì cứ cầm bộ quần áo Hương cởi bỏ lại trước khi biến mất và thắc mắc hoài:

- Chị ấy mặc gì để đi mà bộ đồ này bỏ đây, trong khi quần áo khác không thiếu bộ nào?

Nghe thế, bà Thoa càng lo sợ thêm:

- Có khi nào... nó chết rồi không?

Phượng trấn an mẹ:

- Không đến nỗi đâu mẹ. Chỉ có điều...

Chính Phượng cũng không tìm ra một nguyên nhân đủ thuyết phục để nói cho mẹ mình hết lo.

Bà Thoa nhớ ra, vội hỏi con:

- Con nhớ đường tới chùa Bảo Thiên không?

- Dạ nhớ. Mẹ muốn tới đó?

- Mẹ muốn đốt nhang cầu nguyện cho nó. Sẵn dịp mẹ hỏi sư thầy xem...

Trong lúc hai mẹ con đang chuẩn bị để đi thì chuông điện thoại reo vang. Phượng đứng gần nên cầm ống nghe.

Tuy nhiên, bên kia đầu dây chẳng có ai lên tiếng. Phượng cáu lên, hỏi lớn:

- Ai vậy?

Chẳng ai đáp. Phượng bực quá định đặt máy xuống, thì nghe có giọng ồ ồ như người bị đàm chặn ngang cổ:

- Sẵn sàng chưa, mau đi!

Phượng hốt hoảng quay vào gọi mẹ:

- Mẹ ra nghe coi cái gì nè!

Bà Thoa chạy ra cầm lấy ống nghe:

- Alô, ai...

Bên kia đầu dây vẫn cái giọng ồ ồ đó:

- Tôi đây...

Rồi cúp máy. Bà Thoa quay sang con: - Ai vậy?

Phượng lắc đầu: - Con đâu biết. Ông ta giục mình mau đi? Nhưng ông ta là ai?

Bà Thoa đang gấp đi nên bảo:

- Chắc là ai đó gọi nhầm số, hoặc mấy người rảnh việc quấy phá đó thôi.

Bà vừa định quay đi thì chuông điện thoại lại reo. Lần này Phượng vẫn là người nhấc máy lên:

- Ai vậy?

Vẫn cái giọng như không còn hơi nữa cất lên:

- Mau đi...

Cô quay sang mẹ, nói thật nhỏ:

- Cái ông hồi nãy.

Bà Thoa chụp lấy máy:

- Ông muốn gì? Coi chừng…

Đầu dây bên kia nói gì đó mà tự dưng bà xanh mặt, lắp bắp: - Ông... ông đó sao?

Phượng kinh ngạc: - Ai vậy mẹ?

- Ba con!

Câu nói của bà khiến cho Phượng sững sờ:

- Sao lại là ba con? Ba chết cả chục năm rồi...

Giọng bà Thoa lạc thần: - Ba con đó...

- Nhưng...

- Ba con bảo mình hãy mau đi ra khỏi nhà, nhưng đừng tới chùa. Bảo tới nghĩa địa nào đó... rồi cúp máy, giống như ba con bị ai đó bóp cổ không cho nói!

- Sao má biết là ba. Người chết sao nói chuvện được? Hay là…

- Hồn ma của ba con!

Phượng điếng hồn:

- Ba hiện hồn! Sao ba không nhận ra con?

Bà Thoa nhẹ lắc đầu: - Làm sao mẹ quên giọng nói của ba con được, dẫu là hơn mười năm rồi... Ba con nói vậy là có ý gì đó muốn bảo chúng ta, mà sao câu nói lại không trọn vẹn?

Chuông điện thoại lại reo lần nữa. Lần này vẫn là Phương chụp nhanh ống nghe: - Alô, ông… ủa, ai như chị Hương vậy? Chị Hương!

Bà Thoa mừng lên: - Lạy trời, con Hương!

- Chị Hương, chị đang ở đâu vậy, cả nhà đang lo cho chị đây…

Bỗng Phượng khựng lại, giọng hốt hoảng:

- Chị bị sao vậy? Ai làm gì chị vậy, chị Hương?

Bà Thoa kinh hãi giật lấy ống nghe:

- Hương, con ở đâu?

Trả lời bà là một loạt những tiếng ặc... ặc như người bị bóp cổ! Khiến cho bà Thoa rú lên:

- Con ơi, ai làm gì con?

Máy bị cúp. Ống nghe trên tay bà Thoa rơi xuống. Bà như người mất hồn, chỉ thều thào:

- Cha con... nó... bị... bị…

Phượng cầm lại ống nghe kề vào tai, bên kia máy chưa cúp, nhưng có lẽ bị gác hay treo lửng lơ, nhiều tiếng động rất kỳ lạ nghe như ở một nơi hoang vắng nào đó...

Phượng nghe kỹ rồi la lên:

- Giống như tiếng ếch nhái, ễnh ương kêu vậy!

Bà Thoa không còn đủ sức lên tiếng nữa, bà ngồi bệt xuống sàn, giọng nhừa nhựa:

- Cha con nó...

Rồi bà ngoẹo sang một bên, Phượng hốt hoảng:

- Mẹ! Mẹ!

Nhưng bà đã ngất đi người lạnh ngắt.

 

Phần 2:

Hương lặp lại lần thứ hai mà vợ chồng ông bà già vẫn chưa nghe rõ:

- Cô nói gì? Cô là...

- Dạ, cháu là Hương, cháu là người mà anh Tòng đã rước về.

Bà già Hai trố mắt: - Thằng... Tòng? Cô… cô có điên không vậy? Cô là... là...

Ông Hai thì bình tĩnh hơn:

- Thời buổi này lắm mưu ma chước quỷ, nhưng cô giở trò này thì chứng tỏ cô còn non lắm, không gạt được vợ chồng già chúng tôi đâu!

Hương vẫn cố nói:

- Cháu nói thật mà, anh Tòng cho cháu địa chỉ này, bảo cháu về... hầu hạ hai bác. Anh ấy nói sẽ cưới cháu mà. Hai bác đừng nghi ngờ...

Bà Hai la lên: - Cô còn nói nữa thì tôi kêu làng xóm tới bây giờ!

Hương rút ra một chiếc lắc đeo tay, đưa cho bà Hai: - Anh Tòng bảo con đưa cho hai bác làm tin. Chính anh ấy...

Vừa nhìn thấy tín vật, bà Hai kêu lên liền:

- Đúng là của thằng Tòng rồi ông ơi.

Ông Hai cầm lấy và nói:

- Hồi nó chết, chính tôi đã chôn vật này theo với nó đây mà!

Bà Hai quay sang Hương, hỏi trong sự hoài nghi:

- Sao cô với nó lại…?

- Dạ, cháu mới gặp anh ấy đây, nhưng chúng cháu đã phải lòng nhau ngay. Cháu về đây là theo ý anh ấy. Anh Tòng nói, do chết sớm nên không kịp báo hiếu cho cha mẹ, nhờ cháu về ở đây và làm giúp anh chuyện ấy!

Ông Hai bắt đầu tin:

- Cô gặp nó trong dịp nào?

Hương nói thật:

- Dạ, khi cầu cơ. Anh ấy về và không rời cháu nửa bước. Cháu bỏ nhà ra đi vì anh ấy và chính anh đã đưa cháu về tận đây....

Bà Hai hỏi dồn:

- Sao nó không vào nhà? Nó đâu?

- Dạ, anh Tòng nói âm dương cách trở, nên anh ấy chưa về được. Đợi khi nào cháu được hai bác chính thức công nhận là con dâu rồi thì anh sẽ tìm cách về thăm hai bác.

Quay sang chồng, bà hỏi ý:

- Bây giờ ông tính sao đây?

Ông Hai nhìn kỹ Hương, rồi nhẹ giọng:

- Biết sao bây giờ khi nó đã muốn như vậy. Chuyện này chính tôi cũng đã mơ thấy thằng Tòng bảo như vậy.

Bà hỏi lại Hương:

- Nhà của cháu ở đâu?

- Dạ, ở Gia Định. Nhưng hiện giờ cháu không được phép liên lạc về nhà. Cháu bị...

Cô muốn nói đang bị cái vong của Tòng ngăn cản, nhưng ngại không dám nói thẳng ra.

Thấy thái độ lúng túng của cô, bà Hai đoán được phần nào: - Nếu chưa muốn nói thì thôi.

Hương phấn khởi trước sự dễ dãi của bà: - Dạ, như vậy hai bác cho phép cháu ở lại đây phải không ạ?

Trong khi họ chưa trả lời thì chính Hương lại thở dài: - Bây giờ hai bác có đuổi cháu cũng chẳng biết phải đi đâu, bởi anh Tòng nghiêm cấm cháu trở về nhà, cấm không cho ở nơi nào khác!

Bà Hai thở dài, thổ lộ:

- Thằng Tòng lúc còn sống tính nó ghen dữ lắm. Lúc nó và con Huệ thương nhau...

Hương xen vào hỏi:

- Huệ là ai vậy bác?

- Là vợ sắp cưới của nó. Ngày ấy hai đứa nó thương nhau sáu bảy năm, chuẩn bị đám cưới thì bỗng con Huệ bỏ nó ra đi! Chỉ vì chịu không nổi tính ghen tuông quá độ của nó. Con Huệ đi và sau đó tự tử chết, sau đó Tòng cũng chết theo.

Ông Hai cũng thở dài, nói tiếp:

- Từ đó trong làng này ai cũng đồn rằng, hễ có cô gái nào mà dính tới thằng Tòng là sẽ không bao giờ xa được nó! Cũng may là nó đã chết, chứ không thì vợ chồng tôi sẽ mang tiếng là dạy con kiểu ghen tuông kỳ quặc đó!

Bà trách ông: - Nó là con mình, sao ông cho rằng nó chết là may!

Ông Hai tỏ ra thông thoáng:

- Mình trong nhà nói với nhau mà. Vả lại cô này đây, chẳng hiểu số phận sao lại dính tới thằng Tòng. Tôi nói thật, tôi lo nhiều hơn mừng.

Nhưng Hương vẫn bình thản:

- Cháu chấp nhận.

Bà Hai lại thở dài, rồi bà nhìn sang Hương, nói:

- Cháu cứ ở lại đây. Nhưng bác nói trước...

Hương phấn khởi, đi thẳng ra nhà sau, nhanh chóng hòa nhập như một thành viên trong nhà. Vợ chồng ông Hai nhìn nhau, bàn riêng:

- Tôi tội nghiệp con nhỏ này. Chắc cha mẹ nó đau khổ lắm khi mất đứa con gái như vậy. Bây giờ ông tính sao, chứ không lẽ để thế này coi sao được.

- Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra với tụi nó, nhưng việc chứa chấp một đứa như con nhỏ này tôi e là sẽ rắc rối đây. Nhìn cung cách cũng biết nó là con nhà đàng hoàng, việc nó bị như vậy đúng là một tai nạn. Tôi tính...

Ông trầm ngâm một lúc rồi nói đủ cho bà nghe:

- Bà thử lén xem giấy tờ tùy thân của nó, xem nhà cửa nó ở đâu. Tôi tính…

Bà Hai gật đầu:

- Thì để từ từ...

Ngay tối hôm đó, trong lúc vợ chồng ông bà chưa ngủ thì chợt nghe có ai gọi rất khẽ ngoài cửa sổ:

- Tôi đây! Tôi là ba của con Hương...

Bà Hai giật mình gọi khẽ chồng:

- Ông ra coi, ba con Hương!

Ông bước ra cửa sổ nhìn thì chẳng thấy bóng dáng ai, toàn một màu đen tối. Ông vừa định quay trở vào thì giọng nói lại vang lên đủ cho họ nghe: - Thằng con của ông bà nó không cho tôi nói... Ông bà hãy mau mau tìm mộ của nó, dời đi liền nơi khác.

- Mau lên…

Tiếng nói tới đó thì im ngang. Dường như người nói bị chuyện gì hay sợ ai đó nên nín thinh. Rồi sau đó thì chẳng còn nghe nữa...

Bà Hai hốt hoảng:

- Coi chừng, thằng Tòng hại người ta.

Ông Hai gọi Hương đang ngủ ở nhà sau lên và hỏi: - Ba cháu thế nào?

Hương hơi bất ngờ, đáp nhanh:

- Dạ, ba cháu đã chết rồi!

Hai ông bà giật mình:

- Vậy sao mới rồi…

Ông đưa tay ngăn bà lại: - Đừng nói, để tôi...

Ông quay sang Hương, hỏi thật nhỏ:

- Mồ mả ba cháu chôn ở đâu?

- Dạ, ở chùa Bảo Thiên.

Bà Hai kêu lên:

- Chùa Bảo Thiên! Thằng Tòng cũng chôn ở đó.

- Dạ, ba cháu....

Cô vừa nói tới đó thì bỗng kêu lên một tiếng đau đớn bởi một bên má hình như vừa bị ai đó tát một cái.

Ông Hai nói riêng với vợ: - Thằng Tòng nó ngăn không cho con nhỏ nói đó!

Ông bấm tay vợ và ra dấu cho Hương ở yên đó, không nói gì. Khi ra tới ngoài ông cũng chẳng nói lời nào, kêu xe đi mà chẳng biết đi đâu.

Đến khi xe ngừng trước chùa Bảo Thiên, bà Hai ngạc nhiên:

- Ông tới đây làm gì?

Không nói, ông kéo tay bà đi thẳng ra sau chùa, nơi có khoảng đất trống dùng làm nghĩa trang, có khá nhiều mộ. Đến thẳng ngôi mộ xây đề dòng chữ trên mộ bia: Nguyễn Văn Tòng, ông bảo:

- Tôi đoán không sai mà, bà thấy cái cây lớn tàn che khuất cả ngôi mộ kia không?

Bà Hai nhìn và giật mình:

- Năm ngoái vào tiết Thanh minh, mình còn thấy cái cây này nhỏ xíu. Thấy nó có bông đẹp nên tôi không cho đốn, không ngờ cây mau lớn quá, giống như cây trồng năm mười năm không bằng!

Ông Hai chép miệng:

- Đúng là không nên trồng cây lớn gần mộ. Rễ của nó có thể ăn xuống quan tài, không nên!

Ông nhìn kỹ một lúc, vừa định vào chùa hỏi gì đó thì đã nghe giọng hiền từ của vị sư trụ trì:

- Chào ông bà tới thăm mộ. Mô Phật, bần đạo mấy hôm nay có ý muốn tìm người nhà của ngôi mộ này, cũng chỉ vì cái cây đó.

Quay lại xá vị sư thầy, ông Hai nói liền:

- Con đang tính vào chùa xin ý kiến thầy để bứng cái cây này đi, thì may có thầy đây...

Sư thầy bảo:

- Một khi cây lớn nằm giữa hai ngôi mộ thì phải bứng ngay, bởi nhiều khi rễ nó ăn phạm vào mộ nào đó thì không nên.

- Bạch thầy, con sẽ làm ngay. Sẽ bứng cái cây này xin thầy cho phép.

Vừa khi ấy có tiếng người xôn xao sau lưng, sư thầy quay lại, lên tiếng:

- Thiện tai, thiện tai! Tôi mới có ý nhắc tối qua thì bà cũng tới!

Người vừa tới chính là bà Thoa, mẹ của Hương. Bà cùng đi với Phượng. Thấy có ông bà Hai, bà Thoa định hỏi gì đó nhưng chưa tiện lên tiếng thì sư thầy đã hỏi: - Đã tìm được cô Hương chưa?

Bà Thoa mếu máo: - Dạ bạch thầy, chưa. Hôm qua nó có điện về, nhưng mới nói được mấy tiếng thì như bị ai đó cấm không cho nói. Con đang lo nên định tới đây hỏi ý thầy...

Trong lúc mẹ nói chuyện với sư thầy thì Phượng ngồi xuống ngôi mộ bên cạnh mộ của Tòng, đưa tay bứt những cọng cỏ mọc che mộ bia. Cô bảo mẹ:

- Mộ của ba hình như bị nứt một bên nè mẹ.

Vừa nghe Phượng nói, ông Hai hỏi liền:

- Cô đây là gì của cô Hương? Có phải cô Hương có cái nốt ruồi bên mép trái không?

Phượng ngạc nhiên:

- Sao bác biết chị cháu?

Bà Thoa cũng hỏi:

- Ông biết con gái tôi trong trường hợp nào? Đúng là nó có nốt ruồi trên mép. Nó còn...

Bà Hai buột miệng nói:

- Nó đang ở nhà tôi!

Bà Thoa tròn mắt ngạc niên:

- Có đúng không? Lạy trời...

Ông Hai đột ngột bảo:

- Tôi nghiệm ra rồi, mộ này của thằng Tòng, còn mộ này của ba con Hương. Như vậy nguyên nhân là bởi cái rễ cây này!

Ông không nói gì thêm, hỏi sư thầy mượn cây cuốc của nhà chùa, rồi tự tay ông cuốc xuống chỗ gốc cây. Càng đào sâu thì rõ ràng cây có rễ rất dài, chia làm hai nhánh. Một rễ ăn sâu xuống ngay áo quan của Tòng, đâm thủng ván hòm, xuyên vào trong. Còn nhánh kia thì ăn qua ngôi mộ của ba Hương, và lạ lùng làm sao, cả cái rễ dài và to ấy nằm vắt ngang qua quan tài, rồi lại vòng xuống bên dưới trổ đầu rễ trở lên, chẳng khác nào cỗ quan tài bị trói, cột chặt!

Vừa nhìn thấy rõ cảnh đó, ông Hai quay sang sư thầy xá một xá rồi nói:

- Con không tin dị đoan, nhưng những gì được nghe từ nào đến giờ thì xin quả quyết rằng, chính hai cái rễ cây này đã khiến cho hai vong hồn nằm ở hai ngôi mộ này liên hệ với nhau. Thằng con trai tôi nhỏ, nhưng nó lại làm cái việc trói chặt ông anh đây. Bởi vậy...

Bà Thoa nói nhanh:

- Bởi vậy lâu nay vong hồn ông nhà tôi như bị ai đó bóp cổ, không cho nói, không làm theo ý muốn!

Ông Hai lo sợ: - Bà vào chùa xin sư thầy một bó nhang ra đây, tôi sẽ cúng vong họ.

Sư thầy chừng như không muốn chứng kiến chuyện cúng vái hồn ma, nên ông niệm Phật rồi quay bước vào trong. Ở ngoài này, sau khi vợ đem bó nhang ra, ông Hai đốt lên và khấn:

- Con sống khôn thác thiêng, vốn tính con là hiền lành, đâu muốn hại ai. Chỉ vì con hận con vợ trước bỏ con mà đi nên con muốn trả thù những phụ nữ khác. Nhưng con nên nhớ rằng, người như cô Hương đó không có thù oán gì với con, sao con nỡ hại đời cô ấy. Người ta còn có cha mẹ, gia đình, vậy hãy để cô ấy tự do...

Ông vừa vái xong thì cầm nhanh cây búa lên, dang thẳng tay chặt phụp xuống hai cái rễ cây, làm cho nó đứt lìa khỏi thân cây! Lạ thay, từ chỗ vết chặt đứt có những giọt máu chảy ra, chẳng khác chặt phải thân người.

Đột nhiên ông Hai ngã bật ra ngoài, mặt mày trắng bệch! Bà Hai hoảng hốt: - Kìa, ông!

Nhưng ông Hai xua tay:

- Tôi không sao. Không sao...

Bà Thoa cũng trong tình trạng như vậy, nhưng bà vẫn còn tỉnh táo, bảo con gái: - Con đưa má về nhà. Má có linh tính như con Hương nó đã về.

Linh tính của bà Thoa không sai. Lúc họ vừa xuống xe thì đã thấy bóng Hương trong nhà. Cô ngơ ngác: - Má đi đâu vậy? Mà sao con lại về được đây?

Ôm con vào lòng, bà Thoa nức nở khóc:

- Vậy là tốt rồi! Để rồi mẹ sẽ nói cho nghe. Đi tắm rửa đi, rồi làm ngay mâm cơm cúng ba con!

Phượng phấn khởi lắm:

- Tiền hung hậu kiết chị Hương ơi!

Hương cố hỏi mà mẹ và em gái không chịu nói. Lát sau bà Thoa trấn an: - Má nói vui thì cứ vui. Từ nay con không còn phải lo sợ gì nữa.

Hương cũng cảm thấy người nhẹ nhõm, cô siết chặt tay mẹ và em, vừa hỏi: - Thằng Hải đâu?

- Tội nghiệp thằng nhỏ, nó thương con quá nên một mình về quê tìm rồi. Để má nhắn cho nó về.

Hôm sau…

Và những hôm sau nữa... Cuộc sống gia đình bà Thoa yên ổn. Hương ngủ ngon giấc và hầu như không còn bị ám ảnh bởi chuyện lạ lùng kia nữa. Bà Thoa lên kế hoạch dời ngôi mộ của chồng đi nơi khác. Bởi dù sao bà cũng còn rùng mình mỗi khi nghĩ tới hai cái rễ cây nọ...

 

KHUYỂN TINH

(Tác giả: Người Khăn Trắng)

 

Con chó cái nhà phú ông đi hoang một thời gian bỗng quay về. Ông mừng rỡ, lại càng mừng hơn, khi thấy cái bụng nó có chửa. Ít lâu sau, con chó cái đẻ được năm con chó con, trong đó có một con chó đực toàn thân đen như mực, mũi trắng, giữa trán có một đốm trắng, bốn bàn chân như mang vớ trắng, chót đuôi cũng trắng phau.

Các bậc trưởng lão đến chơi đều khuyên ông nên đập chết con chó đen đó, hoặc nuôi nó lớn một chút rồi đem nấu vài món cầy tơ nhậu quách cho rồi. Phú ông gạt phắt đi:

- Chó nào chả là chó? Hơi đâu mà tin dị đoan.

Thế là phú ông cứ nuôi cả sáu mẹ con chó đen có bộ lông kỳ lạ đó. Bà con lối xóm thấy nhà ông có nhiều chó con nên đến xin, ông đều cho, nhưng không ai lựa con chó đen đốm trắng.

Con chó còn lại này, sau thời kỳ bú mẹ, biết ăn, rất mau lớn, trông thật đẹp mã. Riêng cái đốm trắng chính giữa trán, nếu tinh ý nhìn kỹ, càng giống hình cái... đầu lâu. Nó là một con chó rất hung hăng, giữ nhà, giữ cửa rất đắc lực. Nhưng một thời gian sau người ta phát hiện nó thích ăn thịt sống, thường lén chạy sang nhà hàng xóm bắt gà vịt, mèo con hoặc chạy ra đồng hoang bắt rắn và chuột ăn tươi nuốt sống.

Lúc săn mồi, nó chạy nhanh cực kỳ, miệng hả lớn, lưỡi thè dài, răng nhọn hoắt, bốn chân sải vun vút trong gió như không chạm đất, chìa các móng sắc bén ra tứ hướng như thị oai, răn đe. Nó luôn luôn giành ăn và cắn chó mẹ cho đến chết lần chết mòn. Thấy vậy, nhiều người khuyên phú ông nên đề phòng kẻo nó thành tinh. Phú ông cũng cho đó là chuyện huyền hoặc, tin theo chỉ là mê tín dị đoan.

Ngôi nhà phú ông lợp ngói, mái dốc rất khó leo. Mỗi khi nhà dột, muốn leo lên thay một miếng ngói cũng khó. Vậy mà một đêm kia, phú ông nghe như có người chống gậy đi trên mái nhà. Ông cho đó là kẻ trộm nên giả bộ ho để kẻ gian nghe thấy trong nhà có người còn thức mà bỏ đi. Quả nhiên, sau tiếng ho của ông, tiếng động trên mái nhà nhẹ dần rồi mất hẳn.

Đêm hôm sau, ông lại nghe thấy những tiếng động tương tự. Ông ngồi dậy thắp đèn, tiếng động lại mất dần.

Rồi đêm thứ ba, thứ tư... sự kiện này lại tái diễn. Thật là một tên trộm gan lì, lối đuổi trộm của ông chỉ hiệu quả qua từng đêm, chẳng làm nó sợ. Ông phải rình và cho tên trộm này một trận để từ nay về sau nó không dám tới kiếm chác tại nhà ông nữa.

Nghĩ vậy ông lấy cây cung xưa nay vẫn gác trên kèo nhà và bó tên xuống. Đêm thứ năm, ông lắp sẵn tên vào cung ngồi chờ, cửa chỉ khép hờ. Quá nửa đêm, vừa nghe tiếng động như bốn đêm trước, ông vội rón rén bước ra sân.

Hôm ấy tối trời, nhiều sao, nhưng ánh sao không đủ chiếu sáng để ông nhìn rõ những vật xung quanh. Ra tới sân, phú ông nhướng mắt nhìn lên mái nhà. Ông chỉ thấy lờ mờ một bóng người đầu đội nón lá, đang đi từng bước một. Ông vô cùng kinh ngạc tự hỏi: Người gì mà lạ lùng vậy, đi ăn trộm sao lại đội nón và chống gậy?

Ông định thần nhìn kỹ. Trong bóng tối mờ mờ ảo ảo ông thấy người đó không cao lắm, chỉ cỡ một đứa trẻ năm sáu tuổi, hai tay ngắn và hai chân cũng ngắn. Ông tự hỏi: Con nhà nào mà nghịch ngợm như ma quỷ thế nhỉ? Bóng đen ấy đang nghểnh đầu nhìn về phía xa xa, có vẻ như chờ đợi hoặc đang trông ngóng điều gì!

Mặc kệ! Muốn gì thì gì, dù là kẻ trộm hay trẻ con nghịch ngợm, ông cũng bắn một mũi tên về phía bóng đen, nhưng chỉ bắn để dọa dẫm, chứ không định tâm bắn trúng nó. Mũi tên vút qua mặt, bóng đen giật mình và cũng chỉ đánh vút một cái, nó lao mình vào đêm tối biến mất.

Ông quay trở vào nhà, đặt mình nằm, nhưng băn khoăn về những điều vừa xảy ra, bán tín, bán nghi suy nghĩ vẩn vơ mãi mới ngủ được. Sáng hôm sau, ông vừa thức dậy chưa kịp pha trà uống nước đã nghe vợ ông hỏi:

- Chiếc nón chiều qua, tôi để ở nhà bếp, ông có lấy làm gì không?

- Chiều tối rồi tôi làm gì đến nón? Chắc bà để đâu rồi quên đấy thôi!

Vợ ông không quên. Lúc ở ngoài đồng về, chính tay bà móc chiếc nón lên tay cối xay lúa, sáng nay định đội ra đồng, tìm không thấy nữa.

Phú ông pha trà, rót mời vợ. Bỗng có anh tá điền từ ngoài vào, tay cầm chiếc nón và một chiếc gậy tre, nói: - Nón của ai vứt ra hàng rào ngoài vườn, bên cạnh lại có cả chiếc gậy!

Phú ông nói:

- Chắc đứa nào nó nghịch chứ gì!

Tuy nói thế nhưng phú ông rất băn khoăn, khó hiểu về điềm gở này. Hôm sau, có ông hàng xóm qua chơi, phú ông thuật lại những chuyện đã xảy ra đêm qua, không quên nói thêm về chiếc nón và chiếc gậy ở hàng rào ngoài vườn. Ông hàng xóm không nói gì, uống nước, ăn trầu, hút thuốc rồi ra về.

Ra tới cổng, ông lên tiếng mời phú ông sang nhà chơi, ông có chút chuyện cần nói…

Gần trưa, phú ông sang nhà ông hàng xóm chơi. Sau khi mời nước, ông hàng xóm nói:

- Tôi phải mời ông sang đây, vì tôi biết câu chuyện nói với ông sẽ bị con chó lông đen mũi trắng nhà ông nghe hết. Tôi để ý thấy nó cứ quanh quẩn để nghe trộm những điều chúng ta nói với nhau.

Phú ông ngạc nhiên hỏi:

- Chó mà cũng biết nghe trộm à?

- Đúng! Con chó này nó là Khuyển tinh, chó yêu ma, chứ không phải chó thường như bao con chó khác. Bóng đen ông thấy trên nóc nhà chính là nó.

Phú ông lắc đầu nói: - Tôi không tin! Chó làm sao biết đội nón, lại biết đi hai chân!

Ông hàng xóm bảo: - Trời ơi, ông ngây ngô quá! Là yêu ma, nó có thể đi một chân, hai chân, thậm chí còn bay được nữa là đằng khác ấy chứ. Ông không nghe các cụ nói gì về chó ma hay sao?

Phú ông lắc đầu. Ông hàng xóm lại nói tiếp:

- Các cụ bảo rằng nó là yêu ma mang hình chó gọi là Khuyển tinh. Loại Khuyển tinh này thiên biến vạn hoá, lúc thì hữu hình, lúc thì vô hình.

- Nó làm thế để làm gì?

- Thế ông cho cái bóng đen đi trên nóc nhà là một đứa nhỏ? Con nhà ai mà lúc đêm hôm lại đi như thế? Vả lại một đứa nhỏ làm sao có thể vút mình, khi ông buông ra phát tên. Có mà ngã dập xác. Còn con chó ma này leo lên nóc nhà là để ngóng đồng bọn yêu ma của nó đó. Ở cái vùng đất đai nhà cửa bán sơn, bán địa, âm u ám khí như cái vùng chúng ta đang sống này có nhiều ma quái lắm. Hằng đêm, âm khí vượng nên chúng quy tụ lại. Chúng sẽ họp tại nhà con chó ông đang nuôi để bàn bạc gieo tai họa trả thù, trả hận con người. Năm nay lại nhằm vào năm chó. Dân các nước Âu Mỹ rất thương yêu quý trọng chúng, còn ở xứ ta thì con người bắt chúng đem ra đập đầu cắt cổ hoặc trấn nước làm thịt, chế biến thành bảy, tám, chín món cầy tơ ăn nhậu lu bù khắp làng quê, phố phường. Con chó nhà ông nó ngước nhìn về phía xa xa là để chờ đợi bộ tham mưu của nó đến đó. Ông sớm mà trừ nó đi kẻo mang tai hoạ đấy!

Phú ông nhíu mày suy nghĩ rồi hỏi: - Ở làng ta, ngoài tôi ra, có ai nuôi một con chó như vậy đâu?

Ông hàng xóm cười nói: - Tin hay không là quyền ở ông! Nhưng dù không tin ông cũng nên hóa kiếp con chó cho yên thân.

Phú ông cảm ơn ông hàng xóm những điều đã nói và ra về. Ông thấy cũng có đôi điều hợp lý nhưng trong lòng vẫn hơi nghi hoặc. Về đến sân nhà, ông thấy con chó đen chạy ra vẫy đuôi mừng rối rít. Nhìn nó vẫn là chó, lòng ông tan biến mọi nghi hoặc và vẫn để nó sống yên trong nhà mình.

Ông vẫn nuôi con chó lông đen mũi trắng đó cho đến khi nhà ông xảy ra một chuyện lạ.

Ông có đứa con gái đầu lòng mới 18 tuổi, trông rất duyên dáng và dễ thương. Trai làng đã nhiều cậu lăm le muốn làm rể.

Bỗng con gái ông tự nhiên mang bệnh, thuốc thang chữa trị thế nào cũng không khỏi, nhiều khi còn mê sảng. Trong lúc tỉnh, cô đã nói cho cha mẹ cô biết rằng đêm đêm cô cứ mơ thấy một bóng đen lách qua cửa sổ vào ép cô ân ái. Cô chống cự không nổi nên đành phải làm theo ý hắn. Kể từ khi rơi vào vòng tay hắn cô bắt đầu phát bệnh.

Cô cho cha mẹ biết bóng đen ấy rất kỳ lạ, không bao giờ nói năng câu gì. Hắn đến ép buộc cô mây mưa xong rồi đi ngay cô hỏi nhưng không bao giờ hắn trả lời. Nhiều lần cô chống cự không được, chỉ ú ớ kêu không thành tiếng.

Ông bà phú hộ lo lắng, tin chắc con gái mình bị tà ma ám ảnh. Một mặt phú ông cho người đi khắp nơi tìm thầy pháp xin bùa dán nơi buồng con gái để trừ tà. Một mặt phú ông nhờ một anh lực điền canh gác cửa chính và cửa sổ buồng ngủ cô con gái cưng. Chính ông, đôi khi đêm hôm thức giấc, cũng đến rình xem trong buồng ngủ con gái có động tĩnh gì không. Tuy nhiên, ông muốn làm gì thì làm, đêm đêm con gái ông vẫn phải làm theo ý muốn của bóng đen ma quỷ kia nên người cô ngày một xanh xao.

Một đêm kia thức giấc, phú ông tới buồng thăm con gái bỗng phát hiện anh lực điền gục đầu ngay cửa sổ, còn trong mùng cô con gái có người lục cục. Ông vội đập cửa báo động thì một bóng đen từ trong mùng lao nhanh ra cửa sổ, vượt qua đầu anh lực điền biến mất. Cái bóng đen ấy không phải hình người, không phải hình vật, trông y hệt cái bóng đen chống gậy và đội nón đi trên nóc nhà trước đây. Hai bóng đen là một và… đó là con chó.

Phú ông buồn rầu về buồng mình. Ông hối hận vì đã không hóa kiếp con chó cho xong. Bây giờ, ông phải quyết định giết nó để trừ giống yêu tinh đang gieo họa cho con gái mình. Nhưng một mình làm không nổi, ông phải nhờ một anh lực điền giúp sức.

Có lẽ con chó biết rõ ý định của chủ, nên tuy vẫn ở trong nhà ông, nhưng không để ai gần được nó. Có lúc bị ông và anh lực điền đuổi bắt không hiểu nó có phép nhiệm màu gì mà tránh thoát một cách dễ dàng, kể cả một lần anh lực điền đã choàng được vào cổ nó sợi dây thòng lọng bằng sắt.

Sau đó, con chó thấy phú ông đuổi anh lực điền đi, không cho ở nữa. Trong nhà chỉ còn người già và con gái nên nó có vẻ khinh thường và vẫn tác oai tác quái. Một ngày nọ, nó đang nằm giữa nhà thì thấy một ông già mặc quần áo thụng màu lá khô đến gõ cửa. Phú ông chạy ra chấp tay bái, mời khách vào tiếp đãi.

Con chó cảnh giác đi loanh quanh nhưng thấy hai người chỉ nói chuyện mùa màng, thời tiết nên yên tâm nằm tự nhiên bên cạnh không cần phải nghe lén, theo dõi. Bỗng… Vút! Xoẹt… Vút! Xoẹt…

Khắp nhà ngời lên những tia chớp sáng.

Thì ra ông khách đã bất thần móc ra một sợi dây ngũ sắc dấu kín trong người, quất trúng vào con chó. Con chó dị hình đã bị thần pháp trói chặt. Nó ngơ ngác ngước cặp mắt đỏ ngầu nhìn lên mọi người rồi từ từ nhắm kín lại. Bấy giờ cũng chính là giờ Tuất, ngày Tuất, tháng Tuất. Trước giây phút bị kết liễu mạng sống, nó còn kịp biết ông già mặc quần áo thụng màu lá khô là một vị pháp sư do anh lực điền rước về. Anh ta đã vâng lệnh phú ông âm thầm lặn lội lên núi thiêng rừng cao sát tận biên giới tìm pháp sư cao tay. Vị pháp sư này đã dùng phép của một sợi dây ngũ sắc. Khi ma quỷ vừa chạm vào sợi dây, tức khắc bị sợi dây thần trói chặt. Không còn biến hình được nữa.

Nó giống như ánh sáng mặt trời, thuộc dương. Ma quỷ hay yêu tinh thuộc âm, đều phải chết, hoặc tan rã dưới dương quang, không thể gây tai họa cho con người được nữa…

 

ĐIỆU LUẬN VŨ CỦA OAN HỒN

(Tác giả: Người Khăn Trắng)

 

Tiếng kèn trompette trỗi lên cao ngất và rồi từ từ hạ xuống thấp đến gần như ngừng thở... Cả gian phòng rộng đang đầy kín những cặp nhảy và hòa theo âm thanh của tiếng kèn, mọi người như quyện chặt vào nhau, những bước chân lướt nhẹ trên sàn gạch bóng...

Buổi dạ vũ càng đi vào khuya lại càng “nóng” khi mà các nhạc công chơi có vẻ bốc hơn, điệu nghệ hơn... Còn những đôi nhảy thì càng như không muốn rời nhau ra, có lẽ họ sợ đêm sắp tàn, cuộc chơi sắp hết. Đang nhảy, hai người ở gần cửa ra vào bỗng ngừng lại người nam trong hóa trang một hiệp sĩ Zorro nói khẽ với người bạn nhảy của mình:

- Em chờ chút, anh đi toilet.

Bị cụt hứng khi nhảy phải ngừng ngay trong lúc bản nhạc đến hồi mê ly nhất nhưng người phụ nữ mang mặt nạ cô gái dơi cũng đành phải chấp nhận. Cô vừa dựa lưng vào cửa để chờ, bỗng giật mình khi bàn tay phải của mình bị ai đó nắm chặt, kèm theo lời nói rất khẽ: - Bà nhảy với tôi bài này, bà Cẩm Thạch nhé!

Không kịp phản ứng gì thì bạn nhảy đã chủ động dìu ra hành lang. Ngoài sân vườn cũng được mắc đèn màu sáng huyền ảo, có vài cặp cũng đang ôm nhau nhảy ở lối đi. Vô cùng thơ mộng.

Do là dạ vũ hóa trang, người nào cũng đeo mặt nạ nên không nhìn được mặt nhau, nhưng qua tiếp xúc bàn tay, bà Cẩm Thạch đoán người mời mình nhảy là phụ nữ, hoặc có thể là một thanh niên mảnh mai. Anh ta nhảy rất điệu nghệ, bước chân lả lướt, bay bướm như những vũ sư chuyên nghiệp. Vốn mê nhảy, nên sau vài mươi giây e dè với người bạn lạ, bà Cẩm Thạch bắt đầu thích thú nét nhảy của người lạ, bà đánh bạo lên tiếng: - Anh có thể cho biết quý danh, hoặc nghề nghiệp?

- Bác sĩ. Còn tên thì xin... khất lại đến sau bản nhạc này.

Giọng nói hơi khàn đục và rất khó nghe, nhưng điều đó cũng không làm cho bà Cẩm Thạch bớt tò mò:

- Anh không có bạn nhảy?

- Không. Tôi đi tìm bà.

Lúc này họ đã dìu nhau ra xa ngoài sân vườn, lẩn khuất vào hàng cây khá rậm. Tiếng kèn trompette chỉ còn văng vẳng vọng ra. Bà Cẩm Thạch hơi ngại:

- Sao không trở vào phòng cho ấm?

Giọng người kia càng khàn đục hơn: - Bà thiếu hơi ấm sao? Tôi nghĩ ngược lại, bà đã ấm quá nhiều, quá lâu rồi. Giờ đây bà cần một chút sương lạnh, để thấm thía thế nào là những giây phút lạnh lẽo, cô đơn!

Trước giọng điệu hơi bất thường, bà Cẩm Thạch không còn đủ kiên nhẫn: - Ông là ai vậy? Ông có ý gì?

Bấy giờ bà đã kéo chiếc mặt nạ người dơi ra, để lộ gương mặt trang điểm rất kỹ, rất đậm son phấn để che đi sự già nua của một phụ nữ tuổi đời trên 60. Người kia vẫn để nguyên mặt nạ - một công chúa đẹp như hằng nga!

Và một giọng mỉa mai: - Đúng là phú quý nó đẩy lùi được cái già đi. Bà trẻ hơn tuổi nhiều lắm.

Bà Cẩm Thạch không cần giữ lịch sự nữa:

- Ông là ai? Ông muốn gì?

Bà quay đi, định trở vô nhà. Nhưng bàn tay của người kia đã giữ bà lại thật chặt, giọng khàn đục càng đục hơn: - Bà đi không dễ đâu! Đã hơn 40 năm rồi tôi đã để cho bà chạy thoát, nhưng bây giờ thì không.

Giọng nói kia lúc giận dữ lại nghe có âm của một phụ nữ. Bà Cẩm Thạch hơi run: - Đây là... là…

Chiếc mặt nạ Hằng nga trên mặt người nọ đột ngột rời ra, để lộ mọi sự gớm ghiếc. Chỉ nghe bà Cẩm Thạch thét lên rồi lảo đảo ngã xuống. Có lẽ phải đến hơn 10 phút, khi vừa mở mắt ra bà đã nghe một tiếng cười khàn đục, lạnh buốt từ khuôn mặt quỷ trước mặt:

- Chắc là bà không bao giờ muốn gặp lại con người gớm ghiếc này, phải không bà chủ mỹ viện? Nhưng trái đất tròn mà, có chạy đi đâu thì cuối cùng cũng lại gặp nhau. Nào, bà hãy nhìn tôi đi, nhìn thật kỹ vào cái gương mặt do bà tạo nên. Bà nhớ chớ, trước khi mặt tôi ra nông nỗi thế này nó có sắc diện không thua gì chiếc mặt nạ tôi vừa mang. Chính bà, qua bàn tay mụ Chín Đen đã dùng axít huỷ hoại nó đi. Bà nhớ cái đêm hôm đó chớ, ở cạnh cây xăng Thiên Tân?

Bà Cẩm Thạch run như cầy sấy, bà chỉ lắp bắp không thành câu: - Tôi...tôi...

Người kia lại phá lên cười: - Kể cũng an ủi được phần nào khi lần đầu tiên tôi chứng kiến cảnh bà run rẩy dưới chân nạn nhân của mình. Nào, bà hãy nói to lên câu: Tôi sợ lắm cô Cẩm Nhung ơi! Nếu có trả thù thì xin cô đừng dùng thứ mà tôi đã dùng với cô ngày xưa. Xin cô, lạy cô... nào, hãy nói đi chứ!

Có lẽ do quá sợ nên bà Cẩm Thạch nói theo như vẹt: - Dạ, tôi xin cô, tôi không muốn chết vì axít. Tôi lạy cô.

Cẩm Nhung nhìn thẳng vào con người đang van lạy mình: - Phải chi ngày xưa bà để cho tôi có cơ hội để van xin, biết đâu bà cũng sẽ động lòng và tha cho tôi, để gương mặt tôi đâu đến nỗi thê thảm như thế này. Bà có đồng ý như vậy không?

Bà Cẩm Thạch chỉ chờ có thế, bà mau mắn đáp:

- Đúng! Đúng như vậy, hồi ấy tôi cũng đâu có nỡ.... Cẩm Nhung quát to:

- Giả dối. Chính con mụ tạt axít vào tôi sau đó đã khai trước công an là nó bị bà mua chuộc bằng tiền và còn hăm dọa nó nếu không ra tay mạnh và chính xác thì sẽ không toàn thân với bà. Nói để thử lòng dạ của bà chơi, chớ tôi còn lạ gì con mụ vợ của tên Thúc và trong thiên hạ ai cũng đều biết là đầy mưu mô, xảo quyệt, tàn ác, ghen tuông và nhẫn tâm hơn cả hoạn thư. Ngày đó chỉ vì nghề nghiệp, vì miếng cơm manh áo nên tôi đi làm vũ nữ, tôi chấp nhận cặp bồ với mấy tên thừa tiền của, dư ăn rửng mỡ, chớ đâu có ý giật chồng của ai. Nhưng mà thôi, dù sao thì cặp với một người có vợ thì phải trả giá, nhưng cái giá quá đắt, quá độc địa, đến nỗi phải mang hận...

Nói xong, cô ta lấy mặt nạ hóa trang mang trở lại, rồi đột ngột bỏ đi, trước sự ngạc nhiên cao độ của bà Cẩm Thạch. Người phụ nữ đang nổi danh trên thương trường ở Mỹ, vừa trở lại Việt Nam và cũng đang nổi danh về sự giàu có và nhiều mục tiêu làm ăn không rõ ràng, trong vài phút vừa qua bà ta tưởng chừng như đang sa vào địa ngục, cận kề với cái chết bởi đòn thù sắp phải gánh chịu... Nào ngờ, được thoát nạn một cách không ngờ, cho nên bà ta chưa kịp đứng dậy cho đến khi có ai đó lên tiếng phía sau lưng:

- Chị Cẩm, làm gì ngồi đây? Bệnh à?

Một phụ nữ khác chừng như là bạn thân của bà ta vừa bước tới, đưa tay đỡ bạn dậy: - Coi bộ bệnh nặng đấy, để em dìu chị vô nhà. Thảo nào nãy giờ nhiều người chạy kiếm chị quá chừng... Từ giờ phút đó bà Cẩm Thạch như người mất hồn, khi bà đeo mặt nạ hóa trang vào, lại đeo ngược, thành ra mặt nạ cô gái dơi như đang trợn trừng mắt nhìn lên trời.

Dò hỏi mất hai ngày, bà Cẩm Thạch mới biết được nơi Cẩm Nhung thường xuất hiện để làm nghề ăn xin kể từ khi bị tạt axít tàn phế. Nhưng khi đến nơi, đợi suốt mấy buổi, thì có người nói rằng đã từ lâu Cẩm Nhung không còn tới đây nữa. Lại phải lần mò hỏi thăm nhiều nơi, để cuối cùng bà Cẩm Thạch biết được nơi cư ngụ của người bà đang cần tìm.

Một ngôi nhà lá nhỏ, xiêu vẹo, đúng hơn là một căn chòi rách, ở tận một xóm nghèo ngoại ô, nơi đó người ta quả quyết chính là nhà của cô vũ nữ Cẩm Nhung ở. Tuy nhiên, khi tới nơi thì bà Cẩm Thạch lại một phen thất vọng, bởi nhà vắng tanh, nhìn vào khe vách hở cũng chẳng một ai. Duy nhất một tấm ảnh chân dung của một cô gái đẹp theo kiểu cách đó ngót 50-60 năm, đang được dựng trên một chiếc bàn gỗ không còn đủ chân. Bà Cẩm Thạch nhìn ảnh với một tâm trạng khó tả, nửa tức, nửa xót xa. Con người đó, gương mặt đẹp như hoa khôi, ngày xưa chính bà đã quyết tâm hủy hoại bằng mọi giá: - Bà tìm ai vậy?

Giật mình quay lại, bà Cẩm Thạch hơi lúng túng đáp lời một thanh niên đạp xích lô vừa dừng lại:

- Tôi... tôi tìm cô... cô Cẩm Nhung trong nhà…

Người đạp xích lô tỏ ra rành rẽ:

- Cô chết hơn năm nay rồi, còn đâu mà tìm!

Anh ta đạp xe đi sau khi trả lời, chỉ còn lại bà Cẩm Thạch với tâm trạng sợ hãi, sững sờ.

- Chết rồi? Vậy tại sao…

Không tự trả lời được thắc mắc trong lòng, bà Cẩm Thạch chợt rùng mình, nghe ớn lạnh khắp xương sống.  Có một tin tức loan truyền trong cộng đồng Việt kiều tại Mỹ ở một địa phương, làm nhiều người chú ý: Bà Cẩm Thạch, chủ một loạt những thẩm mỹ viện, chẳng hiểu lý do gì tự dưng dùng mỹ phẩm pha chế sai công thức, để bôi lên mặt mình và lãnh hậu quả khôn lường. Toàn bộ khuôn mặt đã bị hủy hoại, trông chẳng khác quỷ dạ xoa!

Chẳng ai biết được nguyên nhân, duy chỉ có một người, đó là ông chồng của nạn nhân. Nhưng khổ nỗi, người đàn ông đó lại đang trong nửa điên nửa tỉnh. Lúc tỉnh thì ông ta chỉ khóc và ngay lập tức chuyển trở lại trạng thái điên rất nặng, một khi nếm được vị nước mắt của mình.

Có người tình cờ bắt gặp ông ta viết nguệch ngoạc dòng chữ lạ trên vỉa hè: Oan oan tương báo…

Ở Tổng Hà Nam, hễ nói đến ông Hàn Giáp là người ta tưởng tượng ra ngay.

 

 

BỨC HỌA TRÊN TƯỜNG

(Tác giả: Bồ Tùng Linh)

 

Mạch Long Ðàm, người Giang Tây, với hiếu liêm họ Chu đều là khách trọ ở kinh đô. Ngẫu nhiên cùng dạo chơi một cảnh chùa. Ðiện Phật, giải vũ, phòng tăng đều không lấy gì làm rộng rãi. Chỉ có một vì sư già trụ trì trong đó, thấy khách vào bèn xốc áo ra đón, rồi dẫn khách đi xem khắp đó đây. Trong điện có tô tượng Chí Công, hai bên tường đều vẽ vời rất tình xảo, nhân vật thảy đều như sống thật. Tường bên Ðông vễ bức" Thiên nữ rắc hoa", ở trong có một thiếu nữ buông mái tóc thề, tay cầm bông hoa, miệng hé cười, đôi môi anh đào muốn nhấp nháy, làn sóng mắt dường như đung đưa.

Chàng Chu chú mục giây lâu, bất giác như bị mất hồn, bàng hoàng thờ thẫn. Rồi thân thể bỗng nhiên phơi phới, như cưỡi trên mây mù, thoắt cái đã bay lên đến bức tường.

Nhìn thấy lầu gác trùng trùng không phải là cõi trần. Một vị sư già đang thuyết pháp ở trên tòa, những người mặc áo hở vai vây xung quanh đông vô kể.

Chu cũng đứng lẫn vào trong số đó. Một chốc, tựa như có người ngầm kéo vạt áo, quay lại thì ra cô thiếu nữ có mái tóc thề, đang vừa cười vừa quay đi. Chàng lập tức trở gót bước theo.

Qua những hành lang quanh co thì có môt căn phòng nhỏ. Chu ngập ngừng không dám tiến nữa nhưng thiếu nữ đã quay đầu lại, đưa bông hoa trong tay lên có vẫy gọi, chàng liền bước theo vào.

Trong phòng tịnh không có người, chàng vội ôm chầm lấy, nàng cũng không kháng cự gì lắm, bèn cùng nhau giao hoan thỏa thích. Xong rồi nàng đóng cửa ra đi, dặn Chu đừng hỏi. Ðến đêm lại đến. Cứ thế được hai hôm, các bạn gái nàng biết được, cùng nhau tìm thấy chàng, liền trêu trọc nàng rằng: - Cậu bé trong bụng đã lớn tướng mà con để mái tóc bồng bồng, cũng học đòi làm gái còn son ư? Rồi bảo nhau đưa cho nàng nào trâm, nào hoa tai, bắt nàng cuốn ngược tóc lên. Cô gái thẹn thùng, không nói lời nào. Một nàng bảo: - Chị em ơi, tụi mình đứng đây lâu, kẻo người ta mất vui. Cả bọn liền cười và bỏ đi. Chàng nhìn lại nàng, thì tóc mây đã búi cao lên, vành tóc phượng buông thấp xuống, so với cô gái để tóc thề lúc trước lại càng xinh đẹp gấp bội.

Nhìn quanh không có ai, bàn dắt nhau bước vào cuộc ân ái. Hương lòng rạo rực, lạc thú đang nông, thì bỗng đâu nghe tiếng ủng da cồm cộp rất dữ, dây xích và khóa kêu loảng xoảng, cộng thêm tiếng quát tháo, tiếng cãi cọ huyên náo.

Nàng kinh hoàng nhỏm dậy, cùng với chàng đều ghé mắt nhìn trộm ra ngoài, thì thấy một vị sứ giả mặc áo giáp vàng, mặt đen như sơn, tay cầm khóa, tay nắm chùy, đám thiếu nữ xúm xít xung quanh.

Sứ giả nói: - Ðã đủ chưa? Có tiếng đáp: - Ðủ cả rồi. Sứ giả lại nói: - Nhược bằng có chứa chấp người hạ giới thì lập tức bảo nhau cùng khai ra, chớ để phải hối về sau. Cả bọn đồng thanh đáp: - Không có đâu!  Sứ giả quay người, đưa cặp mắt cú vọ nhìn quanh, tựa hồ tìm ra kẻ đang nấp. Cô gái cả sợ, mặt xám như tro, thảng thốt bảo chàng: - Mau trốn xuống gầm giường.

Rồi mở cánh cửa ngách bên tường lẻn đi mất.

Chu nằm bẹp xuống, không dám thở.

Giây lát nghe tiếng ủng đi vào trong phòng rồi lại đi ra. Chẳng bao lâu tiếng huyên náo xa dần, bụng đã yên, nhưng ngoài cửa vẫn có tiếng người qua lại bàn bạc. Chu cứ thấp thỏm như thế giờ lâu, đến lúc bên tai như có tiếng ve kêu, trong mắt nẩy đom đóm, tình trạng ngỡ không chịu nổi nữa, chỉ còn cố lắng tai để đợi nàng về, cuối cùng cũng không còn nhớ thân mình từ đâu mà đến đây.

Bấy giờ Mạnh Long Ðàm đang đứng trước điện thờ chớp mắt đã không thấy Chu đâu, ngờ vực hỏi Nhà Sư. Vị sư cười đáp: - Ði nghe thuyết pháp rồi.

Mạnh Long Ðàm hỏi: - Ở đâu?

Nhà Sư đáp: - Không xa.

Một chốc Nhà Sư bèn gõ ngón tay lên tường mà gọi to lên rằng: - Ông đàn việt họ Chu, đi chơi lâu thế, sao chẳng quay về? Liền thấy giữa bức họa trên tường có hình của Chu, đang đứng nghển cổ lắng tai, chừng như nghe ngóng. Nhà Sư lại gọi tiếp:

- Ông bạn cùng đi đợi lâu rồi đấy.

Thế rồi Chu bồng bềnh từ trên tường bay xuống, lòng lạnh như tro, người cứng đờ như gỗ, mắt trừng trừng, chân bủn rủn.

Mạnh đâm hoảng, sẽ sàng hỏi han.

Thì ra lúc đó Chu đang núp dưới giường, bỗng nghe tiếng gõ vang như sấm, vội chui ra khỏi phòng để nghe ngóng tình hình.

Cả hai cùng ngước nhìn cô gái nhón hoa thì mái tóc vặn hình ốc đã cuốn cao lên, không còn xõa tóc nữa. Chu khiếp sợ, vái vị sư già mà hỏi duyên cớ.

Nhà Sư cười đáp: - Ảo là do mình sinh ra, bần đạo làm sao giải thích được!

Chu ỉu xìu mất cả khí thế.

Mạnh sợ hãi không còn tự chủ nổi, vội đứng dậy lần bậc thềm ra về.

 

HỒ GÃ CON

(Tác giả: Bồ Tùng Linh)

 

Có một Thiên Quan họ Ân, người Lịch Thành thuở nhỏ, nhà nghèo, thường tỏ ra gan dạ. Trong ấp có khu nhà của một cố gia, rộng vài chục mẫu, lầu viện liền nóc, thường thấy chuyện quái dị, vì thế mà bỏ hoang, không ai ở. Lâu ngày tranh cỏ mọc um tùm, giữa ban ngày cũng không ai dám bén mảng đến.

Một hôm, Ân đang cùng các bạn học trò uống rượu, có người nói đùa: - Ai dám ngủ trong nhà đó một đêm, chúng tôi sẽ góp tiền đãi bữa rượu.

Ân ngồi nhổm ngay dậy, nói: - Khó gì việc ấy:

Rồi cắp một chiếc chiếu mà đi. Chúng bạn tiễn Ân đến cổng, bảo đùa rằng: - Chúng tôi hẵng đợi ngoài này, nếu như có thấy điều gì thì kíp gọi to lên.

Ân cười đáp lại: - Nếu có ma hãy hồ thì sẽ tóm cổ đưa về làm bằng Nói rồi đi vào. Thấy lau sậy mọc khuất cả lối đi, các loài cỏ dại mọc rậm như gai.

Hôm đó, nhằm khoảng đầu tháng, trăng non mờ nhạt, nên cửa ngõ cũng phân biệt được. Ân đưa tay lần vách mà đi mãi, mới đến khu lầu phía sau.

Trèo lên sân thưởng nguyệt, thấy sáng sủa, sạch sẽ, một vành trăng sáng ngậm trên đầu núi, ngồi một lúc lâu, không thấy có gì lạ, trong bụng cười thầm cho là thiên hạ đồn hão.

Rồi giải chiếu xuống đất, gối đầu lên hòn đá, nằm ngắm sao Ngưu Lang Chức Nữ.

Canh khuya, lơ mơ muốn ngủ, Ân chợt nghe dưới lầu có tiếng giầy lẹp kẹp đi lên. Ân vờ ngủ, ghé mắt xem, thấy một nàng áo xanh xách chiếc đèn hoa sen, thốt nhiên nhìn thấy Ân thì giật mình lùi bước, bảo với người đi sau rằng: - Có người lạ trên này.

Người bên dưới hỏi: - Ai vậy?

- Cô gái đáp rằng: - Không biết.

Giây lát, một ông già bước lên, đến tận nơi nhìn kỹ, nói: - Ðây là quan thượng thư họ Ân. Ngài đã ngủ say, ta cứ làm việc mình. Ông lớn là người không câu nệ, chắc không lấy làm lạ mà quở trách đâu.

Họ bèn đưa nhau lên, vào cả trong lầu. Các cửa lầu mở hết. Một lát nữa, kẻ đi người lại càng nhiều. Trên lầu, đèn sáng như ban ngày.

Ân khẽ cựa mình, cất tiếng ho hắng.

Ông già thấy ông đã tỉnh, bèn bước ra, quỳ xuống thưa rằng: - Kẻ hèn mọn này có đứa con gái sắp gả chồng, đêm nay cho cháu làm lễ vu quy; không ngờ xúc phạm đến quan nhân, mong ngài lượng thứ.

Ân ngồi dậy, đỡ ông lão lên nói: - Không biết hôm nay là ngày vui mừng của nhà ta, thật áy náy vì không có gì để mừng tặng. Ông già đáp: - Ðược quan nhân hạ cố, trấn áp điềm hung hiểm, làm may lắm rồi. Lại xin được phiền ngài ngồi lại cùng vui, quý hóa biết chừng nào Ân cũng mừng, nhận lời. Vào trong lầu, nhìn xem, thấy bày biện đẹp đẽ, trang nhã. Lúc ấy, có người đàn bà bước ra vái chào, tuổi đã ngoại bốn mươi. Ông già nói: - Ðây là tiện nội. Ông vái chào lại. Bỗng nghe tiếng sênh, tiếng nhạc cất lên inh tai, có người nhà chạy vội lên thưa: - Ðến rồi! Ông lão chạy ra đón, Ân cũng đừng đợi. Phút chốc, một chiếc đàn lồng bằng sa mỏng, dẫn chú rễ vào. Chù rễ tuổi khoảng mười bảy mười tám, vẻ người sáng sủa, thanh tú. Ông già bảo hãy chào quan khách trước. Chàng trai đưa mắt nhìn ông.

Ông giữ chân tiếp khách dùm chủ nhà, nên nhận lễ nửa khách nửa chủ. Thứ đến là bố vợ và chàng rễ giao bái. Xong, bèn ngồi vào bàn tiệc.

Một loáng, đám người phấn sáp kéo lên như mây.

Rượu thịt bày la liệt. Chén ngọc, bình vàng sáng nhoáng, chiếu rọi lên bàn ghế. Rượu được vài tuần, ông già bảo con hầu vào mời tiểu thư ra. Con hầu vâng lời đi vào, lúc lâu vẫn không thấy ra. Ông lão tự mình đứng lên, vén bức màn, giục ra. Phút chốc, một bọn hầu gái, trẻ có già có, cùng đỡ cô dâu ra. Tiếng ngọc đeo vang lên lanh canh, mùi lan thơm sực nức.

Ông già truyền bảo nàng hãy trông lên mà chào lạy. Lạy xong cô dâu đứng dậy, ngồi bên cạnh bà mẹ. Ân đưa mắt liếc nhìn, thấy cô tóc phượng cài trâm thu, tai đeo ngọc minh châu, dung nhan tuyệt đẹp. Thế rồi, rót rượu vào chén vàng, mỗi chén lớn chừng vài đấu.

Ân nghĩ: - Vật này có thể đưa cho bạn bè làm chứng được, bèn giấu vào trong tay áo rồi vờ say, tựa xuống ghế, gục đầu mà ngủ.

Mọi người đều nói: - Ông lớn say rồi!

Không bao lâu, nghe tiếng chú rễ có lời xin rước dâu. Tiếng nhạc, tiếng sênh lại nổi lên, mọi người nhộn nhịp xuống lầu ra đi.

Xong xuôi, chủ nhân thu dọn bàn tiệc, thấy thiếu mất một cái chén, tìm khắp không thấy. Có người bàn, vụng ngờ cho ông khách đang nằm ngủ. Ông già vội gạt đi không cho nói hết, chỉ sợ Ân nghe được.

Lúc lâu nữa, trong ngoài im lặng cả, Ân mới trở dậy. Tối mò không có đèn đuốc gì, chỉ có mùi thơm của phấn sáp và hơi rượu, như còn đầy cả bốn quanh tường. Trông ra, hừng đông đã rạng, bèn thong thả bước ra. Sờ vào trong tay áo, cái chén vàng vẫn còn.

Ra đến cổng thì bạn bè đã đợi sẵn, họ cứ ngờ Ân đang đêm lẻn ra, gần sáng mới trở vào. Ân đưa chén cho xem, ai cũng kinh ngạc, dò hỏi. Ân bèn kể rõ đầu đuôi cho biết. Chúng đều nghĩ vật này thì anh học trò nghèo chẳng thể nào có, mới tin là chuyện thực.

Về sau, ông thi đỗ Tiến sĩ, nhậm chức ở Phù Khâu. Có nhà gia thế họ Chu thết tiệc ông, sai lấy bộ chén lớn, mà mãi vẫn không thấy người hầu mang ra.

Có đứa hầu nhỏ che miệng nói thầm với chủ nhân điều gì đấy, nét mặt chủ nhân có vẻ tức giận. Một lát sau đem bộ chén vàng ra, rót mời khách uống. Nhìn kỹ kiểu chén cùng đường trạm trổ, không khác chút gì với thứ chén của hồ dạo nào. Ân lấy làm lạ , Ân hỏi chén này chế tạo ở đâu. Chủ nhân đáp: - Bộ chén này cả thảy có tám chiếc, đời ông thân tôi làm quan Khanh tại kinh, kén tìm thợ khéo chế ra, nên lấy làm vật gia bảo truyền thế, cất kỹ từ lâu. Vì được đại nhân hạ cố mới lấy ở trong hòm ra, thì chỉ còn bảy chiếc. Ngờ đâu người nhà lấy trộm, mà dấu niêm phong mười năm vẫn như cũ, thật chẳng hiểu sao nữa.

Ân cười bảo: - Chén vàng mọc cánh bay mất rồi, những vật báu truyền đời không nên để cho mất. Tôi có một chiếc cũng gần giống, xin đem để tặng ngài.

Tiệc xong, về dinh, ông lấy chén ra, cho người mang đến. Chủ nhân xem kỹ, rất kinh hãi, đích thân đến tạ ơn, và hỏi nguyên do chiếc chén từ đâu mà có.

Ân bèn kể lại đầu đuôi câu chuyện.

Mới hay rằng vật ngoài nghìn dặm, hồ cũng có thể lấy được, duy chỉ không dám giữ làm của mình.

 

BÍ ẨN TRONG KHÁCH SẠN THỦY TIÊN

(Tác giả: Tường Phố)

 

Bãi biển Thùy Dương xanh rì, dưới hàng liễu rũ là một con đường thẳng tắp chạy dài từ biển lên một ngọn đồi nhỏ. Người khách lạ nhìn quanh lẩm bẩm:

- Ðúng là đây rồi mà! À. Khách sạn Thủy Tiên...

- Bé ơi! Làm ơn cho cô hỏi.

Chú bé bán vé số nhanh nhẩu: - Cô hỏi chi ạ?

- Bé có biết khách sạn Thủy Tiên đâu không?

- Ðằng sau trái đồi này. Nhưng cô đến đó làm gì?

- Có chuyện.

- Chuyện gì?

- Cô dự sinh nhật của người bạn.

Chú bé liến thoắng: - Hình như cô ở xa đến?

Cô gái cười xoa đầu chú bé:

- Cháu thông minh quá!

- Nè! Cô mua giùm cháu ít tờ vé số. Cháu tiết lộ cho cô bí mật này.

- Cái gì mà bí mật? Ở đâu?

- Thì cô mua giùm rồi cháu mới nói...

Nhìn vẻ trẻ con của chú bé, cô gái vui vẻ cầm lấy xấp giấy số của cậu bé, rồi mở ví trả tiền. Chú bé cười rối rít: - Cô đến đó ở lâu không? Cháu nghe đồn ở đó có ma đấy. Ghê lắm!

Cô gái mở to mắt:

- Có chuyện ấy ư? Ai nói mà cháu biết...

- Thôi cô đi đi... Có người nói cho cháu biết mà.

Cô gái ngẩn người một tí, quay nhìn biển xanh, con đường thật đẹp. Bóng chú bé đã mất hút. Gỡ cặp kính to đen ôm lấy khuôn mặt thon thả ra, nàng xách vali đi vòng qua bên kia đồi. Bên trên nắng đã rãi vàng nhuộm lá cây một vàng vàng óng ánh. Mới sáng mà trời đã lên cao báo hiệu một ngày nắng gắt.

... Biệt thự Thủy Tiên, một khách sạn to lớn sừng sững trước mặt. Cô gái đi nhanh vào bên trong. Khách khứa khá đông. Cô dõi đôi mắt tìm người quen:

- Ôi! Hải Thi bạn mới đến...

Cô gái Hải Thi cười lộ hàm răng trắng đều như hạt bắp non tơ, làm mọi người chú ý:

- Thủy Tiên tôi tìm bạn mệt muốn phờ râu luôn hà. Nhà thì to nhưng ẩn sâu phía sau đồi nên...

- Khó tìm phải không? Mình không biết sao lúc ấy bà nội mình không cho xây quay ra biển thì đẹp biết dường nào. Bà ấy lại đem tuốt lên đây... Nhưng...

Cô gái ngắt lời Thủy Tiên:

- Nhưng ở đây mình thấy nó thơ mộng hơn đấy.

Hải Thi lại cười thật hồn nhiên; Thủy Tiên kéo tay bạn đi:

- Thôi vào đây nhập tiệc kẻo trễ rồi Hải Thi. Xong xuôi chiều nay chúng ta đi hỏi nhà, còn nhiều điều...tâm sự.... cho bạn nghe nữa mà.

- Ừ!

Ðưa bạn vào trong, Thủy Tiên quay ra cùng ông Tính mời khách khứa dự tiệc. Rượu Champagne nổ giòn. Mọi người nâng ly. Khải Trọng cười to:

- Xin mời nữ chủ nâng ly chúc mừng.

Thủy Tiên thật xinh đẹp trong bộ đầm voan vàng óng ánh. Trông cô như một nàng tiên xinh xắn, nhẹ nhàng lướt trên tấm thảm nhung. Cô phùng má gắn lấy hơi... Mọi người cười vang. Ông Tính đi tới:

- Xin mời... xin mời...

Ông cất lời trịnh trọng:

- Ðây là Thủy Tiên, ái nữ của tôi vừa tròn mười chín cái xuân xanh...

Khải Trọng bước đến thận trọng đứng bên ông Tính: - Thưa bác con xin mừng cô Thủy Tiên trước. Ðây là quà của con tặng Thủy Tiên.

- Thủy Tiên con nhận đi.

Thủy Tiên e ấp nhìn Khải Trọng thật trìu mến:

- Cám ơn anh.

Hoàng Anh la lên: - Ê! Khải Trọng tặng quà gì cho cô ấy. Mau mở ra xem đi. Có phải là quà cưới không? Ðừng có giấu tụi này nha.

- Anh đừng có vô duyên quá vậy Hoàng Anh. Ai đời lại đi xem quà của người khác.

Hoàng Anh quay lại chỗ phát ra tiếng nói:

- Thì ra là cô... Ở đây tôi cũng gặp cô... đã không ưa mà gặp hoài.

Một cô gái ăn mặt thật model kiểu Hàn Quốc, tóc tai bù xù, nét mặt rạng rỡ, kênh kiệu: - Xí! Bộ tôi thích gặp anh lắm hả! Cái mặt thấy ghét.

- Ly Ly! Một chút tôi cho cô về bộ. Coi ai thấy ghét cho biết.

- Xì! Tôi nhờ anh Khải Trọng đưa về, cần gì cái bản... bản mặt của anh, hảm tài...

- Cô... cô... cô nhớ à nghen.

Hoàng Anh tức tối, nói lắp làm mọi người phì cười. Thủy Tiên vội ngăn ra:

- Thôi mấy bạn vào đây cùng hát Karaoke nha. Ðừng có cãi nữa mà.

- Ừ! Ði liền.

Ly Ly nhảy chân sáo vào phòng Karaoke trước, có tìm một chỗ ngồi vắt vẻo...

Mọi người vào yên vị, Hoàng Anh liếc xéo Ly Ly. Thủy Tiên kéo Hải Thi vào giới thiệu với mọi người: - Ðây là Hải Thi bạn của mình. Cô ấy vào đây giúp mình trong việc quản lý khách sạn này. Hoàng Anh cười bước đến giơ tay định bắt tay Hải Thi, liền bị Ly Ly ném chiếc bánh bông lan có dính kem vào tay nghe cái...bộp... làm anh cụt hứng:

- Hân hạnh được làm quen...

- Xí! Thấy người đẹp là tươm tướp ngay. Đ úng lag cái thứ...

- Thứ gì! Tôi không chọc ghẹo cô à nghen.

- Chọc tôi để tôi đánh anh... nhừ như cái mền...

- Con gái gì mà dữ như bà chằn. Hở là động tay động chân... Tôi đảm bảo cô sẽ bị...ống chề..., ai mà dám cưới sư tử Hà Ðông về nhà có ngày...

Ly Ly nhảy xuống đất đứng chống nạnh hai tay, trừng mắt nhìn Hoàng Anh, tay ngoắt ngoắt:

- Này! Nói đã chưa... tính hạ uy tín tôi trước mặt người khác hả. Có ngày làm sao?

Hoàng Anh đứng im như trời trồng chỉ có đôi mắt là chớp lia lịa. Bỗng Ly Ly quay sang kéo Nhã Thi đến ngồi cạnh cô: - Chị Nhà Thi dễ thương quá. Chị đừng có chơi với anh chàng...madman ấy, anh ta bị tế giếng hồi nhỏ đấy.

Mọi người cười ồ lên. Thủy Tiên chen vào:

- Thôi chúng ta hát đi.

Ly Ly đề nghị:

- Thủy Tiên ơi bạn khai mạc trước đi.

- Nhã Thi hát với mình bài gì đi.

- Bài...Mùa thu lá bay... hay lắm. Hoàng Anh lên tiếng đề nghị.

- Xời ơi! Xưa như trái đất, cổ lỗ như vạn lý tường thành, còn bài nào cũ hơn nữa không ông trời!

Ly Ly kéo dài giọng châm chọc Hoàng Anh.

Khải Trọng cười:

- Thôi Thủy Tiên...khai vị.... đi em.

- Tất cả lặng im đi.

Thủy Tiên chờ nhạc, cô đứng lên, bước tới gần màn hình, cô bắt đầu hát bài hát cô yêu thích. Chất giọng trong veo, Thủy Tiên hát say sưa bài Phố Hoa:  Nụ hoa thắm những giọt sương ban mai, nhìn làn mây trắng đang nhẹ trôi chân trời. Thênh thang phố hoa nắng vừa lên bối rối. Anh đi với em dưới trời hoa anh hởi. Nụ hôn đó những lời yêu mê say. Là mùa xuân mãi mãi chỉ cần em bên người. Ðôi khi hờn ghen đôi khi giận nhau vu vơ. Nhưng trong lòng em con tim tình yêu trao anh...

Thủy Tiên vừa hát cô vừa nhảy nhịp nhàng theo điệu nhạc. Bước chăn thoăn thoắt, Thủy Tiên để hết tâm trí vào tiếng nhạc mượt mà. Mọi người nhìn theo bước chân cô lướt trên sản gạch thán phục. Thủy Tiên bước đến gần màn hình vừa nhảy vừa hát:

- Một ngày nắng rơi l àm hồng má em cười. Em như nàng tiên bao câu chuyện xưa giống ước mơ. Một lời nói...

Tiếng hát bỗng im bặt. Thủy Tiên đứng khựng lại, chiếc micro trên tay cô rơi xuống sàn nhà đánh...bốp... một tiếng... Qua khung cửa kính, cô thấy một bà già từ phòng đối diện chống gậy đi tới. Bà lão mặc bộ đồ sẫm màu đen. Ôi bộ đồ màu đen... Sao giống bà nội của mình. Một luồng điện chạy dọc sống lưng làm Thủy Tiên bủn rủn. Cô sững người nhìn trân trối qua khung cửa, bà lão vẫn đi tới gần hơn, mái tóc bà bạc trắng lơ thơ mấy sợi. Ôi! Thật lạ tóc bà xỏa dài xuống tới đất. Bà run rẩy đứng ngoài cửa sờ soạng, rờ rẫm trên tấm kính, một tay chống gậy... Tay bà nhăn nheo, một tay ngoắt ngoắt vẫy vẫy như gọi Thủy Tiên mở cửa cho bà vào.

Thủy Tiên nhón chân lên nhìn kỹ. Mọi người thấy làm lạ. Máy vẫn hát, màn hình vẫn chiếu... Thủy Tiên nhìn chăm chăm vào cửa kính. Ðúng là bà nội. Trời ơi! Bà nội còn sống... Mắt bà nhìn cô đăm đăm, miệng bà mấp máy như bảo cô điều gì đó. Bà còn sống hay là hồn ma hiện trước mắt cô. Thủy Tiên nhìn miệng bà mấp máy, mắt bà chớp chớp. Máu cô như đặc lại vì sợ, miệng rú lên khi thấy bà lão như định gỡ cánh cửa ra: - Trời ơi! Ma...

Hét lên một tiếng, Thủy Tiên từ từ khụy xuống ngất đi trước bao cặp mắt đấy ngạc nhiên của đám bạn. Khải Trọng vội vã chạy đến, chàng ôm xốc Thủy Tiên lên.

Nhà Thi cũng vội vã chạy theo anh đưa Thủy Tiên về phòng của cô. Ly Ly hoảng hốt nhìn Hoàng Anh đang tắt màn hình cô hỏi nhỏ:

- Lúc nảy anh có nghe Thủy Tiên nói gì không?

- Hình như cô ấy gặp ma.

- Chắc cô ấy bị bệnh quá. Ma có gì ở đây!

Hoàng Anh hỏi Ly Ly: - Cô có sợ ma không? Í mà quên cô với ma là dòng họ mà?

- Anh nói sao? Ly Ly đang suy nghĩ về chuyện của Thủy Tiên. Cô chạy ra bên ngoài nhìn quanh quất. Tất cả đều vắng lặng. Các căn phòng đều đóng kính.
Ly Ly hơi sợ sợ. Cô chạy vội vào phòng Karaoke, Hoàng Anh đã ra khỏi từ lúc nào. Cô hoảng quá xách ví chạy băng đi tìm mọi người, từ trong ngõ một hành lang cô chạm phải một bà già. Cả hai ngã lăn kềnh ra. Ối! Trời ơi.

Ly Ly chưa kịp hoàng hồn thì bà già đã bò dậy và biến mất sau cánh cửa đóng kín im ỉm phía sau lưng cô.

- Trời ơi! Ma... ma...

- Sao, cô gặp ma rồi hả? Hoàng Anh cười nham nhở nhìn bộ dạng của Ly Ly.

Chân cô bị trầy rướm máu. Cô đi cà nhắc. Tóc tai càng bù xù hơn. Miệng Ly Ly mếu xệch:

- Anh ác lắm. Tự dưng bỏ tôi một mình. Tôi vừa chạm phải...

- Người chứ gì?

- Sao anh biết?

- Thì đây là khách sạn chỗ nào mà không có người. Cô làm gì mà giữa ban ngày ban mặt lại hét lên ma... ma... thật khó coi. Lúc nãy tôi tưởng cô họ hàng với ma nên để cô ở lại tâm tình với nó... Nào dè cô nhát như thỏ mà bày đặt dữ... Sợ chưa?

Ly Ly xoa xoa chỗ đau: - Anh đền đi! Chân tôi trầy hết rồi. Công tôi châm chút bao ngày... bây giờ làm sao? Ư! Lúc nãy anh mới bảo tôi là quỷ phải không? Quỷ nè... Quỷ nè!....

Vừa nói Ly Ly vừa đấm túi bụi vào lưng Hoàng Anh, anh nhăn mặt:

- Nè! Không giỡn nữa, lúc nãy tôi nghe cô hét lên cái gì vậy?

- Ma! Tôi thấy rõ ràng một bà lão đụng tôi té nhào. Tôi chưa kịp nhìn kỹ do đau quá, quay lại thì bà ấy biến mất sau cánh cửa này.

Hoàng Anh lẩm bẩm: - Lạ thật... Lạ thật... Lúc này Thủy Tiên bất tỉnh không phải cô ấy bệnh...

Mình nghe cô ấy hét lên:

Ma... ma...

- Anh lẩm bẩm cái gì vậy. Quỷ ám anh à? Tôi gặp ma chứ anh có gặp ma đâu mà bị nó hớp hồn.

- Cô ăn nói cẩn thận... Hình như ở khách sạn này có ma thật. Nó kìa...

Hoàng Anh vừa nói vừa chỉ rồi bỏ chạy. Ly Ly hoảng hồn không thấy gì cả cũng chạy theo anh té khói. Thủy Tiên mơ màng, đầu óc quay cuồng, tâm trí lộn xộn điên đảo... Cô đã bắt gặp bà nội, bà nắm tay cô kéo đi... Lúc đầu Thủy Tiên sợ hãi không chịu đi theo... Cô không dám nhìn bà nội:

- Bà nội đây mà, bà không hại cháy đâu? Lại đây bà thương.

Bà đứng yên trên thảm hoa chi chít những bông hoa như chiếc lồng đèn tí xíu treo lủng lẳng đủ màu sắc. Trông bà rất đẹp như một nàng tiên, bà vẫy vẫy gọi cô:

- Theo bà đi chơi nhà Thủy Tiên... Theo bà...

Tiếng bà thanh thanh, bà lướt đến gần giơ tay cho cô nắm. Thủy Tiên như bị thôi miên, cô bước từ từ lên thảm hoa. Khoái chí vì hoa đẹp dưới chân, vì đi trên tấm thảm bay khắp thế gian cùng bà tiên. Thủy Tiên sung sướng. Cô chợt ngẩng lên bà tiên đẹp biến mất tự bao giờ, trước mắt cô là một bà lão hình dạng xấu xí, mặt mày hung ác, một mụ phù thủy hay quỷ dạ xoa. Thủy Tiên lại hét lên:

- Bớ... người ta. Cứu... cứu tôi...

Chân đạp đành đạch vào thành giường. Thủy Tiên ú ớ lăn lộn làm mọi người vây quanh thất kinh.

Bà Thủy ôm con mà lắc: - Thủy Tiên... Thủy Tiên con làm sao vậy? Mau tỉnh lại đi con!

Thủy Tiên bật dậy ngơ ngác:

- Con đang ở đâu đây hở mẹ?

- Ở nhà của mình. Con làm sao vậy hở Thủy Tiên? Thủy Tiên ngơ ngác hết nhìn mẹ lại nhìn cha.

Ông Tính lo lắng:

- Sao đang hát vui vẻ con lại ngất xỉu. Con bị bệnh à? Không nói... để cha mẹ gọi bác sĩ trị cho con. Từ nhỏ đến giờ có khi nào con bị ngất đâu.

Xung quanh là Hoàng Anh, Ly Ly, Khải Trọng và cả Hải Thi đều tỏ vẻ lo lắng... Nhìn họ, Thủy Tiên chợt nhớ lại. Cô kể lại điều mà mình đã nghe thấy lúc nãy: - Con đang hát, bà nội đứng ngoài cửa vẫy con. Con thấy nội hiển hiện như đang còn sống.

Ông Tính lẩm bẩm hỏi đám bạn Thủy Tiên:

- Các cháu có trông thấy không?

- Dạ! Không.

- Có lẽ Thủy Tiên bị bệnh thì phải?

Thủy Tiên lắc đầu:

- Cha ơi! Con không có bệnh, con thấy bà nội rõ ràng, da bà nhăn nheo, tóc bạc trắng, đôi mắt nhìn con đăm đăm, tay bà vẫy vẫy... À miệng còn mấp máy...

Hình như bà bảo con mở cửa cho bà ấy vào.

- Thật ư? Chẳng lẻ nào...

Mẹ Thủy Tiên lẩm bẩm. Ông Tính nạt: - Em nói nhảm gì vậy? Anh không tin là có ma. Thời đại này rồi ai mà tin ba cái chuyện nhảm nhí ấy. Vả lại...

Ông Tính ngưng bặt, ông đang tính toán điều gì thì phải. Mắt ông lúng liếng nhìn quanh như sợ ai thì phải... Ông cười nói lớn:

- Các cháu à! Chắc là Thủy Tiên bị bệnh rồi. Cậu Khải Trọng mau đi gọi bác sĩ về đây giùm bác để lâu nguy hiểm... Bác nghĩ chuyện này không có gì đâu? Thật ra chắc là Thủy Tiên bị ám ảnh...

Khải Trong hỏi vẻ ngơ ngác:

- Aùm ảnh điều gì hở bác?

- Thì chuyện gia đình mà...

- Nhưng bác ơi! Con tin là có ma...

Ly Ly nãy giờ nghe Thủy Tiên kể, cô bán tín bán nghi nên lên tiếng: - Hử! Cháu nói sao?

- Thưa bác cô ấy thấy gà hóa cuốc đấy. Ðừng tin. Hoàng Anh xen ngang.

Ly Ly xô anh ra làm Hoàng Anh chới với suýt ngã: - Lúc nãy cũng tại cái anh quỷ này mà con phải đụng bà ấy... đúng rồi giống bà già mà Thủy Tiên kể. Mọi người xô chạy theo Thủy Tiên. Hoàng Anh tắt máy, con và anh ấy cải nhau, Hoàng Anh bỏ đi, nhìn phòng karaoke vắng ngắt, con liền chạy ra ngoài đụng một người. Ðây chân con còn rướm máy nè...

Bà Thủy chăm chú lắng tai nghe:

- Con gặp tận mắt ư?

- Con nhìn thấy kỹ người đó không?

Mọi người hỏi dồn. Có tiếng cười cợt:

- Ma mà đụng được à? Xạo ghê!

- Cái gì mà xạo? Tôi không bảo đó là ma nhưng vừa lồm cồm bò dậy định xin lỗi bà ấy thì bỗng dưng bà đã biến mất ngay sau bức tường trước mắt tôi, làm sao mà tôi không sợ cho được.

Bà Thủy nhìn ông Tính đăm đăm vẻ lo sợ:

- Không lẽ mẹ còn giận chuyện cũ hở anh?

Ông Tính lắc đầu trầm ngâm: - Giận thì giận, người chết thì đã chết rồi. Chết là hết. Cát bụi trở về cát bụi.

Hồn phách tiêu tan... - Nhưng nếu là hồn oan thì không tiêu tan mà về báo oán thì sao?

Ông Tính lặng lẽ ngồi xuống nói giọng ưu tư:

- Thật ra mình đâu có lỗi gì với mẹ, chỉ tại...

Thủy Tiên ngồi dậy nghe cha mẹ nói nãy giờ cô chẳng hiểu gì cả:

- Thế ra chuyện nội mất có điều gì bí ẩn phải không cha? Cha mẹ kể cho con nghe đi?

Ông Tính cất giọng u buồn não ruột:

- Cha đâu muốn giấu con, điều này cũng rất bình thường như bao chuyện xảy ra trong những gia đình khác, nhưng cha ngại kể ra khiến các bạn con cười chê gia đình ta... nhất là Khải Trọng cậu ấy...

- Nếu cha xem anh ấy là thành viên trong gia đình, thì anh ấy càng biết rõ hơn ai hết để giải quyết giúp cha mọi công việc... Còn đây là những bạn thân của con sẽ phụ giúp chúng ta quản lý khách sạn Thủy Tiên này.

- Ừ! Vậy là người nhà cả... Các cháu đừng kể cho ai chuyện Thủy Tiên, Ly Ly gặp ma nha.

Mọi người dạ lớn rồi quay quần bên ông Tính, vẫn đôi mắt trầm buồn u ẩn.

Ông cất giọng đều đều:

- Số là gia đình chúng tôi trước đây...

Thủy Tiên ngồi im lặng lắng nghe. Cô thấy như cả một trời quá khứ đang hiện về trước mắt. Ngày ấy cô đã lớn khôn rồi mà...

- A! Con chào nội.

- Giỏi! Thủy Tiên của nội giỏi lắm.

- Con cũng chào nội.

- Ôi! A Phong của nội ngoan quá. Thôi các cháu dẫn em ra ngoài chơi đi. Ðây này! Nội quên cho mỗi đứa một chút...

Cụ An cười vui vẻ. Cụ vừa tròn sáu mươi hai tuổi. Da hơi nhăn nheo, nhưng đôi mắt rất tinh, nét mặt nhân hậu, cụ ôm từng cháu vào lòng hôn hít. Thủy Tiên rất được bà cưng chìu, A Phong cũng thế. Thủy Tiên cảm thấy A Phong có vẻ gì đó không thật với bà. A Phong mới mười hai tuổi nhỏ hơn Thủy Tiên. A Phong giật lấy phong bì của Thủy Tiên:

- Này cho tôi xem với.

Thủy Tiên giấu chiếc bao lì xì sau lưng:

- Cậu xem của mình đi. A Phong dậm chân:

- Bà nội sao bà cho chị ấy nhiều, con ít không chịu đâu... hu hu...

Bà An dỗ dành khi A Phong ngồi bệch xuống nền gạch:

- Không đâu! Bà cho cả hai đứa giống nhau mà.

- Hổng chịu, con phải hơn chị ấy. Không thèm... không thèm.

- Này đứng lên rồi bà cho thêm, thiệt giống thằng cha mày y hệt. Cón con...

Vừa nói bà vừa cốc đầu chú bé. A Phong quệt ngang nước mắt. Thủy Tiên tức tối, nước mắt ở đâu mà nó rặn ra như thế, bà thì chả biết gì cả. Thủy Tiên thấy bà An lần mở chiếc túi của mình ra:

- A Phong ngồi dậy làm gì mà lếch dưới đất như thế!

Có tiếng quát lớn, vợ chồng chú Cón bước đến, Tiểu Hà xúng xính trong chiếc sườn xám màu lam nhạt có thêu nỗi chỉ vàng óng ánh, đi bên chú út Cón rất lịch sự trên đôi giày vào gót đắt tiền chạy nhanh đến nắm cổ áo A Phong lôi dậy hét to:

- Mày định làm cái gì nữa đây thằng quỷ!

- Con... con có làm gì đâu.

- Còn chối hả? Ai ghẹo mày khóc? – Không có mà...

A Phong phụng phịu sợ hãi.

- Không có sao khóc... sao ngồi dưới đất...

Thủy Tiên chạy lại:

- Con chào chú thím.

- Ừ! Có phải con với nó gây nhau.

Thủy Tiên ngơ ngác:

- Dạ không! A Phong đòi tiền bà...

- Cái gì? Chú Cón xách lỗ tai A Phong:

- Ðồ mất dạy. Cút xéo. Tối ngày tiền... tiền...

Tiểu Hà nổi quạu:

- Nó giống ông chứ ai?

Cụ An mỉm cười:

- Ðúng rồi con dâu ạ, mẹ cũng vừa mới nói nó giống cha như đúc.

Chú Cón gãi gãi đầu:

- Mẹ ạ! Mẹ khỏe chứ. Con lúc nào cũng nhớ mẹ.

Chúc mẹ sống lâu thiệt là lâu.

- Ừ! Cha mày... con trai cưng ạ.

Bà An nắm tay chú Út bóp chặt. Bà như muốn tìm lại cảm giác thân quen của đứa con nhỏ ngày nào. Bây giờ nó lớn lắm rồi... Thằng Út của bà.

- Ối! Sao mẹ không vào nhà, ở ngoài này lạnh lắm. Có gì ảnh hưởng đến sức khỏe thì nguy. Chú thím Út sao không đưa mẹ vào trong.

- Mén ơi! Chị Ba mới về.

- Ừ! Con mới về. Mẹ không sao đâu? Các con vui vẻ là mẹ vui rồi.

Bà Tỷ là con gái thứ ba của cụ An bước đến dắt mẹ bà cụ vào trong, họ vừa đi vừa trò chuyện vui vẻ. Tiểu Hà vuốt tay bà Tỷ.

- Chị Ba ơi! Lúc này trông chị phát tướng quá nhỉ? Chắc chị gặp độ làm ăn lớn lắm phải không? Giúp đỡ em út với...

- Sao cậu Út... gặp chuyện gì ư? Hổng gặp cậu thì thôi... gặp là than.

Tiểu Hà chu miệng:

- Tụi em bị kẹt, anh ấy tiêu tiền như nước, chứ em đâu muốn than vãn làm gì... Nghèo chết...

Bà Tỷ cười vẻ thông cảm:

- Tiểu Hà cô giỏi giang, cả cơ ngơi ấy em tôi ăn cả đời chưa hết... Tại em vốn là mỏ than...

Tiểu Hà nịnh nọt:

- Chị nói vậy. Em làm sao bằng chị, bà tỷ phú kinh doanh vàng bạc đá quý.

- Thôi mình vào nhà, nhớ đưa mẹ vào trong khách đang chờ. Anh chị Hai đâu rồi?

Tiểu Hà tay dìu bà cụ An, miệng nói liếng thoắng: - Anh chị Hai đang lo tiếp khách, họ chuẩn bị cho mẹ đầy đủ cả rồi.

- Vậy à! Sao cô không phụ họ một tay?

- Em với chị là khách mà... bà Tỷ nhìn Tiểu Hà ăn mặc sang trọng như mình, nên cười rồi dắt bà cụ An vào sảnh đường. Con cháu tề tựu đông đủ, quay quần bên cụ An vui vẻ... buổi lễ bắt đầu long trọng. Ông Tính mời bà cụ ngồi trên chiếc ghế cẩn ốc xà cừ óng ánh. Bà cụ được từng người bước đến chúc mừng dâng rượi. Cụ chỉ nhấp môi.

- Anh chị đừng cho mẹ uống rượu.

Chú Út nhắc khéo, bà cụ An cười lắc lắc đầu:

- Không sao đâu con, hôm nay là ngày vui của mẹ mà. Ðâu ai là người chúc mẹ đầu tiên. Út hay Cả?

- Chú Út trước đi...

- Thôi nhường cho anh Hai trước chứ.

Bà cụ xua tay:

- Ðược rồi, vợ chồng thằng Hai lại đây đi con.

Ông Tính bước đến bên mẹ, ong kính cẩn mang món quà gói cẩn thận, bên ngoài có chiếc nơ xinh xắn:

– Nhân ngày mừng thọ mẹ, chúng con xin tặng mẹ một món quà, dù nó nhỏ nhưng con tin rằng mẹ sẽ rất vui.

A Cón bực mình lẫn tò mò: - Tặng cái gì nói quách cho rồi, anh dài dòng quá anh Hai ạ?

- Sao chứ Tư mày vội thế? Chủ yếu là mẹ vui là được, anh chị đâu bằng em.

- Xì! Mở ra đi.

Bà An cười: - Khoan để đó, tới chị Ba con.

Bà Tỷ nâng chiếc hộp cũng được gói cẩn thận đặt trên chiếc mâm mang ra: bước đến bên cụ An, bà Tỷ nhỏ giọng:

- Mừng thọ mẹ, con chỉ mong sao mẹ sống đời với chúng con, nên đây là hộp nhân sâm con mang về với cả tấm lòng thành, mẹ bồi dưỡng sức khỏe.

- Ồ! Có thế chứ, chị Ba lo cho mẹ quá. Mẹ sẽ vui mà sống với các con.

Mắt cụ An chớp chớp, bà cụ cảm động nhìn A Cón. A Cón nháy mắt ra hiệu cho Tiểu Hà mang quà ra, rất trịnh trọng cô đặt xuống. Một chiếc khăn đỏ phủ lên trên: - Tôi đố mọi người đây là cái gì? A Cón cười cười nheo đôi mắt nhỏ xíu lại hỏi nhỏ. Mọi người hồi hộp.

Cụ An ra hiệu:

- Mở quà của chú Út ra xem đi Thủy Tiên?

Thủy Tiên vừa bước đến, A Cón ngăn lại: - Không được mẹ, để con giới thiệu cái đã. Ðây này!

Vừa nói, A Cón vừa mở chiếc hộp ra, ánh sáng lấp lánh, một bộ khánh thật đẹp. A Cón tươi cười:

- Mẹ thấy không, con có hiếu tặng mẹ bộ khánh này mừng tuổi mẹ.

Bà cụ An mừng nói rộn rã. Vợ chồng ông Tính hơi buồn vì món quà nhỏ của mình đứng im. Bà cụ nói: - Thôi mỏ quà của anh Hai đi các con.

Ông Tính bước đến nhẹ nhàng nâng chiếc hộp gỡ ra: - Con chỉ có bộ đồ gấm tặng mẹ.

Nhìn xấp vải hoa trên tay ông Tính, bà cụ rơi nước mắt làm mọi người ngạc nhiên. A Cón lên tiếng:

- Anh Hai làm mẹ buồn rồi, sao mẹ lại khóc?

Bà Cụ An nắm tay A Cón lắc lắc đầu:

- Không phải mẹ buồn, mà mẹ đang vui, các con hiểu lòng mẹ.... mẹ rất vui.

- Có bộ đồ mua ở đâu mà chẳng có, nếu mẹ muốn con mua cho mẹ một chục bộ ngay. Tiểu Hà lên tiếng. Ông Tính tỏ ra không hài lòng:

- Mẹ ơi! Con đã gởi mua bộ đồ gấm này ở tận Thượng Hải nổi tiếng... Loại gấm này mẹ ưa thích.

- Ðúng rồi! Từ ngày sang Việt Nam đến giờ đã hai mươi năm... Hai mươi năm xa quê hương, mẹ nhìn bộ đồ gấm này mẹ nhớ đến cha con ngày ấy... tặng mẹ một bộ đồ như thế này, rồi ông ấy mất. Mẹ xa quê hương theo ông con sang đây lúc con nhỏ. Khi ấy gia đình ta rất nghèo, vì cái ăn, sự sống mà phải đi xa quê hương. Tính! Con làm mẹ nhớ nhà quá, nhớ ông ngoại con, nhớ cha con...

A Cón giận dỗi: - Mẹ đang vui rồi tự nhiên buồn... Nếu mẹ nhớ nhà hôm nào con mua vé cho mẹ về thăm Thượng Hải nhé!

Ừ! Ðược rồi mẹ vui đây. Mẹ cảm ơn con. Thôi chúng ta nên nhập tiệc đi, trưa lắm rồi.

Mọi người đứng dậy theo cụ An quây quần bên bàn tiệc dọn sẵn rất sang trọng. Cả một bàn đủ các món Á Âu: sườn nấu táo, vi cá, yến xào, món long ngư giao đấu, chả phụng, cơm bát bửu... Mùi thức ăn thơm lừng hôm nay ông Tính chuẩn bị rất chu đáo. Ông Tính nâng ly chúc mừng cùng mọi người. Bà Tỷ khen lấy khen để.

- Chao ôi! Ai nấu món long ngư này ngon quá!

- Chị Hai cô đấy!

- Ðúng là nàng dâu thảo.

- Còn món này của ai?

- Của anh nấu... ông Tính trả lời.

Bà An cũng nhanh miệng: - Món nào của nàng dâu Út? Lần mừng thọ năm sau... Các con nhớ tổ chức thi nấu ăn, ta sẽ thưởng cho.

- Dạ! Nhưng mà nàng dâu Út của mẹ chỉ nấu được món cóc chết mà thôi. Mẹ đừng có chờ cô ta.

- Anh thiệt, tự nhiên đi nói xấu em. Tiểu Hà bĩu môi...Làm như anh tài giỏi lắm không bằng.

- Thôi đừng có cãi, ăn đi rồi mẹ có chuyện này muốn nói với các con.

- Mẹ dùng thêm.

Mấy đôi đủa gắp đưa bà tới tấp. Bà cụ xua tay:

- Thôi các con dùng tự nhiên. Ta có chuyện này quan trọng.

A Cón vội buông đôi đủa xuống hỏi nhanh:

- Có phải chuyện chia tài sản không mẹ?

Bà cụ hấp háy đôi mắt gật đầu.

Mọi người lại rời bàn tiệc, ông Tính bảo Thủy Tiên: - Con cho người dọn dẹp, cha mẹ có chút chuyện.

- Dạ!

Thủy Tiên đi rồi. Ông Tính trở về phòng khách cùng bà Thủy. Bà An ra hiệu cho mọi người ngồi xuống, bà trịnh trọng tuyên bố:

- Hôm nay nhân ngày tập hợp gia đình đầy đủ, mẹ có quyết định như thế này:

Cả cái cơ ngơi ông ngoại con để lại và bao năm mẹ tần tảo ra sức dành dụm... Tất cả đều chia cho các con.  A Cón vội hỏi, đôi mắt mở to:

- Chia như thế nào, sao mẹ không bàn trước.

Ông Tính lên tiếng: - Ðây là quyết định của mẹ, mẹ có toàn quyền quyết định, đâu cần bàn với ai, vả lại đâu còn ai để bàn.

- Thì anh em chúng ta?

Bà Tỷ xen vào: - Theo chị thì không cần... Mẹ từ quyết định.

Cụ An gật gù: - Con Ba, thằng Hai nói đúng. Bây giờ các con nghe mẹ phán quyết. Không được cãi.

A Cón và Tiểu Hà ấm ức trong bụng: - Thì sao cũng được.

- Nghĩa là các con bằng lòng.

Mọi người lại im lặng. Bà cụ An lên tiếng: - Ðây là phần của con, Út Cón vợ chồng con được quyền sự dụng ngôi biệt thự ở Vũng Tàu. Căn nhà to lớn và đẹp của cha con để lại đó. Con bằng lòng chứ!

- Bằng lòng, cám ơn mẹ!

Tiểu Hà sung sướng vô vàn, cô mừng rỡ ôm cánh tay chứ Cón định nói gì đó. Bỗng chú Cón đanh nét mặt lại vẻ như chờ đợi gì không lộ vẻ vui mừng gì cả. Có vẻ nôn nóng, A Cón lên tiếng:

- Còn anh Hai, chị Ba?

Bà cụ An hắng giọng rồi tiếp: - Chị Ba con là gái nên mẹ chỉ cho 100 cây vàng tùy ý con sử dụng.

- Một trăm cây vàng? Oi chao hơi nhiều đó mẹ.

Một trăm cây vàng thả sức mà tiêu xài. Tiểu Hà tiếc rẻ.

- Cô này thiệt là... Bao nhiêu đó chú Cón chỉ xài mươi ngày là xong.

Chú Cón nhăn mặt:

- Chị nói quá cho em rồi. Vậy chị đổi cho em đi... Chị lấy ngôi biệt thự ở Vũng Tàu.

Bà Tỷ bĩu môi: - Chị kinh doanh vàng bạc đá quý. Mẹ cho chị như vậy là hợp lý rồi. Chị lấy biệt thự để làm gì? Cậu cho mướn cũng tốt vậy.

- Thôi đừng cãi nữa, nghe mẹ quyết tiếp kìa- Tiểu Hà bịt nhẹ miệng chồng.

Bà cụ Cười nói tiếp:

- Anh Hai nuôi mẹ, vả lại nó rất hiếu thảo. Mẹ cho hai vợ chồng khách sạn ở Vũng Tàu dành cho con bé Thủy Tiên sau này...

Bà An chưa dứt, A Cón đùng đùng ngồi dậy: - Con phản đối, mẹ chia như vậy là không được rồi.

Bà cụ An chừng hửng:

- Vậy con muốn gì hở Út?

- Con muốn mẹ đổi khách sạn Thủy Tiên cho con, con nhường lại cái biệt thự ở Vũng Tàu cho anh Hai, mẹ đồng ý chứ?

A Cón nói một hơi chẳng cần suy nghĩ. Cụ An lắc nhanh đầu:

- Mẹ đã quyết không được đổi chát nghe chưa?

- Tại sao?

- Bởi vì điều này mẹ đã suy nghĩ rất kỹ rồi. Con hiểu chứ?

- Nhưng con không đồng ý. Mẹ thiên vị.... A Con hét lớn... Mẹ giải thích lại đi.

- Không dược! Mẹ không thể thay đổi lời nói của mình được.

- Ðược mà. Con chỉ muốn khách sạn thôi. Vì ở đấy dễ hái ra tiền.

Ông Tính bực mình, tỏ vẻ bất mãn:

- Chẳng lẽ cái khách sạn ấy tôi chẳng biết buôn bán hay sao? Cái gì mà giao cho chú giống như giao trứng cho ác. Chỉ mấy ngày là nó đi theo ông theo bà.

A Cón tức tối cãi lại:

- Anh nói sao? Tôi làm tiêu tan sự nghiệp của ai? Bao giờ? Anh không được nói xấu nghe chưa. Nếu không tôi không nhịn anh...

Ông Tính sừng sộ, mất bình tĩnh:

- Không nhịn tôi thì chú làm gì nào? Tôi chưa nói với mẹ là chú từng ăn chơi, đàng điếm, chú tiêu bao nhiêu tài sản của gia đình này của cha ông tạo ra chú biết chưa?

A Cón giận dữ long đôi mắt lên cố cãi: - Anh Hai tôi nể anh, anh đừng ỷ làm anh mà ăn hiếp tôi nhá, tôi nhịn anh nhiều rồi đó... Tại sao anh dám nói xấu tôi.

- Nói xấu mày à? Hay tự bản thân mình xấu. Chú có đến chỗ cờ bạc không?

Chú có làm tiêu tan xưởng dệt của mẹ tạo ra không? Rồi mấy chiếc xe của gia đình này lần lượt vào tay của ông Nam Phát... Có không?

- Có... Ừ! Thì tôi bán cho ông ta mà.

- Bán sao còn than nghèo.

- Ừ! Vì nghèo không tiền xài mới mượn tạm để bán, chứ giàu tôi bán làm gì?

- Chú mà nghèo ư? Bao nhiêu tiền bạc chú nướng vào sòng bạc tôi chẳng biết sao? Chú định chạy chối à!

- Anh... Anh... Còn dám nói...

A Cón cung tay lên định chộp lấy ông Tính, nhưng ông đã né sang bên. Bà cụ An hoảng quá vội la lên: - A Cón con tệ như vậy sao? Vậy mà mẹ chẳng hay biết gì? Bây giờ con còn hung dữ với anh con. Mẹ dạy con như thế nào, con nhớ không?

Vừa nói bà cụ vừa khóc bù lu bù loa:

- Trời ơi! Ông về đây mà xem thằng con trai của ông nó tệ quá. Cả dòng họ mình chưa ai tệ như con. Con làm cha con xấu hổ làm sao ông ấy dám nhìn tổ tiên hở con.

- Mẹ đừng nghe. Anh Hai thù con nên nói vậy.

- Ai thù ghét gì chú? Chú không biết lỗi của mình, mà còn đỗ tội cho người khác, thật quá đáng.

A Cón đứng bật dậy cầm cái ly định ném ông Tính. Bà An thấy vậy chạy vào can:

- Thật là oan nghiệt... Con ơi đừng làm vậy.

A Cón nắm tay mẹ hỏi gặng: - Bây giờ mẹ có đổi khách sạn Thủy Tiên cho con không?

- Không! Bà An nói giọng chắc nịch. Nếu không đàng hoàng tao sẽ không cho cái biệt thự ấy, nói chi khách sạn Thủy Tiên...

- Mẹ.... mẹ nói gì? Mẹ có xem con là con không?

A Cón vừa nói tay vừa quơ bình trà rơi xuống nền gạch vỡ tan tành. Tiểu Hà đứng lên kéo tay chồng:

- Anh bình tĩnh lại đi. Mình thương lượng sau với anh Hai, đừng làm mẹ giận.

Ông Tính nói thêm:

- Ðó mọi người thấy chưa, nó vốn ăn chơi ngang tàng. Tất cả vào tay nó đều ra tro cả.

A Cón hét lên: - Anh nói sao? Chú Cón nhặt vội chiếc bình vỡ lên dứ dứ trước mặt ông Tính. Bà Thủy sợ hãi kéo tay ông Tính ra. Bà Tỷ giữ chặt cụ An. Cụ chồm lên: - Trời ơi! Bây giờ tụi bây dành của phải không? Tính ơi, Cón ơi... các con...

Nói đến đây bỗng cụ im bặt. Nhìn lại bà Tỷ thấy cụ đã nhất lịm trên tay mình. Bà luống cuống:

- Mọi người im đi. Mẹ.... Mẹ.... Làm sao rồi. Mau mau gọi bác sĩ.

... Từ hôm ấy, cụ An nằm liệt một chỗ. Cụ không muốn dậy. Ai đỡ cụ thì cụ ngồi, ai đút thì cụ ăn. Cụ chẳng nói chẳng rằng.

Hàng ngày bà Thủy và Thủy Tiên thay nhau chăm sóc, vợ chồng chú Cón cũng chạy tới chạy lui nuôi hết lòng lo cho mẹ tỏ ra rất hiếu thảo, có vẻ ăn năn chuyện đã làm.

Ðến một hôm, bà cụ vui vẻ trở lại, A Cón nắm tay cụ năn nỉ: - Mẹ ạ! Mẹ bỏ qua cho chúng con chuyện cũ nha. Cụ An gật đầu, ánh mắt bà có vẻ ưu tư lẫn đồng tình: - Con lấy nước sâm cho mẹ uống nhé!

- Ừ!

Chờ cho bà cụ uống xong tách trà xâm mát rượi, A Cón mon men đến gần ngồi xuống ghế sát bên chiếc giường phủ tấm nhung xanh nhạt thanh thoát đỡ cụ nằm xuống, tay quạt đều đều cho mẹ: - Thật ra... mẹ à!

A Con ngắt lời, khó hiểu làm cho cụ An thấp thỏm: - Có chuyện gì hở con?

- Mẹ đừng rầy la con, con mới dám nói!

- Ừ! Mẹ không la rầy gì con đâu, con yên chí.

Nhìn vẻ mặt nhân từ của mẹ, A Cón nghĩ rằng cụ An rất thương mình nên chú lên tiếng: - Mẹ ạ! Con đã bán ngôi biệt thự ở Vũng Tàu, hiện giờ con đang thiếu nợ, mẹ nên gọi anh Hai đến nhường cho con khách sạn ấy đi. Chỉ có nơi đó con mới cất mặt lên được. Mẹ đâu có muốn con nghèo, con chết hở mẹ?

Bà cụ trầm ngâm một lúc rồi nói: - Con đã bán biệt thự ấy rồi ư? Lấy gì mẹ đổi cho nó?

- Mẹ à! Anh chị Hai rất giàu có, cả cơ sở lớn làm ăn to tát cần gì phải kinh doanh khách sạn, chỉ riêng ngôi nhà này cũng trị giá mấy trăm cây vàng rồi. Chỉ cần mẹ bảo anh ấy nhường khách sạn Thủy Tiên lại cho con thì tất cả đều êm xuôi cả.

- Ừ! Ðược rồi để mẹ gọi nó vào đây.

A Cón năn nỉ thêm: - Mẹ này! Không phải con chê ít nhiều, nhưng anh chị Hai chỉ có một gái. Còn con hai thằng con trai, nên nuôi nó cũng mệt, phải lo tương lai cho nó. Chuyện này hợp lý mẹ nhỉ?

Không hiểu sao cụ An gật đầu. A Cón chạy vội ra gọi vợ chồng ông Tính vào. Hai người lật đật chạy vào: - Mẹ cho gọi chúng con.

Bà An ra hiệu cho hai vợ chồng ngồi xuống rồi bà từ tốn nói: - Mẹ đã nghĩ kỹ rồi... Làm anh con nên nhường cho em, nó đang gặp khó khăn. Thôi con nhường cho em khách sạn Thủy Tiên, rồi mẹ bù cho con thứ khác.

Ông Tính chợt hiểu ra, thì ra bấy lâu nay nó tỏ ra hiếu thảo, tốt đẹp lui tới đây chỉ chỉ vì khách sạn Thủy Tiên, nếu không có khách sạn này, chắc gì A Cón lo cho mẹ. Nghĩ thế nên ông sừng sộ chỉ vào mặt A Cón:

- Mày vẫn chưa từ bỏ ý định xấu đó ư?

- Tao giữ khách sạn Thủy Tiên là tao giữ cho cả dòng họ; biệt thự Vũng Tàu mới đây đã ra đi theo ông theo bà rồi đó, giao khách sạn cho mày được mấy ngày.

- Anh im đi! Ðô tham lam.

- Còn mày đồ chơi bời, trác táng, vô lương tâm.

- Tụi bây im hết đi! Tụi bây giành ăn cơm hả, thái độ, lời nói của cụ An trở nên lẩn thẩn tự lúc nào không biết.

- Tính! Mau đi lấy ngôi biệt thự về cho tao.

Bà đứng lên níu lấy chú Cón:

- Mày đem về cho tao mười ngôi biệt thự nha, nhớ đủ màu tao mới chịu.

Cả hai đều giật mình ngưng cãi lộn. Cụ An trở nên điên đại từ hôm ấy. Miệng cụ cứ lảm nhảm: - Trả ngôi biệt thự lại cho tao. Thằng nào bán. Thằng nào mua. Trả đây... trả đây... ... Ngôi biệt thự này tôi mua mấy trăm cây vàng vị chi... Làm cả mười năm, nó bán có một ngày... nó ăn hết. Mau trả lại đi, trả lại đi...

Tiếng của cụ An lảm nhảm suốt ngày làm mọi người cuống cuồng. Ông Tính lo cho cụ đủ thứ, nhưng bà cụ chẳng bao giờ trở lại bình thường. Bà đã điên.

 


BÍ ẨN TRONG KHÁCH SẠN THỦY TIÊN

Chịu trách nhiệm xuất bản:

       BÙI CAO TIÊU

Biên tập:   NGUYỄN CẨM HƯƠNG

Sửa bản in: GIANG MINH TRƯỞNG

Trình bày bìa: SONG THÀNH

 

In 1.200 cuốn khổ 13x19cm, tại Xưởng in NXBGTVT

Số trích ngang xuất bản: 379-2009/CXB/27-53/ThaH,

In xong và nộp lưu chiểu Quý III năm 2010

.............................................................................................................

- Cập nhật theo bản lưu trữ tại tại Công ty TNHH Văn Hóa Bảo Thắng.

- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.

.

0 comments:

Đăng nhận xét