CÔ GÁI NGHĨA HIỆP
*
ĐỨA CON MA
(Tác giả: Người Khăn Trắng)
Lấy vợ đã năm năm rồi mà vẫn chưa có con, khiến cho
An luôn canh cánh bên lòng nỗi lo. Phần vì bị thiên hạ đồn rằng anh bất lực,
không có nổi mụn con nối dõi. Phần vì cha mẹ anh cứ thúc giục phải nhanh chóng
buột vợ phải có bầu! Mà chuyện bầu bì thì đâu phải muốn là được...
Bởi vậy nhân kỳ nghỉ thường niên, An quyết định đưa
vợ đi đổi gió một chuyến. Anh chọn khu vực du lịch sinh thái của tỉnh Kontum,
mà ở đó anh có một người bạn làm chủ một rừng cao su khá lớn.
Nghe tin An tới, người bạn anh là Thái rất mừng,
anh ta giục bạn:
- Anh lên ngay cuối tuần này, tôi sẽ giành cho anh
nhiều sự ngạc nhiên kỳ thú!
An đưa vợ lên ngay tuần đó. Mỹ Dung tỏ ra thích thú
với phong cảnh lạ mắt và khí hậu ôn hòa của đồn điền. Cô bảo An:
- Anh cho em ở chơi trên này lâu lâu đi, ở Sài Gòn
riết em chán quá!
Thấy vợ thích An cũng vui, anh hứa:
- Được rồi, nếu em chịu ở thì anh sẽ nói với Thái
cho em ở lại đây chơi vài tháng cũng được. Miễn là... chịu sinh cho anh một
đứa!
Mỹ Dung đấm vào lưng chồng:
- Lúc nào cũng có bấy nhiêu đó!
Đêm đó, Thái đã chiêu đãi vợ chồng An một bữa thịt
rừng thịnh soạn. Đến hơn mười giờ đêm mà hai người đàn ông vẫn còn ngồi nhậu.
Mỹ Dung thì đã ngáp dài mấy lượt. Thấy vậy, Thái nói:
- Chị Dung cứ đi ngủ trước, để anh em tôi lâu ngày
gặp nhau, nhậu cho đã!
An cũng nói:
- Em ngủ trước đi, chút nữa anh vô.
Anh đưa vợ vào phòng Thái dành riêng, dặn vợ để cửa
chờ. Mỹ Dung nhắc khéo:
- Mau vô, ở đây lạ chỗ người ta ngủ không được đó!
Đó là lời nhắc mà An phải hiểu là đêm nay anh
phải... biết điều! An cười sau khi hôn vợ một cái thật nhanh:
- Không dám...!
Đêm núi rừng thật tĩnh mịch, khí hậu se lạnh, khiến
cho Mỹ Dung tuy nói là khó ngủ, nhưng chỉ nằm một chút là đã nặng mí mắt và cơn
buồn ngủ khó mà cưỡng được ập tới!
Mười giờ...
Mười một giờ...
Lúc đầu, Mỹ Dung còn nghe được tiếng gõ của chiếc
đồng hồ treo tường. Nhưng đến một lúc thì cô chẳng còn biết gì nữa...
- Đừng mà, em buồn ngủ...
Mỹ Dung gạt tay ra, nhưng thân nặng hơn bảy chục ký
của An vẫn cứ ghì xuống. Và cũng như mọi lần khác, cuối cùng Mỹ Dung vẫn là
người thua cuộc. Cô hỏi khẽ:
- Sao không nhậu tới sáng luôn đi!
Không có tiếng trả lời... chỉ có giọng đứt quãng
của Mỹ Dung:
- Nhậu hoài... bởi vậy mà không có được con... Cố
gắng lên chứ...
Đêm hình như quá ngắn đối với đôi vợ chồng đi tìm
cảm giác lạ... Họ quấn lấy nhau, cho đến khi có tiếng gà gáy thì người đàn ông
bật dậy, đẩy vợ sang một bên. Lúc này, chẳng hiểu do quá hưởng ứng rồi kiệt sức
hay sao mà tự dưng Dung cảm giác như mình không cử động được nữa...
- Trưa lắm rồi, hai ông bà dậy ăn sáng đi chứ!
Tiếng của Thái gọi đến mấy lượt thì trong phòng Mỹ
Dung mới giật mình tỉnh giấc. Cô quay sang chồng thì An vẫn còn nằm im như
chết!
- Dậy kìa anh, anh Thái gọi kìa!
Phải mấy lượt nữa An mới tỉnh, giọng anh lè nhè:
- Để ngủ thêm một chút mà...
Bên ngoài Thái nói vọng vào:
- Có lẽ lâu ngày nó không uống nhiều nên hai thằng
mới cưa có một chai whisky mà nó đã quỷnh rồi! Thôi được, cứ để cho nó ngủ tới
mười giờ hãy kêu dậy. Tính ra từ lúc vô giường là sáu giờ, tới giờ mới hơn một
tiếng đồng hồ...
Mỹ Dung hỏi vọng ra:
- Anh nói hai người nhậu tới mấy giờ?
Giọng Thái cũng còn lè nhè:
- Sáu giờ chứ mấy.
Mỹ Dung lẩm bẩm:
- Sao lại sáu giờ? Mấy cha này nhậu quá rồi không
còn biết giờ giấc gì hết!
Cô nhớ rất rõ, khi An mò vô phòng thì lúc đó đồng
hồ trên tường gõ mười hai tiếng đều đặn. Và chuyện gì xảy ra sau đó thì...
- Dậy đi anh! Dậy em hỏi cái này...
An cố nhướng mắt lên hỏi giọng kéo dài:
- Gì... vậy...
- Hồi đêm anh nhậu xong rồi vô phòng hồi mấy giờ?
- Ai mà nhớ... à mà sáu... sáu giờ. Anh nghe đồng
hồ gõ sáu... tiếng...
Nói xong An lại tiếp tục ngủ. Mỹ Dung thì như bị
điện giật:
- Dậy! Anh An, không được ngủ! Nói rõ cho em nghe
xem, anh có chắc chắn vào ngủ lúc sáu giờ sáng không? Trước đó anh có vào lần
nào không?
An hầu như không gượng dậy nổi nữa, dù Mỹ Dung cố
lay gọi hết hơi. Cô nàng bực tức nói như gào lên:
- Chồng con gì chỉ biết ăn với ngủ không nè trời!
Nghe tiếng la lớn, bên ngoài Thái lại hỏi vọng vào:
- Có chuyện gì vậy hai ông bà?
Quên cả giữ ý, Mỹ Dung để nguyên đồ ngủ, chạy hẳn
ra ngoài, hỏi giật ngược:
- Anh Thái nói lúc hai người thôi nhậu là mấy giờ?
Thái cười:
- Sáu giờ. Tôi có thói quen, dù say hay tỉnh thì
trước lúc đi ngủ đều phải nhìn đồng hồ cả. Mà chi vậy bà chị, có hạch tội mê
nhậu vô trách nhiệm, quên phận sự thì để cho nó tỉnh rượu hãy nổi tam bành!
Thái nói xong bỏ đi, để lại Mỹ Dung với thắc mắc
đang dậy lên trong lòng... Đưa tay sờ xuống bụng, bất giác Mỹ Dung rùng mình.
Cô hỏi lớn vọng theo sau lưng Thái:
- Nhà này còn có ai nữa không anh Thái?
Thái phải quay lại và đáp:
- Chỉ có một bà già làm công, ngoài ra không có ai!
Thái đã biến mất ngoài vườn rồi mà Mỹ Dung vẫn còn
đứng ngẩn ngơ ở đó. Cái mệt của thể xác không làm cho cô phải đến nỗi hầu như
không đứng vững như lúc này. Lảo đảo và suýt té...
Chị Chín, người làm công, gọi giật ngược khiến An
giật mình:
- Cậu An! Cậu An!
- Gì vậy chị Chín?
Chị ta không kiềm chế nổi niềm vui, reo lên:
- Cậu lên chức rồi!
An vốn biết chị làm công này ít khi biểu lộ cảm xúc
mạnh như vậy, nên ngạc nhiên:
- Bữa nay chị bị sao vậy, chị Chín?
Chị ta quên cả giữ ý tứ, chụp tay An lay mạnh:
- Cậu chưa hay gì sao? Cậu đã...
Vừa lúc đó, Mỹ Dung vừa từ trên xe bước xuống và lừ
mắt nhìn chị ta, khiến chị cụt hứng, nhưng vẫn cố nói nhanh, tuy có thấp giọng
mộtchút:
- Mợ Hai... có bầu!
Bấy nhiêu đó cũng đủ làm cho An vỡ òa:
- Cái gì? Chị nói...
Anh nhào tới ôm ngang người vợ và bế hẳn lên, vừa
reo to:
- Trời thương con rồi, cám ơn ông trời!
Anh bế vợ chạy thẳng vô phòng riêng, Mỹ Dung phát
choáng mặt, cô gắt lên hơi to:
- Thả em xuống, em ói bây giờ!
Chợt nhớ cái thai trong bụng vợ, An dừng lại ngay
và suýt soa:
- Anh xin lỗi, anh quên...
Nhìn thấy nét mặt không vui của vợ, An lo lắng:
- Em mới đi khám thai về phải không? Sao tin vui mà
em không báo cho anh? Hay là...
Mỹ Dung cười hơi gượng:
- Tại em mệt...
An tỏ ra cảm thông:
- Cái thai con so nó hành em chứ gì? Đứa con hư nè,
dám hành mẹ Mỹ Dung của mày hả.
Anh phát yêu một cái vào bụng vợ, nói nịnh:
- Con làm mệt mẹ thì mẹ hãy trả thù thằng cha này
đi!
Nhìn ánh mắt hạnh phúc ngập tràn của An tự dưng Mỹ
Dung thương vô cùng, cô ôm chầm lấy chồng nghẹn ngào:
- Anh...
An hôn vợ thật đắm đuối và thì thào:
- Cám ơn em. Cám ơn em nhiều...
Niềm vui của An lên cao bao nhiêu thì nỗi niềm
trong lòng của Mỹ Dung lại nặng trĩu bấy nhiêu... Cô cố giấu nó bằng cách bảo
mệt, nằm miết trong phòng, mặc cho An chạy cuống cuồng, hết làm việc này đến
việc khác, cố làm cho vợ vui. Với anh thì đứa con trong bụng vợ là tất cả!
Gần bảy tháng sau...
Ngay từ xế trưa hôm đó, khi Mỹ Dung kêu đau bụng
nhẹ thì An đã giục chị Chín:
- Đồ đạc đi sinh của vợ tôi đã sẵn sàng chưa? Đem
ra xe ngay.
Mỹ Dung được đưa tới bảo sanh viện thật sớm. Sau khi
khám qua, bác sĩ xác nhận:
- Đúng là sản phụ sắp sinh. Nhưng có lẽ người nhà
phải chờ hơi lâu. Hay là ông cứ về nhà, khoảng tối tối trở vô cũng được.
Anh cương quyết:
- Tôi cứ ngồi ngoài kia chờ, có gì bác sĩ cứ gọi,
tôi sẽ tới ngay!
Và An đã ngồi ngoài hành lang từ giữa trưa hôm đó.
Chị làm công đề nghị:
- Hay là cậu Hai cứ về nghỉ, để tôi ở đây trông
chừng, nếu có gì tôi báo điện về cho cậu vô cũng được.
An xua tay:
- Tôi ở lại đây mà!
Chính bà bác sĩ cũng phải thán phục:
- Chưa có ông chồng nào mà thương vợ như ông này!
Mười giờ đêm hôm đó Mỹ Dung sinh con. Đứa bé vừa
lọt lòng mẹ đã khóc thét lên, khiến cho Mỹ Dung đang đau cũng cố ngẩng lên và
hỏi ngay:
- Con tôi... Sao rồi bác sĩ?
Bà bác sĩ đỡ đẻ mỉm cười:
- Một đứa bé kháu khỉnh, chứ có sao đâu!
Đáng lẽ theo thông thường, bà mẹ nào cũng hỏi mình
sinh con trai hay con gái, nhưng ở đây Mỹ Dung chỉ hỏi:
- Nó... có gì khác thường không?
Vị bác sĩ ngạc nhiên:
- Khác thường là sao?
- Thì... nó có...
Hiểu ý bác sĩ nói vui:
- Một cô công chúa toàn vẹn, tuyệt vời luôn. Giống
mẹ như đúc!
Mỹ Dung thở phào rồi nhắm mắt lại như tìm giấc
ngủ... Thật ra cô đã lịm đi...
An túc trực ngay bên giường của vợ. Anh thấy Mỹ
Dung ngủ say thì cứ để cho vợ ngủ, anh còn dặn cô y tá trực:
- Mọi việc nếu chưa cần thiết lắm thì cứ để vợ tôi
ngủ. Tôi sẽ làm thay cô ấy cái gì có thể được.
Cô ý tá nói đùa:
- Có được ông chồng như anh thì chắc con gái xứ này
phải thắp đuốc đi tìm quá.
An nghe mà sướng trong lòng. Anh cứ nhìn con gái
rồi liếc mắt nhìn sang vợ đang ngủ say, khe khẽ nở nụ cười hạnh phúc...
Trong lúc đó, ở bên ngoài cửa phòng xuất hiện một
người đàn ông lạ, ăn mặc chẳng giống người thành phố, cứ đứng im và đưa mắt
nhìn liếc vào trong. Khi thấy cô y tá đi ra, anh ta hỏi liền:
- Con tôi đâu?
Cô y tá cau mày:
- Con gì? Vợ anh sinh lúc nào, nằm ở đâu?
Anh ta nói tiếng kinh không rành, nhưng cũng chỉ
tay vào trong, chỗ chiếc giường sinh duy nhất của Mỹ Dung và bảo:
- Trong đó!
Cô y tá bực lên:
- Nói bậy! Vợ anh không có ở đây!
Chị ta bỏ đi thì cũng vừa lúc có hai người đàn ông
nữa xuất hiện. Một trong hai người là Thái, bạn của An. Cùng đi với anh có một
ông lão đầu tóc bạc phơ, trong cốt cách thoát trần. Vừa trông họ thì người đàn
ông đã vụt quay người đi nhanh, chỉ loáng qua là mất dạng.
Thái chưa kịp hỏi thăm phòng của vợ chồng bạn thì
ông lão cùng đi đã lên tiếng:
- Mình tới vừa kịp. Nếu không đã xảy ra chuyện rồi.
Hắn vừa mới đi khỏi và sẽ chẳng bao giờ còn có dịp trở lại nữa...
Ông móc trong túi đưa ra một vật mà vừa nhìn thấy
Thái đã thốt lên:
- Tượng thần!
Ông lão gật đầu:
- Vật này anh phải đưa cho vợ người bạn anh, bảo cô
ấy phải luôn mang trong người và trước tiên hãy lật phía sau tượng mà đọc dòng
chữ trên đó. Như vậy là từ nay mọi việc sẽ tốt đẹp. Ta chúc cho họ hạnh phúc,
bình yên...
Ông nói xong bỏ đi trước sự ngạc nhiên của Thái.
Nhưng vừa lúc ấy An nhìn ra thấy, anh gọi:
- Thái, cậu mới xuống hả, vào đây. Vợ mình sinh
rồi, tuyệt lắm!
Thái bước vô, anh đưa ngay cho Mỹ Dung pho tượng
nhỏ bằng gỗ trầm:
- Chị Dung nhất thiết phải đeo vật này luôn bên
mình. Nó là vật hộ mạng đó!
Thái thật lòng thuật lại chuyện:
- Mình đang ở nhà thì có ông lão lạ tới gõ cửa và
báo tin là vợ cậu sắp sinh. Ông ta hối mình xuống thăm ngay và bảo phải tới gặp
vợ cậu, gỡ cho Mỹ Dung một mối nguy gì đó mà theo ông thì Dung đã bị hồi lên
chơi đồn điền của mình. Muốn rõ Dung hãy đọc phía sau pho tượng.
Trong lúc An chưa hiểu gì thì Mỹ Dung đã nhanh
chóng lật sau pho tượng và đọc được dòng chữ khá rõ: Con đã bị oan hồn của một
đàn ông mất vợ và con, anh ta muốn con đẻ con ra và anh ta sẽ bắt đi. Nhưng ta
đã không để anh ta làm vậy. Ta đã trừ khử anh ta vĩnh viễn rồi. Từ nay con phải
sống hạnh phúc với chồng. Không còn gì phải lo lắng...
An thấy sắc mặt vợ biến đổi, anh hỏi liền:
- Chuyện gì vậy?
Nhưng Mỹ Dung đã kịp lấy lại bình tĩnh:
- Đâu có gì.
Và lạ thay, lúc đó dòng chữ phía sau pho tượng cũng
biến mất, không để lại dấu vết gì! Không ngượng trước mặt Thái, Mỹ Dung ôm
choàng lấy chồng hôn tới tấp vào mặt vừa nói qua hơi thở:
- Em yêu anh...
Đứa trẻ khóc ré lên trong niềm hạnh phúc vô biên
của đôi vợ chồng trẻ. Thái cũng vui lây...
TRẦM HƯƠNG
(Tác giả: Người Khăn Trắng)
Trước khi ra khỏi nhà trọ, Lê Thanh còn nghe lão
già cụt chân nhắc lại:
- Cậu hãy nhìn cái chân chỉ còn một cọng như cái
chân tôi đây để mà tính con đường tương lai của mình. Nên nhớ nằm lòng đều này:
"Không ai được cái gì vô điều kiện từ mẹ rừng cả. Mà vàng, trầm đều là sản
phẩm của rừng không thể tự tiện lấy đi mà được yên lành hoàn toàn đâu...".
Đi đã xa trên con đường rừng rồi mà Thanh vẫn còn
nghe vang vọng trong đầu câu nói ấy. Anh còn nhớ như in chuyện về cái chân bị
mất của lão già. Chính một lần đi lấy trầm hương ở cánh rừng này lão đã bị hổ
vồ và may mắn thoát được sau khi mất một chân trong miệng hổ đói, nhờ đã nhanh
trí dùng con dao trên tay mình chặt đứt cẳng chân con hổ đang ngoạm.
Đâu phải ai tìm được trầm đều phải hy sinh thân
thể. Đã có khối người làm giàu nhờ tìm được kỳ nam, trầm hương. Họ có sao đâu
ngoài sự giàu sang và đổi đời?
Vả lại, với Thanh chuyện tìm trầm để làm giàu không
phải là mục đích chính. Mà mục đích quan trọng hơn của anh là thực hiện lời
nguyền của người cha quá cố. Trước khi nhắm mắt, ông đã gọi Lê Thanh đến bên và
dặn chỉ một mình anh nghe thôi: "Con phải nhớ, cả đời ba đã tiêu tốn bao
công sức chỉ cho mỗi mục đích là tìm cho ra một miếng trầm mà như lời ông nội
con miêu tả lại, ông nội con đã để vuột mất nó chỉ trong nháy mắt chỉ vì một mỹ
nhân xuất hiện bất ngờ khi ông con vừa tìm thấy trầm! Chính ba cũng vậy, sau
hơn ba tháng canh chừng gian khổ, ba sắp lấy được nó thì cũng bỗng bị hoa mắt
ngã té từ trên cây xuống gộp đá sâu, may mà không chết, chỉ bị hôn mê và sau đó
bị bại liệt luôn, không còn khả năng trở lại rừng nữa... Nhưng ba quyết phải
thành công. Đời ba làm chưa được thì tới phiên con. Con phải hứa với ba, phải
tiếp tục con đường của ba, nếu không thì ba sẽ mãi mãi làm oan hồn, không thể
siêu thoát...".
Lê Thanh lao vào cái nghiệp đi tìm trầm không phải
vì để làm giàu, mà vì chính lời ước nguyện của cha. Vả lại, chẳng biết phải do
ám ảnh lời ước nguyện hay nguyên do nào khác, mà những lúc gần đây Thanh lại
nghe niềm đam mê đi tìm trầm trong người cháy bỏng lên hơn bao giờ hết. Anh đã
thề với lòng rằng phải tìm cho bằng được trầm hương mà không phải đánh đổi bất
cứ thứ gì!
Soát lại túi thức ăn mang theo, Thanh khá yên tâm,
bởi với lượng thức ăn này một mình anh thừa khả năng sống hơn một tuần giữa
rừng. Cũng giống như lần trước, Lê Thanh không cần sự trợ giúp của ai, sẽ một
mình lặng lẽ tìm kiếm và nhận mọi nguy hiểm chỉ với đôi tay và ý chí của mình.
Anh nhớ lời cha anh đã nói lúc ông còn làm nghề đi rừng: "Tìm trầm hương
là thử thách cái cơ duyên của mỗi người. Vậy đi tìm trầm thì tốt nhất là đi một
mình. Có duyên thì vận may sẽ tới...".
Đã sống qua một tuần trong chốn thâm u này mà cơ
may chưa tới, nên hôm nay bắt đầu tuần thứ hai Thanh có vẻ tự tinh hơn, anh vừa
tìm chỗ mắc võng nghỉ chân vừa lâm râm khấn vái vong hồn cha: "Con sẽ thực
hiện được ước nguyện của cha, cha yên tâm đi. Trước sau gì con cũng thành
công!".
Những lời khấn vái như thế này đồng thời là những
lời tự động viên của Thanh. Anh luôn muốn làm như vậy mỗi khi mệt mỏi, chán
nản...
- Chào người anh em trẻ!
Câu chào của ai đó làm cho Lê Thanh giật mình quay
lại. Một lão già người thượng quẩy chiếc gùi trên lưng, đang đi từ một con
đường nhỏ băng ra. Họ chẳng quen nhau, nhưng thường người đi hay chào hỏi nhau
nếu bất chợt gặp nhau giữa rừng.
- Dạ, chào già... ông cũng đi săn?
Ông lão cười nhe ra hai cái răng còn lại chổng trơ
trên hàng nướu thâm xì:
- Anh trẻ đi săn gì? Có giống già đi tìm con tra
trả hay không?
(Thanh đã có nghe về con chim gọi là tra trả này,
nó là loài chim chuyên bám theo các loại thú dữ như cọp, beo để kêu lên mỗi khi
loài ác thú xuất hiện. Người đi rừng thường bảo loài chim đó giống như loài
chim báo bão ngoài biển khơi. Nó là loài cứu tinh của con người!)
Anh hỏi thăm:
- Rừng này có ông hổ nào có loài chim đó?
Lão già vẻ sợ hãi:
- Đây là hang ổ của chúng, sao lại không có! Mà sao
anh trẻ đi một mình và không mang theo cái cây bùm bùm?
Biết ông già hỏi đến súng, Thanh cười đáp:
- Cháu không đi tìm ông hổ thì đem súng theo làm gì
già ơi! Hổ sẽ không hại người khi người không tìm đến chúng phải không?
Lão già thượng rùn vai:
- Người ta nói vậy, chớ ở đây người đi rẫy, lên
nương bị "ông" hạ hoài. Phải nói là không có ý săn hổ, nhưng có tiền
kiếp thâm thù với hổ, thì cũng bị "ông" sát khi gặp mặt.
- Vậy già đi tìm chim tra trả để làm gì?
- À, già tìm cho Thần Hương. Thần ra lệnh đi tìm,
bảo chim mau về đây, mang ông hổ cùng về, để giúp thần đuổi bọn xấu đi!
Lê Thanh ngạc nhiên:
- Thần Hương là ai? Có phải là Thần Trầm hay không?
Nghe Thanh nói, già thượng hoảng hốt:
- Đừng nói tên đó ra!
- Tên nào?
Lão hạ thấp giọng như sợ có người nghe:
- Ở đây không ai gọi là trầm hương cả, mà phải gọi
là Thần Hương!
Lê Thanh càng tò mò thêm:
- Sao lại có Thần Hương?
Thấy anh chàng quá lờ mờ, già thượng phải nói rõ
hơn:
- Lâu nay nhiều người đổ xô về đi tìm trầm, họ tận
dụng chặt phá không chừa cây già đến cây con. Chỉ có những loài trầm hóa kiếp
rồi mới thoát nạn, nhưng các vị ấy đã nổi giận!
Chạm vào đúng mục đích của mình, Thanh hỏi tới:
- Sao lại gọi là trầm đã hóa kiếp?
- Thì... trầm đã hiển linh, đã không còn là trầm mà
bất cứ ai cũng có thể nhìn thấy.
- Thì ra là thế!
Lê Thanh nhớ lại những chi tiết về cái chết của ông
nội, rồi tai nạn của cha, anh liên tưởng đến điều mà già thượng vừa kể. Anh hỏi
lại:
- Trầm đó có lấy được không?
- Trầm nào?
- Trầm hiển linh ấy!
Lão già nhẹ lắc đầu:
- Đừng hòng.
Ông ta đáp xong đưa mắt nhìn Lê Thanh ra vẻ ái
ngại. Rồi lặng lẽ bỏ đi mà chẳng nói thêm một lời nào...
Anh chàng định gọi lại, nhưng nghĩ sao lại thôi.
Đợi lão kia đi xa rồi Thanh mới rẽ về một hướng khác, nơi mà hôm trước anh đã
từng đi qua, mà cũng là địa điểm mà theo lời chỉ dẫn của cha, ông đã từng ở đó
lâu ngày và đã tìm được dấu vết của trầm hương.
Đến xế chiều hôm đó, chợt có một cơn mưa lớn. Lê
Thanh đã thủ sẵn mọi thứ, nên chỉ trong vòng 5 phút anh đã mắc được chiếc võng
treo lơ lửng giữa hai nhánh cây và có cả tấm bạt che mưa.
Mưa ở rừng có khi kéo dài cả ngày, nhưng cũng có
những cơn mưa chỉ ồ lên một chút rồi ngừng, như cơn mưa hôm nay. Mưa tạnh, nhìn
đồng hồ thì đã quá giờ, nên Lê Thanh quyết định ngủ lại, sáng mai sẽ đi tiếp.
Theo anh nhẩm tính thì đã sắp đến địa điểm có ghi dấu của cha và ông nội, Thanh
yên tâm chờ đêm xuống...
Giật mình tỉnh giấc bởi mùi hương nức mũi, Lê Thanh
nhìn xung quanh một lượt, nhận ra mình vẫn nằm yên trên võng treo giữa hai thân
cây. Ánh trăng trên đỉnh đầu sáng trong tỏa khắp khu rừng, mà bằng mắt thường
cũng nhìn thấy vạn vật như đang lay động theo từng cơn gió. Đêm rừng đẹp lạ
thường!
Và còn đẹp hơn khi Thanh chợt nhìn xuống gốc cây và
bắt gặp một người con gái đang đứng co ro, mái tóc xõa tung bay theo gió...
- Cô là...?
Thanh hỏi rất khẽ, nhưng cô gái đứng dưới vẫn nghe,
cô không nhìn lên, thốt lời:
- Thật vô tình, mình nằm ngủ ấm áp như thế, để
người khác lạnh cóng cả người...
Trước hoàn cảnh bất ngờ, Lê Thanh lúng túng:
- Cô là... là ai vậy? Tại sao nửa đêm lại ở đây? Cô
là...
- Hỏi gì mà lắm thế? Không kịp để cho người ta trả
lời!
- Nhưng... cô là...
- Là người thiếu lịch sự, ngồi trên cao nói chuyện
với một người đang sắp chết vì lạnh dưới này, coi được lắm sao!
Bây giờ Lê Thanh mới nhớ ra, anh chuẩn bị bước
xuống thì đã nghe nàng ta cười khúc khích:
- Thôi, để người ta lên!
Nói xong, cô này thoăn thoắt leo lên, còn giỏi hơn
là Thanh lúc leo lên ban chiều.
- Cô biết leo cây?
- Nếu không tập leo thì đã bị hổ ăn thịt từ đầu hôm
rồi. Vừa rồi... chỉ vì ngại nên... người ta mới còn đứng đây, chớ còn mùi hổ
đang rất gần đây.
Vừa lúc ấy Thanh nghe tiếng chim tra trả kêu lên
liên hồi. Dấu hiệu có hổ đến gần!
Không còn kịp suy nghĩ, Thanh đưa tay kéo cô nàng
lạ mặt lên ngay cùng chung võng với mình. Cũng may dây võng khá chắc nên hai
người ngồi vẫn an toàn. Tuy vậy Thanh vẫn nói:
- Hay để tôi qua cành cây ngồi, cô nằm nghỉ...
Cô gái liếc nhìn rất sắc:
- Lịch sự có thừa, đúng là người thành phố!
Bây giờ Thanh mới kịp nhìn kỹ cô gái, bất chợt anh
giật mình, bởi sắc đẹp lạ thường của cô nàng!
- Cô là...
- Lại hỏi nữa! Hay Ià không muốn cho người ta chung
võng?
- À không, tôi chỉ...
Có thể thông cảm cho sự lúng túng của anh chàng,
nên nàng ta nói, giọng khác hẳn nãy giờ:
- Em theo đoàn đi săn hổ, bị hổ rượt nên lạc đường.
- À, thì ra...
- Còn anh, sao lại chọn rừng già đầy hiểm nguy này
nằm ngủ, hay là muốn làm bạn với thú dữ?
- Cô hiểu như thế cũng không sai.
Bây giờ đã xác định hương thơm lừng nãy giờ là do
từ thân thể cô gái phát ra, Thanh đột ngột đưa mũi dí sát vào mái tóc nàng ta
và hỏi:
- Có phải cô ướp hương trầm?
Cô gái nhìn sâu vào mắt Thanh:
- Anh không thích?
Lê Thanh hít một hơi dài:
- Chỉ vì mùi hương này mà tôi nguyện gắn cuộc đời
mình với chốn này.
Nàng chau mày:
- Anh đi tìm trầm?
Thanh không giấu:
- Tôi không chuyên nghiệp, nhưng vẫn là người tìm
trầm hương. Mà như vậy thì có gì không nên chăng? Nàng nhẹ lắc đầu:
- Đâu có sao. Miễn là...
Nàng có vẻ như muốn tránh không muốn nói chuyện đó,
nên lảng sang chuyện khác:
- Anh có biết là vùng này có hổ?
- Có. Tôi có nghe ông già thượng nói lúc chiều. Cô
cũng biết?
- Không, em bị lạc đường... cũng may có anh. Anh
là...?
Lê Thanh chợt nhớ ra:
- Nãy giờ quên không giới thiệu, tôi là Lê Thanh.
Còn cô?
- Lệ Hương.
Lúc ấy chợt có một tiếng gầm thật lớn. Có lẽ lũ hổ
đang đến gần.
Lệ Hương vội ôm chặt lấy Thanh, người run run lên
nhè nhẹ. Mặc dù cũng sợ, nhưng có hơi ấm của cô nàng, đồng thời hương thơm lạ
thường cứ phả vào mũi, đã làm cho anh như ngất ngây, quên cả loài mãnh thú đang
rình rập dưới kia.
Một con hổ thật to đi thẳng về chỗ hai người. Cách
khoảng hơn chục bước chân, bỗng nó dừng lại, nghểnh cổ lên nhìn và rõ ràng hai
cánh mũi nó phập phồng như ngửi hương thơm kỳ lạ đó vào buồng phổi. Vài mươi
giây trôi qua, rồi bỗng dưng con hổ quỳ phục xuống như một người đang quỳ gối!
Mắt nó hướng chỗ hai người như chờ đợi...
Lê Thanh muốn tiếp tục theo dõi động tĩnh của con
hổ, nhưng vòng tay của cô nàng ghì chặt cổ anh xuống. Giọng cô thật khẽ:
- Em sợ... hãy ôm chặt vào... nữa... vào nữa...
Trời đất như quay cuồng, đảo lộn... Lê Thanh dần
dần có cảm giác như toàn thân mình nóng ran lên, đôi mắt muốn mở ra mà sao
không tài nào mở được.
Chừng như có bàn tay ai đó lùa vào ngực anh và vuốt
nhẹ xuống. Cái vuốt tay đến đâu người anh run lên đến đó...
- Nè, cái anh trẻ ơi! Làm gì mà giờ này còn nằm
trên võng vậy?
Lão già thượng gọi ba bốn lần vẫn chẳng thấy động
đậy, nên lầu bầu:
- Mặt trời đã đứng bóng rồi, sao vẫn còn ngủ...
Linh tính như báo điều chẳng lành, lão đặt gùi
xuống rồi leo lên cây. Phát hiện Lê Thanh đang nằm bất động hai mắt nhắm
nghiền, lão kêu lên:
- Anh trẻ sao vậy?
Vẫn không có phản ứng, lão đưa tay sờ lên trán rồi
lên mũi và hoảng hốt:
- Không xong rồi! Trúng gió rừng rồi!
Khó khăn lắm lão mới mở được võng đưa Thanh xuống.
Anh chàng đã ngất lịm từ lúc nào rồi, người lạnh như băng. Có điều lạ là dù
không biết gì, nhưng hai bàn tay anh chàng vẫn ôm ghì lấy khúc gỗ được đẽo gọt
giống như một hình nhân, một mỹ nữ! Lạ hơn nữa, hương thơm phát ra từ khúc gỗ
đẽo làm cho lão thượng phải ngẩn ngơ. Lão lẩm bẩm:
- Trầm hương! Thần hương!
Lão chợt nhìn ra sau, thấy con hổ vẫn quỳ ở đó, thì
thật nhanh, lão chấp tay lại, đọc lầm thầm gì đó trong miệng.
Con hổ hiền khô, nó từ từ đứng lên rồi đi biến vào
rừng cây.
Cất tiếng hú mấy hồi dài... lát sau người làng của
lão thượng tới bốn, năm người nữa. Lão bảo họ khiêng Thanh về bản. Để mọi người
không nhìn thấy, lão khéo léo lấy áo choàng của Thanh quấn chặt anh lại, nhét
pho tượng vào trong đó.
Lão tỏ ra vô cùng cung kính khúc gỗ trầm. Gần như
không dám chạm mạnh vào.
Về đến bản, nhờ có thuốc gia truyền, đồng thời
chừng như đoán được căn bệnh của Thanh, nên đến tối hôm đó thì Thanh tỉnh lại.
Vừa tỉnh, anh đã bật dậy hỏi ngay:
- Nàng đâu?
Lão già thượng ngạc nhiên:
- Nàng nào?
Chợt nhận ra trong tay mình có pho tượng gỗ trầm,
đến phiên Thanh ngơ ngác:
- Cái này... ở đâu vậy?
- Thì của cậu. Lúc tôi leo lên võng thì thấy cậu bị
ngất mà trong tay vẫn còn ôm chặt lấy pho tượng này. Chẳng của cậu thì của ai?
Lê Thanh nhớ lại chuyện hôm qua. Anh lẩm bẩm:
- Thì ra...
- Cậu nói gì?
- À, không. Cháu chỉ...
Thanh săm soi pho tượng thật kỹ, hương thơm từ đó
phát ra nức mũi, chẳng khác mùi hương của cô gái lạ đêm qua.
- Hay là...?
Anh quay sang lão thượng, hỏi:
- Có một đoàn đi săn ở gần đây phải không?
Lão già lắc đầu:
- Đây là vùng cấm săn bắn, mà cũng đã lâu chẳng hề
nghe thấy cuộc đi săn nào.
Thanh muốn kể lại chuyện cô gái, nhưng lưỡng lự một
lúc rồi thôi. Anh chỉ nói:
- Cháu muốn nghỉ nhờ ở đây đến sáng mai.
Lão già thượng thật lòng:
- Anh trẻ muốn ở bao lâu cũng được. Bởi vì già này
có hứa với Thần Hương hễ ai là bạn thì sẽ bảo vệ tới cùng.
- Nhưng cháu đâu phải là bạn?
Chỉ pho tượng gỗ, lão nói:
- Pho tượng này theo lão biết thì đã ở trong hang
gió từ mấy chục năm rồi, không một ai lấy được. Theo truyền thuyết thì tượng
này do một người đi tìm trầm, khi bị kẹt dưới hang không lên được, đã bỏ ra mấy
tháng trời mới tạc xong pho tượng này bằng chính khúc gỗ trầm do mình tìm được.
Tạc xong tượng thì ông ta chết. Hiện nay xương cốt trong Hang Gió. Hang quá
hiểm trở, không một ai xuống đó được. Vậy anh trẻ có được pho tượng này chắc
là... có điều gì đó thiêng lắm...
Thanh nhớ lại có lần cha mình đã muốn kể rõ về cái
chết của ông nội đi lấy được trầm thì bị rơi xuống vực. Rồi thôi, không kể
nữa... có thể xác chết trong hang Gió đúng là ông nội của anh? Ông đã chết thảm
và đầy bí ẩn như thế, chớ không như lời kể của cha. Giờ đây kết nối câu chuyện
của ông già thượng, Thanh bắt đầu hiểu ra...
Nhưng tại sao anh có được pho tượng này, nếu không
do cô gái lạ hồi đêm? Thanh khẩn thiết van nài lão già:
- Cháu có liên quan đến người bỏ xác trong hang Gió
mà lão vừa nhắc tới đó. Cháu muốn biết có phải lúc sáng lão nói về cây trầm
hương hiển linh có liên quan đến tượng này?
Có lẽ muốn giấu, nhưng thấy thái độ thành khẩn của
Thanh, nhất là khi nghe anh nói mình là cháu của bộ hài cốt trong hang, lão
trầm ngâm một lúc rồi nhẹ giọng kể:
- Chuyện này già đã thề dưới hang Gió là không nói
cho ai biết. Nhưng đến nay có lẽ già cũng phải phá lệ thôi. Hồi đó, có lẽ cũng
ngót 20 năm rồi, già mạo hiểm đuổi theo một con chồn bị thương chạy vào hang
Gió và bị lọt xuống hang, ở đó già tình cờ gặp một bộ xương tay còn ôm pho
tượng trầm tỏa hương này. Trên vách hang có mấy hàng chữ viết bằng máu đã sẫm
màu, ghi lại ý nguyện của người đó trước khi chết...
Không đợi lão kể hết, Thanh chen ngang:
- Viết gì vậy?
Lão kể tiếp:
- Người ấy dặn con cháu không nên tìm lấy trầm
hương nơi này nữa, bởi đây là trầm thiêng. Bởi nó quá thiêng nên ai tìm thấy nó
đều chịu nhiều bất trắc. Cũng như người đó, tiết lộ rằng trong lúc đốn trầm đã
vô tình gây thương tích và để lại máu thấm vào thân trầm hương. Mà dân rừng ở
đây ai cũng đều biết, một khi máu người thắm vào trầm thì khúc trầm đó sẽ...
thành tinh!
Lão kể tới đây thì lạc hẳn giọng, liếc nhìn pho
tượng gỗ trầm, lộ vẻ sợ sệt...
Lê Thanh xiết chặt pho tượng vào lòng, anh quay qua
chỗ khác, nói chỉ mình nghe:
- Đúng cô nàng ấy là...
Lão già thượng hỏi:
- Cậu nói gì?
- Dạ... không có gì.
Lê Thanh về thành phố mang theo cả pho tượng trầm
hương. Về nhà, anh lục tìm trong tủ sách cha để lại, thật bất ngờ, anh bắt gặp
một quyển sổ tay mà trong đó có những dòng mà do chính tay cha anh ghi lại:
"Tôi hai lần trở lại chỗ Hang Gió, cố tìm cách
thâm nhập vào hang để đưa xác cha về, nhưng lần nào cũng thất bại. Tôi đã giấu
không kể hết sự thật về cái chết của ông nội thằng Lê Thanh cho nó nghe, chỉ sợ
nó sau này lặp lại điều mà ông nội nó phạm phải. Kể cả tôi, suốt gần mười năm
tìm trầm chưa bao giờ tôi dám nghĩ chuyện trở lại Hang Gió lần nữa, mặc dù cho
đến hôm nay hài cốt cha tôi vẫn chưa đem về được...".
Thế là rõ, những gì ở Hang Gió có liên hệ trực tiếp
tới nhà anh. Đặc biệt là pho tượng gỗ trầm này...
Kể từ hôm trở về nhà Thanh đặt pho tượng lên trên
đầu tủ ngay trong phòng mình. Nhưng ngay đêm đầu tiên, giữa giấc ngủ, anh phải
giật mình bật dậy nhiều lần, bởi cứ khi nào nhắm mắt là y như rằng có một thứ
ánh sáng xanh kỳ lạ phát ra từ pho tuợng!
Cứ ngỡ là do mình đi xa mới về còn mệt nên bị tình
trạng như vậy. Nhưng đến đêm thứ hai, thứ ba vẫn xảy những chuyện giống như
thế. Điều này đã làm cho Thanh bắt đầu lo ngại.
Tới ngày thứ năm Thanh chuyển bức tượng ra phòng
khách, nơi có tủ thờ ông nội và cha. Tượng được để trang trọng trong một hộp
kính, đặt trên một tủ thờ riêng.
Đêm đó quả nhiên những cơn ác mộng không xảy ra
nữa. Lê Thanh ngủ yên tới sáng.
Nhưng có một điều lạ thường đã xảy ra vào sáng sớm
hôm đó! Vừa bước ra phòng khách, Thanh đã sững sờ trước một bộ hài cốt đặt ngay
dưới chân bàn thờ.
Trong nhà chỉ một mình Lê Thanh sống, lúc ngủ cửa
nẻo đều đóng kín, khóa chặt. Như vậy nhất khoát không phải do ai mang bộ xương
vào nhà...
Lúc xem kỹ lại bộ hài cốt, Thanh phát hiện ở xương
cổ còn có một thẻ bài bằng kim loại, trên đó ghi rõ danh tính là Lê Văn Hạo. Đó
chính là ông nội của Lê Thanh!
Lê Thanh sống yên ổn với bức tượng gỗ trong nhà.
Còn hài cốt ông nội thì anh mai táng ngay vườn sau nhà.
Cuối năm đó Thanh có ý định lấy vợ. Cô gái anh dự
tính lấy tuy không phải do mối tình lãng mạn, nồng thắm... Tuy nhiên, do có
người mai mối, đồng thời Thanh cũng muốn có người tiếp tay lo chuyện nhà nên
Thanh đồng ý, chuẩn bị chọn ngày làm lễ hỏi.
Nhưng thật lạ lùng, nửa đêm hôm đó bỗng nhiên những
bát nhang đặt trên bàn thờ bốc cháy dữ dội. Khi Thanh phát hiện chạy ra thì lạ
hơn nữa, cái hộp kính bao pho tượng trầm bỗng nổ to và vỡ ra từng mảnh. Thứ ánh
sáng xanh hôm trước lóe lên rất lâu!
Như được báo trước một điều gì đó, tự nhiên Thanh
đổi ý, hủy lễ hỏi sáng ngày mai. Dù bị khá nhiều rắc rối ngay sau đó, nhưng
Thanh cam chịu, không hối tiếc điều gì...
Và cũng lạ lùng hơn, kể từ hôm ấy, nếu Lê Thanh
đóng cửa ở trong nhà thì không có việc gì, trái lại nếu anh ra đường và có quan
hệ với ai là nữ giới, thì y như rằng bàn thờ tổ tiên nhà anh bốc cháy! Mỗi lần
như vậy thì pho tượng cũng phát ra lửa xanh kỳ lạ, rồi tự nhiên mùi hương nức
mũi cũng biến mất. Hiểu điều đó, nên kể từ đó Thanh chỉ đóng cửa và luôn nhang
khói đều đặn cho cả pho tượng trầm hương.
Về sau, người ta đồn rằng cậu Lê Thanh có quan hệ với
hồn ma hay một người con gái nào đó trong nhà mình. Cô ta chỉ xuất hiện vào ban
đêm và mỗi khi xuất hiện thì mùi hương lạ thường lan tỏa khắp xóm.
Hư thực ra sao, chỉ có Lê Thanh mới biết...
Chỉ có điều là hàng chục năm sau vẫn chẳng thấy anh
chàng lấy vợ. Vậy mà ngôi nhà anh ta ở lúc nào cũng như tràn đầy hạnh phúc...
HỜN GHEN ĐẾN CHẾT
(Tác giả: Người Khăn Trắng)
Tiếng khóc than kể lể của vợ càng làm cho Ba Hoành
bực bội thêm.
Gần một giờ đồng hồ, Ba Hoành ngồi lặng im trên ghế
ngồi hút thuốc liên tục, cố làm át đi cái mùi dầu gió xanh sực nức căn phòng,
cái mùi làm ông muốn ói. Ông không thèm trả lời tiếng nào.
- Bây giờ ông thấy tôi đau ốm rồi ông muốn bỏ luôn
phải không? Tôi biết mà, ông đâu cần tôi nữa. Tôi mà chết sớm giờ nào ông mừng
giờ nấy, cho khỏi vướng bận. Mặc tình cho ông đi nhậu nhẹt. Rồi hết con này đến
con kia... Ông muốn phá cho nát cái nhà này ông mới vừa ý mà.
Không thể chịu đựng được nữa, Ba Hoành chầm chậm
quay qua nhìn thẳng vào mặt vợ:
- Tôi hỏi bà, bà có để yên cho tôi nghỉ ngơi chút
nào không? Từ lúc đi làm về tới giờ bà luôn miệng bao lâu rồi bà biết không?
Vậy mà biểu người ta đừng chán. Vợ con gì... Cái này là cái nhà hay địa ngục?
Như được châm thêm dầu, cái dai dẳng của bà vợ lại
tiếp tục cất cao lên:
- Tui biết ông chán cái nhà này lắm rồi. Địa ngục
mà. Tui biết ông muốn đi lại chỗ con đó thôi. Ông có giỏi thì đi đi...
Bà vợ lại tiếp tục khóc lóc, tru tréo, than van:
- Chẳng thà ông nói một tiếng đi, ông nói ông không
cần tui nữa đi, rồi tui để ông đi luôn với con ngựa cái đó. Tui bịnh hoạn như
vầy mà ông không thèm chăm sóc, lại đi lo lắng cho con đó. Đây nè, tui chuẩn bị
thuốc ngủ rồi nè, chút nữa tui uống tui chết cho ông vừa lòng...
"Lại bổn cũ" - Ba Hoành nghĩ thầm. Từ lúc
bệnh đến nay bà vợ cứ làm ông khổ sở suốt ngày đêm. Hết khóc lóc rồi lại ghen
tuông, hết ghen tuông rồi lại đòi chết, đến nỗi ông không muốn về nhà. Mà càng
không về thì mỗi lần về còn khó chịu hơn gấp bội.
- Trời ơi là trời! Sao cái số tui khổ vầy nè. Chồng
ơi là chồng...
Bà vợ khóc rống lên. Sức chịu đựng có hạn, Ba Hoành
đứng dậy:
- Tui nói thiệt với bà tui bỏ đi bây giờ đó. Bà có
im không?
- Tui không im, ông làm gì tui? Ông có ngon ông đi.
Ông đi thử coi. Ông đi là tui chết liền đó. Ông đừng có ác đức quá vậy. Cái con
ngựa cái đó nó cho ông ăn bùa mê thuốc lú gì mà ông ngu dữ vậy. Già hai thứ tóc
rồi mà còn mê gái...
Ba Hoành bực bội mở cửa phòng. Bà vợ chửi với theo:
- Thứ đàn ông ngu. Thứ đàn ông không biết điều. Tui
mà chết tui cũng báo ông suốt đời...
"Rầm". Tiếng cánh cửa dập mạnh.
Bà vợ cảm thấy đau khổ cùng cực. Bà cũng biết tánh
lăng nhăng của ông từ trước đến nay. Bà cũng đã nhiều lần ghen tuông đủ kiểu.
Rồi đâu lại vào đó. Hết con này, lại đến con khác. Nhưng lần này ông có vẻ mê
say con nhỏ này lắm. Đầu tiên nó gặp ông với tư cách là đối tác làm ăn. Vậy
mà... Bây giờ lại là lúc bà bệnh hoạn, không đi ra ngoài được. Tức quá, bà cảm
thấy khó thở.
Bà nghe tiếng chân chồng trong phòng khách. Có
tiếng chuông điện thoại di động reo vang.
- Ok. Ok. Tới liền.
Rồi tiếng mở cửa, tiếng mở cổng, tiếng xe ra khỏi
nhà...
Ba Hoành thức dậy nhìn đồng hồ. Còn sớm. Ông nhìn
qua người đàn bà ngủ say nằm kế bên. Đàn bà đẹp lúc ngủ càng đẹp hơn. Ông công
nhận trên đời này có những người đàn bà vừa đẹp lại vừa khéo léo lạ lùng. Họ có
khả năng dễ dàng làm hài lòng đàn ông trong giao tiếp, quan hệ và cả trên
giường. Bà Loan là một trong những người như vậy mà trời đã trao cho ông. Từ
lúc có bà Loan đến nay ông nâng niu, chăm sóc, cưng chiều. Bù lại, Loan cũng đã
giúp ông thành công trong nhiều phi vụ khó khăn và thỏa mãn "chất đàn
ông" của ông. Vì vậy mà họ lại càng gắn bó nhau hơn, trước con mắt ghen tỵ
của nhiều người khác, đa số là bạn bè làm ăn của ông.
Có tiếng chuông điện thoại.
Người nhà báo ở nhà có việc quan trọng mời ông về
gấp. Ba Hoành cười mỉm. Lại là chiêu cũ. Đây không biết là lần thứ bao nhiêu bà
đã ngất xỉu, điện thoại gọi ông về. Rồi đâu cũng vào đó, lại tiếp tục chuỗi dài
khóc than, kể lể. Ba Hoành cảm thấy quá ngán ngẩm.
Ba Hoành cúi xuống hôn làm bà Loan chợt tỉnh:
- Anh đi sớm vậy.
- Ừ. Có một số công việc. Anh đi nghe. Có gì phôn
cho anh.
Bà Loan cười, nhắm mắt định ngủ tiếp nhưng không
ngủ được nữa. Bà bước khỏi giường đi vào phòng vệ sinh.
Đây là ngôi biệt thự nhỏ xinh xắn mà Ba Hoành mua
để làm tổ uyên ương cho hai người. Ngôi nhà nằm trong một con đường nhỏ và vắng
lặng nên hết sức yên tĩnh. Lúc nào cần hẹn hò là họ đến với nhau tại đây. Nhớ
tới Ba Hoành, bà Loan chợt mỉm cười. Đó là người đàn ông thành đạt với cái lối
làm ăn nửa như chân chất nhà quê, nửa như gian xảo thành thị. Chính vì vậy mà
khối người vừa muốn làm ăn với anh lại vừa e ngại, sợ hãi.
Nhưng với bà Loan thì Ba Hoành hiện ra với tư cách
là một người đàn ông có nhiều ưu điểm dành cho đàn bà. Thứ nhất là có nhiều
tiền. Điều quan trọng này giúp cho cuộc tình không bị những khó khăn đời thường
chi phối. Thứ hai là không lệ thuộc gia đình. Bà Loan biết Ba Hoành sống rất
gia trưởng trong gia đình với người vợ vừa già vừa nhà quê, lại bệnh hoạn. Bất
cứ khi nào Hoành cũng có thể ra khỏi nhà hú hí. Thứ ba là sung sức. Người đàn
ông ở tuổi này mà tràn đầy sức lực như Ba Hoành không phải là nhiều. Ba Hoành
hùng hục đưa bà lên mây. Bà nhiệt liệt hưởng ứng và đáp trả. Trong chuyện này
thì chưa biết ai thua ai. Bà Loan cười thích thú.
Bỗng cửa phòng vệ sinh xịt mở. Bà Loan quay lại
nhìn, không có ai. Một làn gió lạnh buốt thổi vào. Bà Loan rùng mình cảm thấy
nổi gai khắp người.
Sao cửa phòng lại mở? Ngôi nhà này không bao giờ có
người nào khác ngoài hai người. Chắc là tại gió đây. Bà Loan bước ra đóng cửa
lại. Nhưng khi cửa sập lại thì bà Loan cảm thấy hình như có ai đang đi tới đi
lui trong phòng khách. Không lẽ Ba Hoành trở lại. Không đời nào mà ông lại để
yên cho bà khi bắt gặp bà đang trong nhà tắm. Bà Loan mỉm cười. Đàn ông gì mà
hễ nhìn thấy là ào ào nhào tới cho bằng được, làm người ta thích muốn chết.
Nhưng không phải ông thì là ai? Ăn trộm? Không lẽ
lúc đi ông Ba Hoành lại quên đóng cổng?
Bà nhìn quanh trong phòng tắm, không có gì có thể
tạm làm vũ khí được. À đây! Bên ngoài cửa có dựng cây chổi bông cỏ. Bà Loan cầm
chổi đi rón rén. Phòng ngủ không có gì. Chắc chắn là ở phòng khách. Bà nhẹ
nhàng mở cửa phòng ngủ ra nhìn phòng khách. Không thấy gì. Bà bước hẳn ra. Cũng
không thấy gì.
Chắc tại mình mệt quá đây mà. Cũng tại ông Ba
Hoành. Không biết hồi tối này nhậu ở đâu cho dữ rồi về quần người ta tới gần
sáng. Mệt muốn chết. Bà quay vào phòng ngủ thay quần áo để đi về.
"Rầm".
Cửa nhà tắm sập mạnh. Tim bà Loan đập thình thịch.
Bà thấy sợ, vội vã bước ra ngoài.
"Rầm".
Khi bà Loan chuẩn bị khóa cửa ngoài thì phòng ngủ
lại bật ra rồi đóng vào thật mạnh. Qua cửa kính bà Loan thấy hình như có một
bóng người bay loáng thoáng trong nhà. Ma? Bà luống cuống khóa cửa. Hình như có
tiếng gì trong nhà. Tiếng cười. Không, tiếng khóc. Không, tiếng rên. Nghe không
rõ nhưng có một thứ tiếng gì đó nghe âm u lắm.
Bà Loan hối hả chạy ra, lập cập khóa cổng, ra đường
đón taxi...
Ông Ba Hoành ngồi im lìm trong nhà tang lễ. Chiếc
áo tang trắng bay phần phật theo chiều quay của cái quạt máy gắn trên tường.
Bây giờ là buổi trưa nên chẳng có khách viếng, hơn
nữa đa số đã đến chia buồn từ hôm qua. Dòng họ bà con của ông bà không ai thân
thích ở thành phố này nên cũng chẳng có người ở đây. Chỉ có ông và vài ba người
làm của gia đình đang ngồi tụm ở góc kia.
Như vậy bà đã ra đi thật rồi. Khi ông về đến nhà
thì mọi chuyện gần như đã kết thúc. Bà tự tử bằng thuốc ngủ, cái chai còn để
trên bàn đầu giường. Ông trả lời như cái máy những câu hỏi của Cảnh sát với ánh
mắt ngơ ngác vô hồn:
- Trước đây bà có ý định tự tử không?
- Có. Nhất là khoảng thời gian sau này, lúc bà bệnh
nặng và không thể chữa khỏi.
- Theo ông thì vì sao bà tự tử?
- Bà thường nói bà không muốn sống mà bệnh hoạn
hành hạ. Bà muốn yên thân.
- Thuốc ngủ ở đâu bà có nhiều vậy?
- Tôi không biết. Bác sĩ khám bệnh cho toa, người
làm đi mua thuốc. Có lẽ bà để dành nhiều lần.
Sau một buổi kiểm tra thì mọi người cũng xác nhận
là bà Ba Hoành chết vì tự tử bằng thuốc ngủ do ám ảnh bệnh hoạn, không liên
quan đến ai.
Bây giờ ngồi đây ông cũng thấy thương bà, dù gì
cũng mấy mươi năm sướng khổ có nhau. Năm đó, hai vợ chồng trẻ rời bỏ quê hương
với cuộc sống nghèo nàn để tìm tương lai nơi đô thị. Không vốn, không nghề hai
vợ chồng xin được làm thuê cho một vựa bán sỉ trái cây. Chồng nai lưng vác từ
sáng đến tối. Vợ quần quật hết chuyện nhà lại chuyện ngoài vựa. Cả ngày hai vợ
chồng không rảnh để thấy mặt người khác nữa chứ đừng nói nhìn mặt nhau. Cuối
tháng, vợ vuốt thẳng mấy trăm ngàn lương của hai vợ chồng để vào chiếc hộp
thiếc nhỏ.
Đến khi chiếc hộp thiếc nằng nặng thì vợ phải vào
bệnh viện. Số tiền dành dụm bay đi. Lại bắt đầu lại từ đầu.
Bất ngờ vợ chồng ông chủ được con bảo lãnh sang Mỹ.
Thương hai vợ chồng người làm thuê thật thà, chịu khó, ông chủ cho cái sạp và
một số vốn còn trong hàng họ. Thế là hai vợ chồng trở thành chủ sạp. Từ đó đi
lên dần dần.
Rồi một ông bạn rủ bỏ vốn làm nghề xây dựng đến
nay.
Tội nghiệp cho bà. Dù đã giàu lên nhưng bản tánh
keo kiệt của cái thuở hàn vi vẫn bám sát với bà. Bà không dám sắm sửa, không
dám ăn ngon, không dám mặc đẹp. Bà luôn sợ lỡ một ngày nào đó mà nghèo thì
không thể nào sống nổi. Mỗi khi ông đi ăn nhậu thì bà lại cằn nhằn, sợ hao sợ
tốn. Rồi bà lại sanh chứng ghen tuông.
Từ đó vợ chồng ít khi có dịp nói chuyện với nhau
cho êm ấm. Mở miệng ra là gây là cãi. Đã vậy hai ông bà lại chẳng có đứa con
nào nên cuộc sống càng thêm hiu quạnh, bực bội. Hình như càng có tiền thì ông
bà càng cãi cọ nhiều hơn. Vậy là ông bỏ ra bên ngoài tìm vui. Bà héo hon sinh
bệnh.
Chuyện xảy ra hôm nay cũng là một hậu quả tất
nhiên, nếu chịu nhìn cũng có thể thấy trước.
Chị người làm bưng lại cho ông ly cà phê đá. Ông
gật đầu hớp từng ngụm.
Cũng tội cho bà. Ba Hoành không nhớ nổi là hai vợ
chồng ngủ với nhau lần cuối khi nào, hình như lâu lắm rồi thì phải. Lỗi cũng
tại ông, vui vẻ bên ngoài quên hẳn vợ nhà. Nhưng nói đi thì nói lại, làm sao
khác hơn được khi mỗi lần thấy mặt là bà lại cằn nhằn, khóc lóc, kể lể, ghen
tuông.
Thôi bà cũng đừng trách tôi. Cũng tại bà một phần.
Phải chi bà dịu dàng, âu yếm với tôi thì đâu đến nỗi này.
Ông nhìn lên di ảnh bà. Trong khói nhang nghi ngút,
ảnh như lung linh. Ông thấy mắt bà trong ảnh như đổi khác, như ánh mắt cuối
cùng mà bà dành cho ông.
Ông sợ sệt nhìn quanh.
Hôm qua Ba Hoành đã thấy được ánh mắt cuối cùng của
vợ khi người đàn ông đến nói với ông:
- Ông đến nhìn mặt bà lần cuối để chúng tôi đóng
nắp quan tài.
Ông đến gần, chần chừ không muốn mở tấm vải trắng
che mặt bà. Lúc nãy ông đã nhìn kỹ bà rồi, đôi mắt nhắm nghiền, mặt ốm xanh mệt
mỏi. Nhìn khuôn mặt đó ai cũng có thể biết lâu rồi bà không hề có được niềm
vui. Thôi thì nghĩa tử là nghĩa tận, ông kéo nhẹ tấm vải... Ông giật mình. Đôi
mắt bà mở to trừng trừng nhìn ông, dù rằng đó là đôi mắt chết. Ba Hoành giật
mình bước lùi về sau một bước. Lấy hết can đảm, ông vuốt mặt bà lần nữa, nhưng
đôi mất vẫn trừng trừng. Hình như đôi mắt chết không phải nhìn ông mà là theo ông,
rồi mùi dầu gió xanh xông lên, sực nức.
Ba Hoành đắp lại tấm vải che mặt thật nhanh.
Ba Hoành ngồi im lìm hút thuốc ở phòng ngủ, lắng
nghe tiếng nước chảy trong nhà tắm. Bà Loan đang ở trong đó. Bình thường thì Ba
Hoành đã vào theo, nhưng hôm nay sao Ba Hoành thấy có cái gì là lạ.
Cả một tuần không gặp nhau vậy mà khi Ba Hoành điện
thoại thì bà Loan còn có ý muốn từ chối. Ba Hoành phải nói mấy lần mới đồng ý.
Vậy là ý gì đây. Từ trước đến nay chưa bao giờ Ba Hoành phải nói đến lần thứ
hai. Thậm chí chừng ba ngày không gặp là bà Loan đã cuống quýt, hối thúc.
Đã vậy khi đến đây thay vì nhào tới chẳng khác con
hổ cái như lệ thường, bà Loan rón rén, e dè, dáo dác nhìn ngó chung quanh. Cái
kiểu nửa hư nửa thực của bà Loan làm Ba Hoành mất hứng, thậm chí còn thấy hơi
quạu và bực mình.
Bà Loan từ trong nhà tắm đi ra, cũng với cặp mắt
dáo dác và bước chân rón rén. Ba Hoành giật cái khăn choàng văng ra. Ông chúi
mũi vào thân thể bà Loan. Mùi đàn bà mới tắm xông lên, Ba Hoành thấy hứng khởi
trở lại. Ông đè bà xuống giường, leo lên nằm trên thân thể trắng bóc đó.
Bỗng Ba Hoành nghe thoang thoảng mùi dầu gió xanh.
Mùi dầu càng nặng dần. Ba Hoành mở mắt nhìn thẳng
vào mặt bà Loan. Ba Hoành thấy đôi mắt bà Loan mở trừng trừng, khuôn mặt tái
nhợt. Không, không phải bà Loan mà là đôi mắt trợn trừng của vợ ông khi chết.
Khuôn mặt cũng là khuôn mặt xanh xao mệt mỏi.
Đúng lúc đó bà Loan nhìn thấy bóng người đàn bà
đứng ở đầu giường. Bóng người đàn bà đang trợn trừng, nhe răng, chồm lại muốn
nắm lấy bà. Bà Loan hét lên.
Cả hai người đẩy nhau ra trong tinh thần hoảng loạn
khủng khiếp. Không ai nói với ai câu gì rất lâu. Cả hai mặc quần áo vào và lặng
lẽ đưa nhau về.
Lần gặp nhau sau đó ở một khách sạn cũng diễn ra y
như vậy. Ba Hoành nghe mùi dầu gió xanh, nhìn thấy đôi mắt và khuôn mặt vợ. Bà
Loan nhìn thấy một bóng người ở đầu giường, trợn trừng và nhe răng.
Đó là lần gặp cuối của hai người. Họ chia tay nhau.
Sau đó ít lâu, người ta thấy Ba Hoành cặp kè với bà
Út Thảo. Thật ra chuyện này không có gì mới, chẳng qua là nối lại tình xưa. Đã
có một thời Ba Hoành và Út Thảo ăn ở với nhau.
Người đàn bà ly dị chồng từ khá lâu này có một tài
sản kha khá đủ để hưởng thụ. Bà không cần tiền, nhưng có cũng tốt thôi. Cái bà
cần là một người đàn ông có thể lấp đầy khoảng trống tâm hồn và thể xác bà. Lúc
đó Út Thảo đã chọn Ba Hoành. Quan hệ càng lâu bà thấy mình càng chọn đúng. Hình
như Ba Hoành được sinh ra để chiều chuộng bà.
Do sống một mình nên nhà bà chính là nơi hò hẹn của
hai người.
Nhưng một hôm đội quân đánh ghen của vợ Ba Hoành đổ
bộ đến và bắt gặp tại trận. Lúc đó vợ Ba Hoành còn khỏe lắm vì vậy mà Út Thảo
phải dính một cái thẹo dài bên trên mày phải.
Sợ quá, Út Thảo chia tay với Ba Hoành và tốn khá
nhiều tiền để làm thẩm mỹ xóa cái thẹo tình ái kia.
Nhưng bây giờ thì có thể yên chí rồi. Vợ Ba Hoành
chết thì ai còn có quyền ghen tuông nữa chứ.
Trong một quán cà phê sang trọng, yên tĩnh, Ba
Hoành mân mê bàn tay mềm mại của Út Thảo:
- Chừng nào anh tới nhà em được?
Út Thảo liếc mắt đong đưa:
- Tới làm cái gì?
- Tới để làm tiếp cái chuyện cũ đó. Á, tới để...
làm đêm tái hôn.
- Thôi đi ông, tôi sợ mang thẹo lắm rồi.
Ba Hoành choàng tay qua vai Út Thảo:
- Bây giờ thì khỏe rồi. Còn có ai nữa đâu.
- Thiệt không còn có ai nữa phải không? Vậy thì
được. Chiều mai anh qua, em đợi.
Sáng hôm sau, khi còn nằm trên giường, Út Thảo lên
kế hoạch. Phải kêu tụi nó dọn dẹp cái phòng lại. Phải xịt một chút dầu thơm cho
quyến rũ. Hôm nay phải sắm một bộ áo ngủ mới thật hấp dẫn. Một chai rượu nữa
chứ.
Út Thảo sung sướng và khoan khoái bước xuống giường
vào nhà tắm.
"Xoảng".
Có tiếng vật gì rơi chỗ bàn trang điểm. Út Thảo
nghe hình như có ai đi lại trong phòng. Chắc là tụi nhỏ nghe rớt đồ vào dọn
dẹp. Út Thảo nói vọng ra:
- Dọn kỹ một chút nghen.
Không có tiếng trả lời.
Một chút sau Út Thảo bước ra. Chai dầu vỡ vẫn còn
nằm dưới chân bàn, dầu chảy lênh láng. Út Thảo thay quần áo xong gọi lớn:
- Thanh à! Thanh.
Cô gái người làm tên Thanh chạy vào:
- Dạ cô gọi con.
- Ừ, hồi nãy vô đây sao không dọn luôn.
- Con không có vô.
- Vậy thì ai? Thôi dọn đi, kỹ nghen. Cô đi công
chuyện.
Chiều hôm đó, khi nghe tiếng còi xe, biết là Ba
Hoành tới, Út Thảo yểu điệu đứng dậy đích thân ra mở cửa. Cái cửa hôm nay sao
kỳ vậy, mở đi mở lại mấy lần mới chịu ra, làm như có ai kéo nó lại.
Ba Hoành bước vào với bó hoa thật lớn trên tay và nụ
cười thật tươi trên miệng. Còn Út Thảo thì làm Ba Hoành chóng mặt trong bộ áo
ngủ màu hồng nhạt mỏng tang. Họ sà vào nhau, quấn quýt, nũng nịu cho thỏa lòng
thèm khát.
"Rầm".
Cửa phòng ngủ tự nhiên bật tung rồi lại dập vào một
cái thật mạnh. Hai người quay lại nhìn rồi lại tiếp tục quấn người vào nhau và
chầm chầm dìu nhau vào chiếc giường trải màu hồng gợi cảm.
Ba Hoành cởi nhanh bộ quần áo của mình rồi chầm
chậm đẩy bộ áo ngủ tuột khỏi thân thể trắng trẻo của Út Thảo.
Ông đè bà xuống giường, leo lên nằm trên thân thể
trắng bóc đó.
Bỗng Ba Hoành nghe thoang thoảng mùi dầu gió xanh.
Mùi dầu càng nặng dần. Ba Hoành nhìn vào mặt Út Thảo. Ba Hoành thấy đôi mắt Út
Thảo mở trừng trừng, khuôn mặt tái nhợt. Không, không phải mắt Út Thảo mà là
đôi mắt trợn trừng của vợ ông khi chết. Khuôn mặt cũng là khuôn mặt xanh xao
mệt mỏi.
Đúng lúc đó Út Thảo nhìn thấy bóng một người đàn bà
đứng ở đầu giường. Út Thảo nhận ra đó là vợ Ba Hoành. Bóng người đàn bà đang
trợn trừng và nhe răng rồi đưa cánh tay dài ngoẵng nắm lấy Út Thảo. Út Thảo hét
lên.
Sau đó Ba Hoành còn quan hệ với vài người khác. Đàn
ông chết vợ, có tài sản, đứng tuổi trở thành món hàng hiếm đối với các bà lỡ
thì. Họ giang rộng đôi tay và hăng hái lao vào.
Nhưng tất cả đều có kết cục giống nhau: Chia tay
trong hãi hùng với một bóng ma lung linh trong trí nhớ.
Ba Hoành không khi nào ái ân với một người đàn bà
nào khác được nữa. Thậm chí cả đến những cô gái điếm qua đêm.
Tất cả chỉ là mùi dầu gió xanh, đôi mắt trợn trừng,
khuôn mặt xanh xao của bà vợ đã chết.
Khoảng thời gian sau người ta thấy ông Ba Hoành như
một người mộng du, đi lang thang và không hề để ý gì đến chuyện làm ăn nữa. Ba
Hoành suy sụp hoàn toàn.
Rồi người ta không thấy Ba Hoành đâu nữa. Có người
nói ông về quê, có người bảo ông đã sang nước khác làm ăn. Cũng có người nói
ông đã chết...
Ba Hoành đã xuất hiện trở lại đầy phong thái, tự
tin. Bạn bè hỏi ông đi đâu, ông chỉ cười bí mật.
Một buổi chiều, ông đi đến nghĩa trang. Với bó hoa
lớn trong tay ông đến thẳng mộ bà vợ. Nhẹ nhàng đặt hoa xuống, ông thì thầm với
vợ:
- Tôi có lỗi gì thì bà cũng hãy tha thứ cho tôi.
Tôi xin lỗi bà, dù gì cũng là vợ chồng bao nhiêu năm. Sao bà ác với tôi quá
vậy? Thật tình thì tôi không muốn làm phiền bà, nhưng bà lại gây khó cho tôi
nên tôi đành phải...
Ba Hoành đốt mấy nén nhang:
- Thôi thì mấy cây nhang này là lời tạ tội của tôi
và tôi xin lỗi bà, mong bà hiểu cho tôi...
Ba Hoành vén tay áo nhìn đồng hồ. Mới sáu giờ bốn
mươi. Còn hai mươi phút nữa mới đến giờ Tuất, giờ thầy đã dặn. Ông yên lặng chờ
đợi.
Bỗng Ba Hoành có cảm tưởng như có ai đang nhìn
mình, ông quay lại. Một người đàn bà mặc đồ đen, dáng quý phái cúi chào:
- Xin lỗi ông, tôi làm phiền ông. Tôi đi viếng mộ
người bạn nhưng quên mang theo hộp quẹt. Ông có thể vui lòng cho tôi mượn.
Ba Hoành đứng dậy, móc túi:
- Dạ đây, bà...
- Em là Lan.
- Vâng, Lan.
Ông bước lại gần, một mùi thơm quyến rũ thoảng đưa.
Ba Hoành thấy máu bốc lên hừng hực khi bà Lan nhìn ông bằng đôi mắt biêng biếc,
lung linh.
- Xin lỗi, ông sắp về chưa. Nếu ông không ngại có
thể cho tôi quá giang. Khu này khó đón xe.
Ba Hoành hăng hái:
- Được thôi. Tôi cũng sắp về. Bà...
- Anh gọi em là Lan cho thân mật.
- Vậy Lan đợi tôi một chút. Xong ngay mà.
Ba Hoành thò tay vào túi quần. Đúng lúc tay vừa
chạm miếng bùa thì Lan vấp một cục đất ngã chúi. Ba Hoành chạy tới đỡ. Cả một
thân hình mềm mại nằm gọn trong tay, Ba Hoành tranh thủ ôm siết nồng nàn. Cái
thèm khát bấy lâu nay dâng tràn. Hình như Lan cũng nhiệt tình hưởng ứng.
Ba Hoành ngồi xuống với Lan trong tay. Ông kêu nhỏ:
- Lan, anh...
Ba Hoành chúi đầu vào ngực người đàn bà trong tay.
- Em là Lan đây.
Ba Hoành hôn tới tấp vào khuôn mặt xinh xắn đáng
yêu vô cùng.
Bỗng ông nghe mùi dầu gió xanh, rồi đôi mắt trợn
trừng, khuôn mặt xanh xao tiều tụy của bà vợ. Lúc đó bà Lan cũng choàng tay qua
cổ ông, thì thầm:
- Đúng rồi. Em là Lan đây. Lan của anh đây...
Hai tay người đàn bà xiết chặt dần, chặt dần. Ba
Hoành chợt hiểu ra khi gần như không còn thở được nữa. Bà vợ Ba Hoành tên Lan,
Nguyễn Thị Lan. Ba Hoành còn nhớ tới lá bùa trong túi mà ông cất công đi thỉnh
trên núi về. Đã tới giờ Tuất...
TRÚC ĐÀO
(Tác giả: Người Khăn Trắng)
Đi xem hết một vòng khu đất quanh nhà, Phước có vẻ
hài lòng. Tuy nhiên khi đứng lại trước ba ngôi mộ cũ anh hơi ngần ngại:
- Những ngôi mộ này là của ai?
Người chủ khu đất cười bảo:
- Đây là những ngôi cổ mộ, nghe nói là của ông tằng
ông tổ gì đó của tôi. Lúc ông nội tôi còn sống còn rất mơ hồ về gốc tích của
chúng...
Phước nói thẳng:
- Nói chung là tôi đồng ý mua khu đất và ngôi nhà
này với giá cả đó. Nhưng cũng chỉ bởi những ngôi mộ này...
Người chủ nhà mau miệng:
- Tôi đã nói rồi, nếu xong giá, anh tiến hành làm
thủ tục là tôi sẽ cho cải táng ngay. Mộ cổ mà, có gì đâu mà ngại.
- Tôi không ngại chuyện mồ mả trong đất nhà, tuy
nhiên đáng lẽ ra ông nên cho cải táng trước khi bán, thì người mua chúng tôi dễ
tính hơn.
Người chủ quả quyết:
- Tôi hứa chỉ trong vòng ba ngày thì mọi việc sẽ
xong xuôi. Anh cứ yên tâm.
Việc xem đất coi như xong. Người chủ dẫn Phước vào
ngôi nhà cổ. Ông ta giới thiệu:
- Nhà này có lẽ đã có tuổi ngót trăm năm, nhưng do
làm bằng gỗ quý, nên anh xem nè, chưa có dấu mối mọt nào hết. Nói thiệt, nếu
không cần tiền thì tôi không bao giờ bán một của quý như vầy.
Phước phải công nhận là khá hài lòng với ngôi nhà.
Đã từ lâu anh vẫn ao ước có được một ngôi nhà cổ như thế này, để đưa bộ sưu tập
cổ vật mà phải mất gần hai chục năm tìm kiếm anh mới có được, về trưng bày.
Nhiều bạn bè cho rằng Phước gàn khi chỉ chú tâm tìm nhà cũ, nhưng anh thì lại
vô cùng thích thú. Bởi vậy khi nghe giới thiệu ngôi nhà này, Phước đã tới ngay
và chấp nhận liền giá cả do chủ nhà đưa ra.
Trước khi ra về Phước còn nhắc lại:
- Về việc mấy ngôi mộ mong ông giải quyết cho xong
trước khi tôi trở lại vào ngày thứ bảy này.
Phước cho tờ giấy đặt cọc mua nhà vào túi, với tâm
trạng phấn khởi anh ra xe định về ngay để báo tin mừng cho bà xã ở nhà. Nhưng
khi tra chìa khóa công-tắc vào Phước rất đỗi ngạc nhiên vì chiếc chìa khóa vừa
vặn ngang đã bị gãy đôi!
- Kỳ vậy?
Phước cố cách nào cũng chẳng làm sao khắc phục
được, nên cuối cùng đành phải nói với chủ nhà:
- Phiền ông cho gởi lại chiếc xe, chiều tôi cho
người đến mang về.
Anh lững thững ra ngoài đón xích lô về nhà. Vừa leo
lên xe Phước đã nghe người đạp xe nói ngay:
- Ông mua ngôi nhà đó hả? Bộ ông chưa biết gì về nó
hả?
Phước ngạc nhiên:
- Biết về chuyện gì bác?
- Chuyện...
Lời nói của ông lão đạp xe vừa nói tới đó thì bỗng
phía trước có một chiếc xe đi cùng chiều thắng gấp, nên chiếc xích lô chở Phước
suýt nữa đã đâm sầm vào, nếu không dừng lại kịp. Phước quay lại định trách ông
lão không cẩn thận, nhưng anh ngơ ngác khi không còn thấy ông ta đâu. Chiếc
xích lô đậu giữa đường mà không có người lái, khiến mấy xe đi sau nhấn còi inh
ỏi, làm cho Phước phải bước xuống xe và khó khăn lắm mới đẩy được nó vào lề.
Đứng đợi có hơn mười phút vẫn chẳng thấy ông lão
đâu Phước quá sốt ruột nên cuối cùng phải gọi xe khác đi. Về tới nhà rồi mà
Phước vẫn còn áy náy chuyện vừa rồi, nên anh kể cho vợ nghe. Lệ Hoa vừa nghe
Phước nói đã vụt nói ngay:
- Có phải ông già đội chiếc nón lá buông không, ông
ta...
Phước bảo:
- Đúng rồi, sao em biết ông ta?
Hoa đưa ra một mảnh giấy bạc gói thuốc lá, trên đó
có ghi vội mấy chữ. Cô nói:
- Ông ta bảo đưa cái này cho anh.
Phước cầm lấy đọc và hết sức ngạc nhiên khi nó đề
cập đến chuyện ngôi nhà cổ: Đừng mua ngôi nhà đó!
Lệ Hoa hỏi:
- Nhà nào vậy?
Phước ngại vợ bàn tới lui lôi thôi, nên nói tránh
đi:
- Mấy ngôi nhà anh đi coi sáng nay ấy mà...
Giấu tờ giấy vào túi quần, Phước đổi ý không kể cho
vợ nghe chuyện thuận mua ngôi nhà cổ. Mãi khi vào phòng riêng rồi anh mới suy
nghĩ và tự hỏi: Ông già này là ai mà hành tung kỳ lạ như vậy? Và tại sao ông ta
khuyên mình không nên mua ngôi nhà?
Suy nghĩ mãi vẫn không có câu trả lời, Phước chán
nản để nguyên quần áo, nằm lên giường, tính lát sau sẽ đi tắm. Nhưng có lẽ do
mệt nên anh ngủ thiếp đi...
Khi tỉnh dậy anh vô cùng ngạc nhiên khi nghe vợ
báo:
- Có người chạy xe anh về để dưới sân.
Phước chạy ngay xuống kiểm tra lại và hết sức ngạc
nhiên, bởi khóa công-tắc vẫn bình thường, không có một dấu hiệu nào của một sự
cạy ra hay sửa chữa gì...
- Ai đưa xe về vậy?
Hoa lắc đầu:
- Em cũng không biết. Lúc ở trong bếp bước ra em đã
thấy chiếc xe nằm ở sân rồi!
Dẫu ít khi chấp nhận những điều phi thực tế, nhưng
trước những sự việc này Phước cũng phải suy nghĩ nhiều. Anh dặn vợ:
- Em đừng mở cửa cho bất cứ người lạ nào vào nhà,
kể cả khi họ nói là tìm anh...
Lệ Hoa ngạc nhiên hỏi lại:
- Có chuyện gì vậy anh?
Phước trấn an vợ:
- Anh chỉ nói thế, chẳng có chuyện gì đâu. Thôi,
dọn cơm cho anh ăn, đói bụng lắm rồi.
Phước đi tắm. Khi thay đồ ra anh chợt nhớ mảnh giấy
lúc nãy nên móc ra xem lại. Và lần này những chữ trên tờ giấy bạc đã thay đổi
hẳn nội dung: Chiếc xe cũng đã đem về rồi, như vậy anh nên dứt khoát với ngôi
nhà ấy!
Phước cảm giác lạnh ở lưng và anh đứng thừ người
ra... Bỗng nghe vợ anh kêu:
- Sao anh nổ máy xe rồi để đó?
Phước lại chạy ra sân và anh thật sự sợ hãi, bởi
chiếc xe từ lúc được trả về anh chưa hề mở máy và anh còn nhớ rõ lúc mình xem ổ
khóa công tắc thì không có chìa cắm trong đó!
- Chuyện này...
Phước chưa nói hết câu thì bỗng tiếng còi xe vang
lên chói cả tai. Lệ Hoa trong nhà chạy ra kêu lên:
- Anh ấn còi xe chi vậy, con nó còn ngủ mà!
Phước ngơ ngác:
- Anh đâu có...
Tìm mãi mới thấy chìa khóa công-tắc nằm ở băng ghế
ngồi, Phước phải vất vả lắm mới làm cho tiếng còi im bặt. Anh nói để vợ khỏi
phải lo:
- Chắc tại xe bị chạm điện hay sao đó...
Phước lấy chìa khóa công-tắc bỏ túi sau khi đã tắt
máy xe, đóng và khóa cửa xe cẩn thận. Lên lầu nằm rồi mà Phước vẫn chưa hết suy
nghĩ về những hiện tượng vừa rồi, anh tự hỏi: Tại sao có những chuyện kỳ cục
như vậy? Không lẽ...
Phước không dám nghĩ tới điều mà trong đầu vừa chợt
lóe lên. Ma? Gạt ngay ý nghĩ đó, đồng thời Phước đi trở xuống sân, anh quyết
định trở lại ngôi nhà cổ.
Người chủ nhà vừa thấy Phước đã kêu lên:
- Nãy giờ tôi đang cho người đi tìm cậu đây! Chiếc
xe của cậu...
Khi nhìn thấy xe Phước đang lái, ông ta ngơ ngác:
- Tôi cứ tưởng là xe bị mất! Cậu đã trở lại lấy xe
sao không báo tôi biết?
Phước nhìn sững ông ta:
- Tôi đang muốn tới để hỏi ông, sao ông cho người
mang xe tới mà không báo tôi tiếng nào vậy?
Cả hai đều nhìn nhau, sững sờ. Một lúc Phước mới
hỏi:
- Nhà ông có người nào lớn tuổi, đạp xe xích lô?
Ông chủ nhà lắc đầu:
- Như cậu thấy đó, tôi chỉ ở một mình. Các con tôi
đều đi du học xa cả, đâu có ai nữa...
Phước lẩm bẩm:
- Chẳng lẽ...
Anh nhìn thẳng vào mắt ông chủ:
- Bác hãy nói thiệt cho cháu biết, nhà này từ nào
tới giờ đã có xảy ra những chuyện như... có ma không?
Trợn tròn mắt nhìn người khách trẻ, ông ta kinh
ngạc thật sự: Cậu hỏi thế có ý gì? Phước định chưa nói ra, nhưng thấy thái độ
thật thà của ông, anh nói ngay:
- Có người ngăn cản tôi mua ngôi nhà của bác, bằng
đủ cách...
Phước kể sơ lược chuyện vừa xảy ra. Nghe xong ông
chủ nhà không cần suy nghĩ, đã nói:
- Nghe cậu kể mà tôi như đang mơ! Tôi đã ở ngôi nhà
này từ hồi mới sanh ra. Khi lớn lên, có đôi lần tôi định đổi chỗ ở, nhưng rồi
cũng không thể rời xa nơi đây. Tôi chưa từng gặp chuyện gì bất bình thường, chớ
đừng nói là ma.
Phước móc túi lấy ra tờ giấy bạc, đưa và nói:
- Bác cứ đọc nội dung viết trong đó rồi cháu kể
tiếp.
Ông chủ nhà cầm tờ giấy lật qua, lật lại mấy lượt,
rồi ngạc nhiên hỏi:
- Có thấy gì đâu?
Phước lấy lại tờ giấy, anh vô cùng ngạc nhiên khi
đó là tờ giấy không có chữ nào! Anh nghĩ mình có thể lầm với tờ giấy bạc khác
nên lại tìm lần nữa. Cuối cùng đành phải lắc đầu than:
- Chắc là cháu điên vì chuyện này mất!
Phước quay ra xe mà lòng nặng trĩu những thắc mắc.
Lái xe đi một đoạn rồi mà cứ nghĩ mình còn trong ngôi nhà cổ, anh nói một mình:
- Chắc là có gì đó...
Bỗng có ai đó lên tiếng từ phía băng sau:
- Chắc chắn là như thế, còn gì nữa mà nghi ngờ!
Phước nhìn vào kiếng chiếu hậu, không thấy ai, anh
vội tấp xe vô lề và quay hẳn lại. Băng ghế trống không!
Lúc này Phước mất bình tĩnh thật sự, anh nhắm mắt
lại và khấn:
- Xin lỗi, nếu tôi có làm điều gì thất thố với vong
linh ai đó thì hãy lượng thứ cho, tôi không cố ý.
Ngồi yên một lúc rồi Phước mới dám lái xe ra giữa
đường và cẩn thận đi thẳng về nhà...
Không có điều gì bất thường xảy ra, nhưng Phước vẫn
cứ ngay ngáy lo... Đến khi vào tới sân rồi mà Phước vẫn còn chưa an tâm, anh
nhẹ nhàng bước xuống xe và cẩn thận khóa cửa và rón rén bước vô nhà.
Vừa bước vô phòng khách, Phước nhìn thấy một người
khách ngồi đợi sẵn ở ghế. Đó là ông lão đạp xe xích lô! Phước ngã ra sau, nằm
bất động...
Lúc tỉnh lại Phước lại càng ngạc nhiên hơn khi nghe
vợ kể lại:
- Em cũng không biết ông ấy vào nhà mình bằng cách
nào. Khi từ trên lầu bước xuống em đã thấy ông ấy ngồi ở phòng khách. Ông ta
bảo là có chuyện cần kíp lắm, muốn gặp riêng anh, nên buộc lòng em phải cho ông
ta ngồi đó đợi anh về.
Phước không biết lúc mình bị ngất thì đã xảy ra
chuyện gì, anh hỏi thì Lệ Hoa kể:
- Em cũng không biết. Em từ nhà sau ra thì thấy anh
nằm đó.
- Vậy ông ta đâu?
- Em cũng không biết. Có lẽ lúc anh ngất ông ta đã
bỏ đi. Nhưng mà có chuyện gì vậy? Ông lão đó là ai?
Vẫn muốn giấu vợ, nên Phước phải nói:
- Ông ta giúp anh chuyện ở ngôi nhà dự tính mua. Có
lẽ thấy anh như vậy nên ông ngại, lẳng lặng bỏ đi đó thôi.
Phước cố nhớ xem lúc mình bị ngất, ông già xích lô
ấy đã làm gì? Nhưng trước sau gì anh cũng không nhớ nổi. Hình như có một áng
mây mờ đang che phủ đầu óc anh...
Đúng ra sau khi gặp những điều bất thường đó. Phước
đã bỏ ý định mua ngôi nhà cổ. Nhưng lần gặp ông Thành, chủ nhà để bàn chuyện
lấy lại tiền đặt cọc, Phước đã bị ông ta thuyết phục:
- Cậu không mua cũng chẳng sao, tôi sẵn sàng trả
ngay tiền cọc lại cho cậu. Tuy nhiên, xin báo để cậu rõ, hiện đang có một cô
gái rất trẻ chờ, nếu cậu bỏ cuộc là cô ta mua ngay. Hôm nay cô ấy cũng xin hẹn
tới, nhưng tôi ngại đụng cậu nên từ chối...
Phước không quan tâm lắm đến chuyện đó, nếu ông chủ
nhà không đưa ra tấm danh thiếp, mà vừa nhìn thấy Phước đã kêu lên:
- Cô ta muốn mua ngôi nhà này?
Ông Thành gật đầu:
- Chẳng những muốn mà còn rất muốn nữa là khác!
- Đây, cô ấy còn cho tôi xem cả mô hình mà cô ấy sẽ
biến ngôi nhà này sau khi mua, thành một nơi triển lãm đồ lớn nhất Đông Nam Á!
Ông ta lấy ra đưa cho Phước xem một bản vẽ khá chi
tiết, một bản phác thảo toàn bộ diện tích khu nhà. Điều này khiến cho Phước
nóng máu, anh hỏi kỹ lại:
- Cô ấy tới đây với ai?
Ông Thành nói thật:
- Cô ấy đi với một người mà theo giới thiệu thì
chính là ý trung nhân của cô ta. Họ đúng là một cặp đôi lý tưởng. Họ quá đẹp
đôi, mà đến tôi già rồi cũng phát ghen khi nhìn thấy họ! Cô ấy còn đoan chắc là
sau này sẽ biến khu nhà này thành một nơi chốn khiến mọi người phải mơ ước! Và
cô ta còn nói rằng, cô phải thực hiện ý tưởng này để chứng minh cho một người
con trai nào đó thấy việc xa cô ta là một việc làm ngu ngốc của anh chàng!
Phước đã nổi nóng:
- Cô ta nói như vậy hả! Cô... cô ta...
Ông Thành chủ nhà cũng phải ngạc nhiên:
- Ủa, sao cậu lại có vẻ giận? Cô gái ấy và cậu...
Phước nói ngay:
- Thôi được rồi, tôi không lấy tiền cọc lại. Tôi sẽ
chồng tiền đủ vào thứ bảy này khi ông cải táng xong ba ngôi mộ.
Ông chủ nhà chỉ ra ngoài vườn và nói:
- Việc cải táng đã hoàn tất vào chiều hôm qua rồi.
Bây giờ cậu có thể đi tham quan một vòng.
Phước nói nhanh:
- Không cần nữa. Ông chuẩn bị thu dọn mọi thứ đi,
thứ bảy này tôi tiếp nhận nhà và tiến hành sửa chữa ngay.
Ông Thành dẫn Phước vào một gian phòng mà lần trước
do cửa bị khóa nên anh chưa kịp xem, ông ta chỉ mấy thứ bàn ghế cũ và nói:
- Riêng gian này xin cho tôi gởi lại mấy thứ hư cũ
này ít hôm, sau đó tôi sẽ kêu mấy người làm công, cho họ chở đi.
Nhìn kỹ mấy chiếc bàn, ghế cũ và vài thứ linh tinh,
chợt Phước đề nghị:
- Nếu bác không dùng nữa thì để lại cho cháu. Nói
thật, cháu đang có ý định tìm các thứ nội thất càng cũ càng tốt, kể cả những
vật hết xài được, để đưa vào cuộc triển lãm cổ vật sắp tới.
Lúc đó ông chủ nhà mới hiểu ra:
- À, thì ra cậu và cô gái tên Hồng Loan kia đều có
ý tưởng trùng nhau. Thảo nào...
Ông thuận ngay đề nghị của Phước:
- Cậu được toại nguyện.
Ngay sáng hôm đó, sau khi về nhà tính toán lại,
Phước đã mang tiền trở lại ngay. Anh làm cho ông Thành ngạc nhiên:
- Cậu gấp vậy sao?
Phước bảo:
- Tôi hay đổi ý sau khi tính toán này nọ, bởi vậy
tôi muốn chồng tiền ngay hôm nay chớ không đợi thứ bảy nữa.
Thủ tục mua bán được thực hiện nhanh chóng. Khi
giao chìa khóa cho Phước, ông chủ nhà còn nói:
- Chắc chắn cậu sẽ phải tiếp cô Hồng Loan gì đó,
bởi cô ấy sẽ trở lại.
Phước dứt khoát nói:
- Tôi sẽ treo tấm bảng ngay trước cửa với mấy chữ:
NHÀ ĐÃ BÁN (miễn tiếp khách).
Ngay chiều hôm đó ông chủ nhà dọn hết một ít đồ đạc
còn lại ra khỏi nhà, giao hẳn ngôi nhà cổ đồ sộ cho Phước. Anh chàng hài lòng
nên quên hẳn những chuyện kỳ lạ bữa trước. Điều làm Phước ưng ý nhất là chặn
được ý định của Hồng Loan! Anh nói một mình mà như muốn lọt đến tai cô ta:
"Để xem ai làm được điều ấy hơn ai".
Cái tên Hồng Loan hầu như bấy lâu nay Phước đã quyết
định không nhớ đến nữa. Vậy mà nay bắt buộc anh phải nhắc và phải gấp rút mua
ngôi nhà này vì cô ta!
Ba năm trước, Phước từng không một bước rời xa
người con gái ấy. Cho đến khi Hồng Loan cặp tay đi với người đàn ông khác và đá
đít chàng, thì Phước lập tức đi cưới vợ ngay và thề là sẽ không bao giờ để cho
cô ta ngoi lên được, nhất là trong lãnh vực sưu tầm và buôn cổ vật.
Lời thề đó Phước nghĩ là mình sẽ làm được bởi anh
có tiềm lực tài chánh, lại có nhiều lợi thế trên thương trường...
Vậy mà nay cô ta lại xuất hiện. Lại còn muốn mua
ngôi nhà mà phải tốn bao công sức Phước mới tìm ra, để thực hiện ý tưởng cạnh
tranh với ý tưởng của anh nữa.
- Không đời nào!
Phước quyết tâm đến nỗi ngay đêm đó anh báo tin về
cho vợ biết sẽ ở lại ngôi nhà mới mua, để giữ nhà. Vợ Phước không tán thành ý
đó và nói ngay:
- Nhà cũ kỹ đó anh ngủ lại sao được!
Lệ Hoa sai chú Sáu làm vườn tới cùng ở với Phước.
Tuy không thích, nhưng để yên lòng vợ Phước phải chấp nhận, nhưng bảo:
- Chú Sáu ngủ ở ngoài, để cháu trong phòng này. Tối
nay cháu còn có vài việc để làm với mấy món đồ cổ này.
Anh chọn gian phòng có chứa nhiều bàn, ghế cũ,
khiến chú Sáu phải lo ngại:
- Căn phòng ẩm thấp và tối tăm thế này cậu không
nên ở trong đó...
Phước vẫn cương quyết:
- Chú cứ mặc cháu.
Đêm đó Phước chong đèn thức rất khuya. Anh thích
thú khi nhận ra trong số những bàn ghế cũ có vài món anh đang cần tìm. Đặc biệt
là chiếc rương gỗ khá to, làm bằng thứ cây quý, rất nặng. Chính Phước đang có ý
định đặt thợ mộc làm một chiếc rương như vậy để trưng bày, nay gặp đúng thứ
cần, anh cứ ngắm nhìn và trầm trồ mãi. Rương bị khóa bằng thứ ống khóa rất xưa
và đã rỉ sét, hầu như khó mà mở được.
Vậy mà mày mò mãi, đến nửa khuya thì Phước đã mở
được chiếc rương ra. Vật đầu tiên mà anh nhìn thấy là một chiếc vương miện nạm
ngọc rất tinh xảo. Tuy đã qua thời gian khá lâu, nhưng nhìn chung chiếc vương
miện vẫn còn sáng chói rực rỡ. Phước ngắm nghía vừa xuýt xoa:
- Tuyệt vời! Chưa từng thấy!
Bên dưới chiếc vương miện còn có nhiều tư trang
nữa, tất cả đều của nữ giới. Qua kiểu dáng, Phước đoán những vật này đã có từ
rất lâu đời, có thể là hàng thế kỷ. Anh đặt tất cả nằm bên trong rương, chỉ giữ
mỗi chiếc vương miện và gần như suốt đêm đó Phước không ngủ.
Suy nghĩ miên man, bỗng lúc gần sáng Phước chợt nhớ
ra, anh kêu lên khẽ:
- Có thể lắm!
Anh liên tưởng đến ba ngôi mộ cổ ngoài vườn. Phải
chăng những vật này có liên quan tới ba ngôi mộ kia?
Tiếc rằng ông chủ nhà đã dọn đi, nếu không thì hỏi
ông ta, hy vọng sẽ hiểu được phần nào...
Dòng suy nghĩ của Phước chỉ dừng lại khi anh quá
mỏi mòn, đã ngủ say lúc đồng hồ điểm năm tiếng.
Gà gáy sáng đang rộ lên ở khu vườn bên cạnh, cũng
là lúc Phước chìm sâu vào giấc mơ lạ thường...
Một cô gái trong trang phục cổ, xiêm y đẹp lạ
thường, đang ngả vào vòng tay một nam nhân cũng trang phục lộng lẫy, uy dũng,
họ đang làm cuộc chia tay đầy bịn rịn ở một khu vườn đầy kỳ hoa dị thảo. Nàng
khóc nức nở, giọng khi được khi mất:
- Em sẽ đợi... đợi đến khi nào không còn... hơi
thở... Hãy tin em...
Chàng trai xiết chặt người yêu trong vòng tay rắn
chắc, vừa an ủi:
- Đợi không lâu đâu. Xong việc anh sẽ trở về ngay
và ngày ấy cũng là ngày trọng đại của chúng ta. Anh sẽ cưới em ngay lúc về,
Trúc Đào của anh!
- Chàng hứa là phải nhớ đó! Em sẽ...
Chàng đưa tay bịt miệng nàng, không cho nói. Họ dìu
nhau ra tới bờ tường cao thì chàng trai đẩy nàng ra, như sợ chia tay không
được. Vừa chạy, chàng vừa nói vọng lại:
- Anh sẽ trở về ngay!
Chàng ta chạy nhanh ra cổng ngoài và nhảy phóc lên
chiếc xe song mã đang đợi sẵn. Trong xe có một nữ nhân cũng rất đẹp, chừng như
đợi đã lâu, có vẻ sốt ruột và cau có:
- Bắt thiếp đợi hơn nửa canh giờ rồi! Giã từ mẹ
chàng sao mà lâu vậy?
Chàng trai đáp không được tự nhiên:
- Bị... tại... u già không cho đi...
- Lần sau không được vậy nữa đó! Thiếp mà chờ lâu,
thiếp xông vô nhà thì chàng đừng trách!
Nàng quấn lấy chàng mà không sợ người đánh xe nhìn
thấy. Anh ta hỏi:
- Thưa tiểu thư, mình đi đâu?
Nàng đáp vọng ra:
- Tới tửu lầu Vạn Xuân!
- Kìa, Kiều Loan, chúng ta có việc ở nhà ngay tối
nay mà!
Giọng nàng đanh đá:
- Không có chuyện gì gấp hơn chuyện... hơi hám của
chàng cả. Hãy nghe thiếp đêm nay!
* *
*
Vẫn cảnh hoa viên cũ, nhưng lúc này chỉ có một mình
Trúc Đào. Cầm trên tay tờ thiếp hồng vừa được gởi tới, nàng xem xong rụng rời
chân tay, để rơi nó xuống cỏ, kêu lên thảng thốt:
- Tại sao xảy ra chuyện này!
Trong thiếp báo tin hôn lễ của Thiện Sĩ và Kiều
Loan!
Lời hẹn ước lúc chia tay cách đây chưa đầy một năm
mà giờ đây là một hung tin báo về! Trúc Đào không tin vào mắt mình, nên lại
nhặt tấm thiếp lên, rồi một lần nữa đau đớn ôm lấy ngực, đổ xuống thảm cỏ.
Trong nhà không có ai, nên Trúc Đào gục ở đó khá lâu mà chẳng thấy người nào ra
đỡ lên. Đến khi bình tâm lại, chính nàng gượng đứng lên và lần từng bước về
phía cuối vườn. Khi đứng trước một miệng giếng sâu thì nàng dừng lại. Cái giếng
đào đã từ lâu, chỉ dùng để tưới vườn, nhưng gần đây người chăm sóc vườn nghỉ
việc, chưa có người thay, nên lâu lâu mới có người ra đây...
- Trên cõi đời này thiếp chỉ còn mình chàng, nay
chàng lại bỏ thiếp mà theo người khác, thì hỏi thiếp còn có ý nghĩa gì nữa?
Vĩnh biệt chàng và chàng hãy nhớ, thiếp yêu chàng nhiều bao nhiêu thì giờ đây
thiếp hận chàng bấy nhiêu! Thiếp hận chàng, hận lũ đàn ông bạc tình bạc nghĩa
như chàng! Thiếp thề, thiếp sẽ trả thù!
Trúc Đào nhắm nghiền mắt lại, nhoài người khỏi
miệng giếng, chỉ trong nháy mắt chẳng còn thấy bóng dáng nàng đâu!
Trưa ngày hôm sau, lúc mặt trời đứng bóng thì Phước
mới dậy. Nhìn đồng hồ tay, anh giật mình đứng lên, trên người anh rơi ra một
vật, mà khi nhìn nó anh mới nhớ tới giấc mơ vừa trải qua. Chiếc vương miện nằm
lăn lốc trên nền gạch cũ.
- Trúc Đào!
Vô tình Phước gọi tên người con gái trong mơ, không
ngờ tiếng gọi khẽ đó được đáp trả bằng một tiếng thét kinh hoàng ở nhà ngoài!
Hoảng hốt, Phước chạy ra thì thấy chú Sáu vừa choàng dậy vừa hoảng loạn:
- Cậu ơi, cứu tui với! Cứu!
Phước biết ông ta vừa trải qua cơn ác mộng gì đó,
nên chụp lấy vai nói lớn:
- Tôi đây mà. Phước đây!
Lúc ấy chú Sáu mới bình tĩnh lại, nhưng vẫn ngơ
ngác, lắp bắp nói:
- Cô... cô ta... cô ta bóp cổ... bóp cổ và đuổi...
Phước phải gắt lên:
- Có chuyện gì chú bình tĩnh nói nghe coi!
Bấy giờ chú Sáu mới nín và nhìn Phước hồi lâu.
Phước phải lặp lại:
- Chú mơ thấy ác mộng phải không?
Biết chắc là mình đang ở thực tại, lúc này chú Sáu
mới kể lại:
- Tui đang ngủ thì thấy có một cô gái ăn mặc giống
như mấy tiểu thơ trong phim Hồng Kông. Cô ta lấy nguyên tảng đá lớn đè lên
người tôi rồi vừa quát tháo inh ỏi, đuổi tui phải đi khỏi nơi đây liền! Cô ấy
còn nói đây là nhà của cô ta, không ai được vào ở. Nếu không nghe lời thì...
Ông ta nói tới đó thì bỗng nhiên vùng thoát chạy ra
ngoài. Phước gọi theo:
- Chú Sáu! Chú Sáu!
Nhưng ông ta không màng, cứ cắm đầu chạy.
Lúc này Phước mới tự nhủ: Không lẽ cũng là chuyện
nàng Trúc Đào?
Phước đưa mắt nhìn quanh chỗ nằm của chú Sáu và
phát hiện ra đầy những nước, có lẽ do ông quá sợ đã... tè ra! Tuy nhiên khi
nhìn kỹ lại anh lại thấy có một bộ quần áo sũng nước đang nằm ở góc nhà.
- Bộ đồ này!
Đó chính là bộ trang phục mà nàng Trúc Đào trong
giấc mơ đã mặc! Loại quần áo này ngày nay chỉ còn thấy trong phim ảnh hay ở các
viện bảo tàng. Vậy mà...
Cầm bộ đồ lên, Phước không thể nào lầm được, anh đã
thấy nó rất rõ trong giấc mơ vừa rồi và nàng Trúc Đào đã mặc nó trong lúc nhảy
xuống giếng.
- Đúng rồi, quần áo của nàng ta!
Đem bộ quần áo đó vào phòng, đặt nó cạnh chiếc
vương miện cổ, hai vật hòa hợp với nhau một cách lạ lùng, chứng tỏ chúng cùng
một người chủ. Lúc này Phước mới nghiệm ra, anh lẩm bẩm:
- Nàng Trúc Đào ấy đã sắm sẵn những vật này, chờ
khi chàng Thiện Sĩ trở về để làm đám cưới! Đúng rồi!
Lục tìm thêm nữa trong rương, Phước còn thấy có cả
một đôi hài nhung, một bộ áo gối thêu rồng phượng rất đẹp, tuy màu chỉ, vải có
phai theo thời gian, nhưng đường nét và họa tiết vẫn còn hiện rõ sự tinh xảo,
khéo tay.
Đã xác định được nguồn gốc, Phước rất trân trọng
những vật trước mắt, anh đem phơi bộ quần áo, còn chiếc vương miện thì đặt trở
lại trong rương một cách cẩn thận.
Xong đâu đó Phước mới cảm thấy người mỏi nhừ, có lẽ
do suốt đêm qua ngủ không đủ giấc, anh định ra ngoài kiếm cái gì ăn rồi sẽ về
nhà ngủ một giấc để lấy lại sức.
Tuy nhiên, lúc bước ra phòng khách, Phước giật mình
khi thấy có một người ngồi sẵn ở ghế trường kỷ. Người ấy nổi bật lên bởi bộ
quần áo mặc trên người! Bộ trang phục của một quan nhân hay phú hộ thời xưa!
- Ông là...
Người khách quay lại trực diện với Phước, vừa cất
tiếng hỏi:
- Không nhận ra tôi sao, cậu Phước?
Phước nhìn sững và ngập ngừng hỏi:
- Ông đây là... là bác đạp...
Người khách tiếp lời:
- Là người đạp xe xích lô đây mà!
Thì ra là ông ta! Nhớ lại hai lần trước Phước lùi
một bước, như cảnh giác. Ông lão vội lên tiếng:
- Tôi có làm gì đâu mà cậu sợ. Nếu muốn làm gì thì
hai lần trước cậu đâu còn sống đến hôm nay! Tôi chỉ...
Ông ta đưa tay chỉ một vòng khắp nhà, giọng từ tốn:
- Ngôi nhà này vốn là của tôi, cậu có tin không?
Phước bây giờ mới nhìn kỹ bộ quần áo ông ta mặc
trên người, anh hơi lúng túng:
- Ông là...
- Tôi là chủ ngôi nhà này. Xưa kia tôi làm quan ở
Trấn này. Người ta gọi tôi là Tri phủ Nguyên. Ngôi nhà này tôi xây lên được ba
năm thì xảy ra chuyện. Năm ấy tự dưng con gái tôi rơi xuống giếng mà chết, rồi
ngay sau đó tai họa lớn khác lại ập vào nhà tôi, khi quân lính thị vệ của quan
Phò Tổng Trấn Thành kéo tới bao vây, lục soát nhà và tuyên bố tịch thu tài sản,
lột áo mão của tôi, đuổi về làm thứ dân! Lúc ấy tôi không hiểu là chuyện gì,
nhưng sau đó tôi đã rõ. Do con gái tôi là Trúc Đào yêu cùng một người đàn ông
với con gái Phó Tổng Trấn, nên cha con tôi bị hại là để họ chiếm độc quyền. Con
gái tôi chết oan ức, nhưng cũng may cho nó, bởi nếu không chết trước thì ngày
ấy nó thế nào cũng bị bắt giam và chịu cực hình, để rồi thế nào cũng chết rục
xương trong ngục tối!
Ông kể mà sự xúc động làm cho đôi lần ông phải dừng
lại, đè nén. Mãi sau đó ông mới nhìn thẳng vào Phước và nói tiếp:
- Cậu đã hiểu ra chuyện rồi, thì tôi xin nói thẳng,
tôi không muốn cậu chen vào cuộc sống vốn yên tĩnh từ ngót trăm năm nay rồi.
Phước hỏi lại:
- Như vậy bác đã... đã là...
- Là người đã chết, nói theo thông thường thì tôi
là hồn ma! Cậu không tin sao?
Phước ấp úng:
- Không... không... cháu tin. Nhưng mà...
- Người chủ nhà vừa bán cho cậu là cháu bốn đời của
tôi. Vừa rồi nó làm một việc mà tôi đau lòng lắm. Nó cải táng, đưa chúng tôi đi
khỏi mảnh đất mà trăm năm trước chúng tôi thề nếu sống thì sống nơi đây, còn
chết cũng nằm đây vĩnh viễn! Do vậy tôi xin cậu hãy trả lại nơi chúng tôi không
thể xa.
Phước phản đối ngay mà quên rằng trước mặt mình là
một hồn ma:
- Đâu được! Tôi đã mua xong rồi, giấy tờ tiền bạc
cũng dứt điểm rồi, làm sao có thể thay đổi. Vả lại mồ mả cũng đã cải táng rồi...
Ông lão chỉ tay ra sau vườn:
- Cũng may là nhờ cậu mở chiếc rương ra nên con gái
tôi đã sớm trở về ngôi mộ cũ. Còn hai vợ chồng tôi thì bữa nay bàn với cậu, xin
cậu hãy thương tình. Chúng tôi sẽ tìm cách bù cho cậu ngôi nhà khác, cũng gần
giống như vầy. Nếu cậu chịu thì ngay chiều nay...
Thấy Phước còn chưa hẳn tin, ông đứng lên ra dấu
cho anh:
- Cậu theo tôi ra ngoài vườn sẽ rõ.
Ở góc vườn, nơi ba cái huyệt vừa cải táng bữa
trước, nay đã có một ngôi mộ trở lại như cũ! Ông lão chỉ và nói:
- Trúc Đào đã nhờ cậu mà được nằm yên chỗ cũ. Nó
nhớ ơn cậu, chớ nếu không thì ngay tối qua cậu đã bị nó rước đi rồi, lúc cậu
lấy chiếc vương miện của nó ra. Nhất là khi cậu đem phơi bộ đồ ướt sũng nước
của nó, hành động ấy khiến nó không xem cậu là kẻ thù, nó tha cho cậu đó.
Phước đứng tần ngần một lúc, anh rất khó xử trong
vụ này, bởi ngoài việc thích ngôi nhà, anh lại sợ nếu mình bỏ, thì có thể Hồng
Loan sẽ phỗng tay trên, mua lấy?
Chừng như đoán biết suy nghĩ của Phước, ông già nói
ngay:
- Cậu còn bị tôi đuổi ra khỏi đây nữa. Yên chí đi,
không người nào vào ở được nhà này cả.
Ông nói xong, quay bước đi lẩn vào mấy bụi cây phía
hông vườn. Khi Phước đuổi theo thì không còn tìm thấy nữa. Muốn cất tiếng gọi,
nhưng anh chợt nhớ ông ta là một... hồn ma, nên lặng lẽ trở vô nhà.
Bước vô phòng chứa đồ cũ, một lần nữa Phước kinh
ngạc, bởi bộ quần áo ướt anh phơi lúc nãy đã biến mất! Cả chiếc vương miện nằm
trong rương cũng bị lôi ra, để trên đầu tủ, như một vật trưng bày!
Không nghĩ ngợi gì nữa, Phước chấp tay lại, khấn
rất thành tâm:
- Con xin lỗi nương nương. Chẳng qua vì chưa biết
nên xúc phạm người, từ bây giờ xin trả lại cho người mọi thứ. Con xin...
Bỗng nhiên một cái tát nẩy lửa giáng vào một bên má
của Phước khi anh chưa dứt lời. Nhìn lại không thấy ai trong phòng, Phước vội
lên tiếng:
- Con xin lỗi, nếu có điều chi thất thố thì xin...
Phước lại bị một cái tát nữa, đau điếng! Anh vừa
định mở miệng nói nữa thì chợt hiểu, vội đổi cách xưng hô:
- Xin lỗi cô nương, tôi...
Lần này quả nhiên Phước không bị đánh. Anh biết
mình gọi cô ấy là nương nương đã chạm tự ái, bởi cho đến lúc chết cô nàng vẫn
còn là gái đồng trinh. Mà từ nương nương là để gọi những người đã có chồng.
Phước nhẹ bước ra, khép cửa phòng lại. Anh tự nhủ,
nếu có mất tiền mua nhà cũng đành cam chịu, chắc chắn là anh sẽ không trở lại
đòi...
Chiều hôm đó, trong lúc đang ngồi nhà nghe vợ cằn
nhằn về chuyện tự dưng bỏ số tiền lớn vào ngôi nhà, rồi bị mất, thì có người
gọi cổng, Phước bước ra cùng với vợ, gặp một người khách lạ, anh ta đưa cho
Phước chùm chìa khóa và một tờ giấy vừa nói:
- Ngôi nhà này từ bây giờ là của anh. Tôi đã làm
thủ tục sang tên sở hữu, giờ anh chỉ việc đi nộp thuế trước bạ nữa là xong. Xin
cám ơn anh đã mua ngôi nhà.
Ông ta bỏ đi ngay. Phước phải gọi giật lại:
- Ai mua nhà của ông?
- Một ông phú hộ ở Phú Thọ, ông ta nói mua tặng cho
một người cháu. Thôi chào ông.
Phước ngẩn ngơ một lúc rồi mới nhìn vào tờ giấy chủ
quyền nhà. Tên Phước là chủ sở hữu.
Lệ Hoa chưa hiểu nên hỏi dồn:
- Nhà gì vậy anh? Ai mà cho anh nhà vậy?
- Chính ông ấy đã đền bù cho mình. Thật không thể
ngờ. - Phước lẩm bẩm.
Sáu tháng sau...
Tình cờ Phước gặp lại người chủ nhà lúc đầu đã bán
nhà cho mình. Ông ta rất vui báo tin cho Phước:
- Chính nhờ cậu mà dòng họ tôi đã được đoàn viên.
- Bác nói gì cháu chưa hiểu? Vừa rồi suýt nữa cháu
đã đắc tội với các bậc tiền bối ở đó! - Phước hỏi lại.
Ông Thành kể chuyện:
- Cả trăm năm nay ông bà cố tổ của tôi chịu mối oan
ức mà không thể tự giải cứu được. Cố tổ tôi bị phó Tổng trấn Huỳnh Công Lý thời
Tả quân Lê văn Duyệt bức tử bằng độc dược, bị yểm bùa sau khi chôn, còn con gái
ngài thì do tự vẫn chết dưới giếng sâu, bị các oan hồn uổng tử chốn đó vây lấy,
nên không thể đi đầu thai được. Vừa rồi nhờ bán nhà cho cậu, tôi đã cải táng
những ngôi mộ đi và vô tình giỡ bỏ được bùa yểm, nên ba vong hồn cố tổ tôi mới
thoát ra được. Bây giờ họ đều có mặt trong ngôi nhà cổ ấy...
Phước ngạc nhiên:
- Họ là người chết, sao ở lại ngôi nhà ấy?
Ông Thành giải thích:
- Họ không hiện diện như chúng ta, nhưng vong hồn
họ thì vẫn còn đó. Tôi không ở trong ngôi nhà ấy, nhưng ngày ngày vẫn tới lui
nhang khói. Tiểu thư Trúc Đào đêm đêm thường hiện về và có nhắc tới ơn cứu mạng
của cậu. Nếu tiện thì hôm nào đó cậu cũng nên tới đốt cho tiểu thư một nén
nhang.
- Dạ. - Phước đáp không suy nghĩ.
Nhưng sau đó anh lại rùng mình!
Ngôi nhà cổ từ ấy có rất nhiều chuyện lạ, nhưng chỉ
mình Phước biết. Mà chàng thì đã thề với lòng là sẽ không kể cho một ai khác
nghe...
ĐẢO TIÊN
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
Vương Miễn tên chữ là Mẫn Trai, người Linh Sơn có
văn tài, nhiều lần đứng đầu trường văn, tâm khá kiêu, hay trách mắng, nhiều
người bị nhục. Một hôm tình cờ gặp một đạo sĩ, nhìn Vươm
Tướng ông cực quý nhưng bị nghiệp khinh bạc chiết
trừ gần hết rồi. Trí tuệ như ông, nếu biết sửa mình mà tu đạo thì còn có thể
được vào sổ tiêng
Vương cười nhạt:
- Chuyện phúc trạch thực tình còn chưa biết, trên
đời này há lại có tiên sao?
Ðạo sĩ nói:
- Sao ông nhìn thấp thế? Chẳng cần tìm đâu xa, tôi
chính là tiên đây!
Vương càng cười nhạo lời khoác lác ấy. Ðạo sĩ liền
bảo:
- Tôi chẳng đáng nói gì. Nếu đi theo tôi thì vài
mươi vị chân tiên, thấy ngay tức khắc.
Vương nói:
- Ở đâu?
Ðạo sĩ nói:
- Chỉ gang tấc!
Nói rồi kẹp gậy vào khoảng giữa hai đùi, đưa một
đầu cho Vương bảo cưỡi như mình, dặn Vương nhắm mắt, xong quát lên một tiếng:
- Bay!
Vương cảm thấy gậy to ra như chiếc túi đựng năm đấu
gạo, bay vụt lên không. Ngầm sờ vào gậy xem thì thấy vẩy cứng, xắp từng lớp, sợ
quá không dám cựa quậy. Lát sau lại nghe quát:
- Ðỗ lại!
Tức thì rút gậy ra, hạ xuống một khu nhà lớn, lầu
gác trùng điệp tiếp nối, như cung điện bậc đế vương. Có một đài cao hơn một
trượng, trên đài có mười toà điện rộng rãi, đẹp đẽ không gì bằng.
Ðạo sĩ kéo khách lên, sai tiểu đồng bày tiệc mời
khách . Trên điện đặt mấy chục bàn tiệc, bầy biện hoa mắt. Ðạo sĩ thay quần áo
tề chỉnh đứng chờ.
Không bao lâu, khách từ không trung tới. Vật cưỡi
hoặc là rồng, hoặc là hổ, hay chim loan, chim phượng, không một loại nào nhất
định. Mỗi người đều có mang theo nhạc cụ.
Khách có con gái, có đàn ông, có người đi chân đất.
Trong số đó chỉ có một cô gái đẹp cưỡi chim phượng sặc sỡ, ăn mặc kiểu cung
cầm, có đứa hầu nhỏ ôm theo nhạc cụ, dài năm thước trở lại, không ra đàn cầm,
cũng không ra đàn sắt, chẳng biết tên gọi là gì. Tiệc rượu bắt đầu, thức ăn quý
bày xen nhau, bỏ vào miệng thơm ngon, toàn là những món khác thường.
Vương lặng lẽ ngồi im, duy chỉ chăm chăm nhìn người
đẹp; đã yêu người lại muốn nghe nhạc, chỉ sợ nàng không đàn lần nào. Rượu tàn,
một ông già khởi xướng :
- Ðược Thôi chân nhân nhã gọi tới, hôm nay có thể
nói là ngày hội lớn, mọi người nên hết lòng vui. Xin mời những ai mang nhạc cụ
giống nhau vào cùng một đội để hoà .
Thế là ai vào đội nấy, tiếng đàn tiếng sáo vọng tận
sông Ngân. Riêng cô gái cưỡi phượng, tài đàn không có ai cùng sánh. Khi mọi âm
thanh trên điện đã dứt, đứa hầu nhỏ mới mở túi gấm đặt ngang cây đàn trên kỷ,
cô gái duỗi tay ngọc như chơi đàn tranh, âm lượng của nó vang gấp mấy lần đàn
cầm; khi mãnh liệt khiến người nghe mở lòng mở dạ, khi êm đềm khiến hồn phách
phiêu diêu. Ðàn khoảng chừng nấu chưa chín nồi cơm, cả điện lặng phắc, không
một tiếng ho. Hết khúc, một tiếng trong vắt vang lên như gõ vào khánh đá. Cử
toạ đều trầm trồ.
- Tài đàn của Vân Hoà phu nhân tuyệt diệu thay!
Mọi người đều đứng dậy cáo biệt; hạc kêu, rồng gầm,
chỉ một lát đã tản đi hết. Ðạo sĩ đặt giường ngà chăn gấm chuẩn bị chỗ cho
Vương ngủ. Còn Vương vừa thấy người đẹp lòng đã xao xuyến, sau lúc nghe đàn,
càng mệt vấn vương. Vốn nghĩ tài mình, áo tía, đai xanh dễ như lượm cỏ; khi phú
quý rồi muốn gì chẳng được. Chốc lát, trăm mối nghĩ suy rối như cỏ bồng. Ðạo sĩ
dường như đoán biết, bảo Vương :
- Ông kiếp trước là bạn học với tôi, sau nhân vì
chí không bền nên sa lưới tục. Tôi vốn không coi ông là người ngoài, thực lòng
muốn đưa ông ra khỏi chốn vẩn đục. Không ngờ mê muội đã sâu, mơ màng không thể
giác ngộ được. Nay sẽ đưa ông về, chưa hẳn không có ngày gặp lại; song muốn làm
tiên trên trời thì phải đến kiếp sau .
Ðạo sĩ bàn chỉ phiến đá dài dưới chân bảo Vương
nhắm mắt ngồi lên, lại dặn kỹ không được nhìn, sau đó lấy roi quất vào hòn đá.
Ðá bay lên, tiếng gió rót ào ào bên tai, chẳng biết đã đi được bao nhiêu dặm.
Chợt nghĩ cảnh vật bên dưới chưa biết thế nào,
Vương bèn trộm hé hai mí nhỏ như kẻ chỉ, thấy biển lớn bao la mênh mông tuyệt
không bờ bến. Sợ quá nhắm mắt lại nhưng cả người đã theo đá rơi tõm xuống nước,
chìm nghỉm như chim âu lặn. May trước kia Vương ở gần biển nên biết bơi bì bõm
chút ít.
Chợt nghe tiếng người vỗ tay reo:
- Ngã nhào đẹp quá!
Ðang lúc nguy cấp, một cô gái cứu Vương lên thuyền,
và nói:
- May thật, may thật! Tú tài trúng cấp rồi!
Vương nhìn, cô gái khoảng mười sáu, mười bảy, nhan
sắc xinh đẹp. Vương lên đến thuyền, rét run, xin đốt lửa sưởi. Cô gái nói:
- Theo tôi về nhà sẽ thu xếp ổn thoả. Nếu vừa , chớ
quên sẽ thu nhé!
Vương đáp:
- Sao cô lại nói thế! Tôi là bậc tài tử ở Trung
Nguyên, chợt gặp chuyện quẫn bách. Qua được đận này, xin lấy thân đền đáp, chứ
đâu có không quên mà thôi!
Cô gái cầm sào đẩy thuyền đi nhanh như mưa bay gió
cuốn, chỉ một loáng đã đến bờ. Cô gái mang từ trong khoang ra một bó sen mới
hái, dẫn Vương đi cùng.
Chừng nửa dặm, vào thôn, thấy ngôi nhà cửa son mở
về hướng Nam. Qua mấy lần cổng cô gái đi nhanh vào trước. Lát sau, một người
đàn ông khoảng ngoài bốn mươi tuổi bước ra vái chào, mời Vương lên thềm, sai
người hầu lấy mũ áo giầy tất cho Vương thay, sau đó hỏi đến nhà cửa quê quán.
Vương đáp:
- Chẳng dám nói khoe, tài danh của tôi, chắc ông có
nghe qua. Tôi từng được Thôi chân nhân quyến luyến rất mực, đã vời lên cõi
trời. Song tự nghĩ công danh dễ như trở bàn tay, vì thế không muốn ẩn dật.
Người đàn ông kính cẩn nói:
- Nơi đây gọi là Ðảo tiên, cách xa hẳn cõi người.
Tôi tên Văn Nhược, họ Hoàn, trải mấy đời sống nơi hẻo lánh, may mắn làm sao lại
được gặp bậc danh tài.
Thế rồi ân cần mời rượu, lại thung dung nói:
- Tôi có hai đứa con gái. Ðứa lớn tên là Phương Vân,
mười sáu tuổi, đến nay chưa gặp người xứng đôi, muốn cho cháu hầu hạ bậc cao
nhân, được chăng?
Vương đoán hẳn là cô gái hái sen nên đứng dậy rời
khỏi bàn tiệc cảm tạ. Ông Hoàn cho mời vài ba vị tuổi cao đức cả trong làng
đến, nhìn quanh một lượt rồi sai gọi con gái.
Chốc lát, hương lạ nức thơm, hơn mười cô gái đẹp đỡ
Phương Vân ra, rực rỡ dễ thương như bông sen tắm trong nắng sớm. Nàng vái chào
rồi ngồi xuống, các cô gái xếp hàng đứng hầu, cô gái hái sen cũng trong số đó.
Rượu vài tuần, một cô bé bỏ tóc xoã từ trong buồng chạy ra, mới chừng hơn mười
tuổi mà dáng vẻ đã xinh đẹp, tươi cười dựa vào khuỷu tay chị, sóng mắt long
lanh. Hoàn nói:
- Con gái không ở trong phòng, ra đây làm gì?
Rồi ngoảnh sang khách nói:
- Ðây là Lục Vân, con gái nhỏ của tôi. Cháu khá
thông mình, nhớ được sách vở điển phần.
Nhân đó bảo ngâm thơ cho khách nghe. Cô bé bèn đọc
ba chương Trúc Chi từ, giọng đọc êm ái dễ nghe.
Ông Hoàn cho phép Lục Vân ngồi cạnh chị, rồi nói:
- Anh Vương là bậc thiên tài, thơ làm trước đây hẳn
rất nhiều, có thể cho kẻ hèn này nghe mà học hỏi chăng?
Vương hăng hái đọc một bài cận thể rồi kiêu hãnh
nhìn mọi người. Trong bài thơ ấy có hai câu:
Một thân còn chút mày râu đó,
Cạn chén cho tan khối bất bình.
Ông già ngồi cạnh đọc đi đọc lại hai ba lần. Phương
Vân bèn mách khẽ:
- Câu trên là Tôn Hành Giả rời động Hoả Vân, câu
dưới là Trư Bát Giới qua sông Tử Mẫu.
Cử toạ đều vỗ tay. Ông Hoàn mời Vương đọc thêm bài
khác, chàng bèn đọc bài thơ Chim Nước:
Ðầu dầm kêu kíu kít
Bỗng nhiên quên mất câu tiếp theo. Còn đang trầm
ngâm thì Phương Vân ghé tai em thầm thì rồi che miệng cười.
Lục Vân thưa với cha:
- Chị ấy làm hộ anh rẽ câu tiếp theo đấy ạ. Câu thế
này:
Mông chó vãi bùm bùm
Mọi người trong tiệc lại cười ồ. Vương cả thẹn, ông
Hoàn lừ mắt nhìn Phương Vân.
Khi sắc mặt Vương đã bình tĩnh lại, ông mời Vương
nói tài nghệ văn chương của mình.
Vương cho rằng người ngoài cõi trần hẳn không biết
nghề văn bát cổ bèn khoe tài văn chàng đã chiếm giải quán quân; đầu đề là hai
câu Hiếu thay Mẫn Tử Khiên ; phá đề là Thánh nhân khen lòng hiếu đức của bậc
đại
Lục Vân quay sang nhìn cha nói:
- Thánh nhân không gọi học trò mình bằng tên tự.
Câu Hiếu thay... ắt là lời của nhân gian.
Vương nghe được mất cả hứng. Ông Hoàn cười:
- Trẻ con biết gì! Không nói về điều ấy, chỉ bàn
văn thôi.
Vương lại đọc tiếp. Cứ được vài câu hai chị em lại
thì thầm với nhau, dường như bình phẩm về người, nhưng các cô nói lúng búng
không nghe rõ.
Vương đọc đến đoạn hay, thuật lại cả lời bình, có
nói rằng: Từng chữ, từng chữ đều thống thiết .
Lục Vân thưa với cha:
- Chị con bảo nên bỏ chữ Thiết đi.
Cử toạ đều không hiểu. Ông Hoàn sợ con nói năng
khinh mạn không dám gạn hỏi.
Vương đọc xong, lại thuật lời tổng bình, trong có
câu: Trống yết đánh một tiếng, muôn hoa đều nở .
Phương Vân lại che miệng nói vào tai em, hai chị em
cười đến nỗi không ngẩng lên được.
Lục Vân lại nói với cha:
- Chị bảo trống yết phải đánh bốn tiếng.
Mọi người vẫn không hiểu. Lục Vân mở miệng định nói
tiếp, Phương Vân nín cười quát:
- Con ranh mà nói, tao đánh chết!
Cử toạ càng nghi ngờ, bàn đoán riêng với nhau. Lục
Vân không nhịn được lại nói:
- Bỏ chữ thiết đi, nói thống tức là bất thông .
Ðánh bốn tiếng trống thì tiếng vang là Bất thông lại bất thông vậy.
Mọi người cười phá lên, ông Hoàn nổi giận quát con,
nhân đó đứng dậy rót rượu, tạ lỗi mãi.
Vương ban đầu tự khoe là bậc tài danh, dưới mắt
mình thực chẳng coi ai ra gì; đến lúc này thần khí tiêu tan sạch, mồ hôi đầm
đìa.
Ông Hoàn bàn an ủi lấy lòng:
- Vừa nghĩ được một câu xin các vị trong tiệc cùng
đối: Vương tử thân biên vô hữu nhất điểm bất tự ngọc .
Chưa ai kịp nghĩ thì Lục Vân đã đọc ngay. Mẫn ông
đầu thượng tái trước bán tịch tức thành quy .
Phương Vân cười sặc lên véo vào sườn em ba bốn cái,
Lục Vân giẫy ra bỏ chạy, quay lại bảo:
- Việc gì đến chị? Chị mắng anh ấy bao nhiêu thì
không cho là trái; người ta nói hộ một câu không được phép à?
Ông Hoàn quát lên, cô bé mới cười rồi đi.
Các ông già láng giềng cũng cáo từ.
Ðám thị nữ dẫn đôi vợ chồng vào phòng ngủ, trong đó
đèn nến giường màn đã sắp đặt tinh khôi, đầy đủ.
Vương nhìn phòng tân hôn, thấy sách đầy giá, không
thiếu một loại nào, hỏi qua những chỗ khó, Phương Vân đều trả lời được trôi
chảy, tường tận. Bấy giờ Vương mới thấy hết nỗi xấu hổ của kẻ đứng trước biển
khơi.
Vợ chàng gọi Minh Ðang! thì cô gái hái sen ban
chiều chạy đến, nhờ vậy Vương mới biết tên nàng.
Sau nhiều lần bị chế giễu nhục nhã, Vương sợ chốn
khuê phòng cũng không được coi trọng. May sao Phương Vân tuy nói năng xấc xược
nhưng trong chốn phòng the, tình vợ chồng rất đằm thắm.
Vương ở yên vô sự, bàn ngâm nga.
Vợ bảo:
- Thiếp có lời hay muốn nói, chẳng biết chàng có
chịu lắng tai không?
Hỏi điều gì, thì bảo:
- Từ nay chàng đừng làm thơ nữa! Ðó cũng là một
cách để che giấu cái vụng của mình vậy.
Vương lấy làm thẹn, bỏ hẳn chuyện bút mực. Lâu dần
càng quấn quít với Minh Ðang, bèn nói với Phương Vân.
- Minh Ðang đối với tiểu sinh, có cái ơn cứu mạng,
mong ít khi phải cau mặt, nặng lời với nàng.
Phương Vân bằng lòng. Thường mỗi khi vợ chồng vui
chơi trong phòng, cũng cho nàng cùng dự.
Hai bên vì thế càng say nhau, thường liếc mắt, đưa
tay thay lời.
Phương Vân thoáng biết, trách móc nhiều lần, Vương
chỉ liến láu cãi ngượng cho qua chuyện.
Một đêm hai vợ chồng đối ẩm, Vương kêu vắng vẻ,
khuyên vợ gọi Minh Ðang.
Phương Vân không nghe, Vương bảo vợ:
- Sách gì nàng cũng đọc, sao chẳng nhớ mấy chữ độc
lạc nhạc nhỉ?
Phương Vân nói:
- Thiếp nói chàng bất thông, nay càng nghiệm. Cách
chấm câu còn chưa biết hay sao? Riêng mình thì lấy người làm lạc thú, nhưng nói
đến lạc thú, hỏi có ai không, lại đáp rằng không .
Chàng bật cười đành bỏ ý đšịnh .
Gặp buổi hai chị em Phương Vân y hẹn sang chơi nhà
cô bạn hàng xóm. Vương được dịp liền dẫn ngay Minh Ðang vào, ái ân hết mực.
Ðến tối chàng thấy đau ở bụng dưới, hết đau thì
dương vật sưng lên. Vương sợ quá nói với vợ.
Vân cười đáp:
- Chắc hẳn đã báo cái ơn của Minh Ðang rồi?
Vương không dám dấu, cung khai hết. Phương Vân bảo:
- Tự gây ra hoạ, thực không còn cách nào. Nếu không
đau đớn, ngứa ngáy thì kệ thế cũng được.
Mấy ngày sau không khỏi, Vương lo lắng kém vui.
Phương Vân biết nhưng không hỏi han gì, chỉ đăm đăm nhìn chồng, đôi mắt như hồ
thu đầy đặn, sáng tựa sao mai. Vương nói :
- Nàng có thể gọi là người trong lòng ngay thẳng
nên tròng mắt sáng .
Phương Vân cười:
- Còn chàng, có thể gọi là người trong lòng không
ngay thẳng nên tròng mất sáng .
Bởi hai chữ mất , dân gian cũng đọc gần như chữ Mắt
nên nàng đem chữ đó ra để đùa chồng.
Vương bật cười, van nài xin chữa cho. Nàng nói:
- Chàng không nghe lời nói phải, trước đây vị tất
không nghĩ là em ghen, đâu biết rằng con hầu đó vốn không thể gần gũi được. Lúc
trước thực rất yêu chàng, nhưng chàng chỉ như gió xuân thổi qua tai ngựa nên em
ghét mà bỏ mặc. Nếu không đã chữa cho rồi. Nhưng thầy lang phải xem kỹ chỗ đau
đã!
Bàn sờ tay vào trong áo rồi đọc chú rằng:
- Chim vàng, chim vàng, chớ đậu cành gai.
Vương bất giác cười rộ, cười xong thì bệnh khỏi.
Mấy tháng sau Vương vì cớ cha già con dại thường
nhớ nhà không nguôi. Chàng đem tâm sự nói với vợ. Nàng nói:
- Về nhà thì không khó, chỉ không có ngày sum họp
nữa thôi.
Vương nước mắt lã chã, xin nàng về cùng. Phương Vân
nghĩ ngợi hồi lâu mới bằng lòng.
Ông Hoàn bày tiệc tiễn đưa, Lục Vân xách làn vào
nói:
- Chị sắp ra đi, chẳng có gì tặng chị. Chỉ sợ khi
đến Hải Nam không có nhà mà ở nên đêm qua đã làm hộ chị lầu gác, xin đừng chê
bai là sơ sài.
Phương Vân cảm ơn em rồi nhận lấy. Ðến gần xem thì
thấy dùng loại cỏ nhỏ kết thành lầu gác, toà lớn thì như quả thanh yên, toà nhỏ
thì như quả quất, tất cả chừng hơn hai chục toà. Trong mỗi toà kèo cột rui mà
đều phân minh đầy đủ; lại có giường phản ràm tường, mỗi thứ chỉ to bằng hạt
vừng.
Vương xem như đồ chơi con trẻ, lòng thầm khen cô em
vợ khéo tay.
Phương Vân nói:
- Nói thật với chàng, bọn em là tiên dưới đất, vì
có túc duyên nên được theo bên chàng. Em vốn không muốn đặt chân tới cõi trần,
nhưng chỉ vì chàng còn cha già, không nỡ trái lời. Ðợi khi cha đủ tuổi trời,
chúng ta nên trở lại đây.
Phương xin vâng, ông Hoàn hỏi:
- Muốn đi thuyền hay đi xe?
Phương sợ sóng gió nguy hiểm xin đi đường bộ. Ra
đến cửa thì ngựa xe đã chờ sẵn, vợ chồng từ biệt lên đường. Ngựa phi nhanh vun
vút, chỉ thoáng chốc đã đến bờ biển, Vương trong lòng lo không có đường đi.
Phương Vân đem ra một tấm lụa trắng ném về phương
Nam, lập tức hoá thành con đê dài, mặt đê rộng vừa một trượng, trong nháy mắt
xe ruổi qua, đê cũng thu lại dần. Ðến một nơi, nước triều tràn qua, bốn phía
mênh mông, Phương Vân bảo dừng lại. Nàng xuống xe lấy những đồ bằng cỏ ra, rồi
cùng với bọn Minh Ðang mấy người sắp xắp bày đặt đúng theo phép tắc, chỉ trong
nháy mắt đã hoá thành ngôi nhà lớn.
Vợ chồng cùng vào, cởi bỏ hành lý, thì toà nhà
không khác chút nào với nơi đã sống trên đảo, giường ghế đều y nguyên như phòng
tân hôn lúc trước.
Trời đã xẩm tối, nhân nghỉ lại qua đêm. Sáng hôm
sau, Phương Vân bảo Vương còn về đón cha mẹ. Vương sai đóng ngựa ruổi về làng
cũ.
Ðến nơi thì nhà cửa đã thuộc về nhà họ khác. Hỏi
người làng mới biết mẹ và vợ đã chết, chỉ còn cha già. Con trai đam mê cờ bạc,
ruộng vườn gia sản hết sạch, ông cháu không thể có chỗ trú chân, hiện nay tạm ở
căn nhà thuê bên thôn Ðoài .
Vương lúc mới trở về, nghĩ về công danh vẫn còn
vương vấn, kịp khi nghe tin nhà như vậy, âu sầu buồn bã, tự nghĩ giàu sang nếu
có được thì so với những ảo ảnh trong khi hoa mắt nào có khác gì.
Chàng quất ngựa sang thôn Ðoài, thấy cha quần áo
rách rưới, già sọm, thật đáng thương. Cha con gặp nhau khóc lạc cả tiếng; hỏi
đến đứa con bất hiếu, còn đi đánh bạc chưa về.
Vương bèn chở cha quay về. Phương Vân lạy chào
xong, nấu nước mời bố chồng tắm, đưa quần áo gấm cho ông thay, để ông nghỉ ngơi
trong ngôi nhà thơm ngát. Sau đó nàng sai mời các ông bạn già cũ tới cùng cha
trò chuyện, phụng dưỡng hơn cả các nhà thế tộc.
Một hôm con trai Vương tìm đến, chàng dứt tình
không cho gặp, chỉ cho hai chục đồng vàng và sai người dặn: cầm lấy mà mua vợ,
rồi lo làm ăn. Nếu còn đến nữa sẽ đánh chết tươi . Con trai khóc mà đi .
Vương từ khi trở về không hay tiếp khách, nhưng nếu
bạn bà cũ tình cờ đến thăm thì đón tiếp lưu luyến, khiêm nhường, khác hẳn thuở
trước. Riêng có Hoàng Tử Giới bạn đồng môn thuở trước cũng là một bậc anh tài
lận đận, được Vương lưu lại rất lâu, thường kể cho nghe nhiều chuyện kín và
biếu tặng rất hậu.
Ðược ba bốn năm Vương ông mất, Vương bỏ vạn bạc
chọn đất chôn, làm ma theo đúng lễ.
Bấy giờ con trai Vương đã lấy vợ; con dâu quản
chồng rất nghiêm, nhờ thế con cũng đỡ cờ bạc.
Ngày vào đám, nàng dâu mới đến chào bố mẹ chồng.
Phương Vân thoạt gặp con dâu đã thấy người giỏi
việc nhà, bèn cho vợ chồng ba trăm đồng vàng để mua sắm điền sản.
Hôm sau chàng Hoàng cùng con Vương đến thăm thì lâu
đài nhà cửa đã không thấy nữa, chẳng biết ở đâu.
CÔ GÁI ÁO XANH
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
Chàng họ Vu tên Cảnh, tự là Tiểu Tống, người Ích
Ðô, ở nhờ chùa Lễ Tuyển để học. Ban đêm Cảnh đang giở sách ra đọc, bỗng một cô
gái đứng ngoài song cửa khen:
- Vu tướng công chăm học làm sao!
Vu tự nghĩ ở chốn núi sâu làm gì có con gái. Còn
đang nghi ngại, cô gái kia đã đẩy cửa bước vào cười bảo:
- Chăm học làm sao!
Vu sửng sốt đứng dậy, nhìn xem thì thấy một nàng áo
xanh, váy dài, mềm mại xinh xắn không ai sánh được. Vu biết không phải là
người, cố vặn hỏi quê quán, nàng đáp:
- Chàng nhìn thiếp chẳng phải là kẻ cắn nuốt người,
việc gì phải hỏi đến cùng cho mệt!
Vu lòng thấy mến, bèn ngủ chung. Cởi đến chiếc áo
lót bằng lụa thì eo lưng nàng nhỏ chưa đầy hai chủt tay. Ðêm gần tàn, nàng đã
nhẹ nhàng ra đi. Từ đó không đêm nào không tới. Một đêm cùng uống rượu, trong
lúc chuyện trò cô gái tỏ ra rất sành âm luật. Vu nói:
- Giọng nàng nhỏ mượt, nếu ca một khúc ắt khiến
người nghe tiêu hồn!
Cô gái cười:
- Chẳng dám ca, sợ tiêu mất hồn chàng mà thôi!
Vu cố nài, nàng nói:
- Thiắp chẳng tiếc sén gì đâu, chỉ sợ người khác
nghe được. Nếu chàng đã thích thì xin dâng chút tài mọn, nhưng chỉ hát nhỏ để
tỏ thôạ nhé!
Nói rồi gót sen nhà nhẹ gõ nhịp vào chân giường mà
hát rằng:
Cành cữu tiếng chim kêu,
Giữa đêm em chạy tản,
Chẳng hờn ướt giày thêu,
Chỉ sợ chàng không bạn.
Tiếng hát khẽ như tiếng nhặng, nghe kỹ mới nhận
biết được. Nhưng lắng nghe thì giọng hát uyển chuyển trơn ấm, tai nghe mà lòng
rung động. Cô gái hát xong, mở cửa nhòm ra, bảo:
- Ðề phòng ngoài song có người.
Lại đi vòng quanh nhà xem xét rồi mới trở vào.
Chàng hỏi:
- Sao nàng lại lo ngờ quá thế ?
Cười đáp:
- Ngạn ngữ có câu: Ma sống trộm thường sợ người ,
thân phận thiếp là thế đấy!
Lát sau đi ngủ, buồn bã không vui, nói:
- Chút phận bình sinh có lẽ chấm dứt ở đây chăng?
Vu vội hỏi han, cô gái nói:
- Thiếp thấy lòng hồi hộp quá, lộc của thiếp e hết
rồi.
Vu an ủi:
- Hồi hộp trong lòng hay máy mắt là chuyện bình
thường, sao vội nói thế ?
Cô gái hơi yên lòng bèn cùng nhau ân ái. Ðêm tàn,
nàng khoác áo bước xuống giường. Ðang định mở cửa thì cứ bồn chồn vào ra, nói:
- Không hiểu sao lòng thiếp tự nhiên thảng thốt
khiếp sợ, xin tiễn thiếp ra khỏi cửa.
Vu trở dậy, đưa nàng ra tận ngoài cửa. Nàng dặn:
- Chàng đứng đây trông cho thiếp. Thiếp vượt khỏi
tường này rồi hẵng vào.
Vu đáp:
- Ðược rồi.
Trông thấy nàng vừa ngoặt khỏi hành lang đã bặt
tăm, không thấy đâu nữa. Vu đang định quay vào ngủ thì nghe nàng kêu cứu rất
gấp. Vu vội chạy đắn nhìn quanh, không thấy đâu, nhưng tiếng kêu vọng ra từ mái
hiên. Ngẩng đầu nhìn kỹ thì một con nhện to bằng viên đạn đang chộp bắt một
sinh vật nhỏ; tiếng kêu vo ve đau đớn. Vu phá mạng nhện, khều xuống, gỡ bỏ
những sợi tơ nhện chằng trói, thì ra là một con ong xanh thoi thóp sắp chết.
Mang về phòng, đặt ở đầu bàn. Con ong hồi tỉnh, một lúc mới bò được; nó thong
thả leo lên nghiên, nhúng chân vào mực rồi leo ra đậu trên tràng kỷ, bò thành
chữ "tạ" rồi chớp cánh mấy lần mới xuyên qua cửa sổ mà bay đi, từ đó
không trở lại nữa.
CÔ GÁI NGHĨA HIỆP
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
Thư sinh họ Cố người Kim Lăng, học rộng tài hoa,
nhưng nhà rất nghèo, lại vì có mẹ già không nỡ rời dưới gối, nên hàng ngày chỉ
vẽ thuê viết mướn kiếm ăn.
Ðã hai mươi lăm tuổi mà vẫn phòng không lạnh lẽo.
Trước cửa nhà chàng là một ngôi nhà bỏ hoang từ
lâu, một hôm có một bà già cùng một cô gái đến thuê để ở.
Vì thấy không có đàn ông, nên chàng cũng chưa tiện
thăm hỏi gốc tích của họ.
Một hôm tình cờ từ ngoài về, chàng gặp cô gái trong
phòng mẹ đi ra, tuổi chừng mười tám mười chín, xinh đẹp, thanh tú, trên đời ít
có người sánh kịp.
Gặp chàng, cô không tránh mặt nhưng có vẻ nghiêm
lạnh.
Chàng vào nhà hỏi mẹ, bà bảo:
- Ðó là cô gái ở nhà trước cửa, sang mượn thước và
kéo may.
Cô vừa cho biết nhà cũng chỉ có một con một mẹ.
Trông cô có vẻ không phải con nhà nghèo.
Hỏi sao không lấy chồng, đáp vì còn mẹ già.
Ðể mai mẹ sang chào bà cụ, nhân tiện dò xem sao.
Nếu ước vọng của họ không cao xa quá thì con có thể
phụng dưỡng mẹ già thay nàng .
Hôm sau bà qua nhà cô gái, thấy mẹ nàng là một bà
lão điếc.
Nhìn trong nhà, tịnh không còn một bữa gạo cho ngày
mai; hỏi cách sinh sống thì chỉ trông nhờ vào hai bàn tay cô gái. Dần dà mẹ
chàng đem chuyện kết thân giữa hai nhà ra ướm hỏi; bà cụ như ý cũng bằng lòng,
nhưng còn quay sang bàn bạc với cô gái; nàng nín lặng, xem chừng không được .
Mẹ về, kể lại cho con nghe và tỏ ý ngờ vực nói :
- Hay là cô ấy ngại nhà mình nghèo chăng? Tính tình
nghiêm nghị không nói không cười, xinh như đào mận mà lại lạnh lùng như sương
tuyết, thật là người kỳ lạ!
Mẹ con than tiếc một lúc rồi cũng bỏ qua.
Một hôm chàng ngồi ở phòng, bỗng có một thiếu niên
đến nhờ vẽ tranh.
Chàng ta dung nhan đẹp đẽ nhưng ý tứ thì khá buông
tuồng.
Hỏi ở đâu đến, đáp là ở thôn quê.
Sau đó vài ba ngày lại đến một lần.
Lâu dần thành quen, cười đùa cợt nhã.
Chàng suồng sã ôm choàng lấy, cũng không chống cự
gì lắm, liền tư thông với nhau.
Từ đấy đi lại rất thâng
Gặp khi cô gái đi ngang, thiếu niên đưa mắt nhìn,
hỏi là ai, chàng đáp:
- Cô hàng xóm.
Thiếu niên nói:
- Ðẹp thì đẹp thật, mà sao thần sắc đáng sợ thế!
Lát sau chàng vào nhà trong, mẹ bảo:
- Vừa rồi cô gái sang xin gạo, nói đã hai ngày bếp
không đỏ lửa.
Cô gái thật có hiếu nhưng nhà nghèo quá, kể cũng
đáng thương, ta cũng nên chu cấp ít nhiều.
Chàng nghe lời, mang đấu gạo sang, gõ cửa nói lại ý
mẹ.
Cô gái nhận gạo cũng không cảm tạ .
Hàng ngày nàng sang nhà, thấy mẹ chàng may vá, cũng
vá áo xâu kim giúp mẹ.
Ra vào trong nhà, làm lụng mọi việc như con dâu.
Chàng càng thêm biết ơn nàng, mỗi khi có ai biếu
xén thức gì đều chia ra biếu lại mẹ nàng.
Cô gái vẫn không hé răng nói một lời cảm tạ.
Bỗng nhiên mẹ chàng mọc cái nhọt ở chỗ kín, đêm
ngày kêu khóc.
Cô gái thường xuyên đến tận giường chăm sóc, rửa
mụn bôi thuốc cho bà, ngày ba bốn bận.
Mẹ rất áy náy nhưng cô không nề hà chuyện bẩn thỉu.
Mẹ nói:
- Ôi, làm sao có một nàng dâu như con trông nom mẹ
lúc tuổi già, để chết cho mát mẻ đây!
Nói xong, buồn bã nghẹn ngào.
Cô gái an ủi bà rằng:
- Anh nhà là người con chí hiếu, còn hơn cảnh nhà
cháu mẹ goá con côi gấp trăm lần.
Mẹ nói:
- Tới lui hầu hạ bên giường, nào phải là việc người
con trai hiếu làm nổi đâu. Vả lại, thân này cũng đã xế chiều, hôm trái nắng trở
trời chẳng biết thế nào nên rất khắc khoải về một người nối dõi.
Ðang nói thì chàng vào, mẹ khóc bảo:
- Mẹ mang ơn nương tử nhiều lắm, con chớ quên báo
đáp.
Chàng cúi đầu vái tạ.
Cô gái nói:
- Chàng kính trọng mẹ tôi, tôi không vái tạ, chàng
vái tạ làm gì?
Do đấy chàng càng thêm kính yêu, nhưng cử chỉ nàng
rắn rỏi, không đằm thắm, nên mảy may chẳng sàm sỡ được.
Một hôm cô gái ra khỏi cửa, chàng đăm đăm nhìn
theo.
Nàng bỗng quay đầu lại cười tươi tắn.
Chàng mừng rỡ vì việc xảy ra đến ngoài muốn, bèn
chạy theo sang nhà; chọc ghẹo cũng không kháng cự, vui sướng cùng giao hoan.
Xong xuôi, nài
- Việc này chỉ một lần, không có lần thứ hai đâu
nhé!
Chàng không đáp, ra về.
Hôm sau, lại hẹn, thì nàng nghiêm nét mặt, không
ngoái nhìn, đi thẳng.
Ngày ngày nhiều lần qua lại, thường gặp nhau luôn,
nhưng nàng không hề làm bộ tươi cười hay dùng lời đưa đẳy; hơi đùa cợt một chút
đã nghe những câu lạnh người.
Một hôm, nhân chỗ vắng người, nàng chợt hỏi:
- Chàng thiếu niên hàng ngày vẫn đến là ai thế?
Chàng kể tình đầu; nàng bảo:
- Ðã nhiều lần y có những cử chỉ, thái độ vô lễ với
thiếp rồi.
Vì là chỗ thân quen với chàng nên thiếp đành bỏ
qua.
Nhờ chàng chuyển lời; nếu còn tái phạm tức là không
muốn sống nữa đấy!
Ðến tối, thiếu niên tới, chàng nói lại, rồi dặn
thêm:
- Anh phải cẩn thận, người ấy không đụng đến được
đâu!
Thiếu niên nói:
- Không đụng đến được, sao anh lại đụng được?
Chàng chối là không có chuyện ấy, thiếu niên nói:
- Nếu không có gì sao những lời thô lỗ cợt nhả kia
lọt vào tai anh được?
Chàng không còn biết nói thế nào.
Thiếu niên nói:
- Cũng phiền anh chuyển lời hộ: Cô nàng đừng giả vờ
nghiêm nghị nữa. Nếu không tôi nói toạc ra cho mọi người cùng biết.
Chàng rất giận, đỏ mặt tía tai; Thiếu niên bèn bỏ
đi.
Một đêm, chàng đang ngồi một mình, bỗng nhiên cô
gái tìm đến, cười bảo:
- Em với chàng tình duyên chưa dứt, lẽ nào không
phải là số trời?
Chàng mừng cuống lên, ôm nàng vào lòng.
Ðột nhiên, nghe tiếng giày lộp cộp, hai người giật
mình nhổm dậy, thì thiếu niên đã xô cửa bước vào.
Chàng kinh hải hỏi:
- Cậu làm gì vậy?
Anh ta cười đáp:
- Tôi đến để xem con người trinh trắng đấy thôi.
Rồi ngoái nhìn nàng nói:
- Hôm nay không chê trách người khác nữa ư?
Cô gái đỏ lừng gò má, lông mày dựng đứng lên, không
nói một lời.
Nàng hất mạnh vạt áo, để lộ một chiếc bao da, thuận
tay rút phắt ra một con dao găm sáng loáng, dài chừng một thước.
Thiếu niên trông thấy, sợ hãi bỏ chạy.
Ðuổi theo ra đến cửa, nhìn quanh, thì đã mất hút.
Nàng cầm dao găm ném vào khoảng không, chỉ nghe một
tiếng rạt đã thấy hiện ra một luồng sáng rực rỡ như cầu vồng.
Lát sau nghe tiếng một con hồ trắng, đầu và mình
mỗi thứ văng một nơi, nhìn mà thất kinh.
Cô gái nói:
- Anh bạn đẹp trai của chàng đó.
Tôi đã dằn lòng tha thứ, nhưng hắn nhất định không
muốn sống thì biết làm thế nào?
Rồi nàng cất dao vào bao.
Chàng cố kéo trở vào phòng, nàng bảo:
- Vừa rồi yêu quái làm mất cả hứng, xin để đêm mai.
Nói đoạn ra cửa đi thẳng.
Ðêm sau, quả nhiên cô gái lại đến, bèn cùng nhau ân
ái.
Hỏi về kiếm thuật, nàng đáp:
- Ðó không phải là điều chàng nên biết. Hãy giữ
kín, nếu lộ ra, e tai vạ đến chàng.
Lại bàn chuyện hôn nhân, cô gái nói:
- Ðã chung chăn gối, lại lo liệu việc nhà, không
phải vợ thì còn là gì? Ðã là vợ chồng hà tất phải nói đến cưới hỏi.
Chàng hỏi:
- Hay là chê tôi nghèo?
Nàng đáp:
- Chàng đã đành là nghèo, nhưng thiếp giàu sao? Sum
vầy đêm nay, chính là thương chàng nghèo đấy thôi.
Khi chia tay lại dặn:
- Việc làm cẩu thả này không thể thường luôn được.
Lúc nên đến, thiếp sẽ tự đến, không nên đến thì ép
buộc nhau có ích gì!
Về sau mỗi lần gặp gỡ, hễ chàng nói chuyện riêng tư
là cô gái lại tránh đi.
Tuy nhiên, việc vá may nấu nướng vẫn một tay nàng
quán xuyến, không khác gì người vợ chính thức.
Ðược mấy tháng, mẹ nàng chết, chàng dốc sức lo việc
ma chay.
Từ đó, nàng ở nhà một mình.
Chàng nghĩ phòng không bóng chiếc có thể tính
chuyện chung chạ được, bèn nhảy qua tường mà vào, đến bên cửa sổ gọi mãi, nhưng
rốt cuộc chẳng một ai thưa.
Bèn lại cửa chính nhòm vào thì nhà trống không mà
cửa vẫn cài.
Trộm ngờ cô gái có nơi hò hẹn nào khác.
Ðến đêm, lại tới, vẫn y như vậy, bèn tháo viên ngọc
vẫn đeo bên mình để lại trên cửa sổ rồi đi.
Hôm sau gặp nhau ở buồng mẹ.
Khi chàng đi ra, cô gái theo sau,nói:
- Chàng ngờ thiếp ư? Mỗi người đều có tâm sự riêng,
không thể nói hết với người khác.
Nay dẫu muốn chàng hết ngờ cũng đâu có được. Nhưng
có một việc phiền chàng lo liệu gấp.
Hỏi việc gì, đáp:
- Thiếp có mang đã tám tháng rồi, e sinh nở nay
mai.
Nhưng danh phận của thiếp chưa rõ ràng, chỉ có thể
sinh con cho chàng chứ không thể nuôi con cho chàng được. Chàng hãy thưa riêng
với mẹ lo tìm một người vú nuôi, nói dối là con xin được chứ đừng nói là con do
thiếp sinh ra.
Chàng nhận lời, về kể lại với mẹ, bà cười bảo:
- Con bé này kỳ thật! Hỏi cưới thì không chịu, mà
lại ăn vụng với con mình.
Bà vui mừng làm theo nàng và chờ đm
Lại cách hơn một tháng, có đến mấy ngày cô gái
không sang.
Mẹ lấy làm ngờ, đến cửa nhòm xem thì cửa đóng mà
nhà vắng lặng.
Gõ cửa hồi lâu mới thấy cô gái đầu bù tóc rối, mặt
mũi không rửa, từ trong buồng bước ra, mở cửa cho bà vào xong, đóng lại ngay.
Vừa vào trong nhà đã nghe tiếng trẻ khóc oe oe trên
giường.
Bà kinh ngạc hỏi:
- Con sinh từ bao giờ vậy?
Nàng thưa:
- Ðã ba ngày.
Giở tã lót ra xem thì là đứa bé trai, má bụ bẫm
trán rộng, bà vui mừng nói:
- Con đã vì già mà nuôi cháu; một mình lênh đênh,
rồi sẽ nương tựa vào ai?
Cô gái nói:
- Ðiều con canh cánh trong lòng, chẳng dám phơi bày
cùng mẹ.
Ðợi lúc đêm hôm vắng vẻ sẽ cho cháu về với bà.
Mẹ về nói chuyện với con trai, cũng thầm cho là lạ.
Ðến đêm, bế đứa trẻ về.
Lại mấy đêm sau, vào khoảng nửa đêm, cô gái bỗng gõ
cửa, bước vào, tay xách chiếc túi da cười nói:
- Việc lớn của thiếp đã xong rồi. Từ nay xin vĩnh
biệt!
Chàng vội hỏi duyên cớ, nàng nói:
- Công ơn nuôi mẹ thiếp vẫn khắc sâu trong dạ.
Trước đây từng nói Chỉ một lần thôi, không có lần
thứ hai không phải có đem việc chung đụng gối chăn ra để báo đáp.
Chỉ vì chàng nghèo không thể lấy được vợ nên gắng
sinh cho chàng một đứa con để nối dõi.
Những mong chỉ một lần là thành, chẳng ngờ lại thấy
có kinh nên phải phá giới lần thứ hai.
Nay ơn chàng đã đền, chí thiếp đã toại, chẳng còn
gì ân hận nữa .
Hỏi:
- Trong túi có vật gì đấy?
Ðáp:
- Ðầu kẻ thù!
Hé ra cho nhòm, thì râu tóc bắt vào nhau mà máu
loang nhoà nhoẹt.
Chàng sợ muốn đứt hơi, lại hỏi kỹ thêm.
Nàng nói:
- Trước đây không dám nói với chàng, vì sợ nếu
chuyện không giữ kín được sẽ lộ ra.
Nay việc đẫ xong, kể chàng nghe cũng chẳng hại gì.
Thiếp vốn người Chiết Giang, cha làm quan Tư Mã bị
kẻ thù hãm hại, nhà cửa bị tịch biên.
Thiếp phải cõng mẹ già đi trốn, ấn giấu họ tên,
chôn vùi tung tích đã ba năm rồi.
Sở dĩ không báo thù ngay chỉ vì mẹ đang còn sống .
Ðến khi mẹ mất, lại vướng khối thịt đang mang trong
bụng. Vì thế cứ nấn ná mà thành lâu.
Ðêm hôm nọ đi vắng, chẳng có duyên có gì khác, chỉ
vì đường sá cổng ngõ chưa thông thuộc, sợ có sự nhầm lẫn mà thôi.
Nói xong, ra cửa, lại dặn rằng:
- Ðứa con thiếp sinh ra, hãy chăm sóc cẩn thận!
Chàng phúc mỏng, chẳng sống lâu được, con rồi sẽ làm rạng rỡ cửa nhà.
Ðêm khuya đừng làm kinh động đến mẹ, thiếp đi đây!
Chàng đang rầu rĩ, toan hỏi đi đâu thì nàng đã vụt
đi nhanh như chớp, chỉ nháy mắt đã không thấy đâu nữa.
Chàng than tiếc, đứng sững như kẻ mất hồn.
Sáng hôm sau kạ lại với mẹ, hai mẹ con cứ tấm tắc
là chuyện lạ lùng.
Ba năm sau quả nhiên chàng mất.
Ðứa con mười tám tuổi đỗ Tiến sĩ, phụng dưỡng bà
nôi cho đến hết tuổi già.
NHAN THỊ
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
Thuận Thiên Mỗ Sinh , nhà nghèo , gặp phải năm đói
kém theo cha đi đất Lạc kiếm ăn . Tánh chàng rất độn , mãi 17 tuổi mới viết chữ
thành hàng lối , nhhưng được bộ mặt lịch sự trai , khéo pha trò , tài nghề viết
thư từ , cho nên ai cũng tưởng là chàng học giỏi lắm , nhhưng không dè bên
trong rỗng tuếch .
Không bao lâu , cha mẹ kế tiếp qua đời , chàng trơ
trọi một mình , phải làm nghề gõ đầu trẻ ỡ Lạc , để kiếm ăn độ nhựt .
Lúc đó trong xóm có người con gái mồ côi , họ Nhan
, dòng dõi một nhà học giỏi . Khi người cha còn , thường dạy nàng học , chỉ đọc
qua một lượt là nhớ nằm lòng . Ngoài mười tuổi , học làm thơ , người cha nói :
- Nhà ta có nữ học sĩ , tiếc không được đội mũ thôi
.
Vì thế ông rất mực yêu quí , chỉ mong kén được một
người chồng quý hiển cho con . Sau lúc ông qua đời , bà mẹ nàng vẫn ôm cái chí
lớn đó . Nhưng đeo đuổi ba năm cũng chẳng toại nguyện , kế bà ấy cũng mất . Có
người khuyên nàng lấy chồng học trò , nàng cũng đồng ý , nhưng cũng chưa kén
được ai .
Vừa lúc mụ hàng xóm leo tường qua , nói chuyện với
nàng , trong tay cầm một giấy viết chữ gói chỉ thêu , nàng mỡ ra xem , thì là
chữ của Mỗ Sinh viết gởi bạn ở lối xóm . Nàng xem đi xem lại , khen ngợi chữ
tốt . Mụ nọ dòm biết ý tứ , nói nhỏ :
- Ấy là một chàng đẹp trai , cũng mồ côi như cô ,
tuổi ngang như cô, nếu cô bằng lòng thì tôi mách chàng cậy mối đến là xong .
Nàng lẳng lặng không nói chi .
Mụ nọ về ngỏ ý với chồng . Người bạn lối xóm vốn
chơi thân với chàng , đem chuyện ấy nói , chàng bằng lòng lắm , nhân có chiếc
vòng vàng của mẹ để lại , bèn cậy người đem đến làm lễ vấn danh và xin cưới
liền .
Vợ chồng như cá nước duyên ưa , hết sức vui vẽ .
Ðến bửa được thấy văn bài chồng làm , nàng phì cười và nói :
- Văn với minh dường như hai người , thế này biết
đời kiếp nào thi đổ ?
Từ đó sớm hôm khuyên đốc chàng học , nghiêm khắc
như thầy đối với học trò . Tối đến , nàng chăm đèn ngồi , tự cất tiếng học ê a
, học trước để làm gương cho chồng ; học mãi đến canh ba mới nghĩ .
Như vậy được hơn một năm , văn chương thi cử của
chàng đã hơi thông , nhưng đi thi khoa nào cũng rớt . Thân danh lận đận , sinh
sống lại nghèo , tự nghĩ tình cảnh buồn tênh , bất giác hu hu khóc lóc .
Nàng phát cáu , mắng nhiếc to tiếng :
- Trời để cho mình làm đàn ông thật uổng . Nếu để
cho tôi bỏ khăn yếm , thay đổi làm con trai , thì tôi coi sự thi đổ dễ như trò
chơi vậy .
Chàng đang buồn rầu héo gan héo ruột , nghe vợ nói
khoác như vậy , quắc mắt giận nói :
- Mình là đàn bà , chưa được bước chân đến chổ thi
cử bao giờ , mới tưởng công danh phú quí như chuyện xuống bếp múc nước hay nấu
cháo vậy . Nếu cho mình được làm đàn ông thì rồi cũng lận đận rớt lên rớt xuống
như ai , chứ tài giỏi gì ?
Nàng cười :
- Mình đừng nên giận , tôi nói thiệt đó . Ðến khoa
thi này , tôi sẽ cải trang mà đội tên mình vô trường thi , nếu quả thật tôi
cũng lận đận rớt lên rớt xuống như mình thì xin khoét mắt không dám coi rẻ
thiên hạ nữa .
Chàng cũng cười và nói :
- Khanh chưa biết nổi cay đắng bên trong ra sao ,
nên muốn nếm thử . Ðã muốn vậy thì cứ làm , nhưng tôi chỉ sợ chân tướng lộ ra
bị làng xóm cười chê mà thôi .
Nàng trả lời :
- Tôi nhất định làm thiệt không phải giả bộ đâu .
Còn nhớ thường ngày mình nói tổ tiên có nếp nhà cũ ở đất Yên , vậy tôi xin cải
trang làm con trai đi theo mình về ở đó , giả làm em mình , làng xóm biết đấy
là đâu .
Chàng nghe theo . Nàng liền vô buồng bịt khăn mặc
áo nam tử đi ra hỏi chồng :
- Mình xem tôi có làm con trai được không nào ?
Chàng nhìn vợ quả thật là một thiếu niên đẹp trai ,
trong lòng mừng rỡ , lập tức đi chào lới xóm để về cố hương . Những người chơi
thân đều có quà tặng , mua một con ngựa đở chân , cùng vợ lên đường .
Người anh con nhà bác của chàng còn sống thấy hai
em về , cùng trẻ đẹp , hết sức vui mừng sớm hôm chăm nom giúp đở . Lại thấy hai
em thức khuya dậy sớm chăm chỉ học hành , lòng thêm yêu quí , thuê một thằng bé
để hầu hạ riêng . Nhưng buổi tối , chàng đuổi thằng bé về .
Mỗi khi trong làng có đám cưới đám giổ gì mời thĩnh
, duy có anh (anh đây tức là chàng) ra mặt , còn em chỉ ngồi học trong buồng ,
đến nổi về làng đã nữa năm mà ít người được trông thấy mặt .
Có người nào ân cần xin cho giáp mặt thì anh từ
chối hộ . Người ta xem văn bài của em hay quá , lấy làm kinh hải . Có kẻ xông
vào tận nơi thì em chỉ cái chào qua loa , rồi ẩn mặt ngay .
Những người được thấy dung nhan , đều hâm mộ tán
dương , vì thế tiếng tăm vang dậy , mấy nhà quyền quí tranh nhau , muốn gã con
gái cho . Người anh con bác đem chuyện ấy bàn tính , em chỉ nhoẻn cười , cố nài
ép thì nói :
- Thề lập chí trèo lên mây xanh , không thi đậu thì
không lấy vợ .
Gặp kỳ thi hạch tại tĩnh , anh em cùng đi thi . Anh
lại rớt . Em đậu số một , rồi thi Hương đậu Cử nhơn thứ tư , qua năm sau đậu
luôn tấn sĩ .
Trào đình bổ đi tri huyện Ðồng thành , việc cai trị
giỏi dang , lần lần thăng Chưởng Ấn Ngự Sữ ở Hà Nam , giàu có ngang bậc vương
hầu . Rồi viện cớ bệnh tật xin về quê quán hưu dưỡng . Quan khách đến thăm đầy
ngỏ , đều từ tạ không tiếp .
Từ lúc học trò cho tới khi quý hiển , không hề nói
tới sự cưới vợ , khiến ai cũng lấy làm lạ . Sau khi về hưu , dần dà có nuôi thị
nữ hầu hạ . Người ta nghi chắc có sự tòn ten với mấy ả này , nhưng người chị
dâu để ý dò xét , tuyệt nhiên không có sự gì ám muội .
Minh trào mất ngôi , trong nước đại loạn ,bấy giờ
mới tự thú với chị dâu :
- Thú thiệt với chị , em không phải là đàn ông , mà
chính là vợ của Tiểu lang đó . Vì thấy chồng học lôi thôi thi mãi chẳng đậu ,
em phát cáu tự làm cho biết tay . Bấy lâu giấu diếm hồi hộp , chỉ lo đở bể ra ,
bị nhà vua triệu vô tra hỏi thì thiên hạ cười chết .
Chị dâu không tin . Bèn tháo giày vớ đưa bàn cẳng
cho xem , bấy giờ chị mới chưng hửng , nhìn trong giày thấy lót đầy bông gòn và
vải . Từ đó , nàng trở lại làm đàn bà , còn chức hàm của vợ thì chàng lãnh lấy
.
Hồi nào tới giờ , nàng không hề chửa đẻ , bèn ra
tiền mua hầu cưới thiếp cho chồng , và nói :
- Phàm ai làm nên giàu sang cũng mua hầu có thiếp
để tư phụng cho sướng thân . Riêng tôi làm quan trải mười năm , chỉ vò vỏ một
mình , thế thôi . Mình phước gì mà được hưỡng hầu non gái đẹp như vầy chớ ?
Chàng cười và nói bỡn :
- Thì mình lựa chọn lấy ít cậu đẹp trai để chúng
hầu hạ , như kiễu Sơn Âm công chúa , em Tống phế đế ngày xưa vậy , có sao ? Xin
mình cứ việc .
Người đồn nhau câu chuyện ấy làm một trò cười .
Lúc ấy , cha mẹ chàng được ơn vua truy tặng mấy lần
. Các hàng văn thân đến mừng , đều tôn chàng là quan Thị ngự , nhưng chàng hổ
thẹn về sự nhận chức hàm do vợ làm nên , cho nên suốt đời cam làm anh học trò
tầm thường , đi ra chưa từng dùng võng lọng bao giờ .
CÔ
GÁI NGHĨA HIỆP
Chịu trách nhiệm xuất bản:
BÙI
CAO TIÊU
Biên tập:
NGUYỄN CẨM HƯƠNG
Sửa bản in: GIANG MINH TRƯỞNG
Trình bày bìa: SONG THÀNH
In 1.200
cuốn khổ 13x19cm, tại Xưởng in NXBGTVT
Số trích
ngang xuất bản: 377-2009/CXB/27-53/ThaH,
In xong
và nộp lưu chiểu Quý III năm 2010
.............................................................................................................
- Cập
nhật theo bản lưu trữ tại tại Công ty TNHH Văn Hóa Bảo Thắng.
- Vui
lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét