HỒN AI TRÊN ĐÈO CẢ
*
YÊU QUÁI Ở XƯƠNG GIANG
(Tác giả: Nguyễn Dữ)
Ở Phong Châu có người họ Hồ tên là Kỳ Vọng. Cuối đời họ Hồ, Kỳ Vọng đi buôn bán, ngụ ở thành Xương Giang, rồi ốm chết ở thành ấy. Người vợ nghèo kiết, không có tiền để đưa ma chồng về quê được, phải đem bán người con gái nhỏ là Thị Nghi cho một nhà phú thương họ Phạm. Người con gái lớn lên, khá có tư sắc, họ Phạm yêu mến rồi cùng nàng tư thông. Vợ Phạm biết việc ấy, bèn mượn cớ khác đánh Thị Nghi một trận đau quá đến chết rồi đem chôm ở bên cạnh làng. Sau đấy mấy tháng hồn Thị Nghi hưng yêu tác quái, biến huyễn đủ vẻ, hoặc nhập vào chị ả buôn tương, hoặc ốp vào cô nàng bán rượu, người có vai vế thì bị dâm sát, người có tiền của thì bị bóc lột, suốt một dải đường mười dặm, người ta đều phải đi trưa về sớm, bảo nhau thấy gái đẹp chớ trêu vào. Sau người làng đó biết là hồn Thị Nghi làm tai làm quái, bèn đào mả tán xương vứt xuống sông, từ đấy việc quấy nhiễu cũng hơi bơn bớt.
Triều Lê sau khi hỗn nhất, có một viên quan họ
Hoàng người Lạng Giang đi xuống Trường An (kinh đô) lĩng chức, đỗ thuyền ở bên
cạnh sông.
Bấy giờ trăng tỏ sao thưa, bốn bề im lặng, chợt
nghe thấy ở mỏm bãi cát đàng phía đông nam, có tiếng khóc rất ai oán. Chèo
thuyền đến xem, thấy một người con gái tuổi 17, 18, mặc một cái áo lụa đỏ,
đương ngồi trên đệm cỏ.
Hoàng hỏi:
- Đêm sâu như vậy, tại sao mà cô khóc lóc thế,
khiến lòng sắt đá cũng phải ỉu mềm đi.
Người con gái khép nép, lau ráo nước mắt rồi nói: -
Thiếp vốn người ở Phong Châu, cha mẹ làm nghề buôn hàng tấm. Không may bị quân
cường bạo giết người cướp của, cha mẹ thiếp đều hồn chôn bụng cá, xương gửi
lòng sông. Còn lại tấm thân yếu ớt trơ trọi này thoát khỏi miệng hùm lần lên bờ
sông tìm vào nhà dân ở đậu. Hôm qua nhân ra bờ sông hái dâu cho bà chủ, chợt đi
qua chỗ gặp nạn cũ bất giác đau xót mà ngồi đây khóc lóc đến giờ.
Hoàng nói:
- Cô đã bơ vơ trơ trọi, không chỗ tựa nương, nay
tôi nhân đi chơi Trường An, nếu cô muốn về kinh thì tôi cho xuống ngồi nhờ
thuyền. Vả từ kinh về đến quê hương nhà cô, thuận gió no buồm bất quá cũng
chẳng là mấy chốc.
Người con gái lại khóc nói:
- Chiếc thân trôi nổi, nào có đáng tiếc gì đâu, chỉ
hận một điều là hài cốt cha mẹ, chưa vớt lên được để đem về mai táng.
Hoàng nói:
- Nếu nàng muốn thế tôi cũng chẳng quản gì bỏ một
số tiền, vì nàng thu thập những xương rơi đưa về cố hương, đó cũng là một cái
nhân duyên trên bước đường gặp gỡ.
Người con gái mừng rỡ:
- Nếu vậy thật là lòng trời. Ngài quả giúp cho được
như thế, thật là cái ơn nhục cốt sinh tử. Thiếp dù có nát thân báo đền cũng
không dám quản.
Hoàng bèn thuê người giỏi lặn lội, ngụp xuống đáy
sông mò vớt hài cốt rồi chở đem xuống nam. Có lúc chàng lấy lời thử đùa cợt
nàng để dò xem ý tứ thế nào, nhưng nàng chống cự lại rất xẵng. Hoàng càng yêu
quý và nể sợ.
Khi về đến kinh, Hoàng không đi lĩnh chức vội, lại
ngược lên cửa tuần Bạch Hạc, đem hài cốt táng ở bên sông. Việc xong, một hôm
nàng bảo với Hoàng rằng: - Thiếp cùng chàng vốn chẳng hẹn hò, bỗng nên gặp gỡ.
Nhưng trước kia vì cha mẹ chưa được mồ êm mả đẹp, cho nên phải chống lại những
sự đùa cợt của chàng. Nay việc đã viên thành, vậy xin được đem mình hầu hạ khăn
lược. Vả lại chàng đi làm quan xa, giúp trong thiếu kẻ, vậy thiếp xin đương
những công việc tảo tần. Đã thành vợ chồng, tình ái rất là thắm thiết. Nàng lại
cử động rất hợp lễ, nói năng biết lựa lời, họ hàng bè bạn ai cũng đều khen
ngợi.
Làm quan được một tháng. Hoàng bỗng bị bệnh điên
cuồng hoảng hốt, mê lịm đi không còn biết gì. Nàng sớm tối khóc lóc thiết tha
không rời ra một bước. Song Hoàng thuốc không chịu uống, mạch không cho xem; ai
đem bùa dấu đến thì Hoàng mắng nhiếc. Các thầy thuốc, thầy cúng đều ngờ là có
ma quỷ, nhưng cũng không biết làm thế nào, chỉ đành nhìn nhau mà thôi.
Sau đó có một người khăn cũ giầy rách, ăn mặc lôi
thôi đi vào. Mọi người trông thấy cả cười thì người ấy nói: - Các ông đều là
tay hèn cả, ta đây mới chính là bậc thần y, chẳng những chữa được khỏi bệnh lại
còn có thể khiến người mọc cánh thành tiên được nữa.
Hỏi đến phương thuật thì biết chữa phong trị khí, thăm đến tay nải thì có trần
bì phụ tử. Hoàng bèn cười rồi đưa tay cho xem mạch. Người ấy nói:
- Không hề gì, chỉ có phủ tạng không điều hòa, sinh
ra mê hoặc. Nên uống thang thuốc tiến thực để ăn được nhiều và làm nhiều cỗ bàn
lễ thần cúng quỷ sẽ được vô sự.
Bèn lấy thuốc hòa vào trong một cái chai trắng rồi
dốc cho Hoàng uống tất cả. Uống thuốc xong, Hoàng nôn mửa ra vài đấu bọt dãi
rồi nằm thiếp đi. Người con gái cả giận, lấy gậy đập vỡ cái chai rồi mắng rằng:
- Anh chàng huyễn thuật này ở đâu đến đây ly gián vợ chồng ta, chia rẽ nhà cửa
ta!
Người ấy lấy một đạo bùa ném ra, người con gái liền
theo bùa mà ngã bổ nhào xuống đất, thành ra một đống xương trắng. Người ấy lấy
nước nóng thất hương rót vào ngực Hoàng. Một lúc Hoàng tỉnh lại, hỏi những việc
trước thì chẳng biết gì cả. Mọi người tranh nhau hỏi duyên cớ, người ấy nói:
- Tôi chợt trông mặt ông này, thấy đầy những yêu
khí, mà người con gái ấy, chính là gốc rễ tà yêu. Ban đầu tôi phải nói lăng
nhăng để nàng coi thường lời tôi, rồi tôi mới có thể trổ tài ra được. Nếu không
thì vị tất đã cho được ông ấy uống thuốc.
Mọi người đều kính phục.
Bèn sai người đến bến sông Bạch Hạc đào ngôi mộ
táng ngày trước lên, thấy chỉ có mấy hòn máu tươi chứ chẳng có xương cốt đâu
cả. Vừa toan nhặt lấy những hòn máu thì thoắt đã chẳng thấy đâu nữa. Người ấy
than rằng: - Cành lá tuy trừ nhưng gốc rễ còn chưa cắt được. Nếu không có thiên
binh thần tướng, trừ khử một cách ráo riết, chỉ e lại mắc phải độc thủ thì rất
nguy cho ông.
Sau đó hơn một tuần, Hoàng đương ban ngày nằm chơi,
thấy hai người lính vào bắt đem đi, đến một chỗ chung quanh có tường bao bọc,
trong có cung điện trang nghiêm, duy mái hành lang bên tả bị xiêu đổ. Trên điện
có một người đầu đội mũ miện quát to lên rằng: - Diêm vương có chỉ, sai ta tra
xét cái án nhà ngươi đó.
Sai tả hữu lấy đưa cho chàng giấy bút, bắt phải
cung khai. Hoàng nói:
- Tôi vốn nhà nghèo, may được đăng tên vào sổ sĩ
hoạn, xử mình không quắt quéo, làm quan không tham tàn, tội trạng không rõ,
chẳng dám tuân mệnh.
Nói chưa dứt lời, đã thấy người con gái ở với mình
ngày trước từ mái hành lang phía tả đi ra. Hoàng hiểu ra ngay, liền cầm bút
cung rằng:
"Kính
nghe:
Kính Xuân thu góp sự lạ,
tuy đá nói, thần giáng đều biên. Sách Dã sử nhặt điều rơi, phàm vía mai, tinh
đèn cũng chép. Há bởi trước đặt bày huyền hoặc. Cốt muôn người phòng bị tà
gian. Cho nên Thái Chân đốt sừng tê soi xuống vực sâu, Thủy thần trách móc.
Mã Lượng viết bàn tay
thò vào cửa sổ, quỷ vật kêu van. Hoặc xua giống quái khiêng giường. Hoặc giết
con tinh thổi lửa. Ấy kẻ sĩ cương phương bao thuở chẳng sợ tà yêu, huống tòa
đền hương lửa trăm năm, lại dong xú loại!
Như tôi, tính vốn thô
sơ, vận may hiển đạt.
Tiêu điều một chức, lạm
ăn món bổng thay cày.
Tịch mịch nửa chăn,
riêng nặng nỗi buồn lẻ bạn.
Ai biết dưới trăng gặp
gỡ, vốn vì kiếp trước nợ nần. Đem môi son má phấn làm tôi say mê, rút nguyên
khí chân tinh khiến tôi hao tổn. Nếu không gặp thần y cứu chữa, sớm đã về chín
suối vật vờ. Xuống sông mà rằng không bắt cá, hồ dễ ai tin. Lấy đức mà làm sự
phạt tội, dám xin thương đoái".
Tờ cung tiến trình lên, Diêm Vương cả giận nói:
- Không ngờ cái nhãi, mà dám đảo điên, đã làm sự
dâm tà lại còn toan kiện bậy. Vậy nên đem tống giam vào ngục.
Bèn viết lớn lời phê phán rằng:
"Mảng
nghe:
Biến hóa ra vượn hạc sâu
cát, đời
Tinh linh của hoa biểu
hồ ly, triều Tấn lại thấy,
Thế vận dần xuống,
Ma quái càng nhiều.
Cho nên, Đạo gia có phép
trừ yêu,
Địa ngục có bùa triệu
quỷ.
Hăm bốn tòa nghiêm mật,
công việc chia riêng,
Nghìn vạn giống quỷ yêu,
tăm hơi trốn biệt.
Cớ sao loài nhơ nhớp,
dám dở thói điên cuồng,
Một đời chỉ sống với tà
dâm, tham lam đã lắm,
Đến chết vẫn còn toan
dối trá, giả mạo sao nhiều,
Cho là tội danh có thể
trốn qua,
Cho là Minh phủ không
thể trừng phạt.
Cáo họ Nhâm, hổ họ Thôi,
lắm trò biến huyễn
Gươm làm cây, dao làm
núi, phải giở nhục hình
Đến như gã Hoàng cũng là
đáng trách.
Chí thiếu bền cứng, lòng
nhiều ham mê.
Không biết bắt chước
Nhan Thúc Tử chối từ cô ả láng giềng. Lại đi nối bước Vũ Thừa Tự mê mải con yêu
hoa nguyệt. Chẳng tội gì đó, có nhẹ mà
thôi.
Lời ta phán truyền,
Thi hành lập tức".
Lại ngoảnh bảo Hoàng rằng:
- Nhà ngươi theo đòi nho học, đọc sách thánh hiền,
trải xem những sự tích xưa nay, há không biết lời răn sắc đẹp, cớ sao lại đi
vào con đường ấy!
Liền cầm bút phê rằng: - "Bỏ nết cương cường, theo đường tà dục, giảm thọ một kỷ".
Lại sai hai tên lính đưa Hoàng về nhà. Hoàng vươn
vai bừng tỉnh mồ hôi toát ra đầy mình. Sau mấy năm, nhân đi việc quan đến Tam
Giang, vào nghỉ ở đền Phong Châu, thấy đền đài tường vách, tượng thần và cái
hành lang trụt đổ, đúng như trong chiêm bao trông thấy, mới biết dạo trước
chính mình bị đòi đến đây. Hoàng vội lên ngựa ruổi mau, không dám ngoảnh lại.
Bấy giờ là ngày Đinh tỵ tháng tám năm Thiệu Bình thứ 2.
THỦY TÁNG
(Tác giả: Người Khăn
Trắng)
Trận mưa dữ dội kéo sang ngày thứ ba mà vẫn chưa có
dấu hiệu chấm dứt. Nước trên cánh đồng cỏ năng đã tràn như mặt biển mênh mông.
Từ chỗ neo xuồng, Tứ đưa mắt nhìn ra chẳng khác nào đang lênh đênh giữa đại
dương ngàn trùng...
Ôm xác người vợ trẻ chết từ nửa đêm hôm qua mà lòng
Tứ nát như tương. Anh đã khóc cạn nước mắt và van vái cho trời ngừng mưa, để
anh còn có thể kéo chiếc xuồng bể nát, không còn khả năng chèo chống, hầu đưa
xác vợ vào nơi nào đó khô ráo để an táng. Vậy mà ước nguyện đó tới giờ này Tứ
vẫn chưa thể thực hiện được. Mà xem ra khó mà làm theo ý, bởi nước càng lúc
càng dâng cao, từng cơn sóng cao hơn nửa thước cứ đánh ập tới theo cơn gió rít
từng hồi.
Tứ đâu lạ gì mùa nước lũ vùng Đồng Tháp Mười này,
nhưng đây là lần đầu tiên anh kẹt giữa muôn trùng biển nước, mà lại trong hoàn
cảnh ngặt nghèo này. Kim Lệ, cô vợ vừa cưới chưa được một năm của anh nhè giữa
trời mưa lũ lại lâm bạo bệnh và chết chỉ sau nửa giờ vật lộn với cơn đau lạ.
Kẹt giữa biển nước, trong lúc chiếc xuồng ba lá của anh lại vướng phải cọc bể
mũi, không thể chèo chống được, và Tứ chỉ còn biết neo lại gốc cây gáo nằm trơ
trọi giữa đồng mà chịu trận.
Lạy trời cho mưa ngừng lại, cho có ai đó đi qua
đây. Tứ đã van vái cả trăm lần mà vẫn chưa có hiệu quả gì. Mưa vẫn nặng hạt,
bóng dáng các xuồng ghe khác thì hầu như không thể có, bởi chẳng ai dám đi giữa
biển nước như thế này, nếu không muốn vong mạng.
- Đành thôi!
Tuy nhiên, khi nhìn lại xác vợ đã bắt đầu tái nhợt,
lòng Tứ lại nhói đau. Nàng đã vong mạng rồi mà còn phải chịu đựng nằm trơ ra
như thế này đến bao giờ nữa? Đã nghĩ tới cách táng bằng cột xác treo lên cháng
ba cây, đợi khi nước rút thì đem xuống mai táng lại. Nhưng ngặt nỗi chung quanh
Tứ bây giờ một sợi dây cũng không có, chỉ có chiếc mền duy nhất thì làm sao
thực hiện được việc treo xác vợ lên cây.
Nghĩ nát óc, cuối cùng Tứ đành phải ôm chặt vợ vào
lòng, khóc rống lên cho nỗi thống khổ vơi bớt và cũng để có sức mà chống chọi
lại với cái lạnh đã bắt đầu thấm vào thịt da chàng trai cường tráng như Tứ. Lần
đầu tiên sau ba ngày đêm chịu trận, Tứ mới cảm thấy lạnh và kiệt sức. Trong một
thoáng bi quan, Tứ lẩm bẩm:
- Thôi thì đành chết theo cô ấy cho xong.
Anh dụi đầu vào xác vợ, lịm đi...
* *
*
- Nè, cậu kia, người đã bớt sốt rồi, tỉnh chưa?
Tứ nghe văng vẳng ai gọi mình mà không tài nào mở
mắt ra được. Tiếng gọi kia lặp lại: - Cậu kia...!
Lần này thì Tứ choàng tỉnh. Anh vừa mở mắt ra đã
thảng thốt kêu lên: - Kim Lệ!
Tứ không thấy xác vợ bên cạnh nên hốt hoảng. Chợt
nhìn thấy người đàn ông lạ đang chăm chú nhìn mình, Tứ hỏi liền: - Vợ tôi đâu?
Người đàn ông lớn tuổi, mình trần, đầu tóc dài, da
sạm nắng, nhẹ lắc đầu: - Tôi tới đây chỉ còn kịp nhìn thấy cậu đang chới với
giữa sóng nước, còn chiếc xuồng thì lật úp, tôi kéo cậu được thì một cơn gió
lớn ập tới, mọi thứ chẳng còn lại gì!
Tứ gào lên: - Trời ơi, vợ tôi!
Anh bất kể sức mình đang yếu, đã nhào đại xuống
nước, quơ tay mò tìm xác vợ. Ông lão quát lớn:
- Cậu muốn chết phải không!
Vừa nói, ông vừa phóng theo và bằng một động tác
thành thạo, đã chụp được tay Tứ, xốc anh từ phía sau, kéo trở lại cây gáo to,
nơi mà mấy ngày rồi Tứ đã bám víu. Tứ vẫn vùng vẫy và gào to hơn:
- Mình ơi! Lệ ơi!
Ông già trấn an: - Dẫu sao thì cô ấy cũng đã mất
tích rồi. Nước lũ mênh mông như thế này thì làm sao mà kiếm tìm cho được lúc
này. Chỉ cầu trời cho cô ấy bám víu được vật gì đó để sống sót...
Tứ gào lên thê lương hơn: - Cô ấy đã chết rồi, còn
bám víu nơi đâu nữa mà bám, trời ơi!
Ông già im bặt, đưa mắt nhìn Tứ, rồi nhẹ lắc đầu:
- Thì ra là vậy...
Một lúc nữa, khi thấy Tứ im lặng, ông lại tiếp:
- Mùa lũ này mà gặp cảnh như cậu thì ai cũng chịu
bó tay thôi. Cầu trời cho xác cô ấy trôi tấp vào đâu đó, rồi một là có người
chôn giúp, còn không thì đợi trời êm một chút, tôi sẽ giúp cậu đi tìm. Tôi rành
vùng này lắm, phía dưới gió kia là cánh đồng tràm dày đặc, mọi thứ đều có thể
bị vướng lại khi trôi dạt vào đó.
Tứ reo lên: - Đúng vậy phải không? Nơi đó có xa
không chú?
Ông già gật đầu: - Chừng năm cây số thôi, nhưng do
nước tràn đồng nên giờ đây ta không nhìn thấy gì. Đợi mưa tạnh bớt đã...
Lúc này ông già mới hỏi kỹ và Tứ thuật lại mọi
chuyện. Nghe xong ông nói: - Cư dân sống trong vùng này vẫn thường gặp cảnh như
cậu, và người ta có một cách để mai táng người chứ không chỉ riêng treo xác
trên cây đâu. Cậu đã nghe nói cách đào huyệt ngay khi nước ngập quá đầu chưa?
Tứ lắc đầu: - Dạ chưa.
- Đó gọi là thủy táng. Tức chôn trong nước, chôn
giữa khi nước còn tràn đồng.
Rồi ông giải thích cặn kẽ hơn: - Cách không táng,
tức treo xác trên cành cây chờ nước rút sẽ chôn lại thì tuy có khô ráo, tiện
lợi, nhưng đâu phải người nào cũng có điều kiện để làm, vì nó đòi hỏi phải có
ván làm quan tài cho kỹ, rồi phải biết cách và có dây cột chặt, để treo, để giữ
cho quan tài không rớt, không bốc mùi hôi. Đó là chưa nói lũ quạ diều quái quỷ
xứ này, chúng hung hăng, dữ dằn, có thể cả ngàn con bâu tới mổ thủng ván quan
tài để moi xác chết! Cho nên người ta nghĩ tới và chọn cách thủy táng nhiều
hơn.
- Nhưng nước ngập quá đầu thế này làm sao đào huyệt
mà chôn?
- Vậy mà có cách!
Ông già còn kể vài cách nữa, như bó xác trong lá
chuối, bẹ chuối ràng buộc thật chặt, giống như người gói bánh tét rồi thả trôi
theo xuồng, kéo về chỗ đất liền...
Nghe đến đâu Tứ đau lòng đến đó, bởi nếu biết trước
thì anh có thể làm theo và chắc chắn là không để mất xác vợ như thế này.
Trời tối dần. Lúc này ông già mới kể chuyện mình: -
Tôi đi lấy củi bên Mộc Hóa rồi gặp mưa bão, chiếc ghe chở củi hơn 5 tấn đã bị
gió thổi bạt vào rừng vỡ ra từng mảnh. Tôi bơi lội giỏi, nhưng cũng chịu được
có nửa ngày rồi may bám được một cây chuối, và mặc cho nó trôi. Hơn một ngày
đêm như vậy, cho đến khi vô tình tấp vô đây, vừa lúc tôi thấy cậu đang chới với
sắp chìm, tôi kéo được cậu và cây chuối cũng vướng lại, và... tôi chịu chung số
phận với cậu như giờ đây.
Nhờ có kinh nghiệm nên ông ta bày cho Tứ cách bám
thân cây, mỗi người một cháng ba, đu ngang như cách mấy con khỉ, vượn ngủ trên
cành. Ông dặn: - Mình không thể thức mãi khi còn kẹt lại đây, nhưng phải biết
cách quàng tay thế nào để lỡ có ngủ quên thì không bị ngã xuống nước. Cậu biết
rồi đó, với nước chảy cuồn cuộn thế này, chỉ cần rơi xuống thì vài chục giây
sau mình đã bị đẩy đi cả trăm, cả ngàn thước rồi!
Tứ đâu còn thiết gì sự sống lúc này, nhưng sợ nói
ra sẽ bị ông già chê trách, nên anh chỉ im lặng và ứa nước mắt khi nhớ tới cô
vợ trẻ mình giờ đây thân xác đang bập bềnh trên sóng nước, chẳng biết trôi về
đâu?
- Cậu lại khóc đó sao? Chuyện đã lỡ rồi, phải bình
tĩnh để còn nghĩ cách đi tìm xác vợ nữa chứ! Nhắm mắt lại ngủ một giấc đi, để
tôi thức canh cho. Ngoài ra tôi còn đang nghĩ cách để bắt con chuột, con rắn gì
đó ăn cầm hơi. Cậu biết làm sao mình bắt mấy con đó không.
Dẫu đang nẫu ruột, nhưng nghe ông ta hỏi vậy, Tứ
cũng tò mò: - Không còn chỗ nào thì làm sao bắt được chúng?
- Vậy mà có đó. Cậu đừng động đậy, tôi sẽ bắt con
rắn đang ở ngay sau lưng cậu cho coi!
Ông ta vừa dứt lời thì cánh tay đã vươn nhanh về
phía cành cây sau đầu của Tứ, vừa reo lên:
- Có thứ để cầm hơi rồi!
Ông ta nắm trong tay một con rắn to bằng ngón chân
cái nó đang ra sức vùng vẫy để thoát thân, nhưng do bị chộp ngang cổ nên sau
một lúc cựa quậy đã phải nằm yên. Ông già bảo:
- Đây là rắn hổ đất, để nó cắn thì chỉ vài phút sau
là vong mạng liền! Cũng may, con này nó lên cây trước ta và cũng đang mất cảnh
giác, chứ nếu không thì lúc nãy cậu đã bị nó mổ rồi! Bây giờ cậu há miệng ra,
hút ít máu của nó, rồi sau đó tôi lấy mật, đầu lòng của nó ra chia nhau mà ăn.
Còn thịt thì ăn sau. Nó sẽ giúp ta qua cơn đói đêm nay. Chắc là cậu đói lắm
rồi!
Đúng là Tứ đã đói quá, bởi mấy hôm rồi anh có ăn
uống gì đâu, nhưng nghe ông ta nói cách ăn thịt rắn như thế tự dưng Tứ muốn lợm
giọng, anh lắc đầu:
- Cháu không ăn được.
Ông già cười ngất:
- Không được cũng ráng mà ăn! Lúc này có bất cứ cái
gì bỏ vào bụng đều tốt cả. Nào, há miệng ra!
Bằng động tác thuần thục. Ông ta dùng móng tay bấm
ngang đuôi con rắn, phần đuôi gần đứt lìa ra, máu từ trong đó vọt ra. Và nhanh
ngoài sức tưởng tượng của Tứ, ông cho ngay tia máu đó vào miệng đang há to ra
vì ngạc nhiên của Tứ, anh chàng bị tia máu bắn vào và nuốt ực một cái!
Hớp đầu tiên Tứ muốn nôn ra ngay, nhưng liền đó thì
như có ai bơm vào, anh nuốt gần không kịp!
- Xong rồi đó, phần tim gan, mật của nó để tôi!
Ông ta dùng tay moi mấy thứ đó ra và cho vào miệng
nuốt một cách ngon lành mà không cần nhai!
Tứ cảm giác như huyết quản mình cuộn lên bởi có
thêm máu rắn, trong vài giây, anh suýt nôn ra, nhưng ngay lập tức cảm giác ấy
chấm dứt, cùng lúc anh thiếp đi...
* *
*
Cũng không biết là bao lâu...
Khi Tứ bừng tỉnh lại thì thấy ở chân trời phía xa
một màu hồng lóe lên. Cùng lúc là tiếng kêu của ông già: - Hết mưa rồi!
Tuy là hết mưa, nhưng nước vẫn còn chảy cuồn cuộn,
gió vẫn mạnh, tạo ra những đợt sóng cao vỗ vào gốc cây chỗ Tứ và ông già đang
bám, khiến thân cây rung lên từng hồi. Tứ chống tay vừa định ngồi dậy trên cháng
ba cây thì ông già đưa tay lên miệng, ra dấu cho anh không được cử động. Đoán
là có một con rắn nữa, nên Tứ trân người không dám nhúc nhích. Ông già lại một
lần nữa vươn tay ra, và... có tiếng kêu chí chóe. Ông ta cười khoái chí:
- Lão tý này nộp mạng hơi muộn đây!
Một con chuột cống nhum thật to, có lẽ đã bò lên
cây trong lúc hai người ngủ say. Ông già thích thú:
- Con rắn mình phơi khô chưa ăn tới thì lại có thêm
lương thực dự trữ nữa, lo gì đói!
Có lẽ do mải nói nên ông ta hơi lơi tay, con chuột
thật nhanh, nó vùng thoát và nhảy ngay xuống nước! Tứ kêu lên:
- Nó chạy mất rồi!
Cũng vừa khi ấy, bỗng mắt Tứ dán chặt vào một vật
gì đó khá lớn đang nổi lềnh bềnh trên mặt nước, bị vướng vào gốc cây gáo: - Xác
người!
Ông già cũng đã nhìn thấy, ông bảo:
- Một phụ nữ!
Tứ như mũi tên, lao ngược từ trên xuống, nhanh đến
nỗi ông già không kịp có phản ứng gì. Tiếng reo như bắt được vàng của Tứ: - Vợ
tôi!
Bất kể hiểm nguy, Tứ nhảy ngay xuống nước và ôm
chặt lấy cái xác đang lềnh bềnh kia. Đúng là Kim Lệ! : - Trời còn thương con
mà!
Từ trên cây, ông già nhanh nhảu tuột xuống và bảo:
- Cậu giữ một tay, còn tay kia thì bám vào thân cây kẻo sóng vỗ bung ra ngoài
bây giờ!
Nhờ được nhắc nên Tứ giữ được xác vợ, đồng thời
cũng không bị dòng nước cuốn đi. Nhưng anh vẫn lo: - Làm sao đem xác vợ cháu
lên cây hả chú?
- Cậu cố giữ lấy đi, để tôi bẻ mấy cành cây dài,
mình cắm xuống đất để giữ xác lại.
Ông già rất nhanh, leo lên ngọn cây và kéo mạnh mấy
cái, lần lượt bốn cành cây dài trên hai thước được bẻ gãy. Nhờ trời tạnh mưa,
nên ông già thực hiện cắm bốn nhánh cây xuống nước, rào một vòng quanh gốc cây
gáo được dễ dàng. Rồi ông giục Tứ:
- Cậu phải dứt khoát không được chần chừ, phải nghĩ
việc giữ được xác cô ấy ở lại đây là chính, chớ đừng ngại việc cô ấy có bị ngâm
nước hay không. Cậu chấp nhận thủy táng?
Tìm lại được xác vợ là niềm vui mừng lớn đối với
Tứ, nên anh chịu liền: - Sao cũng được!
Ông già hình như đã quen với việc chôn người trong
hoàn cảnh như vậy, nên ông vừa lặn xuống cắm cọc vừa luôn miệng nói: - Tấm lòng
của cậu đã đánh động cõi âm phủ, nên mới khiến xác cô nhà quay trở lại đây. Một
việc mà hầu như là không tưởng!
Sau khi cắm được bốn cành cây tạm thời giữ cái xác
không để sóng cuốn đi, ông già vừa đeo vào gốc cây vừa khấn: - Linh hồn cô...
Kim Lệ sống khôn thác thiêng, phù hộ cho tôi và anh bạn này đây mai táng cho cô
tại gốc cây này. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo này, thì xin cô hãy vui lòng chấp
nhận ở tạm dưới nước. Đợi đến khi nước rút thì cậu ấy sẽ đưa cô lên, cải táng
đến một nơi đàng hoàng hơn.
Tứ cũng khấn: - Nếu thương anh thì em hãy ráng chịu
lạnh, Lệ ơi! Nếu cần thì anh cũng ở lại đây mãi mãi với em...
Ông già nghiêm giọng: - Giờ phút này cậu không được
bi quan, nói càn. Cứ chôn xác cho cô ấy đã.
Cuộc thủy táng diễn ra suôn sẻ. Nhờ có kinh nghiệm,
nên chỉ sau một giờ, ông già đã giúp Tứ đào được ngay dưới gốc cây gáo một hố
huyệt khá sâu, ước chừng đã vừa cái xác ông bảo Tứ:
- Cậu vái lần nữa, xin cô ấy giúp cho mình chôn
được dễ dàng đi!
Tứ với hai hàng nước mắt ôm xác vợ mếu máo: - Xin
em cho anh được gửi em lại đây! Mong em hãy...
Lời Tứ nói chưa dứt thì thật bất ngờ, cái xác như
bị ai kéo ghì xuống, nó chìm từ từ... Tứ hốt hoảng:
- Chú Hai ơi!
Ông già giục:
- Cậu giữ cái đầu cô ấy, tôi giữ hai chân!
Cái xác chìm nhẹ nhàng xuống và thật kỳ diệu, nhắm
đúng cái lỗ huyệt mới đào dưới nước và... nằm gọn trong đó! Ông già làm các
động tác thật nhanh, chỉ một lúc sau thì những đất bùn được đào lên đã lấp trở
lại. Đồng thời, ông dùng bốn cành cây to kia, hợp với Tứ cắm chéo góc, gài trên
phần mộ, không cho xác trôi lên. Công việc không dễ, nhưng cuối cùng họ cũng
làm được. Công việc vừa xong thì mặt trời đã lên ngay đỉnh đầu. Ông già bảo:
- Bây giờ cậu có thể nghỉ ngơi, và đợi xem nếu có
vật gì trôi ngang đây mình có thể bám vào và rời đi được rồi. Tôi đã làm dấu
thân cây gáo này, đợi khi nước rút mình trở lại tìm cũng không khó.
Tứ cương quyết: - Cháu sẽ ở lại đây.
Ông già biết có nói thêm cũng khó thuyết phục được
anh ta, nên chỉ khẽ lắc đầu rồi im lặng. Trên khóe mắt ông, hai hàng lệ lần đầu
tiên tuôn chảy...
Phải hơn một tháng sau thì nước mới rút hết. Hai
tuần trước khi nước rút thì Tứ lại ngã bệnh, sốt cao, suýt chết ngay trên cháng
ba cây gáo, nếu không có ông già Hai thì Tứ đã không còn. Số là trước đó hơn
một tuần, vào một đêm tối trời, chẳng hiểu sao khi đang cùng nằm ngủ với Tứ
trên cây, lão già Hai bỗng bị rơi xuống nước và mất tích! Điều này cũng hơi lạ,
bởi ông già là dân thiện nghệ, đâu dễ bị một tai nạn như thế.
Sau cú sốc đó, nếu là người khác thì Tứ đã bỏ cuộc,
không còn bám lại thân cây để chịu trận nữa, tuy nhiên chẳng hiểu nhờ sức mạnh
vô hình nào thúc đẩy, anh chàng vẫn tiếp tục tồn tại, với chỉ hai thức ăn lặp
đi lặp lại khá quen thuộc đó là những con rắn và chuột. Nhờ bắt chước được ông
già Hai nên chuyện bắt rắn độc đối với Tứ trở nên quá dễ dàng. Mà những con vật
này cũng lạ, cứ cách một đêm thì một con lại bò lên cây và... chờ được Tứ hóa
kiếp! Có thể nói, việc ăn thịt sống của Tứ đã thành bình thường, mà nếu không
có nó thì anh đã theo vợ từ mấy tuần qua rồi!
Tuy nhiên, sức chịu đựng của con người cũng có giới
hạn, mà với Tứ thì bấy nhiêu thời gian ấy đã là quá nhiều. Hai tuần sau khi
nước bắt đầu rút thì vào một đêm, Tứ hôn mê do cơn sốt dữ.
Khi tỉnh lại thì Tứ thấy mình nằm ở một trạm xá,
chung quanh toàn những người lạ. Hỏi ra thì một người nằm gần giường cho Tứ
biết rằng anh được một cô gái đưa vào đây trong tình trạng hầu như không còn sự
sống. Cơ thể suy nhược, người nóng sốt cao độ và hôn mê sâu. Người ta đã tính
chuyển anh lên bệnh viện tuyến trên, nhưng chẳng hiểu sao, khi cô gái kia cho
anh uống một thứ nước nấu từ củ mài thì bỗng nhiên Tứ tỉnh lại.
Tứ quá đỗi ngạc nhiên, hỏi thăm cô gái:
- Cô ấy đâu rồi?
Người nằm cạnh giường Tứ bảo: - Sáng sớm nay còn
thấy cô ấy ở đây. Nhưng hồi nãy, trước khi cậu tỉnh lại thì cô ấy ôm mấy bộ
quần áo rồi bước ra ngoài, mất biệt luôn. Chắc là về nhà rồi. Đó là vợ cậu hay
ai mà tận tình quá, ở đây suốt. Nếu không có cô ta thì cậu khó lòng qua khỏi!
Tứ bận tâm tìm hiểu xem cô gái ấy là ai thì ít, mà
đầu óc mãi quay cuồng nhớ lại coi cây gáo giữa đồng mà anh đã bám suốt tháng
trời kia là ở đâu?
- Đồng Tháp Mười có bao nhiêu cây gáo?
Tứ hỏi một bệnh nhân gần bên thì được anh ta cười,
lắc đầu: - Ông nội tôi nhớ cũng không hết nữa! Tháp Mười là rừng tràm, nhưng
chen lẫn là các loại cây khác như gáo, dừa cũng không phải ít. Biết đâu mà nói!
Tứ lẩm bẩm:
- Ông già Hai có làm dấu, chắc là kiếm được...
- Nhưng lỡ cây bị trốc gốc, nước cuốn đi mất thì
sao? Câu nói bất ngờ của ai đó khiến Tứ giật mình quay lại, và anh mừng rú lên:
- Kìa, chú Hai!
Ông già Hai xuất hiện thật đột ngột, và còn lạ hơn
khi đi theo sau ông là một cô gái, mà vừa nhìn thấy cô, anh chàng bệnh nhân
giường bên cạnh đã reo lên: - Cô này đó!
Cô gái không lộ chút gì là quen biết những người
trong phòng bệnh, mà trái lại, cô còn đứng nép sau lưng ông già với sự e ấp...
Ông già Hai phải lên tiếng giải thích:
- Đây là đứa cháu tôi, chính nó đã đưa tôi tới đây
và gặp cậu.
Anh bệnh nhân bên cạnh ngạc nhiên hỏi:
- Ủa, cô này ở đây mấy hôm nay mà?
Ông già Hai nhìn đứa cháu gái của mình rồi nói:
- Có thể quý vị đã nhìn lầm. Người ở đây mấy hôm
nay là đứa em song sinh của nó. Chúng là cháu gọi tôi bằng ông ngoại.
Rồi ông quay sang Tứ, kể:
- Tôi phải bỏ đi trong khi nước chưa rút là để định
hướng chính xác cây gáo đó. Bởi khi nước rút rồi thì từ bờ kinh vào đó rất xa,
lại khó lòng tìm được. Chị em Mai Linh, Mai Lý này là người đi tìm chỗ của cậu,
bởi khi ấy tôi bị trọng bệnh không đi được. Chính nhờ nó mà cậu mới được cứu
thoát. Nó ở đây nuôi cậu theo ý của tôi đó. Bây giờ tới phiên con em. Mai Lý,
nó sẽ ở lại đây cho đến lúc cậu khỏe, có thể đi được thì sẽ cùng với nó trở lại
chỗ chôn xác vợ cậu. Cứ yên tâm mà dưỡng bệnh đi, sắp gặp lại vợ rồi!
Lời nói của ông già Hai khiến Tứ mừng khôn xiết,
anh hỏi dồn:
- Ngay chiều nay đi được không chú Hai?
Ông già lắc đầu: - Nước mới rút, đồng ruộng còn bùn
sình nhiều, xuồng ghe đi không được, mà lội bộ thì cũng không xong. Phải đợi
vài tuần nữa. Vả lại, lúc này cậu còn quá yếu mà đi cái nỗi gì!
Ông dặn cô cháu gái: - Mỗi ngày ba lần, con mang
cơm vào cho cậu Tứ đây. Hỏi không được thì ra dấu, hỏi coi cậu ấy thích món gì,
cần dặn điều gì, nhớ làm theo cho đúng nghe chưa!
Rồi ông giải thích:
- Con nhỏ bị câm điếc bẩm sinh, nhưng được cái là
rất nhạy, chỉ cần ra dấu là nó hiểu mình muốn nói gì. Nó tên là Mai Lý.
Ông già còn bày ra vô số thức ăn và vài món đồ dùng
cá nhân dành cho Tứ, ông bảo:
- Biết cậu thiếu thốn mấy thứ này, nên tôi đem vào.
Cậu nhớ cái này không?
Ông đưa cho Tứ cây lược sừng mà vừa nhìn là Tứ đã
kêu lên: - Của vợ cháu!
- Tôi đoán là vậy, bởi hôm rồi trên đường trở lại
tìm cậu, tình cờ tôi gặp một chiếc xuồng ba lá vỡ đôi nằm trên một gò đất cao,
trong xuồng không có vật gì quý, chỉ có cây lược này nằm kẹt dưới khoang xuồng,
bên cạnh còn có một cái quần xà lỏn màu nâu, có vá một miếng vải sọc mà vừa
nhìn cách vá và màu vải, tôi nghĩ ngay tới cậu. Bởi cậu cũng có một cái quần vá
y kiểu đó. Đúng không?
Tứ gật đầu: - Dạ, chính vợ cháu đã vá hai cái quần
đó bằng vải vạt áo của cô ấy. Vừa vá xong lúc trên xuồng, trước lúc cô ấy chết
chỉ nửa buổi!
- Tội nghiệp...
Ông già buông tiếng thở dài rồi quay đi chỗ khác
như tránh không cho Tứ thấy hai giọt nước mắt của mình. Những người bệnh cùng
phòng sau khi biết chuyện đã không ngớt lời ca ngợi lòng tốt của ông già Hai.
Họ bảo rằng giữa thời buổi này khó mà kiếm được một người có lương tâm như ông
ta.
Tuy nhiên, cũng có người xầm xì: - Biết đâu được.
Lão ta có đến hai cô cháu gái chưa chồng, một cô lại tật nguyền, nay thấy chàng
trai chết vợ như Tứ thì chắc là có ý muốn kiếm cháu rể đây!
Tuy nói vậy, nhưng trong mấy ngày sau đó, ai cũng
phải công nhận rằng cô gái câm cháu ngoại ông già Hai là một người siêng năng,
tính tình ôn hòa và rất tử tế. Cô nàng làm đúng những gì ông dặn, ngày ba lần
đưa cơm vào bệnh viện rồi thì đi về, ai hỏi gì cũng không quan tâm. Chính Tứ
cũng ngạc nhiên và áy náy. Anh ngỏ ý qua ra dấu rằng muốn gặp ông già Hai, thì
cô ta chỉ xua tay từ chối.
Cho đến một buổi sáng, khi ấy có một người lạ xách
cặp lồng cơm đưa vào cho Tứ và nói: - Cô Mai Lý đưa cơm thường ngày vừa bị nạn,
cô ấy bước từ dưới xuồng lên chẳng may hụt chân, ngã xuống và va đầu vào cọc
nhọn, máu chảy ra nhiều và chìm lỉm luôn, mọi người ra sức mò tìm mà chưa được!
Tôi là người đi chung xuồng với cô ấy từ trong kinh ra, nên biết cô đưa cơm vào
cho bệnh nhân, tôi đem tới giùm.
Nói xong người ấy đi mất, khiến cho Tứ hốt hoảng,
nhảy đại xuống giường và chạy bay đi ra bến chợ. Tuy nhiên, gần nửa buổi sau
đó, Tứ đã hỏi khắp khu vực đó về tai nạn như người nọ đã nói thì chẳng một ai
biết. Họ còn ngạc nhiên hỏi lại:
- Sao anh không bảo người báo tin dẫn ra đây chỉ
coi tai nạn ở chỗ nào?
Vừa lo lắng, vừa thất vọng, Tứ đành thất thểu quay
về bệnh viện. Tới nơi, anh càng ngạc nhiên hơn khi nghe mấy người chung phòng
kể lại: - Cô gái câm mới vừa ở đây đi ra, có chết chóc gì đâu.
Tứ định chạy theo tìm, thì một người đưa cho anh
gói giấy nhỏ và bảo:
- Cô ấy không nói được, nhưng qua cử chỉ tụi tôi
biết cô ta muốn nhờ đưa cho anh cái này.
Tứ mở ra xem thì kinh ngạc:
- Bộ quần áo của vợ tôi!
Anh nhớ hôm xảy ra cái chết cho Kim Lệ thì cô đang
mặc bộ đồ này, vậy sao bây giờ nó lại ở đây? Không hỏi thêm gì nữa, cầm bộ quần
áo đó Tứ chạy bừa ra cửa. Vừa chạy anh vừa gọi to:
- Cô Mai Lý! Cô ở đâu?
Trở ra bến đò, còn đang ngơ ngác tìm thì chợt Tứ
thấy một chiếc xuồng nhỏ đậu ở bên, trên xuồng có một người ngồi như chờ khách.
Anh hỏi lớn:
- Xuồng này là xuồng chở khách phải không?
Người đội nón lá che kín khuôn mặt đáp vừa đủ cho
Tứ nghe: - Phải.
Tứ nhảy xuống xuồng và bảo: - Làm ơn đưa tôi dọc
theo sông này, đi mấy vòng bến chợ để tôi tìm người quen. Tôi sẽ trả tiền như
một chuyến đi xa!
Người nọ lẳng lặng đẩy xuồng ra giữa dòng, lúc ấy
mới cất tiếng nói: - Không có tiền trong túi mà dám bao đò, kể cũng gan thật!
Tứ hơi giật mình. Đúng là trong túi anh lúc ấy
chẳng có đồng xu dính túi. Mấy tháng bị nạn, rồi nằm bệnh viện đều nhờ người
khác, Tứ làm gì có tiền!
- Tôi...
Người chèo đò bỗng cất tiếng cười giòn: - Tôi sẽ
chở anh đi miễn phí, miễn là anh trả lời tôi câu hỏi này. Bằng không tôi cho
anh lội sông mà trở vô bờ.
Giọng cô ta không phải đùa. Tứ cũng nghiêm giọng: -
Tôi không quịt, chỉ vì không sẵn tiền thôi. Nhưng rồi tôi sẽ trả công đàng
hoàng. Chị hỏi gì?
- Anh đi kiếm con gái hay tìm vợ?
Câu hỏi bất ngờ, nhưng trong lòng của Tứ đã định
sẵn ý tứ rồi, anh đáp không do dự:
- Tìm vợ, nhưng âm dương cách trở biết làm sao tìm?
Nhưng tìm người lấy cắp mấy thứ của vợ thì đúng là tôi đang đi tìm họ!
Câu trả lời của Tứ quả là khó hiểu với người lạ,
nhưng chẳng ngờ người chèo đò lại hiểu: - Nói đúng, không dối trá. Vậy tôi tặng
luôn cho chiếc xuồng, cứ đi thẳng phía trước mặt, thế nào cũng gặp!
Vừa dứt lời thì chợt như một làn khói vút lên, phút
chốc Tứ không còn nhìn thấy nàng ta đâu...!
- Kìa, chị!
Chiếc xuồng không có người bơi nên quay tròn theo
dòng nước. Tứ phải bước ra sau cầm cây dầm và điều khiển cho nó xuôi dòng. Vô
tình anh đi đúng theo hướng người ấy chỉ. Nước xuôi nên chẳng mấy chốc, xuồng
của Tứ đi khá xa xuống phía hạ lưu.
Nhìn thấy cái cồn lớn phía trước và con sông chia
làm hai ngả, Tứ chưa biết phải rẽ về ngả nào, thì chợt có người từ bên kia cồn
đưa tay ngoắt và gọi ơi ới. Ngỡ gọi ai, nhưng sau đó thấy họ cứ nhằm vào mình
mà vẫy tay nên Tứ hỏi lớn: - Hỏi tôi phải không?
Đúng là họ gọi anh, nên sau vài giây lưỡng lự, Tứ
chèo xuồng hướng qua đó. Đến gần, anh mới nghe người phụ nữ lớn tuổi lên tiếng
hỏi:
- Cậu đi tìm cô gái câm phải không?
Tứ giật mình: - Tôi... đúng là tôi...
- Người ta đang đợi anh tới.
Nói xong, bà ta quay bước và mất hút sau đám lau
sậy. Dẫu không muốn, nhưng chẳng hiểu sao Tứ vẫn cột xuồng lại rồi nhảy lên bờ,
men theo con đường có lát đá thẳng tắp, đi lên một ngôi nhà ngói xưa khá lớn.
Không thấy bóng người nào, Tứ khựng lại, nhưng từ trong đã có tiếng nói vọng
ra: - Muốn gặp vợ mà không vào đây thì làm sao gặp?
Tứ như đang mơ, anh không chút suy nghĩ, đã chạy
rất nhanh vào nhà. Nhưng khi vừa bước lên bậc thềm anh đã phải khựng lại. Bởi
trước mặt anh là một cỗ quan tài nằm án ngữ giữ nhà, nhưng có ai chung quanh!
Căng mắt nhìn khắp nơi, vẫn chẳng có bóng người, Tứ cất tiếng hỏi: - Ai trong
nhà vậy?
Không ai đáp, Tứ không dám bước tới, thì vừa lúc
anh thấy một bóng người xuất hiện phía sau cỗ quan tài.
- Cô Mai Lý!
Đúng là cô gái câm Mai Lý. Cô ta chỉ nhìn thoáng
qua rồi đi thẳng tới bên quan tài, và thật bất ngờ, đưa tay đẩy nắp quan tài
sang một bên, Tứ nhìn vào và không khỏi rùng mình khi thấy trong đó hai bộ
xương người nằm sóng đôi.
Tứ bước lùi một bước, chưa kịp hỏi thì đã nghe một
giọng thật quen vang lên:
- Nếu còn thương vợ thì chọn đúng hài cốt của cô
ấy. Chọn sai tức là cậu không còn duyên nợ với người ta nữa, mà điều đó cũng có
nghĩa là bao nhiêu công sức của tôi cũng bỏ sông bỏ biển cả.
Tứ quay lại và kêu lên: - Chú Hai!
Người vừa tới chính là ông già Hai. Ông ta bước
tránh khỏi chỗ đó vừa giục: - Cậu cứ chạm tay vào hài cốt nào thì số phận cậu
nằm ở đó. Trong số hai hài cốt có một cái là vợ cậu.
Tứ ngơ ngác: - Sao vợ tôi lại ở đây?
Ông già kéo ghế ngồi xuống gần đó, lạnh lùng nói
tiếp: - Lúc này cậu cần làm hơn là hỏi. Nhanh lên, kẻo không còn kịp nữa!
Tứ còn chần chừ thì đột nhiên như có ai đó xô từ
sau, và... hai tay anh ngẫu nhiên chụp lên bộ xương người nằm bên trái: - Trời
ơi!
Tiếng kêu đó là của ông già Hai. Tứ linh tính như
có điều gì đó, anh bật dậy thật nhanh, nhưng cũng không còn kịp nữa, khi anh
quay lại nhìn thì ông già đã bật ngửa ra sau và... hộc máu, nằm bất động!
- Chú Hai!
Trước sự kinh ngạc của Tứ, thân xác ông già Hai từ
từ tan biến và chỉ trong phút chốc, chỉ còn lại bộ xương. Tứ còn chưa kịp phản
ứng gì thì đã nghe có tiếng động từ sau lưng. Vừa quay lại thì cỗ quan tài
chẳng còn thấy nữa, thay vào đó là chiếc xuồng ba lá bể làm đôi.
- Xuồng của mình...?
Nhìn kỹ lại thì đó chính là chiếc xuồng mà vợ chồng
Tứ đã đi và gặp bão lũ. Trên xuồng vẫn còn nguyên cái túi mà trong đó có mấy bộ
quần áo của Kim Lệ. Và dĩ nhiên, có cả bộ xương khô lúc nãy nữa!
- Chuyện gì thế này?
Mặc dù không tin đây là sự thật, nhưng trước những
bằng chứng đó, Tứ cũng không thể nào bỏ qua, anh ngồi xuống vịn vào chiếc xuồng
và mắt thì cứ nhìn chằm chằm vào bộ xương. Không còn ông già Hai thì lấy ai để
anh hỏi rõ ngọn nguồn? Phải chăng chính ông đã đào hài cốt Kim Lệ đem về đây?
Bao nhiêu câu hỏi mà Tứ không làm sao giải được.
Anh đành ngồi giữa ngôi nhà hoang đó với nỗi hoang mang...
Trời tối dần..
Chợt nhớ tới cô gái câm, Tứ tức tốc chạy ra nhà sau
tìm và lại một phen ngẩn người ra khi nhìn thấy cỗ quan tài thứ hai đang nằm ở
gian nhà sau!
Nãy giờ Tứ bình tĩnh bao nhiêu thì giờ đây anh cảm
thấy run bấy nhiêu. Anh không sợ ma, nhưng lại nghĩ mình đang lọt vào một mưu
đồ gì đó mà với sức mình Tứ không thể nào đương cự lại nổi. Anh nói như cố ý
nói với ai đó chung quanh:
- Tôi chỉ có cái tội duy nhất là mất vợ, tôi thương
vợ tôi nên đi tìm. Vậy nếu ai đó thương thì để cho tôi tìm được vợ, bằng không
thì tôi xin chết tại đây cũng được, tôi xin chấp nhận!
Anh nói xong thì ngồi bệt xuống đất, nhắm nghiền
mắt lại, chờ...
* *
*
- Oan nghiệt! Đúng là oan nghiệt mà!
Giọng nói đó khiến cho Tứ giật mình mở mắt ra, và
anh há hốc mồm: - Bà ngoại!
Tứ tưởng mình còn trong mơ, anh lúng túng:
- Ngoại, sao ngoại...
Bà ngoại anh ôm chầm lấy cháu, mắt vẫn không rời
khung cảnh trước mắt. Bà lặp lại lời nói:
- Đúng là oan nghiệt mà!
Tứ ngạc nhiên: - Ngoại nói gì?
- Con biết đây là đâu không?
Rồi không đợi cháu trả lời, bà nói luôn:
- Đây chính là nhà chồng của má con, tức là nhà ông
nội con đó!
Tứ ngơ ngác: - Sao kỳ vậy ngoại? Từ nào đến giờ con
nghe ngoại nói nhà nội con ở xa lắm mà...?
Bà Tám Trầu thở dài: - Ngoại giấu con. Chỉ vì bên
nội có nhận mẹ con và con đâu mà con cần biết.
Tứ chỉ những cỗ quan tài: - Tại sao nhà này toàn là
áo quan không vậy ngoại?
Bà không đáp, mà lên tiếng thay bà là một người lạ
khác, chính là người phụ nữ đứng vẫy tay ra dấu cho Tứ lúc ở ngoài bờ sông. Bà
ta bước ra từ nhà bếp, lại gần bên bà Tám Trầu, nhẹ giọng:
- Chị để tôi kể cho nó nghe.
Rồi bà quay sang Tứ: - Ta là cô út của con. Chính
ta mà ra cớ sự như thế này!
Bà nhìn bà Tám như chờ sự cảm thông, và bà được lời
động viên: - Cô cứ nói hết cho nó nghe đi.
Út Chanh vốn người xưa nay lắm mồm mép vậy mà giờ
đây cô ta cũng tỏ ra ấp úng:
- Nhà này kể cả má con là năm. Ngày xưa đông vui
nhất trong làng này. Nhưng chỉ có một đêm thôi thì mọi thứ ra nông nỗi này và
chấm dứt hết!
Bà ta nói tới đó thì oà lên khóc ngất, khiến cho Tứ
càng thêm khó hiểu: - Con không hiểu gì hết!
Giọng bà ta trở nên thê lương khôn tả:
- Chỉ có những người nằm trong các quan tài này mới
có thể hiểu thôi. Nhưng khi họ thành xác chết thì họ lại không nói gì, mặc dù
ta đã van lơn họ, yêu cầu họ về nói cho ta biết ta phải làm sao...
Biết là cứ để bà ta tiếp tục nói kiểu đó thì Tứ
thêm rối trí mà thôi, nên bà Tám Trầu chặn lời:
- Để ngoại nói. Đúng ra chuyện này ngoại hoàn toàn
không biết. Cho mãi tới ngày hôm kia, má con về báo mộng, nói rõ đầu đuôi thì
ngoại mới bàng hoàng! Thì ra từ gần mười năm nay, ngoại cứ ngỡ là má con đi
buôn xa rồi chết mất tích khi băng xuồng qua sông cái, ngờ đâu lại chết ngay
trong nhà này. Mà người gây ra những cái chết đó lại là người này, cô út của
con!
Bà cô già của Tứ ngừng khóc, nhưng giọng thì vẫn
còn run: - Đầu tiên là ông bà nội con. Họ chết đột ngột sau khi ăn bữa cơm do
má con nấu, với mấy món ăn má con mua được và muốn đãi cha mẹ chồng. Ta vốn
ganh ghét má con kể từ ngày bà về làm dâu nhà này, không muốn chị ấy càng ngày
càng được lòng cha mẹ ta, nên ta đã lén bỏ thêm vào thức ăn một thứ thuốc mà
ông thầy bán cho ta bảo rằng chỉ có tác dụng làm cho đi tiêu chảy. Mục đích của
ta là chỉ làm cho cha mẹ ta chửi chị dâu một trận cho bõ ghét! Nào ngờ do ta bỏ
quá liều nên thuốc tiêu chảy trở thành thuốc độc. Cho nên sau một đêm, cả cha
mẹ ta đều chết hết!
Bà ngừng lại một lúc rồi tiếp:
- Mặc cảm tội lỗi càng khiến cho ta thêm thù ghét
má con, ta cho rằng má con vào nhà này chỉ toàn đem đến điều rủi, vận xui, nên
thay vì hối hận, ta lại quay sang quyết tâm phải loại trừ luôn má con ra khỏi
nhà này. Và rồi ngay sáng hôm đó, trong lúc cả nhà đang bận lo tang lễ, ta đã
âm thầm bảo cặp rằn Hai chèo ghe đưa má con đi xuống kinh Thầy Cai ở Đồng Tháp
Mười với nhiệm vụ thu lúa ruộng. Thật ra chuyện ấy có thể để sau đám tang làm
cũng được, nhưng ta có ý đồ, nên giục thằng Hai cặp rằn đi gấp. Con có biết tại
sao không? Bởi ta biết Hai cặp rằng vốn đem lòng thương má con mà không dám thổ
lộ, nên dịp đó là lửa gần rơm, giữa cảnh đồng vắng người thưa, chắc chắn sẽ xảy
ra chuyện. Và chuyện đã xảy ra thật... Nhưng lại không chỉ xảy ra cho mình má
con...
Bà ta lại ôm mặt khóc. Lần này sự xúc động đã không
cho bà ta tiếp tục nói được nữa. Bà ngoại của Tứ phải chen vào:
- Kể từ khi má con lấy chồng nhà giàu thì ít khi về
nhà. Do nhà chồng khó, mà ngoại cũng không đi thăm được, bởi không lần nào
ngoại xách giỏ tới thăm mà được gặp má con. Bởi con người này. Cô út con đây là
người nắm quyền trong nhà, muốn quyết cái gì thì mọi người phải nghe theo, kể
cả việc cho chị dâu mình được quyền tiếp thân nhân hay không! Bởi vậy, lâu ngày
rồi ngoại cũng chán, nghĩ thôi, miễn con gái mình có chỗ nương thân, còn sống
khỏe là được rồi... Cho đến một đêm, khi ngoại đang ngủ thì nghe có tiếng ai
kêu lên dưới bến sông, ngoại giật mình chạy xuống thì thấy có một chiếc xuồng
nhỏ tấp vào bờ, trên xuồng có một đứa trẻ chừng vài tháng tuổi đang nằm khóc oe
oe! Ngoại chưa biết là con ai thì chợt nhìn thấy trên chiếc khăn quấn ngang
mình của đứa bé có viết dòng chữ: "Nó là cháu ngoại của má, hãy giữ và
nuôi nó lớn khôn. Đừng nói cho nó biết gì về bên nội nó cả. Nếu má không làm
được như vậy thì con chết không nhắm mắt!"
Bà Tám lại phải ngừng kể do nước mắt ràn rụa, mãi
một lúc bà mới tiếp: - Con đã về với ngoại như vậy đó. Rồi từ đó, bà cháu mình
không hề biết thêm gì về tin tức của má con nữa. Chỉ nghe nói má con chết trong
một chuyến đi buôn xa, thế thôi...
Tứ đưa mắt nhìn sang bà cô già. Út Chanh bằng một
động tác bất ngờ, đã quỳ sụp xuống dưới chân hai bà cháu Tứ: - Cho tôi tạ tội!
Bà Tám đỡ chị ta dậy:
- Mười năm nay tôi chưa nghe má thằng Tứ nói cụ thể
về cái chết của nó. Tôi nghĩ có lẽ do nó chết dưới sông nước nên ắt đường về.
Bỗng mới đây, nó về trong đêm và báo cho tôi biết là phải tìm tới đây để cứu vợ
chồng thằng Tứ! Nó bảo người cô già ích kỷ của thằng Tứ lại tiếp tục muốn diệt
tận gốc rễ giọt máu cuối cùng là thằng Tứ và vợ nó. Tôi già cả nên chậm chân,
mãi tới bữa nay mới mò tới được đây. Chỉ may còn gặp cháu ngoại mình, chứ con
vợ nó...
Bà nói tới đó thì hốt hoảng nhìn quanh:
- Vợ con đâu, Tứ?
Tứ đau buồn: - Không kịp rồi ngoại ơi, vợ con đã
chết trong mưa bão rồi! Đến trời cũng không thương dòng họ nhà mình nữa mà...
Bất chợt, bà cô già của Tứ nói:
- Không phải do trời đâu, mà là do người đó.
Tứ nhíu mày: - Bà nói vậy là sao?
Chỉ mấy cỗ quan tài, bà ta nói:
- Tôi mù quáng, nghe theo lời một tay thầy số, hắn
ta xúi tôi gom hết xác chết của dòng họ, kể cả dâu rể, sau đó đem phân tán mỗi
người một nơi để chôn, chứ không được chôn trong đất nhà. Bởi vậy mới có chuyện
mả ba má tôi thì chôn trên đất giồng cách đây mấy chục cây số, còn mả anh Hai
tôi thì lại chôn ở đất chùa bên Trà Vinh. Còn mả của...
Bà ta ngừng lại, đưa mắt nhìn Tứ và bà Tám, một lúc
lâu mới nói tiếp:
- Mộ của má thằng Tứ thì chôn ở... cây gáo trong
đồng. Tứ vừa nghe tới đó thì hốt hoảng:
- Cây gáo trong đồng nào?
Út Chanh nói mà như khóc:
- Tôi cũng không nhớ rõ là ở đồng hào. Chỉ biết là
thằng Hai cặp rằn nó giết rồi vùi xác ở đó.
Tứ hỏi lại: - Hai cặp rằn là ai?
Út Chanh chỉ lên nhà trên:
- Già Hai mới vừa hộc máu chết đó.
Tứ kêu lên: - Chính ông ta sao.
Anh đứng bật dậy định chạy đi, nhưng bà ngoại anh
đã kêu lại, nói: - Má mày đã về nói hết với ngoại rồi. Nó bảo ngày trước Hai
cặp rằn nghe theo lời xúi của Út Chanh đây, còn dọc đường đã cưỡng bức má con,
dĩ nhiên là nó không chịu, chống cự quyết liệt và cuối cùng đã cắn lưỡi tự tử
chết. Xác nó được Hai cặp rằn chôn dưới gốc cây gáo.
Tứ bàng hoàng: - Gốc cây gáo, phải chăng đúng là cây
gáo đó? Như vậy thì...
Út Chanh lại chỉ tay về phía một trong hai cỗ quan
tài: - Một cái là của má cậu, còn cái kia chính là... của vợ cậu đó!
Tưởng mình nghe lầm nên Tứ hỏi lại:
- Bà nói thật chứ?
- Người sắp chết không dám nói dối!
Bà ta nói xong đứng dậy liền. Lúc này Tứ mới để ý
thấy dáng đi của bà ta không được vững vàng lắm. Và thay vì đi trở lên nhà
trên, bà ta lại thẳng ra phía sau, nơi có một khoảng vườn rộng, cây cối um tùm.
Vừa đi bà ta vừa nói to, cốt cho bà cháu của Tứ nghe:
- Trước đây tôi không cho chôn ai cùng dòng họ
trong đất nhà, chỉ sợ họ làm chủ vĩnh viễn mảnh đất này. Nhưng tôi đã lầm, đâu
cần phải bám giữ nó thì nó mới thuộc về mình. Như má cậu, dẫu chôn tận ngoài
đồng hoang, vậy mà cuối cùng cũng lại về đây. Tôi xin thua và xin vĩnh biệt!
Bà ta đi nhanh và biến mất trong vòm cây...
Tứ muốn chạy theo để hỏi thêm, nhưng vừa khi ấy thì
cô gái câm xuất hiện, khiến cho Tứ lại một lần nữa kinh ngạc. Anh kinh ngạc bởi
lúc này cô ta không ra dấu, mà lại lên tiếng: - Bà ấy đáng lẽ phải có ngày này
từ lâu rồi mới phải!
Nhưng chậm cũng không phải là không tới.
Thấy Tứ nhìn mình, cô gái nói thêm: - Em là đứa con
gái câm, mồ côi cha mẹ, bà Út Chanh tiếng là nuôi làm con, nhưng thật ra em ở
đợ trong nhà này để trừ nợ lúa cho ba má em từ mấy chục năm trước. Em không
nghĩ mình sẽ có ngày nói được nhưng chẳng hiểu sao kể từ khi em theo ông già
Hai vào chỗ cây gáo để đào hai bó hài cốt đem về đây thì bỗng hết câm!
Tứ quá đỗi ngạc nhiên: - Cô đào hài cốt của ai?
- Thì của hai người thân mà anh đang trông đợi! Mẹ
và vợ anh đó!
Trong lúc Tứ và bà ngoại anh đang ngơ ngác thì cô
gái nói thêm: - Em tin người chết đã giúp em có được điều kỳ diệu này! Mà cụ
thể là vợ anh. Hôm đào xuống gốc cây gáo, chính em đã gặp được chiếc lược của
chị ấy, vừa khi cầm chiếc lược ấy lên thì tự nhiên em bật thành tiếng reo, là
tiếng đầu tiên trong đời! Em cám ơn chị ấy...
Cô ta lại nói ra điều mà ai nấy đều sửng sốt:
- Mụ Út Chanh nghe theo lời ông thầy tướng số, bảo
phải gom hết hài cốt những người từng bị mụ ta hại về, để lão ta làm phép trừ
hậu họa. Nhưng lạ lùng làm sao, kể từ khi hai bộ hài cốt mà em lấy lên từ gốc
cây gáo đem về thì không đêm nào mụ ta ngủ được yên. Đêm nào cũng nghe mụ ấy
khóc van và có lúc kêu thét lên vì sợ! Em đã rình coi và thấy mụ ấy quỳ lạy hai
người đàn bà mà em đoán đó là mẹ và vợ anh! Mụ ta đi đến kết cuộc như lúc này
có lẽ do ý của hai người ấy. Em tin là oan hồn đã báo được thù rồi.
* *
*
Vậy là vụ tai nạn ở gốc cây gáo giữa Đồng Tháp Mười
đã có hồi kết. Mà cũng không phải vô tình mà Tứ bị mất vợ và kẹt hơn nửa tháng
ở giữa vùng nước lũ đó. Tất cả là định mệnh. Tứ đã tìm lại được hài cốt của mẹ
mình sau ngót mười năm thất lạc, và cái xác trôi sông của Kim Lệ lại là cánh
cửa mở toang màn bí ẩn chung quanh một nghi án, mà nếu không có sự huyền bí đó
thì xem như vĩnh viễn chìm vào quên lãng...
Bà Tám Trầu nói với Tứ:
- Ngoại không biết gì chuyện tâm linh, nhưng qua vụ
này, ngoại có thể quả quyết với con rằng đời sống con người ta không chỉ có
kiếp sống hiện thời. Nó còn có một kiếp nữa. Bởi vậy, ngoại muốn con hãy lấy đó
mà tự răn mình. Có luân hồi hay không thì ngoại không biết, nhưng quả báo thì
có. Nhất định là có...
MŨI DAO KINH KHA
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
Võ Thừa Hưu người Liêu Dương, thích giao du, phàm
bạn chơi đều là người có tiếng. Đêm nằm chiêm bao, thấy một người đến nói rằng:
- Anh kết giao hầu khắp trong nước, nhưng toàn là
bạn chơi phiếm. Duy có một người có thể cùng chia hoạn nạn, thì lại không hay.
- Người đó là ai?
- Điền Thất Lang chứ ai!
Võ tỉnh giấc lấy làm lạ, sáng ngày gặp bạn nào
quen, cũng hỏi thăm Thất Lang là ai. Có người nói cho biết Thất Lang là thợ săn
ở thôn Đông. Võ thân hành đến tận nhà, cầm roi ngựa gõ cửa; giây lát một người
ở trong bước ra, độ hai mươi tuổi, lưng ong mắt báo, vận áo chẽn quần cụt,
nhiều chỗ mạng vá, đứng chắp tay ngang trán, hỏi khách ở đâu tới. Võ tự khai
tên họ và mượn cớ đi đường thấy khó chịu, muốn vô nghỉ nhờ cho đỡ mệt, nhân dịp
hỏi Thất Lang. Người ấy đáp:
- Thất Lang là tôi đây.
Đoạn mời khách vào trong nhà. Võ thấy mấy gian nhà
nát chống đỡ bằng cây. Vào một căn nhà nhỏ, trên vách treo đầy những da hổ báo,
mà không có giường ghế chi để ngồi. Thất Lang trải tấm da cọp dưới đất, cùng Võ
ngồi đàm đạo, lời lẽ thật thà. Võ nghe rất ưng bụng, liền đưa ra một món tiền,
gọi là giúp chàng sinh kế.
Chàng không chịu lãnh. Võ nài ép mãi, chàng cầm
tiền vô nhà trong nói cho mẹ hay. Lúc trở ra, lại đưa trả, nhất định không lấy.
Võ ép đôi ba phen, chợt cụ già lọm khọm từ trong nhà bước ra, nghiêm sắc mặt
nói: - Già chỉ có vẻn vẹn thằng con đó, không muốn nó chơi với khách sang.
Võ thẹn ra về,, dọc đường suy nghĩ tới lui không
hiểu ý bà cụ ra thế nào. Lúc nảy kẻ tùy tùng có dịp ra sau nhà nghe lõm được
những lời bà cụ nói, giờ kể lại cho Võ hay.Nguyên lúc Thất Lang cầm tiền vô
thưa mẹ, mẹ nói:
- Tao vừa dòm mặt công tử thấy có nám đen, tất sẽ
gặp tai vạ lớn. Mẹ nghe cổ nhân có nói: được người ta biết đến thì chia sẻ điều
lo, mang ơn của người ta thì phái gánh đỡ tai nạn. Giàu báo đáp bằng tiền,
nghèo báo đáp bằng nghĩa. Nay vô cớ mà người ta cho được nhiều tiền, ấy là điềm
chẳng lành. Mẹ e người ta sẽ đòi con đem cái chết ra báo đền ơn nghĩa đó.
Vì thế bà cụ khuyên con đừng nhận tiền.
Võ nghe chuyện, khâm phục bà cụ là người giỏi, lại
càng dốc lòng hâm mộ Thất Lang, qua hôm sau làm tiệc mời nhưng Thất Lang không
đến, Võ đến tận nhà đòi uống rượu. Thất Lang mua rượu về thết đãi với nộm thịt
nai, hết sức niềm nở theo lễ.
Cách ngày hôm sau, Võ lại mời tiệc, bấy giờ Thất
Lang mới đến. Hai người uống rượu nói chuyện cực vui vẻ. Nhưng đem tiền ra tặng
chàng vẫn không chịu lấy. Võ kiếm cớ đặt tiền để mua da cọp, chừng đó chàng mới
chịu nhận, rồi từ biệt ra về.
Về nhà xem lại những tấm da cọp để dành, không đủ
gán với số tiền, bèn nghĩ sự vào núi săn cọp mới có thể đủ số đem nạp cho Võ.
Vào núi luôn ba ngày không săn được gì. Lại nhằm
hồi vợ lâm bệnh, phải ở chăm sóc thuốc men chẳng nghĩ tới việc săn bắn gì được.
Ngót tuần vợ lại chết. Thất Lang phải lo việc ma chay, số tiền nhận phải đem
tiêu xài gần hết. Võ đến nhà điếu tang, lễ phúng rất hậu.
Chôn cất vợ xong xuôi, Thất Lang lại mang nỏ đeo
gươm lần mò vào núi, trong trí thiết tha về việc trả món nợ cho Võ. Nhưng rốt
cuộc vẫn không săn được con cọp nào.
Võ dò biết ý tứ khuyên bảo đừng gấp, chỉ mong mời
Thất Lang đến nhà chơi là vui, song Thất Lang băn khoăn về món nợ còn thiếu
chưa trả được, nên chi nhất định không chịu tới.
Muốn buộc chàng phải đến. Võ đòi giao trước những
tấm da để dành ở nhà cũng được. Thất Lang kiểm điểm da cũ, thấy mối mọt làm hư,
lông rụng mất sạch, trong lòng càng buồn.
Võ biết thế vội vàng đến nhà ân cần an ủi, rồi vào
xem những tấm da cũ và nói:
- Da này cũng được, bản ý tôi không cần đủ cả lông
mà.
Nói đoạn gỡ những tấm da xuống đem về, mời Thất
Lang cùng đi chơi một thể. Chàng không chịu đi. Võ đành về một mình.
Luôn suy nghĩ về sự chưa trả đu số da cân với số
tiền, lấy thế làm tấm tức, chàng lại gói lương khô, mang khí giới vào tận núi
sâu. Rình mò mấy ngày đêm, hạ sát được một con cọp, để nguyên lông da, đưa nộp
cho Võ.
Võ mừng, bày tiệc khoản đãi nài Thất Lang ở lại
chơi luôn ba bữa với mình. Chàng khăng khăng từ chối. Võ sai gia nhân khóa chặt
cửa ngõ để cầm chân chàng ở lại cho kỳ được.
Khách khứa bạn bè trông thấy Thất Lang thô kệch,
thầm chê Võ công tử chọn bạn sai lầm, nhưng Võ săn sóc chiêu đãi Thất Lang hơn
cả mọi người. Lại mang y phục mới nguyên cho chàng thay đổi, chàng không chịu.
Võ thừa lúc chàng ngủ đem áo mới để bên, mà lấy áo cũ giấu đi. Cực chẳng đã
chàng phải dùng mặc áo mới. Sau khi về nhà, vâng lời mẹ dạy, sai người đem áo
mới trả lại và đòi áo cũ của mình về.Võ cười và nói với người thừa sai:
- Chú về thưa dùm với cụ rằng áo cũ đã lỡ cắt ra
may lót giày rồi!
Từ đó, thường ngằy Thất Lang sai mang thịt thỏ,
hoặc thịt nai đến biếu Võ, duy có mời đến chơi thì không đến nữa.
Một hôm Võ đến nhà Thất Lang, nhằm lúc chàng đi săn
vắng, bà mẹ ra đứng tựa cửa nói: - Từ nay xin ông chớ rủ rê con tôi nữa! Có ác
ý gì đó vậy?
Võ rất kính lễ bà cụ, tự thẹn ra về.
Cách chừng nửa năm, gia nhân báo tin, Thất Lang vì
tranh giành con heo săn được, mà đánh chết người ta, hiện đã bị giải lên quan
rồi.
Võ nghe báo cả kinh, tức tốc đến quận nghe ngóng,
khi chàng đã bị giam vào ngục rồi. Chàng thấy mặt Võ, không nói gì nhiều, chỉ
dặn dò chăm nom giúp đỡ mẹ mình. Về nhà, Võ liền lấy ra nhiều tiền đút lót quan
huyện, lại đem trăm bạc nhét cho bên trên, cầu xin bãi nãi. Hơn tháng, xử vô
tội, thả Thất Lang ra về. Bà cụ khẳng khái bảo con:
- Da thịt tánh mạng của con nhờ có Võ công tử mà
còn, mẹ không có quyền chi nữa. Mẹ chỉ trông mong công tử suốt đời yên ổn không
vướng họa chi, tức là cái phước cho con đó.
Thất Lang muốn đến tạ ơn Võ, bà mẹ lại nói:
- Con đến thì đến chớ có tạ ơn làm chi. Cái ơn nhỏ
còn tạ được, chứ ơn to thì không tạ được đây!
Thất Lang đến nhà Võ, Võ tiếp rước niềm nở, Thất
Lang chỉ vâng dạ lơ là, không đả động chi tới chuyện vừa qua. Người nhà Võ đều
lấy làm lạ, cho là chàng sơ tình. Trái lại, Võ mừng tình ý thành đạt, càng đối
đãi tử tế hơn.
Sau đó thường cách vài ba ngày, chàng lại ở chơi
nhà công tử, hễ tặng món chi cũng nhận liền, không chối từ mà cũng không nói sự
báo đáp.
Gặp ngày mừng sinh nhật của Võ khách khứa và bọn
phục dịch tùy tùng đông quá, căn nhà chứa khách ngủ đêm đầy ứ. Võ và Thất Lang
nằm trong căn nhà nhỏ. Ba người gia bộc lót rơm nằm ngay dưới chân giường. Qua
canh hai, chúng đều ngủ kỹ, còn hai người vẫn nói chuyện chưa thôi.
Con dao của Thất Lang treo trên vách bỗng thò đầu
ra ngoài vỏ đến mấy tác, nghe tiếng khua loảng xoảng, mà lưỡi dao lóe sáng như
điện. Võ thất kinh, Thất Lang cũng chồm dậy hỏi ai nằm dưới giường.
Võ trả lời chúng nó đều là tôi tớ trong nhà. Thất
Lang nói: - Nội trong nhà này tất có đứa hung ác.
- Tại sao anh biết?
- Con dao này của tôi mua ở ngoại quốc. Nó giết
người chưa từng thấm máu, họ nhà tôi đeo nó đã ba đời rồi, tính lại chặt đầu có
tới số ngàn, mà vẫn bén tốt như mới rèn. Hễ có kẻ ác thì nó reo và nhẩy lên
chắc chắn phải giết người đến nơi. Xin công tử nên thân người quân tử , xa kẻ
tiểu nhân, họa chăng tránh khỏi tai vạ đến mình.
Võ gật đầu, Thất Lang vẫn ngậm ngùi chằng vui, cả
đêm trằn trọc không ngủ. Võ nói:
- Chuyện lành chuyện dử đều do số cả, việc gì phải
lo quá thế?
- Bất cứ chuyện nguy hiểm tới đâu tôi cũng chẳng
sợ, chỉ băn khoăn còn có mẹ già thôi.
- Có lý đâu tai vạ đến nơi mà lo?
- Tôi trông đừng đến càng may.
Ba đứa gia bộc ngủ dưới giường là: Lâm nhi ở trong
nhà đã lâu, Võ rất vừa ý; một thằng nhỏ sai vặt mới mười hai mười ba tuổi; một
đứa nữa là Lý Ứng rất bướng bỉnh, thường vì chuyện nhỏ mà cãi cọ với công tử
luôn, khiến công tử phát giận vì nó.
Đêm ấy công tử nghĩ thầm có lẽ ác nhân là nó: cho
nên tảng sáng gọi nó đến nói khéo dỗ về rồi đuổi nó đi.
Người con trường của công tử tên là Than, lấy Vương
thị làm vợ. Một hôm công tử đi vắng, sai Lâm nhi ở coi nhà học giữa mùa cúc
đang trổ hoa rực rỡ. Vợ Thân nghĩ cha chồng đi khỏi nhà học vắng vẻ không ai,
liền đến hái bông cúc. Lâm nhi chạy ra chòng ghẹo, nàng toan kêu lên, thì nó ôm
đại vào trong nhà toan cưỡng hiếp. Nàng kêu khóc chống cự, đến nỗi xám mặt khản
tiếng, Thân nghe chạy vào, Lâm nhi mới chịu buông nàng, rồi trốn đi mất.
Võ về nhà hay chuyện, nổi giận tìm Lâm nhi, nhưng
không biết nó đi đằng nào. Qua hai ba bữa mới biết nó đã tới làm bộ hạ trong
nhà ông Ngự sử nó. Ông ta làm quan ở kinh đô, việc nhà giao phó cho người em,
Võ lấy tính thanh khí nói với nhau, viết thư đòi trả Lâm nhi. Người em ngự sử
không trả, Võ càng tức, làm đơn lên huyện thưa.
Ông huyện có thảo trát đi bắt mà lính không bắt,
quan cũng không hỏi đến. Bấy giờ công tử cho người đến thăm dò tận nhà Thất
Lang, thấy cửa đóng then cải, tứ bề vắng ngắt. Xóm giềng cũng đều không rõ tăm
hơi của chàng.
Một hôm, người em Ngự sử đang ngồi trong tư thất
ông huyện cùng nhau bàn chuyện riêng. Người chức việc đem hương bổng đến nộp.
Bỗng dưng một người tiều phu xông tới trước mặt, đặt gánh củi xuống, rút dao
nhọn ra chạy tới trước mặt Mỗ (tức là người em ông ngự sử) mà đâm. Mỗ hoảng sợ,
đưa tay ra đỡ dao, dao chặt đứt cánh tay, tiều phu chém thêm nhát nữa đầu rơi
xuống đất.
Ông huyện cả kinh chạy trốn. Tiều phu ngó dáo dác
xem ông huyện chạy đường nào. Trong lúc đó bọn lính tráng và bọn chức dịch
trong huyện, kịp đóng cửa ngõ, cầm dao vác gậy xúm lại vây bọc. Chú tiều phu tự
biết khó thoát thân liền trở mũi dao tự đâm vào cổ chết. Ai nấy xúm quanh nhìn
mặt. Có kẻ nhìn biết đó là Điền Thất Lang.
Ông huyện lúc đó mới hoàn hồn hết sợ, trở ra phúc
nghiệm, trông thấy Thất Lang nằm chết cứng giữa vũng máu lênh láng, tay vẫn nắm
chặt dao nhọn.
Đột nhiên tử thi chồm dậy chém bay đầu ông huyện
rồi lại ngã xuống.
Lính đến bắt bà mẹ Thất Lang nhưng bà mẹ đã trốn đi
từ mấy bữa trước rồi.
Võ nghe Thất Lang chết, vội vàng đến nhìn mặt bạn
khóc lóc cực thảm. Ai cũng bảo chính Võ chủ ý cho Thất Lang làm ra thảm sát này
Võ bán hết điền sản để lo chạy quan, mới được vô sự.
Xác Thất Lang khiêng bỏ ngoài đồng, dầu dãi hơn ba
chục ngày, các loài chim muông thay nhau canh giữ, Võ xin quan cho đem về tống
táng rất hậu.
Đứa con Thất Lang trốn tránh đến Đặng Châu, đổi ra
họ Đông, lớn lên đi lính, có nhiều công trận, được thăng dần dà tới chức đồng
tri tướng quân. Khi ấy mới trở về Liêu Dương. Võ đã ngoài tám mươi, trỏ cho
biết mồ mả thân phụ.
CÔ GÁI NGHĨA HIỆP
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
Thư sinh họ Cố người Kim Lăng, học rộng tài hoa,
nhưng nhà rất nghèo, lại vì có mẹ già không nỡ rời dưới gối, nên hàng ngày chỉ
vẽ thuê viết mướn kiếm ăn. Ðã hai mươi lăm tuổi mà vẫn phòng không lạnh lẽo.
Trước cửa nhà chàng là một ngôi nhà bỏ hoang từ
lâu, một hôm có một bà già cùng một cô gái đến thuê để ở. Vì thấy không có đàn
ông, nên chàng cũng chưa tiện thăm hỏi gốc tích của họ. Một hôm tình cờ từ
ngoài về, chàng gặp cô gái trong phòng mẹ đi ra, tuổi chừng mười tám mười chín,
xinh đẹp, thanh tú, trên đời ít có người sánh kịp. Gặp chàng, cô không tránh
mặt nhưng có vẻ nghiêm lạnh. Chàng vào nhà hỏi mẹ, bà bảo:
- Ðó là cô gái ở nhà trước cửa, sang mượn thước và
kéo may. Cô vừa cho biết nhà cũng chỉ có một con một mẹ. Trông cô có vẻ không
phải con nhà nghèo. Hỏi sao không lấy chồng, đáp vì còn mẹ già. Ðể mai mẹ sang
chào bà cụ, nhân tiện dò ý xem sao. Nếu ước vọng của họ không cao xa quá thì
con có thể phụng dưỡng mẹ già thay nàng.
Hôm sau bà qua nhà cô gái, thấy mẹ nàng là một bà
lão điếc. Nhìn trong nhà, tịnh không còn một bữa gạo cho ngày mai; hỏi cách
sinh sống thì chỉ trông nhờ vào hai bàn tay cô gái. Dần dà mẹ chàng đem chuyện
kết thân giữa hai nhà ra ướm hỏi; bà cụ ý như cũng bằng lòng, nhưng còn quay
sang bàn bạc với cô gái; nàng nín lặng, xem chừng không được vui.
Mẹ về, kể lại cho con nghe và tỏ ý ngờ vực nói: -
Hay là cô ấy ngại nhà mình nghèo chăng? Tính tình nghiêm nghị không nói không
cười, xinh như đào mận mà lại lạnh lùng như sương tuyết, thật là người kỳ lạ!
Mẹ con than tiếc một lúc rồi cũng bỏ qua.
Một hôm chàng ngồi ở phòng, bỗng có một thiếu niên
đến nhờ vẽ tranh. Chàng ta dung nhan đẹp đẽ nhưng ý tứ thì khá buông tuồng. Hỏi
ở đâu đến, đáp là ở thôn quê. Sau đó vài ba ngày lại đến một lần. Lâu dần thành
quen, cười đùa cợt nhã. Chàng suồng sã ôm choàng lấy, cũng không chống cự gì
lắm, liền tư thông với nhau. Từ đấy đi lại rất thân thiết.
Gặp khi cô gái đi ngang, thiếu niên đưa mắt nhìn,
hỏi là ai, chàng đáp:
- Cô hàng xóm.
Thiếu niên nói:
- Ðẹp thì đẹp thật, mà sao thần sắc đáng sợ thế!
Lát sau chàng vào nhà trong, mẹ bảo:
- Vừa rồi cô gái sang xin gạo, nói đã hai ngày bếp
không đỏ lửa. Cô gái thật có hiếu nhưng nhà nghèo quá, kể cũng đáng thương, ta
cũng nên chu cấp ít nhiều.
Chàng nghe lời, mang đấu gạo sang, gõ cửa nói lại ý
mẹ. Cô gái nhận gạo cũng không cảm tạ.
Hàng ngày nàng sang nhà, thấy mẹ chàng may vá, cũng
vá áo xâu kim giúp mẹ. Ra vào trong nhà, làm lụng mọi việc như con dâu. Chàng
càng thêm biết ơn nàng, mỗi khi có ai biếu xén thức gì đều chia ra biếu lại mẹ
nàng. Cô gái vẫn không hé răng nói một lời cảm tạ. Bỗng nhiên mẹ chàng mọc cái
nhọt ở chỗ kín, đêm ngày kêu khóc. Cô gái thường xuyên đến tận giường chăm sóc,
rửa mụn bôi thuốc cho bà, ngày ba bốn bận. Mẹ rất áy náy nhưng cô không nề hà
chuyện bẩn thỉu. Mẹ nói:
- Ôi, làm sao có một nàng dâu như con trông nom mẹ
lúc tuổi già, để chết cho mát mẻ đây!
Nói xong, buồn bã nghẹn ngào.
Cô gái an ủi bà rằng:
- Anh nhà là người con chí hiếu, còn hơn cảnh nhà cháu
mẹ goá con côi gấp trăm lần.
Mẹ nói:
- Tới lui hầu hạ bên giường, nào phải là việc người
con trai hiếu làm nổi đâu. Vả lại, thân này cũng đã xế chiều, hôm trái nắng trở
trời chẳng biết thế nào nên rất khắc khoải về một người nối dõi.
Ðang nói thì chàng vào, mẹ khóc bảo:
- Mẹ mang ơn nương tử nhiều lắm, con chớ quên báo
đáp.
Chàng cúi đầu vái tạ. Cô gái nói:
- Chàng kính trọng mẹ tôi, tôi không vái tạ, chàng
vái tạ làm gì?
Do đấy chàng càng thêm kính yêu, nhưng cử chỉ nàng
rắn rỏi, không đằm thắm, nên mảy may chẳng sàm sỡ được. Một hôm cô gái ra khỏi
cửa, chàng đăm đăm nhìn theo. Nàng bỗng quay đầu lại cười tươi tắn. Chàng mừng
rỡ vì việc xảy ra đến ngoài ý muốn, bèn chạy theo sang nhà; chọc ghẹo cũng
không kháng cự, vui sướng cùng giao hoan.
Xong xuôi, nàng dặn:
- Việc này chỉ một lần này thôi, không có lần thứ
hai đâu nhé!
Chàng không đáp, ra về. Hôm sau, lại hẹn, thì nàng
nghiêm nét mặt, không ngoái nhìn, đi thẳng. Ngày ngày nhiều lần qua lại, thường
gặp nhau luôn, nhưng nàng không hề làm bộ tươi cười hay dùng lời đưa đẩy; hơi
đùa cợt một chút đã nghe những câu lạnh người. Một hôm, nhân chỗ vắng người,
nàng chợt hỏi:
- Chàng thiếu niên hàng ngày vẫn đến là ai thế?
Chàng kể tình đầu; nàng bảo:
- Ðã nhiều lần y có những cử chỉ, thái độ vô lễ với
thiếp rồi. Vì là chỗ thân quen với chàng nên thiếp đành bỏ qua. Nhờ chàng
chuyển lời; nếu còn tái phạm tức là không muốn sống nữa đấy!
Ðến tối, thiếu niên tới, chàng nói lại, rồi dặn
thêm:
- Anh phải cẩn thận, người ấy không đụng đến được
đâu!
Thiếu niên nói:
- Không đụng đến được, sao anh lại đụng được?
Chàng chối là không có chuyện ấy, thiếu niên nói:
- Nếu không có gì sao những lời thô lỗ cợt nhả kia
lọt vào tai anh được?
Chàng không còn biết nói thế nào. Thiếu niên nói:
- Cũng phiền anh chuyển lời hộ: Cô nàng đừng giả vờ
nghiêm nghị nữa. Nếu không tôi nói toạc ra cho mọi người cùng biết.
Chàng rất giận, đỏ mặt tía tai. Thiếu niên bèn bỏ
đi. Một đêm, chàng đang ngồi một mình, bỗng nhiên cô gái tìm đến, cười bảo:
- Em với chàng tình duyên chưa dứt, lẽ nào không
phải là số trời?
Chàng mừng cuống lên, ôm nàng vào lòng. Ðột nhiên,
nghe tiếng giày lộp cộp, hai người giật mình nhổm dậy, thì thiếu niên đã xô cửa
bước vào. Chàng kinh hải hỏi:
- Cậu làm gì vậy?
Anh ta cười đáp:
- Tôi đến để xem con người trinh trắng đấy thôi.
Rồi ngoái nhìn nàng nói:
- Hôm nay không chê trách người khác nữa ư?
Cô gái đỏ lừng gò má, lông mày dựng đứng lên, không
nói một lời. Nàng hất mạnh vạt áo, để lộ một chiếc bao da, thuận tay rút phắt
ra một con dao găm sáng loáng, dài chừng một thước. Thiếu niên trông thấy, sợ
hãi bỏ chạy. Ðuổi theo ra đến cửa, nhìn quanh, thì đã mất hút. Nàng cầm dao găm
ném vào khoảng không, chỉ nghe một tiếng "rạt" đã thấy hiện ra một
luồng sáng rực rỡ như cầu vồng. Lát sau nghe tiếng một con hồ trắng, đầu và
mình mỗi thứ văng một nơi, nhìn mà thất kinh. Cô gái nói:
- Anh bạn đẹp trai của chàng đó. Tôi đã dằn lòng
tha thứ, nhưng hắn nhất định không muốn sống thì biết làm thế nào?
Rồi nàng cất dao vào bao. Chàng cố kéo trở vào
phòng, nàng bảo: - Vừa rồi yêu quái làm mất cả hứng, xin để đêm mai.
Nói đoạn ra cửa đi thẳng. Ðêm sau, quả nhiên cô gái
lại đến, bèn cùng nhau ân ái. Hỏi về kiếm thuật, nàng đáp:
- Ðó không phải là điều chàng nên biết. Hãy giữ
kín, nếu lộ ra, e tai vạ đến chàng.
Lại bàn chuyện hôn nhân, cô gái nói:
- Ðã chung chăn gối, lại lo liệu việc nhà, không
phải vợ thì còn là gì? Ðã là vợ chồng hà tất phải nói đến cưới hỏi.
Chàng hỏi:
- Hay là chê tôi nghèo?
Nàng đáp: - Chàng đã đành là nghèo, nhưng thiếp
giàu sao? Sum vầy đêm nay, chính là thương chàng nghèo đấy thôi.
Khi chia tay lại dặn:
- Việc làm cẩu thả này không thể thường luôn được.
Lúc nên đến, thiếp sẽ tự đến, không nên đến thì ép buộc nhau có ích gì!
Về sau mỗi lần gặp gỡ, hễ chàng nói chuyện riêng tư
là cô gái lại tránh đi. Tuy nhiên, việc vá may nấu nướng vẫn một tay nàng quán
xuyến, không khác gì người vợ chính thức.
Ðược mấy tháng, mẹ nàng chết, chàng dốc sức lo việc
ma chay. Từ đó, nàng ở nhà một mình. Chàng nghĩ phòng không bóng chiếc có thể
tính chuyện chung chạ được, bèn nhảy qua tường mà vào, đến bên cửa sổ gọi mãi,
nhưng rốt cuộc chẳng một ai thưa. Bèn lại cửa chính nhòm vào thì nhà trống
không mà cửa vẫn cài. Trộm ngờ cô gái có nơi hò hẹn nào khác. Ðến đêm, lại tới,
vẫn y như vậy, bèn tháo viên ngọc vẫn đeo bên mình để lại trên cửa sổ rồi đi.
Hôm sau gặp nhau ở buồng mẹ. Khi chàng đi ra, cô gái theo sau, nói:
- Chàng ngờ thiếp ư? Mỗi người đều có tâm sự riêng,
không thể nói hết với người khác. Nay dẫu muốn chàng hết ngờ cũng đâu có được.
Nhưng có một việc phiền chàng lo liệu gấp.
Hỏi việc gì, đáp:
- Thiếp có mang đã tám tháng rồi, e sinh nở nay
mai. Nhưng danh phận của thiếp chưa rõ ràng, chỉ có thể sinh con cho chàng chứ
không thể nuôi con cho chàng được. Chàng hãy thưa riêng với mẹ lo tìm một người
vú nuôi, nói dối là con xin được chứ đừng nói là con do thiếp sinh ra.
Chàng nhận lời, về kể lại với mẹ, bà cười bảo:
- Con bé này kỳ thật! Hỏi cưới thì không chịu, mà
lại ăn vụng với con mình.
Bà vui mừng làm theo ý nàng và chờ đợi.
Lại cách hơn một tháng, có đến mấy ngày cô gái
không sang. Mẹ lấy làm ngờ, đến cửa nhòm xem thì cửa đóng mà nhà vắng lặng. Gõ
cửa hồi lâu mới thấy cô gái đầu bù tóc rối, mặt mũi không rửa, từ trong buồng
bước ra, mở cửa cho bà vào xong, đóng lại ngay. Vừa vào trong nhà đã nghe tiếng
trẻ khóc oe oe trên giường. Bà kinh ngạc hỏi:
- Con sinh từ bao giờ vậy?
Nàng thưa: - Ðã ba ngày.
Giở tã lót ra xem thì là đứa bé trai, má bụ bẫm
trán rộng, bà vui mừng nói:
- Con đã vì già mà nuôi cháu; một mình lênh đênh,
rồi sẽ nương tựa vào ai?
Cô gái nói:
- Ðiều con canh cánh trong lòng, chẳng dám phơi bày
cùng mẹ. Ðợi lúc đêm hôm vắng vẻ sẽ cho cháu về với bà.
Mẹ về nói chuyện với con trai, cũng thầm cho là lạ.
Ðến đêm, bế đứa trẻ về. Lại mấy đêm sau, vào khoảng nửa đêm, cô gái bỗng gõ
cửa, bước vào, tay xách chiếc túi da cười nói: - Việc lớn của thiếp đã xong
rồi. Từ nay xin vĩnh biệt!
Chàng vội hỏi duyên cớ, nàng nói:
- Công ơn nuôi mẹ thiếp vẫn khắc sâu trong dạ.
Trước đây từng nói "Chỉ một lần thôi, không có lần thứ hai" không
phải có ý đem việc chung đụng gối chăn ra để báo đáp. Chỉ vì chàng nghèo không
thể lấy được vợ nên gắng sinh cho chàng một đứa con để nối dõi. Những mong chỉ
một lần là thành, chẳng ngờ lại thấy có kinh nên phải "phá giới" lần
thứ hai. Nay ơn chàng đã đền, chí thiếp đã toại, chẳng còn gì ân hận nữa!
Hỏi:
- Trong túi có vật gì đấy?
Ðáp: - Ðầu kẻ thù!
Hé ra cho nhòm, thì râu tóc bết vào nhau mà máu
loang nhoè nhoẹt.
Chàng sợ muốn đứt hơi, lại hỏi kỹ thêm.
Nàng nói:
- Trước đây thiếp không dám nói với chàng, vì sợ
nếu chuyện không giữ kín được sẽ lộ ra. Nay việc đã xong, thiếp kể chàng nghe
cũng chẳng hại gì. Thiếp vốn người Chiết Giang, cha làm quan Tư mã bị kẻ thù
hãm hại, nhà cửa bị tịch biên. Thiếp phải cõng mẹ già đi trốn, ẩn giấu họ tên,
chôn vùi tung tích đã ba năm rồi. Sở dĩ thiếp không báo thù ngay chỉ vì mẹ đang
còn. Ðến khi mẹ mất, thiếp lại vướng "khối thịt" đang mang trong
bụng. Vì thế thiếp cứ nấn ná mà thành lâu. Ðêm hôm nọ đi vắng, chẳng có duyên
có gì khác, chỉ vì đường sá cổng ngõ chưa thông thuộc, sợ có sự nhầm lẫn mà
thôi.
Nói xong, ra cửa, lại dặn rằng:
- Ðứa con thiếp sinh ra, hãy chăm sóc cẩn thận!
Chàng phúc mỏng, chẳng sống lâu được, con rồi sẽ làm rạng rỡ cửa nhà. Ðêm khuya
đừng làm kinh động đến mẹ, thiếp đi đây!
Chàng đang rầu rĩ, toan hỏi đi đâu thì nàng đã vụt
đi nhanh như chớp, chỉ nháy mắt đã không thấy đâu nữa. Chàng than tiếc, đứng
sững như kẻ mất hồn. Sáng hôm sau kể lại với mẹ, hai mẹ con cứ tấm tắc là
chuyện lạ lùng.
Ba năm sau quả nhiên chàng mất. Ðứa con mười tám tuổi
đỗ Tiến sĩ, phụng dưỡng bà nội cho đến hết tuổi già.
GIỌT MÁU OAN CỪU
(Tác giả: Người Khăn
Trắng)
Bằng mọi thủ đoạn, cuối cùng bà Xuân cũng được toại
nguyện: Bắt được đứa cháu nội đích tôn về nuôi, sau khi mẹ nó chết ngay trên
giường sinh!
Sang, thằng con trai ăn chơi, đàng điếm vô tích sự
của bà hầu như không hề hay biết chuyện vợ mình sinh con và hậu quả của cuộc
vượt cạn đó. Cho đến khi anh ta được tin báo thì chỉ biết thẫn thờ, kêu trời:
- Tạo hóa bất công làm sao, cô ấy chỉ mới có hai
mươi tuổi!
Mai Hoa đúng ra chỉ mười chín tuổi tám tháng, nhưng
do tạng người nhỏ, nên dù mang thai nhưng vẫn ít có ai tin là cô có thể có con.
Đến khi hay tin Mai Hoa yểu mạng, hầu như cả làng Vạn Hoa đều sững sờ! Có người
thương cho cô con dâu bạc phận này, họ nói: - Nếu chết thì làng này thiếu gì kẻ
đáng phải chết, sao lại bắt con nhỏ dễ thương, đẹp người đẹp nết ấy phải chịu
số phận cay nghiệt như vậy chứ!
Cái chết của Mai Hoa thật sự đáng ngờ, bởi trước
khi sinh thì cô khỏe mạnh và hoạt bát, không có dấu hiệu gì của bệnh tật. Chỉ
sau một đêm chuyển dạ, sáng lại có tin Mai Hoa bị băng huyết rồi chết ngay khi
đứa con lọt lòng!
Trong lúc mọi người tiếc thương, buồn rầu thì bà
Kim Xuân lại hết sức hài lòng, hả dạ. Bởi mục đích duy nhất của bà khi cưới vợ
Sang là để kiếm một đứa cháu nội trai, mà mục đích đó nay đã hoàn thành trọn
vẹn, vậy chướng ngại vật duy nhất còn không tống đi thì sao yên tâm, đẹp dạ.
Mai Hoa tuy hiền hậu, phục tùng, nhưng trong con mắt của người đàn bà giàu
sang, thế lực như mụ Xuân, thì làm sao có thể chấp nhận một cô con dâu khác
giai cấp, không môn đăng hộ đối như Hoa. Nhất là khi xui gia của bà lại là một
tay cu-li vác mướn ở bến tàu!
Những người độc mồm độc miệng đã kháu nhau:
- Được đứa cháu nội đích tôn rồi thì mười mạng như
con Mai Hoa cũng tiêu chứ đừng nói là thân cô thế cô như nó!
Sở dĩ người ta ác miệng như vậy là bởi đã có tiền
lệ. Trước khi cưới Mai Hoa, út Sang, đứa con cầu tự của bà Kim Xuân đã từng dan
díu với nửa tá con gái ở trong làng. Có cô Sương giáo viên, yêu Sang thật tình,
nhưng chỉ vì có thai mà mụ vườn nghi là sẽ sinh con gái, nên bị bà Xuân bắt
phải đi phá thai khi bào thai đã đến tháng thứ năm. Ác thay, khi trục cái thai
ra thì đó lại là một đứa con trai! Tất nhiên là việc làm ác đó đã gây ra cái
chết thương tâm cho đứa hài nhi đã đầy đủ hình hài, tức là đã thành một sinh
linh như mọi con người khác!
Cô Sương đó sau khi thoát chết qua kỳ phá thai, đã
bị bà Kim Xuân ép phải đi khỏi xứ và từ đó đến nay chẳng còn ai nghe tin tức
gì!
Sáng hôm đó, trên đường từ chợ Vàm ra chợ chị Ba
Lụa gọi giật ngược người đàn ông vừa đạp xe chạy vút qua:
- Anh Sáu Hảnh!
Người được gọi thắng gấp chiếc xe đạp già như tuổi
của ông ta lại, ngoáy nhìn ra sau:
- Ai như cô Ba vậy?
Ba Lụa vội bước tới bên, nhỏ giọng như sợ có người
nghe thấy:
- Anh lo cho con Mai Hoa xong chưa?
Sáu Hảnh mặt sạm đen, nét khắc khổ hằn sâu, ngao
ngán đáp:
- Rồi cũng phải xong thôi!
Ba Lụa thở dài:
- Mụ ta ác quá? Một mạng người mà chỉ đưa có hai
chục đồng, bảo sao cho tươm tất được!
Sáu Hảnh nhẹ lắc đầu hỏi:
- Chị đi đâu vậy, không ở nhà hầu mụ ta sao?
- Chính bởi thằng cháu ngoại của anh mà tôi phải bị
hành xác đây! Mới có ba ngày tuổi mà mồ côi mẹ, bây giờ tôi phải đi xin sữa về
cho nó bú đây! Nếu không nghĩ tình nó là máu mủ của anh thì nói thật, tôi bóp
mũi nó cái một!
Sáu Hảnh thở dài:
- Máu mủ gì đâu, má nó mà còn bị chết thì nó có
nghĩa lý gì! Vả lại ai cho tôi nhận là ông ngoại đâu mà máu với mủ!
Sáu Hảnh là cha của Mai Hoa, tức sui gia của mụ Kim
Xuân mà còn giọng điệu đó ai nghe mà chẳng đau lòng! Bởi vậy Ba Lụa đưa tay
quẹt nước mắt, nghẹn ngào nói: - Chắc có ngày tôi cũng lén ẵm thằng nhỏ đi cho
mụ ta kêu trời không thấu! Ngày đó tôi sẽ báo cho anh hay!
Nói xong, chị ta nhanh tay nhét vào túi áo của Sáu
Hảnh vật gì đó:
- Tôi dư được mấy đồng, anh cầm về hút thuốc!
Sáu Hảnh định móc trả lại thì Ba Lụa đã bước đi xa,
rồi bất ngờ quẹo vào một ngõ hẻm, như không để cho Sáu Hảnh đuổi theo.
Sáu Hảnh áy náy, vừa đạp xe đi vừa lắc đầu hoài.
Bỗng có chiếc xe kéo chặn ngang đầu, rồi một tên
mặt mày bặm trợn hất hàm hỏi:
- Cha vừa nói chuyện gì với con Ba Lụa đó?
Sáu Hảnh vốn thật thà, đáp:
- Anh em chòm xóm gặp nhau hỏi thăm chút, có gì
đâu. Mà chú là ai?
Tên kia dí thẳng nắm đấm vào tận mặt Sáu Hảnh:
- Là người muốn đấm vào mặt mày, được chưa! Tao nói
cho mà biết, chuyện của mày mày lo, chứ đừng có dò la tin tức nhà bà Xuân, sẽ
lãnh đòn?
Thì ra chúng là tay chân của mụ Kim Xuân. Sáu Hảnh
ức lắm, muốn phản ứng, nhưng kịp dằn xuống, chỉ nói nhỏ nhẹ:
- Con gái tôi chết tôi lo còn chưa xong, lo gì
chuyện của ai.
Nói xong ông đạp xe đi một nước. Tên đứng bên cạnh
tên côn đồ vừa rồi vội lên tiếng:
- Sao mày không đập cho lão ta một trận, bà Xuân
cho phép mà!
- Thôi, đủ rồi, con chó cùn đường nó sẽ cắn!
Tên nọ vẫn chưa chịu:
- Để tao rượt theo chơi cho nó câm luôn! Nói thật,
mặt thằng cha này tuy là nhìn vậy chứ để trong bụng, mình không yên với nó đâu!
- Ừa, thì mày muốn làm cũng được. Nhưng nhớ là chỉ
làm cho què, cụt hay gì đó thôi, không được thịt nó bây giờ. Dẫu sao con gái nó
mới chết, mình không nên làm quá tay.
- Để tao quýnh cho nó đui một con mắt chơi!
- Ừ.
Tên nọ nhấn bàn đạp tới thật nhanh, trên tay đã thủ
sẵn một khúc sắt nhọn!
Nhưng hắn chưa đi được chục bước thì bỗng chiếc xe
của hắn lật ngang, thanh sắt nhọn trên tay hắn lại chính là vũ khí đâm vào mắt
bên trái của hắn ngọt xớt, hắn chỉ kịp kêu lên một tiếng rồi lăn lộn, đau
đớn...
Tên côn đồ còn lại thấy lạ quá vội nhào tới, ngạc
nhiên hỏi: - Mày sao vậy Hai Hùm?
Tên kia đang quằn quại làm sao trả lời được. Khiến
tên này càng lo:
- Có sao không để tao chở đi nhà thương?
- Con mắt tao! Mày không thấy sao còn hỏi. Phải lấy
cây sắt ra mau!
Máu từ trong hốc mắt của hắn tuôn ra có vòi. Lúc đó
thiên hạ bu lại coi khá đông, có người nhận ra hắn, nên bảo nhau:
- Kệ nó, mấy thằng đầu trâu mặt ngựa tay sai của mụ
chủ tiệm vàng Kim Xuân. Ngày thường nó chuyên đi đòi nợ mướn cho chủ, đánh
người không nương tay, nay trời trả báo đó!
Trong lúc tên Hai Hùm còn đang quằn quại thì bỗng
dưng tên còn lại cũng lảo đảo vừa ôm lấy mặt rồi kêu rống lên! Người chung
quanh chưa ai biết chuyện gì xảy ra thì chợt thấy hắn khuỵ xuống, một bên mắt
của hắn cũng đầy máu giống như tên kia!
- Ai đâm hắn đui mắt vậy?
Những người đứng gần từ nãy giờ đều nhìn rõ, họ
bảo:
- Đâu có ai làm gì hắn?
Vừa khi ấy chợt có tiếng của Ba Lụa:
- Tên này đúng là bị báo oán rồi!
- Ai báo?
- Lúc nãy chúng ức hiếp Sáu Hảnh, đòi đánh ổng đui
con mắt, chúng chưa kịp làm thì đã bị y như vậy, thì chắc chắn là... do con gái
ổng làm rồi!
- Con Mai Hoa mới chết mà?
- Thì chết rồi mới làm được chuyện đó!
- Hồn ma!
Ai đó kêu lên như vậy khiến mọi người đưa mắt nhìn
nhau rồi cùng reo lên như bắt được vàng:
- Hồn ma báo oán, đã quá thiên địa ơi!
Như vậy mới thấy lòng người ở xứ này không một ai
ưa con mụ nhà giàu ác độc Kim Xuân! Sở dĩ lâu nay họ chưa có phản ứng trước
việc mụ ta làm là cũng do những tên tay sai đầu trâu mặt ngựa ác ôn này. Hễ ai
hó hé chống đối thì sẽ lập tức bị chúng hành hung, thậm chí thủ tiêu hay ác hơn
là đốt nhà thiêu rụi cả nhà! Do mụ ta quá nhiều tiền, mua đứt làng xã, quận
huyện, nên mọi lời tố cáo đều như nước đổ lá môn: Thậm chí người tố cáo còn
lãnh hậu quả nữa!
Ba Lụa có vẻ hả hê lắm:
- Đáng đời lũ chó này!
Chị vừa quay bước đi thì có người lên tiếng: - Cô
cũng cùng bè với mấy thằng này, có khác gì! Cũng là tay chân thân tín của mụ
Kim Xuân đó thôi!
Ba Lụa cười nhẹ: - Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi
bùn mới là khó.
Nói xong chị bước đi nhanh. Một người khác có vẻ
biết chuyện liền nói:
- Người này không tệ đâu. Tuy là giúp việc, làm vú
em trong nhà bà Kim Xuân, nhưng lâu nay vẫn thường giúp đỡ mọi người, đâu có
hống hách như lũ chó săn kia! Chị ta nói đúng đó...
Mấy người nữa thấy vậy vừa định đỡ hai tên nọ dậy,
nhưng khi vừa chạm vào người chúng thì cả hai đều chấp tay lạy như tế sao, vừa
cất tiếng van lớn:
- Xin tha mạng cho con! Con xin ngàn lạy, vạn lạy
cô, lạy bà!
Thấy kỳ quá nên có người hỏi: - Bà cô nào ở đây?
Người đỡ hai anh là đàn ông mà?
Nhưng Hai Hùm vẫn chấp tay, thành kính:
- Xin tha cho con? Con xin hứa là không bao giờ dám
tái phạm?
Tên kia cũng làm y như vậy, còn nói cụ thể hơn:
- Thưa mợ út, em làm sai rồi, cũng chỉ vì làm theo
lệnh của bà ấy thôi!
Cả hai quỳ lạy nhiều hơn nữa, khiến cho hai người
mới giúp đỡ hốt hoảng lùi lại:
- Họ làm gì vậy! Điên rồi chắc!
Nhưng có người quả quyết:
- Chúng không điên đâu. Chúng đang bị oan hồn đòi
mạng đó.
- Oan hồn?
- Con Mai Hoa về báo án đó.
Chẳng thấy bóng dáng Mai Hoa đâu nên có người còn
chưa tin: - Không Mai Hoa cũng chẳng sao miễn bọn này bị trừng trị là vui rồi!
Nói xong mọi người lần lượt lui đi, để lại hiện
trường hai nên ác ôn vẫn tiếp tục quằn quại...
Lời đồn chạy nhanh về nhà mụ Kim Xuân. Mụ ta sai
mấy tên gia nhân nữa chạy ra thì cũng bị đánh bò lăn mà không biết ai đánh! Cả
bọn ăn đòn nhừ tử mà không hề thấy ai ra tay, khiến cho vài tên đứng đằng xa
hoảng hốt, bỏ chạy có cờ!
Cuối cùng đích thân mụ Xuân xuất hiện cùng với hai
con chó berger to lớn kèm hai bên. Mụ hò hét:
- Khiêng tụi nó về nhà, hễ ai can thiệp thì giết
hết cho ta!
Nhưng chẳng ai can thiệp vậy mà hai con chó và mấy
tên nữa cũng đều bị đánh giục tại chỗ. Kể cả mụ ác cũng bị mấy tát tai nảy lửa,
phải bỏ chạy, vừa chạy vừa hồn phi phách tán!
Chuyện xảy ra quá đột ngột ngoài dự liệu của mụ Kim
Xuân, nên khi về nhà rồi mà mụ vẫn chưa hoàn hồn. Đợi cho hai tên Hai Hùm và
Sáu Chiến đỡ đau mụ mới dò hỏi:
- Bữa qua đứa nào đánh tụi bây?
Hai Hùm lắc đầu:
- Chẳng có ai đánh cả.
- Vậy sao tụi bây ra nông nỗi này?
Sáu Chiến không kịp giữ lời:
- Dạ lúc đó...
Hắn chưa nói trọn câu thì bỗng nghe bốp chát mấy
cái liền rồi hắn ta lại bị bật ngửa ra sau. Hắn sợ một mà bà Kim Xuân sợ đến
mười, bà ta kêu lên:
- Ai đánh vậy? Ai...
Đến phiên bà ta bị liền hai cái tát nảy đom đóm!
Chung quanh mụ ta lúc ấy chỉ có mụ và hai tên bộ hạ bị thương, điều ấy có nghĩa
là... ma đánh! Mụ cũng làm giống như hai tên nọ bữa trước, chấp tay lạy lia
lịa: - Xin thánh thần tha tội cho, con không dám nữa!
Mụ ta cảm giác như có ai đó đứng trừng mắt nhìn như sắp hành hình mụ!
Vừa lúc đó Ba Lụa bước vào, trên tay ẳm đứa bé còn
đỏ hỏn. Chị khép nép thưa:
- Cậu chủ không chịu bú.
Chuyện bỏ bú của đứa trẻ sơ sinh đã diễn ra hai hôm
rồi, nhưng giờ đây mụ Xuân càng lo lắng hơn:
- Cố mà dụ ép nó, nếu không...
Mụ ta nhìn thằng bé thiêm thiếp trên tay Ba Lụa mà
đau lòng. Giọt máu duy nhất, đứa cháu đích tôn của mụ không lẽ lại nuôi không
được! Mụ nói gần như năn nỉ:
- Cố gắng đi Ba Lụa, rồi tao thưởng công. Cậu chủ
mày cần sống còn hơn tao nữa, cố gắng lên...
Mụ ta thường ngày hùng hổ, chanh chua, nay xuống
nước thấy quá thảm hại, khiến Ba Lụa cũng xiêu lòng. Chị nhìn đứa bé rồi tự
dưng buột miệng:
- Phải chi có má nó.
Câu nói này bình thường thì có thể mụ Xuân nổi tam
bành, nhưng giờ đây mụ ta lại im lặng. Có lẽ mấy cái tát vừa rồi đang làm cho
mụ mất hết nhuệ khí. Mà cũng có thể là do một nguyên nhân thần kín nào đó chỉ
có mụ mới biết...
Bỗng đứa trẻ khóc thét! Ba Lụa hốt hoảng:
- Cậu chủ bị gì rồi bà ơi!
Thằng bé bế vừa khó vừa nảy ngược người lên như bị
phong giựt, khiến mụ Xuân cũng hốt hoảng:
- Làm gì cứu nó đi Ba Lụa?
Trong lúc Ba Lụa chưa biết phải làm sao thì bỗng
như có ai đó giựt đứa bé khỏi tay chị, nó rơi ra và lơ lửng như nằm trên không
khí!
- Bà ơi!
Chị la chưa dứt câu thì vội im bặt. Bởi lúc ấy
thằng bé chẳng những không té, nằm như đưa võng, lại... nín khóc!
Và rõ ràng nghe như tiếng nút vú chùt chụt! Ba Lụa
trố mắt nhìn, mà cả mụ Xuân cũng không rời mắt. Thằng bé như có ai đó bế trên
tay, đưa qua đưa lại, duy chỉ không thấy người ẵm mà thôi!
Hình như nó được bú sữa, cho nên mê bú quên cả
khóc. Lát sau chừng như no nê, nó quay ra nhoẻn miệng cười mãn nguyện, khiến
cho mụ Xuân cũng phải kêu lên:
- Nó tỉnh rồi!
Ba Lụa hình như hiểu mình đang chứng kiến chuyện
gì. Chị nhắm mắt lại lẩm bẩm đủ mình nghe:
- Cám ơn Mai Hoa, em đã cứu con mình!
Mụ Xuân không nghe được mà thấy Ba Lụa lép nhép
miệng, nên hỏi:
- Mày nói gì vậy Lụa?
- Dạ không...
Chị ta đưa tay đón lại đứa nhỏ, lúc này nó đã tươi
tỉnh, quấy động tay chân như mừng rỡ. Mụ Xuân hỏi khẽ: - Vừa rồi ai làm gì vậy!
Ba Lụa có chủ ý khi đáp:
- Nó được hồn ma giúp cho đó?
Mụ Xuân ngơ ngác:
- Ma! Mà ma nào?
- Mẹ nó!
- Con Mai Hoa?
Mụ thốt xong thì lảo đảo rồi ngã nhào xuống đất,
nằm bất động.
* *
*
Tuy ngồi xe hơi, bảo tài xế chạy nhanh vậy mà mụ
Kim Xuân vẫn giục:
- Lẹ lên chút nữa đi Tám.
Tài xế Tám đáp: - Ở đây đường chật, lại phơi lúa
tràn ra đường, rồi trẻ con chạy lung tung, làm sao em dám chạy nhanh hơn nữa.
Nhìn đồng hồ tay, mụ lại làu bàu:
- Trễ giờ thì ông thầy không chịu tiếp nữa.
Cuối cùng thì cũng tới nơi, vừa bước xuống xe đã nghe
từ trong có tiếng nói vọng ra:
- Bà chậm một chút nữa thì để mai tới luôn?
Đã ba lần bị đuổi về, nên mụ Xuân đâm hoảng:
- Xin thầy làm ơn, nhà tôi ở xa!
Bà bước hẳn vô nhà, bỗng khựng lại ngay, bởi có một
người đang ngồi trong đó mà vừa nhìn thấy bà đã điếng hồn.
- Mày...mày... con là... làm gì...
Bà gần như á khẩu, bởi người ngồi trước mặt bà là
Mai Hoa, đứa con dâu đã chết!
Thấy mụ ta ngơ ngác, ông thầy Tư ngạc nhiên:
- Sao vậy? Chẳng phải bà nói là cần tôi giúp gấp
một việc?
Mụ Xuân ú ớ: - Tôi... tôi...
Cô gái mà mụ cho là Mai Hoa bỗng đứng lên, nhìn mụ
soi mói:
- Bà có quen tôi sao?
Nghe tiếng nói thì không phải là giọng của Mai Hoa,
kể cả lối nói chuyện ngang hàng cũng khác, nên mụ hơi yên tâm: - Cô đây là...
Ông thầy Tư vội giới thiệu: - Đây là đứa cháu gái
của tôi, từ xa mới đến. Nó cũng giỏi nghề như tôi, nên hôm nay tôi muốn nó cùng
có mặt để giúp cho bà.
Mụ Xuân vẫn còn ngờ ngợ, nên hỏi lại:
- Cô tên gì?
Cô gái đáp nhanh: - Tôi là Minh Nguyệt.
- Cô có quen biết gì với... Mai Hoa không?
Cô gái ngơ ngác:
- Mai Hoa nào!
- Mai Hoa... ờ mà không có gì.
Trên đời này bà chưa từng thấy trường hợp người
giống người nào mà như vầy. Giống từ khuôn mặt đến tóc tai, chỉ có giọng nói là
khác. Bởi vậy dù đã được xác định rồi, nhưng khi ngồi đối diện mụ Xuân vẫn lo
lo... thỉnh thoảng cứ lén liếc mắt nhìn.
Ông thầy Tư vô đề ngay:
- Bà gặp ma ám phải không?
Giọng mụ Xuân run run:
- Chẳng những ám, mà còn bị nó hành hạ nữa! Hai bên
gò má tôi còn sưng đây, chỉ vì bị nó đánh!
- Mà ai đánh?
- Hồn ma! Không thấy nó, nhưng tôi biết đó là hồn
ma của...
- Của con dâu bà phải không?
Mụ giật mình: - Thầy biết?
- Sao lại không. Tôi còn biết bà đã giết chết nó
nữa! Như bị chạm nộc, mụ Xuân giật nảy người:
- Ông... ông đừng nói!
Thầy Tư nghiêm giọng: - Giết người thì phải đền
mạng! Bà biết quy luật đó chứ?
Bị hỏi bí, mụ ta càng lúng túng hơn:
- Tôi... tôi... không... không...
Ông thầy ném ra trước mặt mụ một gói giấy:
- Vật này có phải chính tay bà mua của lão lang
vườn và đem về cho con dâu bà uống trước lúc cô ấy sinh không?
Bị nhận diện chính xác, mụ Xuân ôm lấy đầu rồi oà
lên khóc!
Giọng của ông thầy vẫn tiếp tục, như một vị quan
tòa: - Uống xong thứ thuốc độc này đáng lẽ con dâu bà chưa chết, nhưng bởi cùng
lúc đó cô ấy lại chuyển dạ sinh, nên vừa sinh đứa bé là cô ấy đã băng huyết rồi
chết luôn! Bà tránh được tội giết người bởi người ta chỉ nghĩ dâu bà chết đi do
băng huyết!
- Thôi, ông đừng nói nữa!
- Vậy bà đã nhận tội giết con dâu chứ gì?
- Đừng! Đừng nói!
Mụ ta vùng thoát chạy ra ngoài và leo lên xe ngay,
giục tài xế: - Chạy mau!
Tài xế Tám ngạc nhiên:
- Ủa, bà hổng rước ông thầy về làm phép sao?
Bà sợ thất thần: - Thầy bà gì? Nó còn muốn hại ta
nữa là khác. Chạy nhanh lên!
Xe chạy rất nhanh. Nhưng bỗng dưng nó lủi vô lề rồi
dừng hẳn lại trước sự ngơ ngác của mụ:
- Mày sao vậy Tám?
Tài xế Tám ngẩng lên, quay lại nhìn. Mụ Xuân thét
lên: - Trời ơi! Mai... Mai Hoa!
Người ngồi ở ghế lại không phải là tài xế Tám, mà
chính là... Mai Hoa. Đúng cô gái vừa trong nhà thầy Tư. Cô ta đanh mặt lại:
- Chào má!
Giọng bây giờ đúng là của Mai Hoa? Mụ Xuân run rẩy:
- Con... con đừng...
Nàng cười khẩy:
- Bà còn gọi được tôi là con sao. Là con sao bị bà
hại đến chết? Là con sao bà ác với tôi như vậy chứ?
Mỗi lời nói lúc này khác nào con dao đâm thấu tim
gan mụ ta. Mụ Xuân líu cả lưỡi:
- Má... má không chủ tâm...má chỉ...
- Bà câm miệng ngay, không tôi cắt lưỡi bà bây giờ!
Mụ Xuân rụt đầu cổ ngay, trong khi Mai Hoa gắt lên: - Bà dùng thuốc gì để hại
tôi?
- Tôi… tôi chỉ biết bỏ tiền nhờ họ làm. Tôi đâu có
biết…
- Tên thầy thuốc ở đâu?
- Ở....ở...
- Ở đâu?
Mụ Xuân hoàn toàn khuất phục:
- Ở...xóm sân banh!
- Đưa tôi tới đó!
Cô tự lái xe thành thạo như một tài xế chuyên
nghiệp. Xe ngừng đứng trước một ngôi nhà và một người đàn ông ló mặt ra làm Mai
Hoa cũng phải giật mình! Bởi anh ta chính là tay thợ bạc ruột của mụ Kim Xuân
mà thường ngày vẫn tới lui nhà, Mai Hoa đã quen mặt!
Vừa nhát thấy Mai Hoa tên Văn Thành này suýt rú
lên! Hắn bước lùi và lắp bắp hỏi:
- Như... như vầy... là sao?
Mụ Xuân theo vào nhà, khép nép như kẻ tôi tớ. Mai
Hoa ra lệnh: - Đem nó ra đây!
Văn Thành hỏi trong sợ sệt: - Đem cái gì?
- Số thuốc còn lại trong nhà này!
- Dạ...
Hắn ta còn lưỡng lự chưa chịu đi thì bỗng dưng cả
thân thể hắn như bị ai nhấc bổng lên, ném mạnh văng vào vách cây, tạo ra một
tiếng rầm lớn, cả tấm vách ngăn ngã đổ vào trong.
Tên Văn Thành hồn phi phách tán, lồm cồm bò dậy rồi
chạy vào ôm nguyên cái hộp thiếc ra, đưa tận tay Mai Hoa: - Đây thưa mợ út!
- Lấy ra đây ấm nước và hai cái ly!
Hắn đoán ra việc gì sẽ xảy đến nên vội quỳ xuống
lạy lia lịa: - Xin mợ út tha tội cho, chẳng qua tôi cũng làm theo lời bà chủ
đây, chứ giữa tôi với mợ đâu có thù oán gì!
Mai Hoa nghiến răng trèo trẹo:
- Làm theo lệnh hả! Chứ không phải mày cùng bày mưu
hại tao để hai người dễ bề thực hiện ý đồ chung sống như vợ chồng sao? Mày
tưởng qua mặt được đứa con gái khờ khạo này hả?
- Dạ... tôi không...
Quay lại mụ Xuân, Mai Hoa hỏi thẳng:
- Bà trả lời xem, tôi nói đúng hay sai?
Mụ ta run rẩy:
- Dạ... à mà không. Má... má chỉ có ý...
- Việc làm tội lỗi này chỉ có thằng con khờ khạo,
bạc nhược của bà không hay biết thôi, chứ trong nhà ai mà không biết. Ý đồ
chiếm trọn tài sản của tên Văn Thành này chính bà cũng không ngờ tới, bởi bà
đang mê đắm trong trường tình. Bà biết trong số thuốc độc này có một lọ dành
cho bà đó!
Có lẽ sợ Mai Hoa nói ra hết bí mật, Văn Thành vội
nhào tới định tấn công cô bất ngờ, nhưng làm sao con người như hắn có thể thực
hiện được ý đồ đen tối đó. Thoắt cái đã chẳng còn thấy Mai Hoa đâu. Rồi chợt
nghe cô lên tiếng ngay sau lưng tên khốn:
- Mày đáng chết lắm!
Sau câu nói thì đã thấy tay Mai Hoa cầm lấy chiếc
ly, rồi trút một phần thuốc vào gằn giọng:
- Uống!
Văn Thành có muốn vùng vẫy cũng không tài nào làm
được, bởi tuy là đàn bà, nhưng cú siết tay của Mai Hoa lại mạnh mẽ, vô phương
vùng thoát!
Ực!
Hắn uống một hớp lớn. Khi được buông ra thì cả thân
hình đồ sộ của hắn ngã sóng soài như con heo bị hạ thịt!
Mụ Xuân đã chứng kiến từ đầu đến hết, vía bay đâu
mất hết. Mụ vừa run vừa bò lê khắp nhà trong tâm trạng hoảng loạn!
Mai Hoa lên tiếng: - Tôi không giết bà lúc này đâu,
đừng sợ. Bà hãy bình tĩnh chứng kiến phút đền tội của người tình trẻ này đi rồi
tới kẻ tiếp theo...
Dù được trấn an như vậy, nhưng mụ ta vẫn cứ bò và
bò... Đến một lúc Mai Hoa ra lệnh:
- Đi!
Cô bước ra, mụ Xuân riu ríu bò theo. Khi đã lên xe
rồi mụ tự động nói:
- Tới xóm Cầu quay!
- Nhà Mười Thế phải không?
- Đúng, Mười Thế!
- Hắn đã tham gia gì trong việc giết tôi, tôi muốn
nghe chính miệng bà nói, nói đi!
- Ông ta cho người dàn cảnh để thằng Sang cưỡng
hiếp con, lúc hai đứa bây chưa thành vợ chồng!
Mai Hoa rít lên:
- Thì ra bữa đi cưới về ngang cầu tự dưng có nhiều
tên xông vào bịt mũi bịt miệng tôi, lôi lên một chiếc xe. Sau đó khi tỉnh lại
tôi mới hay mình đang thân thể lõa lồ, Sang thì thoả mãn nằm bên cạnh! Cũng vì
lỡ như vậy nên sau đó tôi mới chấp nhận về làm dâu nhà bà. Chứ nói thật, có cho
vàng chất đầy nhà tôi cũng không ham!
Mụ Xuân lại nói một hơi:
- Mười Thế này còn là thủ phạm của những vụ dàn
cảnh, thủ tiêu nhiều người tình khác của thằng Sang. Hiện hắn đang...
Mai Hoa chặn lời:
- Hắn sắp sửa thủ tiêu ba tôi, phải không?
Mụ Xuân càng run dữ:
- Má... má chỉ bảo nó... nó cảnh cáo thôi...
- Cảnh cáo mà chuẩn bị sợi dây thừng và một bao
chứa đầy đá để đập đầu rồi tròng dây vào cổ ba tôi và dìm ông xuống sông?
Bị lật tẩy, mụ ta nghẹn họng.
Mai Hoa bất nhẫn nói:
- Mấy người tội ác trời không dung đất không tha!
Tôi không ác, nhưng không còn cách nào hơn....
Cô gọi to vào nhà:
- Mười Thế đâu, bà chủ Xuân biểu!
Từ trong nhà vừa bước ra, Mười Thế đã há hốc mồm
khi nhìn thấy Mai Hoa!
Hắn ta vừa định thụt lùi tìm đường tháo chạy thì
bỗng ngã nhào. Chưa kịp ngồi dậy thì bỗng có sợi dây thòng lọng chẳng biết do
ai ném tới, đã ngẫu nhiên tròng vào cổ hắn gọn hơ!
- Bớ!
Hắn chỉ kịp kêu lên một tiếng thì dây đã xiết lại.
Càng lúc càng chặt và...
Quay ra ngoài, Mai Hoa hỏi mụ Xuân trong tình trạng
mụ như cái xác không hồn:
- Còn ai nữa?
Hầu như mụ không còn khả năng nhận thức, nên Mai
Hoa không cần hỏi nữa, cô lôi mụ ta trở ra xe, rồi lái về một hướng khác. Dừng
xe lại một ngôi nhà khang trang, có chiếc xe hơi quen thuộc của út Sang đậu
ngoài sân, Mai Hoa nghiêm giọng bảo:
- Má vào kêu ảnh ra, hay để con vào?
Mụ Xuân không còn đủ sức đi, nên nói buông xuôi: -
Con muốn làm gì cũng được.
Mai Hoa đi thẳng vào trong, nhà không khoá cửa, cô
lại đi một lèo vào tận phòng riêng, nơi đang có những tiếng cười dâm dật từ
trong vọng ra!
Đứng ngay cửa phòng không cần đẩy, cửa phòng từ từ
mở trước sự kinh hãi của hai người đang nằm trong phòng! Họ là út Sang và một
cô gái trẻ đẹp, đang trong tình trạng không mảnh vải che thân!
- Mặc đồ vào, cô kia ra đây!
Út Sang chết điếng khi nhìn thấy vợ. Anh ta gần á
khẩu luôn:
- Sao... sao lại... lại...
Rồi thì anh ta bủn rủn tay chân, không còn cử động
được nữa. Cô gái chưa từng gặp Mai Hoa lần nào, nên giở giọng khó chịu:
- Chị là ai mà đương nhiên xông vào phòng trong lúc
người ta đang làm chuyện vợ chồng vậy? Có muốn chết không!
Út Sang chưa kịp ngăn:
- Đừng....
Rồi gục xuống. Mai Hoa phất tay một cái, cô gái
đang ở trên giường bị tung lên rồi rơi xuống sàn, hai đầu gối khuỵu xuống trong
tư thế quỳ. Lúc này Mai Hoa mới phán:
- Đáng lý ra ta phải xử mày cái tội lấy chồng người
tội phá hại gia cảnh, nhưng nghĩ mày cũng bị lừa, nên ta tha cho. Mày nên mau
rời khỏi căn nhà này, nếu không rồi có ngày mày cũng chung số phận với ta mà
thôi!
Phất tay một cái nữa, cô gái văng ra tận ngoài sân.
Mai Hoa vất ra bộ đồ cô ta còn vắt ở mép giường. Ra lệnh: - Mặc đồ vào rồi biến
liền!
Dù không muốn, nhưng bị hai cú ném liền khiến cô ta
quá sợ vội vàng ba chân bốn cẳng chạy một mạch mất dạng!
Lúc này Mai Hoa mới ngồi lại và bỗng dưng ôm mặt
khóc ròng! Mụ Xuân muốn lên tiếng hỏi nhưng mở miệng không được nên đành im
lặng... Một lúc sau chính Mai Hoa lên tiếng:
- Tôi đâu phải là người ác, tôi đâu phải kẻ giết
người! Nhưng họ đã ác với tôi, bảo sao tôi không trả thù. Tôi báo oán không
phải chỉ riêng tôi, mà còn cho những người khác nữa... Nếu để bọn người ấy sống
thì sẽ còn bao nhiêu người như tôi phải chịu chung số phận! Xin hãy hiểu cho
tôi…
Cô khóc thật to và thật lâu.
Đến khi ngừng khóc thì Mai Hoa giật mình, cô kêu
lên.
- Má!
Mụ Xuân đã nằm thẳng cẳng, không còn thở nữa! Thì
ra trong lúc Mai Hoa nói thì mụ ta đã cắn lưỡi tự tử! Có lẽ mụ sợ sau khi Mai
Hoa nói dứt lời thì sẽ tới phiên mụ. Thật ra Mai Hoa không hề có ý định giết mụ
độc ác này, chỉ cảnh cáo bà ta thôi… Nhưng mọi việc đã lỡ hết rồi... Bà Kim
Xuân chết, còn út Sang thì bỏ nhà đi chẳng thấy trở về. Gia sản Kim Xuân đang
làm ăn phát đạt bậc nhất như vậy bỗng không có người cai quản!
Tôi tớ trong nhà đang hoang mang, có người định bỏ
đi, có người lại nẩy ý tham lam, định nhân cơ hội kiếm chác chút đỉnh... Tuy
nhiên, mọi mưu đồ hầu như không ai thực hiện được! Người định bỏ đi thì lúc nửa
đêm nằm mơ thấy Mai Hoa hiện về khuyên bảo nên tiếp tục ở lại. Sáng ra mọi
người đó đều thay đổi ý định, vui vẻ tiếp tục công việc!
Riêng số người có lòng tham, thì cũng nửa đêm thấy
có người hiện ra giữa phòng mình, nhe nanh và giương cặp mắt tóe lửa, quát nạt
cho một hồi! Đến sáng lại thì tất cả họ đều xìu như quả bóng xì hơi, không dám
hó hé gì.
Thậm chí có người còn quỳ xuống giữa trời vái lớn
tiếng:
- Thưa mợ út, tụi này không phải, ngàn lần xin mợ
tha cho!
Tất cả đều nể nang Mai Hoa. Một lòng một dạ tùng
phục, mặc dù Mai Hoa không hề ra mặt!
Từ hôm đó, mọi công việc trong nhà tuy không có chủ
điều khiển, nhưng không sơ sót tí ti nào. Công việc còn tiến triển tốt hơn
trước kia. Và hơn thế nữa, họ đồn nhau rằng bắt đầu từ đây làm ăn với Kim Xuân
không còn sợ bị ức hiếp, chèn ép nữa!
Một đồn mười, mười dồn trăm, chỉ một thời gian sau
tiếng tốt về tiệm vàng Kim Xuân đã lan ra khắp nơi...
Riêng đứa trẻ sơ sinh ngày nào nay đã ba tháng
tuổi. Ba Lụa không cần đi mua sữa hay xin mọi người như trước, cũng không cần
sữa bò sữa bột, cứ tới cử thì đặt thằng bé trên giường, lát sau nghe nó nút vú
ừng ực! Ba Lụa hiểu rằng nó đang được mẹ nó cho bú!
Chuyện ấy dần dần nhiều người biết, nhưng chẳng ai
dị nghị gì, mà trái, lại còn thương cảm mẹ con Mai Hoa hơn.
Có người còn tự mang tới cho nào giò heo, nào những
món dành cho sản phụ ăn có nhiều sữa, họ bảo:
- Cúng cô Mai Hoa, để cổ ăn, đặng có nhiều sữa cho
con bú!
Thằng bé lớn như thổi...
Cũng không còn nghe chuyện hồn ma báo oán nữa. Có
lẽ Mai Hoa đã mãn nguyện rồi...
CHIẾC XE MA
(Tác giả: Người Khăn
Trắng)
Khởi hành lúc hơn năm giờ chiều tại thành phố, vài
người đã khuyên Luân: - Thiếu gì giờ đi Vũng Tàu, cớ gì phải đi vào giờ này?
Luân cười nhẹ:
- Đi ra Vũng Tàu chỉ khoảng 3 tiếng là tới, như vậy
khoảng hơn 8 giờ mình đã có mặt ngoài ấy, còn sớm chán!
- Nhưng ngại là ngại đường ban đêm kia. Quốc lộ
50450 đâu đã sửa chữa, còn hẹp và gồ ghề, mà tính ông lại hay lái ẩu, tụi tôi
lo lắm!
Luân siết chặt tay bạn, quả quyết: - Ăn thua gì! Đà
Lạt mà tôi còn dám lái đêm nữa là.
Thật ra, sở dĩ Luân phải vội đi trong đêm là vì anh
có cuộc hẹn làm ăn khá quan trọng ở Vũng Tàu. Anh phải có mặt ngoài đó trước 9
giờ đêm nay, nên vừa ra khỏi thành phố là anh tăng tốc độ ngay, bất chấp đoạn
đường từ Thủ Đức, suối Xuân Trường hẹp và đông người qua lại. Lúc ngang qua núi
Châu Thới, Luân định ghé Tấn Vạn rước thêm một người bạn cùng đi, nhưng nhìn
đồng hồ tay, anh lại đổi ý, thời gian bây giờ quý như vàng, phải tranh thủ đi
nhanh.
Qua khỏi Biên Hoà lúc 6 giờ 15, Luân đắc ý:
- Như thế này thì kịp chán?
Anh lại tăng tốc. Chỉ một lúc sau đã thấy dốc 47
hiện ra. Mấy người lái xe đêm đi Vũng Tàu thường hay ngán cái dốc này, nó không
cao lắm nhưng lại nguy hiểm, bởi có nhiều xe chở cát, đá hay đổ đốc ẩu. Hóa hơi
cảnh giác, lái cẩn thận hơn và khi vượt qua dốc rồi mới thở phào, bởi trước mắt
anh là hình ảnh một chiếc xe be bị lật nhào, có lẽ tuột thắng hay tránh gấp
chiếc xe khác. Nhiều người còn lu bu cứu hộ. Thấy xe Luân trờ tới, một người
chặn lại và đề nghị:
- Anh giúp giùm cô gái này, cô ấy đi chiếc xe đó
kìa, bị xe be này quẹt phải, chết máy không thể đi được nữa, mà cô ấy thì cần
đi gấp ra Vũng Tàu.
Luân không muốn vướng mắc, nhưng chợt nhìn thấy cô
gái mặc nguyên chiếc áo dài nhung đen, anh bật rùng mình! Cô gái đẹp chưa từng
thấy! Sắc đẹp mà bất cứ ai nhìn cũng phải bị hớp hồn?
- Nhưng...
Luân chưa kịp nói hết câu thì cô gái đã mở cửa
trước leo lên ngồi, vừa quay sang gật đầu chào như thầm cám ơn. Rõ ràng Luân
không thể nào từ chối. Anh vừa rồ xe vừa hỏi:
- Cô đi tới Vũng Tàu?
Cô gái giờ mới lên tiếng: - Dạ không, em chỉ xin
quá giang tới cầu Cỏ May thôi.
Luân ngạc nhiên:
- Ban đêm mà cô đi tới đó làm gì, hay nhà ở đó?
Cô gái nhẹ lắc đầu:
- Dạ không. Em lái xe đi Vũng Tàu, tới đó thì xe
hư, không sửa được nên em quay về Sài Gòn gọi thợ ra. Hy vọng quá giang được xe
anh thì khi em ra còn kịp xe sửa chữa ra tới.
- À thì ra vậy. Cô đi Vũng Tàu một mình sao?
- Dạ không, còn hai người bạn gái nữa. Họ đang ở
ngoài đó chờ. Sao anh đi biển mà chỉ một mình?
- Tôi không đi chơi, mà có công việc gấp ngoài đó.
Cô nàng giờ mới cười: - Nếu vậy khi sửa xe xong, sáng mai ra ngoài đó tụi này
thế nào cũng gặp anh. Anh làm bạn với tụi em nhé?
Luân nghe vui vui trong lòng:
- Ý hay đó? Ngày mai tôi xong công việc cũng định ở
lại chơi một buổi.
- Em tên Hạnh, còn anh?
- Hóa. Hân hạnh được quen với người đẹp nhất Vũng
Tàu ngày mai!
Thấy anh chàng biết nịnh, Hạnh cũng cởi mở:
- Đẹp nhất trên xe lúc này thì chính xác hơn!
Hóa cười phá lên:
- Chắc chắn như vậy rồi, so với cô thì tôi là người
xấu nhất rồi!
Qua khỏi Long Thành, câu chuyện giữa hai người trở
nên thân mật hơn, Hạnh hỏi:
- Anh Hóa đã có người yêu rồi chứ?
Hóa cười:
- Nếu tôi nói là chưa thì Hạnh có tin không?
Hạnh gật đầu ngay:
- Tin.
- Sao vậy?
- Bởi nếu đã có vợ hoặc người yêu thì chắc chắn giờ
này họ đã không để anh đi một mình. Đàn ông thời buổi này ra đường dễ bị...
Nàng bỏ lửng câu nói, Hóa quay sang hỏi:
- Theo Hạnh thì dễ bị cái gì? Con gái bắt cóc à?
- Cũng có thể lắm!
Đáp xong, nàng phá lên cười! Hóa cũng vui lây, anh
nói to:
- Cũng mong được cô gái đẹp nào đó bắt cóc thì sung
sướng biết mấy!
- Anh coi chừng đó!
Nói xong, nàng quay mặt đi chỗ khác. Hóa nhìn từ
phía sau, anh ngây ngất thật sự trước nhan sắc như liêu trai này. Lúc đầu, anh
có vẻ không bằng lòng việc mình mất thời giờ cho quá giang, nhưng lúc này lại
thấy là mình gặp may?
- Nhà cô Hạnh ở Sài Gòn mà khu nào?
- Đường Paul Blanchy, anh biết đường đó?
- Biết chứ, người ta đang định đổi tên thành đường
Trưng Nữ Vương hay Hai Bà Trưng đó!
Nàng đột ngột hỏi: - Anh có sợ ma không?
Hóa lại cười lớn:
- Nếu ma mà đẹp cỡ như cô Hạnh này thì có một chục
con tôi cũng xin quỳ xuống rước về nhà!
- Dám không đó?
- Sao lại không dám! Xưa nay người ta hay hình dung
ma là kẻ gớm ghiếc, có nanh có vuốt, chớ nếu ma mà đẹp thì còn ai sợ ma nữa!
Rồi nàng lại hỏi một câu khá bất ngờ:
- Theo anh thì ma khổ hay sướng?
- Sướng! Hóa đáp cũng bất ngờ.
Nàng trố mắt nhìn anh:
- Ma là hồn người chết, sao lại sướng?
- Làm ma được mọi người sợ, thì sướng chớ sao!
- Nhưng có anh không sợ!
Hóa ném cho nàng cái nhìn sắc như dao:
- Không sợ là ma đẹp cỡ như Hạnh kìa!
Mải nói chuyện mà xe đã qua khỏi Bà Rịa lúc nào
không hay, nàng chỉ tay phía trước nói: - Sắp phải nói lời cảm ơn anh rồi. Em
không ngờ trong cái rủi hư xe lại có cái may là quen với một người thú vị như
anh. Đó, anh thấy chiếc xe Peugelt 203 đậu bên lề kia không? Xe em đó.
Hóa rà xe chậm lại rồi thắng bên cạnh chiếc xe đen,
anh ngạc nhiên: - Các bạn Hạnh đâu?
Nàng chỉ tay vào xóm nhà gần đó: - Chắc họ đi ăn
uống gì đó quanh đây. Thôi, cám ơn anh. Hẹn gặp lại.
Hóa hơi ái ngại: - Trời tối như vậy mà nhóm sửa xe
cũng chưa thấy. Hay là... Anh tính trong đầu rồi nói:
- Do có việc quá gấp ngoài đó, nên tôi không thể ở
lại giúp cô được. Vậy bây giờ tôi đi, chừng một giờ sau tôi quay lại, có thể
giúp gì đó cho cô...
Xa xa trong xóm, Hóa nhìn thấy vài cô gái đang vẫy
tay với Hạnh nên cũng yên tâm rồi rồ xe đi...
* *
*
Trở lại cầu Cỏ May lúc 10 giờ. Hóa ngạc nhiên khi
không thấy chiếc Peugelt 203. Anh nghĩ có thể xe đã sửa xong và Hạnh cùng các
bạn đã ra Vũng Tàu.
Thất vọng, Hóa lưu lại đó một lúc rồi quay trở lại
khách sạn ở bãi trước, nơi anh thuê một phòng ở Hotel Pacific. Vừa mở cửa phòng
vào, Hóa đã nhận ra ngay có một mảnh giấy trên bàn viết. Nét chữ con gái trên
đó: "Chào con người đẹp trai dễ thương! Quá tiếc vì duyên hạnh ngộ quá
ngắn, mong sẽ gặp lại dịp nào đó! Mỹ Hạnh cầu Cỏ May."
- Cô nàng làm sao lọt vào phòng mình được?
Hóa thắc mắc và xuống hỏi tiếp tân, người ta lắc
đầu: - Khách đi ra gửi lại chìa khóa, chúng tôi chỉ trả lại chìa cho đúng khách
nghỉ trong phòng đó, làm gì có người nào khác vào được!
Sáng lại...
Sau khi kể lại câu chuyện cho một người bạn ở Vũng
Tàu nghe, người ấy kêu lên:
- Cậu gặp phải ma rồi!
Hóa ngạc nhiên: - Sao lại có chuyện đó?
Người kia quả quyết:
- Cách đây mấy năm, có một vụ tai nạn ôtô xảy ra
tại cầu Cỏ May, nạn nhân là cô Hạnh, con gái của một nhà tỷ phú, ở Sài Gòn. Cô
ấy lái chiếc Peugeot 203 cùng mấy người bạn gái nữa đi tắm biển Vũng Tàu, ra
tới cầu Cỏ May có lẽ do buồn ngủ hay đùa giỡn sao đó, chiếc xe đã lái thẳng
xuống cầu, cả mấy người trên xe đều chết! Sau này, thỉnh thoảng người ta gặp
một người con gái hay đứng bên cạnh chiếc xe ở chỗ đầu cầu vào lúc nửa đêm,
nhiều người tưởng xe cô bị hư nên ngừng lại hỏi thăm, thì... xe và người đều
biến mất! Có lần có người còn nhìn thấy một chiếc xe lao xuống cầu, nhưng khi
nhìn lại thì chẳng thấy gì hết!
Hóa lặng người đi. Tuy có chút rờn rợn, nhưng dẫu
sao anh cũng cảm thấy nhớ nhớ người con gái đẹp như liêu trai ấy...
TRẦM HƯƠNG
(Tác giả: Người Khăn
Trắng)
Trước khi ra khỏi nhà trọ, Lê Thanh còn nghe lão
già cụt chân nhắc lại:
- Cậu hãy nhìn cái chân chỉ còn một cọng như cái
chân tôi đây để mà tính con đường tương lai của mình. Nên nhớ nằm lòng đều này:
“Không ai được cái gì vô điều kiện từ mẹ rừng cả. Mà vàng, trầm đều là sản phẩm
của rừng không thể tự tiện lấy đi mà được yên lành hoàn toàn đâu…”.
Đi đã xa trên con đường rừng rồi mà Thanh vẫn còn
nghe vang vọng trong đầu câu nói ấy. Anh còn nhớ như in chuyện về cái chân bị
mất của lão già. Chính một lần đi lấy trầm hương ở cánh rừng này lão đã bị hổ
vồ và may mắn thoát được sau khi mất một chân trong miệng hổ đói, nhờ đã nhanh
trí dùng con dao trên tay mình chặt đứt cẳng chân con hổ đang ngoạm.
Đâu phải ai tìm được trầm đều phải hy sinh thân
thể. Đã có khối người làm giàu nhờ tìm được kỳ nam, trầm hương. Họ có sao đâu
ngoài sự giàu sang và đổi đời?
Vả lại, với Thanh chuyện tìm trầm để làm giàu không
phải là mục đích chính. Mà mục đích quan trọng hơn của anh là thực hiện lời
nguyền của người cha quá cố. Trước khi nhắm mắt, ông đã gọi Lê Thanh đến bên và
dặn chỉ một mình anh nghe thôi: “Con phải nhớ, cả đời ba đã tiêu tốn bao công
sức chỉ cho mỗi mục đích là tìm cho ra một miếng trầm mà như lời ông nội con
miêu tả lại, ông nội con đã để vuột mất nó chỉ trong nháy mắt chỉ vì một mỹ
nhân xuất hiện bất ngờ khi ông con vừa tìm thấy trầm! Chính ba cũng vậy, sau
hơn ba tháng canh chừng gian khổ, ba sắp lấy được nó thì cũng bỗng bị hoa mắt
ngã té từ trên cây xuống gộp đá sâu, may mà không chết, chỉ bị hôn mê và sau đó
bị bại liệt luôn, không còn khả năng trở lại rừng nữa... Nhưng ba quyết phải
thành công. Đời ba làm chưa được thì tới phiên con. Con phải hứa với ba, phải
tiếp tục con đường của ba, nếu không thì ba sẽ mãi mãi làm oan hồn, không thể
siêu thoát...”.
Lê Thanh lao vào cái nghiệp đi tìm trầm không phải
vì để làm giàu, mà vì chính lời ước nguyện của cha. Vả lại, chẳng biết phải do
ám ảnh lời ước nguyện hay nguyên do nào khác, mà những lúc gần đây Thanh lại
nghe niềm đam mê đi tìm trầm trong người cháy bỏng lên hơn bao giờ hết. Anh đã
thề với lòng rằng phải tìm cho bằng được trầm hương mà không phải đánh đổi bất
cứ thứ gì!
Soát lại túi thức ăn mang theo, Thanh khá yên tâm, bởi
với lượng thức ăn này một mình anh thừa khả năng sống hơn một tuần giữa rừng.
Cũng giống như lần trước, Lê Thanh không cần sự trợ giúp của ai, sẽ một mình
lặng lẽ tìm kiếm và nhận mọi nguy hiểm chỉ với đôi tay và ý chí của mình. Anh
nhớ lời cha anh đã nói lúc ông còn làm nghề đi rừng: “Tìm trầm hương là thử
thách cái cơ duyên của mỗi người. Vậy đi tìm trầm thì tốt nhất là đi một mình.
Có duyên thì vận may sẽ tới...”.
Đã sống qua một tuần trong chốn thâm u này mà cơ
may chưa tới, nên hôm nay bắt đầu tuần thứ hai Thanh có vẻ tự tinh hơn, anh vừa
tìm chỗ mắc võng nghỉ chân vừa lâm râm khấn vái vong hồn cha: “Con sẽ thực hiện
được ước nguyện của cha, cha yên tâm đi. Trước sau gì con cũng thành công!”.
Những lời khấn vái như thế này đồng thời là những
lời tự động viên của Thanh. Anh luôn muốn làm như vậy mỗi khi mệt mỏi, chán
nản...
- Chào người anh em trẻ!
Câu chào của ai đó làm cho Lê Thanh giật mình quay
lại. Một lão già người thượng quẩy chiếc gùi trên lưng, đang đi từ một con
đường nhỏ băng ra. Họ chẳng quen nhau, nhưng thường người đi hay chào hỏi nhau
nếu bất chợt gặp nhau giữa rừng.
- Dạ, chào già... ông cũng đi săn?
Ông lão cười nhe ra hai cái răng còn lại chổng trơ
trên hàng nướu thâm xì:
- Anh trẻ đi săn gì? Có giống già đi tìm con tra
trả hay không?
(Thanh đã có nghe về con chim gọi là tra trả này,
nó là loài chim chuyên bám theo các loại thú dữ như cọp, beo để kêu lên mỗi khi
loài ác thú xuất hiện. Người đi rừng thường bảo loài chim đó giống như loài
chim báo bão ngoài biển khơi. Nó là loài cứu tinh của con người!)
Anh hỏi thăm:
- Rừng này có ông hổ nào có loài chim đó?
Lão già vẻ sợ hãi:
- Đây là hang ổ của chúng, sao lại không có! Mà sao
anh trẻ đi một mình và không mang theo cái cây bùm bùm?
Biết ông già hỏi đến súng, Thanh cười đáp:
- Cháu không đi tìm ông hổ thì đem súng theo làm gì
già ơi! Hổ sẽ không hại người khi người không tìm đến chúng phải không?
Lão già thượng rùn vai: - Người ta nói vậy, chớ ở
đây người đi rẫy, lên nương bị “ông” hạ hoài. Phải nói là không có ý săn hổ,
nhưng có tiền kiếp thâm thù với hổ, thì cũng bị “ông” sát khi gặp mặt.
- Vậy già đi tìm chim tra trả để làm gì?
- À, già tìm cho Thần Hương. Thần ra lệnh đi tìm,
bảo chim mau về đây, mang ông hổ cùng về, để giúp thần đuổi bọn xấu đi!
Lê Thanh ngạc nhiên: - Thần Hương là ai? Có phải là
Thần Trầm hay không?
Nghe Thanh nói, già thượng hoảng hốt:
- Đừng nói tên đó ra!
- Tên nào?
Lão hạ thấp giọng như sợ có người nghe:
- Ở đây không ai gọi là trầm hương cả, mà phải gọi
là Thần Hương!
Lê Thanh càng tò mò thêm:
- Sao lại có Thần Hương?
Thấy anh chàng quá lờ mờ, già thượng phải nói rõ
hơn:
- Lâu nay nhiều người đổ xô về đi tìm trầm, họ tận
dụng chặt phá không chừa cây già đến cây con. Chỉ có những loài trầm hóa kiếp
rồi mới thoát nạn, nhưng các vị ấy đã nổi giận!
Chạm vào đúng mục đích của mình, Thanh hỏi tới: -
Sao lại gọi là trầm đã hóa kiếp?
- Thì… trầm đã hiển linh, đã không còn là trầm mà
bất cứ ai cũng có thể nhìn thấy.
- Thì ra là thế!
Lê Thanh nhớ lại những chi tiết về cái chết của ông
nội, rồi tai nạn của cha, anh liên tưởng đến điều mà già thượng vừa kể. Anh hỏi
lại:
- Trầm đó có lấy được không?
- Trầm nào?
- Trầm hiển linh ấy!
Lão già nhẹ lắc đầu:
- Đừng hòng.
Ông ta đáp xong đưa mắt nhìn Lê Thanh ra vẻ ái
ngại. Rồi lặng lẽ bỏ đi mà chẳng nói thêm một lời nào... Anh chàng định gọi
lại, nhưng nghĩ sao lại thôi. Đợi lão kia đi xa rồi Thanh mới rẽ về một hướng
khác, nơi mà hôm trước anh đã từng đi qua, mà cũng là địa điểm mà theo lời chỉ
dẫn của cha, ông đã từng ở đó lâu ngày và đã tìm được dấu vết của trầm hương.
Đến xế chiều hôm đó, chợt có một cơn mưa lớn. Lê
Thanh đã thủ sẵn mọi thứ, nên chỉ trong vòng 5 phút anh đã mắc được chiếc võng
treo lơ lửng giữa hai nhánh cây và có cả tấm bạt che mưa.
Mưa ở rừng có khi kéo dài cả ngày, nhưng cũng có
những cơn mưa chỉ ồ lên một chút rồi ngừng, như cơn mưa hôm nay. Mưa tạnh, nhìn
đồng hồ thì đã quá giờ, nên Lê Thanh quyết định ngủ lại, sáng mai sẽ đi tiếp.
Theo anh nhẩm tính thì đã sắp đến địa điểm có ghi
dấu của cha và ông nội, Thanh yên tâm chờ đêm xuống... Giật mình tỉnh giấc bởi
mùi hương nức mũi, Lê Thanh nhìn xung quanh một lượt, nhận ra mình vẫn nằm yên
trên võng treo giữa hai thân cây. Ánh trăng trên đỉnh đầu sáng trong tỏa khắp
khu rừng, mà bằng mắt thường cũng nhìn thấy vạn vật như đang lay động theo từng
cơn gió. Đêm rừng đẹp lạ thường! Và còn đẹp hơn khi Thanh chợt nhìn xuống gốc
cây và bắt gặp một người con gái đang đứng co ro, mái tóc xõa tung bay theo
gió...
- Cô là…?
Thanh hỏi rất khẽ, nhưng cô gái đứng dưới vẫn nghe,
cô không nhìn lên, thốt lời:
- Thật vô tình, mình nằm ngủ ấm áp như thế, để
người khác lạnh cóng cả người…
Trước hoàn cảnh bất ngờ, Lê Thanh lúng túng: - Cô
là… là ai vậy? Tại sao nửa đêm lại ở đây? Cô là…
- Hỏi gì mà lắm thế? Không kịp để cho người ta trả
lời!
- Nhưng... cô là...
- Là người thiếu lịch sự, ngồi trên cao nói chuyện
với một người đang sắp chết vì lạnh dưới này, coi được lắm sao!
Bây giờ Lê Thanh mới nhớ ra, anh chuẩn bị bước
xuống thì đã nghe nàng ta cười khúc khích:
- Thôi, để người ta lên!
Nói xong, cô này thoăn thoắt leo lên, còn giỏi hơn
là Thanh lúc leo lên ban chiều.
- Cô biết leo cây?
- Nếu không tập leo thì đã bị hổ ăn thịt từ đầu hôm
rồi. Vừa rồi... chỉ vì ngại nên... người ta mới còn đứng đây, chớ còn mùi hổ
đang rất gần đây.
Vừa lúc ấy Thanh nghe tiếng chim tra trả kêu lên
liên hồi. Dấu hiệu có hổ đến gần! Không còn kịp suy nghĩ, Thanh đưa tay kéo cô
nàng lạ mặt lên ngay cùng chung võng với mình. Cũng may dây võng khá chắc nên
hai người ngồi vẫn an toàn.
Tuy vậy Thanh vẫn nói:
- Hay để tôi qua cành cây ngồi, cô nằm nghỉ...
Cô gái liếc nhìn rất sắc:
- Lịch sự có thừa, đúng là người thành phố!
Bây giờ Thanh mới kịp nhìn kỹ cô gái, bất chợt anh
giật mình, bởi sắc đẹp lạ thường của cô nàng!
- Cô là...
- Lại hỏi nữa! Hay Ià không muốn cho người ta chung
võng?
- À không, tôi chỉ...
Có thể thông cảm cho sự lúng túng của anh chàng,
nên nàng ta nói, giọng khác hẳn nãy giờ:
- Em theo đoàn đi săn bắt hổ, bị hổ rượt đuổi nên
lạc đường.
- À, thì ra...
- Còn anh, sao lại chọn rừng già đầy hiểm nguy này
nằm ngủ, hay là muốn làm bạn với thú dữ?
- Cô hiểu như thế cũng không sai.
Bây giờ đã xác định hương thơm lừng nãy giờ là do
từ thân thể cô gái phát ra, Thanh đột ngột đưa mũi dí sát vào mái tóc nàng ta
và hỏi: - Có phải cô ướp hương trầm? Cô gái nhìn sâu vào mắt Thanh: - Anh không
thích?
Lê Thanh hít một hơi dài: - Chỉ vì mùi hương này mà
tôi nguyện gắn cuộc đời mình với chốn này.
Nàng chau mày: - Anh đi tìm trầm?
Thanh không giấu:
- Tôi không chuyên nghiệp, nhưng vẫn là người tìm
trầm hương. Mà như vậy thì có gì không nên chăng? Nàng nhẹ lắc đầu: - Đâu có
sao. Miễn là...
Nàng có vẻ như muốn tránh không muốn nói chuyện đó,
nên lảng sang chuyện khác:
- Anh có biết là vùng này có hổ?
- Có. Tôi có nghe ông già thượng nói lúc chiều. Cô
cũng biết?
- Không, em bị lạc đường... cũng may có anh. Anh
là...?
Lê Thanh chợt nhớ ra: - Nãy giờ quên không giới
thiệu, tôi là Lê Thanh. Còn cô?
- Lệ Hương.
Lúc ấy chợt có một tiếng gầm thật lớn. Có lẽ lũ hổ
đang đến gần.
Lệ Hương vội ôm chặt lấy Thanh, người run run lên
nhè nhẹ. Mặc dù cũng sợ, nhưng có hơi ấm của cô nàng, đồng thời hương thơm lạ
thường cứ phả vào mũi, đã làm cho anh như ngất ngây, quên cả loài mãnh thú đang
rình rập dưới kia.
Một con hổ thật to đi thẳng về chỗ hai người. Cách
khoảng hơn chục bước chân, bỗng nó dừng lại, nghểnh cổ lên nhìn và rõ ràng hai
cánh mũi nó phập phồng như ngửi hương thơm kỳ lạ đó vào buồng phổi. Vài mươi
giây trôi qua, rồi bỗng dưng con hổ quỳ phục xuống như một người đang quỳ gối!
Mắt nó hướng chỗ hai người như chờ đợi...
Lê Thanh muốn tiếp tục theo dõi động tĩnh của con
hổ, nhưng vòng tay của cô nàng ghì chặt cổ anh xuống. Giọng cô thật khẽ:
- Em sợ... hãy ôm chặt vào... nữa... vào nữa...
Trời đất như quay cuồng, đảo lộn... Lê Thanh dần
dần có cảm giác như toàn thân mình nóng ran lên, đôi mắt muốn mở ra mà sao
không tài nào mở được.
Chừng như có bàn tay ai đó lùa vào ngực anh và vuốt
nhẹ xuống. Cái vuốt tay đến đâu người anh run lên đến đó...
- Nè, cái anh trẻ ơi! Làm gì mà giờ này còn nằm
trên võng vậy?
Lão già thượng gọi ba bốn lần vẫn chẳng thấy động
đậy, nên lầu bầu:
- Mặt trời đã đứng bóng rồi, sao vẫn còn ngủ...
Linh tính như báo điều chẳng lành, lão đặt gùi
xuống rồi leo lên cây. Phát hiện Lê Thanh đang nằm bất động hai mắt nhắm
nghiền, lão kêu lên:
- Anh trẻ sao vậy?
Vẫn không có phản ứng, lão đưa tay sờ lên trán rồi
lên mũi và hoảng hốt:
- Không xong rồi! Trúng gió rừng rồi!
Khó khăn lắm lão mới mở được võng đưa Thanh xuống.
Anh chàng đã ngất lịm từ lúc nào rồi, người lạnh như băng. Có điều lạ là dù
không biết gì, nhưng hai bàn tay anh chàng vẫn ôm ghì lấy khúc gỗ được đẽo gọt
giống như một hình nhân, một mỹ nữ! Lạ hơn nữa, hương thơm phát ra từ khúc gỗ
đẽo làm cho lão thượng phải ngẩn ngơ. Lão lẩm bẩm:
- Trầm hương! Thần hương!
Lão chợt nhìn ra sau, thấy con hổ vẫn quỳ ở đó, thì
thật nhanh, lão chấp tay lại, đọc lầm thầm gì đó trong miệng.
Con hổ hiền khô, nó từ từ đứng lên rồi đi biến vào
rừng cây.
Cất tiếng hú mấy hồi dài... lát sau người làng của
lão thượng tới bốn, năm người nữa. Lão bảo họ khiêng Thanh về bản. Để mọi người
không nhìn thấy, lão khéo léo lấy áo choàng của Thanh quấn chặt anh lại, nhét
pho tượng vào trong đó.
Lão tỏ ra vô cùng cung kính khúc gỗ trầm. Gần như
không dám chạm mạnh vào.
Về đến bản, nhờ có thuốc gia truyền, đồng thời
chừng như đoán được căn bệnh của Thanh, nên đến tối hôm đó thì Thanh tỉnh lại.
Vừa tỉnh, anh đã bật dậy hỏi ngay: - Nàng đâu?
Lão già thượng ngạc nhiên: - Nàng nào?
Chợt nhận ra trong tay mình có pho tượng gỗ trầm,
đến phiên Thanh ngơ ngác: - Cái này... ở đâu vậy?
- Thì của cậu. Lúc tôi leo lên võng thì thấy cậu bị
ngất mà trong tay vẫn còn ôm chặt lấy pho tượng này. Chẳng của cậu thì của ai?
Lê Thanh nhớ lại chuyện hôm qua. Anh lẩm bẩm: - Thì
ra...
- Cậu nói gì?
- À, không. Cháu chỉ...
Thanh săm soi pho tượng thật kỹ, hương thơm từ đó
phát ra nức mũi, chẳng khác mùi hương của cô gái lạ đêm qua.
- Hay là…?
Anh quay sang lão thượng, hỏi:
- Có một đoàn đi săn ở gần đây phải không?
Lão già lắc đầu: - Đây là vùng cấm săn bắn, mà cũng
đã lâu chẳng hề nghe thấy cuộc đi săn nào.
Thanh muốn kể lại chuyện cô gái, nhưng lưỡng lự một
lúc rồi thôi. Anh chỉ nói:
- Cháu muốn nghỉ nhờ ở đây đến sáng mai.
Lão già thượng thật lòng: - Anh trẻ muốn ở bao lâu
cũng được. Bởi vì già này có hứa với Thần Hương hễ ai là bạn thì sẽ bảo vệ tới
cùng.
- Nhưng cháu đâu phải là bạn?
Chỉ pho tượng gỗ, lão nói: - Pho tượng này theo lão
biết thì đã ở trong hang gió từ mấy chục năm rồi, không một ai lấy được. Theo
truyền thuyết thì tượng này do một người đi tìm trầm, khi bị kẹt dưới hang
không lên được, đã bỏ ra mấy tháng trời mới tạc xong pho tượng này bằng chính
khúc gỗ trầm do mình tìm được. Tạc xong tượng thì ông ta chết. Hiện nay xương
cốt trong Hang Gió. Hang quá hiểm trở, không một ai xuống đó được. Vậy anh trẻ
có được pho tượng này chắc là… có điều gì đó thiêng lắm…
Thanh nhớ lại có lần cha mình đã muốn kể rõ về cái
chết của ông nội đi lấy được trầm thì bị rơi xuống vực. Rồi thôi, không kể nữa…
có thể xác chết trong hang Gió đúng là ông nội của anh? Ông đã chết thảm và đầy
bí ẩn như thế, chớ không như lời kể của cha. Giờ đây kết nối câu chuyện của ông
già thượng, Thanh bắt đầu hiểu ra…
Nhưng tại sao anh có được pho tượng này, nếu không
do cô gái lạ hồi đêm? Thanh khẩn thiết van nài lão già: - Cháu có liên quan đến
người bỏ xác trong hang Gió mà lão vừa nhắc tới đó. Cháu muốn biết có phải lúc
sáng lão nói về cây trầm hương hiển linh có liên quan đến tượng này?
Có lẽ muốn giấu, nhưng thấy thái độ thành khẩn của
Thanh, nhất là khi nghe anh nói mình là cháu của bộ hài cốt trong hang, lão
trầm ngâm một lúc rồi nhẹ giọng kể: - Chuyện này già đã thề dưới hang Gió là
không nói cho ai biết. Nhưng đến nay có lẽ già cũng phải phá lệ thôi. Hồi đó,
có lẽ cũng ngót 20 năm rồi, già mạo hiểm đuổi theo một con chồn bị thương chạy
vào hang Gió và bị lọt xuống hang, ở đó già tình cờ gặp một bộ xương tay còn ôm
pho tượng trầm tỏa hương này. Trên vách hang có mấy hàng chữ viết bằng máu đã
sẫm màu, ghi lại ý nguyện của người đó trước khi chết...
Không đợi lão kể hết, Thanh chen ngang:
- Viết gì vậy?
Lão kể tiếp: - Người ấy dặn con cháu không nên tìm
lấy trầm hương nơi này nữa, bởi đây là trầm thiêng. Bởi nó quá thiêng nên ai
tìm thấy nó đều chịu nhiều bất trắc. Cũng như người đó, tiết lộ rằng trong lúc
đốn trầm đã vô tình gây thương tích và để lại máu thấm vào thân trầm hương. Mà
dân rừng ở đây ai cũng đều biết, một khi máu người thắm vào trầm thì khúc trầm
đó sẽ... thành tinh!
Lão kể tới đây thì lạc hẳn giọng, liếc nhìn pho
tượng gỗ trầm, lộ vẻ sợ sệt…
Lê Thanh xiết chặt pho tượng vào lòng, anh quay qua
chỗ khác, nói chỉ mình nghe: - Đúng cô nàng ấy là...Lão già thượng hỏi: - Cậu
nói gì?
- Dạ... không có gì.
Lê Thanh về thành phố mang theo cả pho tượng trầm
hương. Về nhà, anh lục tìm trong tủ sách cha để lại, thật bất ngờ, anh bắt gặp
một quyển sổ tay mà trong đó có những dòng mà do chính tay cha anh ghi lại: -
“Tôi hai lần trở lại chỗ Hang Gió, cố tìm cách thâm nhập vào hang để đưa xác
cha về, nhưng lần nào cũng thất bại. Tôi đã giấu không kể hết sự thật về cái
chết của ông nội thằng Lê Thanh cho nó nghe, chỉ sợ nó sau này lặp lại điều mà
ông nội nó phạm phải. Kể cả tôi, suốt gần mười năm tìm trầm chưa bao giờ tôi
dám nghĩ chuyện trở lại Hang Gió lần nữa, mặc dù cho đến hôm nay hài cốt cha
tôi vẫn chưa đem về được...”.
Thế là rõ, những gì ở Hang Gió có liên hệ trực tiếp
tới nhà anh. Đặc biệt là pho tượng gỗ trầm này…
Kể từ hôm trở về nhà Thanh đặt pho tượng lên trên
đầu tủ ngay trong phòng mình. Nhưng ngay đêm đầu tiên, giữa giấc ngủ, anh phải
giật mình bật dậy nhiều lần, bởi cứ khi nào nhắm mắt là y như rằng có một thứ
ánh sáng xanh kỳ lạ phát ra từ pho tuợng!
Cứ ngỡ là do mình đi xa mới về còn mệt nên bị tình
trạng như vậy. Nhưng đến đêm thứ hai, thứ ba vẫn xảy những chuyện giống như
thế. Điều này đã làm cho Thanh bắt đầu lo ngại.
Tới ngày thứ năm Thanh chuyển bức tượng ra phòng
khách, nơi có tủ thờ ông nội và cha. Tượng được để trang trọng trong một hộp
kính, đặt trên một tủ thờ riêng. Đêm đó quả nhiên những cơn ác mộng không xảy
ra nữa. Lê Thanh ngủ yên tới sáng.
Nhưng có một điều lạ thường đã xảy ra vào sáng sớm
hôm đó! Vừa bước ra phòng khách, Thanh đã sững sờ trước một bộ hài cốt đặt ngay
dưới chân bàn thờ. Trong nhà chỉ một mình Lê Thanh sống, lúc ngủ cửa nẻo đều
đóng kín, khóa chặt. Như vậy nhất khoát không phải do ai mang bộ xương vào
nhà...
Lúc xem kỹ lại bộ hài cốt, Thanh phát hiện ở xương
cổ còn có một thẻ bài bằng kim loại, trên đó ghi rõ danh tính là Lê Văn Hạo. Đó
chính là ông nội của Lê Thanh!
Lê Thanh sống yên ổn với bức tượng gỗ trong nhà.
Còn hài cốt ông nội thì anh mai táng ngay vườn sau nhà.
Cuối năm đó Thanh có ý định lấy vợ. Cô gái anh dự
tính lấy tuy không phải do mối tình lãng mạn, nồng thắm... Tuy nhiên, do có
người mai mối, đồng thời Thanh cũng muốn có người tiếp tay lo chuyện nhà nên
Thanh đồng ý, chuẩn bị chọn ngày làm lễ hỏi.
Nhưng thật lạ lùng, nửa đêm hôm đó bỗng nhiên những bát nhang đặt trên bàn thờ
bốc cháy dữ dội. Khi Thanh phát hiện chạy ra thì lạ hơn nữa, cái hộp kính bao
pho tượng trầm bỗng nổ to và vỡ ra từng mảnh. Thứ ánh sáng xanh hôm trước lóe
lên rất lâu!
Như được báo trước một điều gì đó, tự nhiên Thanh
đổi ý, hủy lễ hỏi sáng ngày mai. Dù bị khá nhiều rắc rối ngay sau đó, nhưng
Thanh cam chịu, không hối tiếc điều gì…Và cũng lạ lùng hơn, kể từ hôm ấy, nếu
Lê Thanh đóng cửa ở trong nhà thì không có việc gì, trái lại nếu anh ra đường
và có quan hệ với ai là nữ giới, thì y như rằng bàn thờ tổ tiên nhà anh bốc
cháy! Mỗi lần như vậy thì pho tượng cũng phát ra lửa xanh kỳ lạ, rồi tự nhiên
mùi hương nức mũi cũng biến mất. Hiểu điều đó, nên kể từ đó Thanh chỉ đóng cửa
và luôn nhang khói đều đặn cho cả pho tượng trầm hương.
Về sau, người ta đồn rằng cậu Lê Thanh có quan hệ
với hồn ma hay một người con gái nào đó trong nhà mình. Cô ta chỉ xuất hiện vào
ban đêm và mỗi khi xuất hiện thì mùi hương lạ thường lan tỏa khắp xóm.
Hư thực ra sao, chỉ có Lê Thanh mới biết...
Chỉ có điều là hàng chục năm sau vẫn chẳng thấy anh
chàng lấy vợ. Vậy mà ngôi nhà anh ta ở lúc nào cũng như tràn đầy hạnh phúc…
HỒN AI TRÊN ĐÈO CẢ
(Tác giả: Người Khăn
Trắng)
Phần 1 - Goá Phụ Tuổi 17
Vừa cưới nhau được hai mươi ngày thì một tin sét
đánh đến với cô dâu trẻ Hà Thanh. Cô nhận điện tín báo rằng người chồng đang
làm việc ở một nhà máy xa đã bỗng nhiên mất tích trong một vụ tai nạn nổ bình
hơi. Người ta đoán Vượng, chồng của Hà Thanh bị chôn vùi dưới đống đổ nát.
Khỏi phải nói Hà Thanh đau khổ đến cỡ nào. Cô chết
ngất nhiều lần từ sau khi nhận được tin, và cứ đòi đi ra hiện trường ngay lúc
nửa đêm, mặc dù từ nhà ra đó đến gần một ngàn cây số!
Chiều ngày hôm sau, Hà Thanh và bà mẹ chồng mới ra
tới nơi. Nhưng chỉ mới tới thị xã, muốn đi vào hiện trường, một nhà máy khai
thác vàng, thì phải ngồi xe thồ hơn 5 giờ nữa. Đến hơn 9 giờ tối hôm đó, hai mẹ
con mới tới được công ty khai thác vàng Vạn Phong, nằm giữa rừng già.
Người ở công ty đón tin Hà Thanh tới bằng một thái
độ dè dặt, khiến hai mẹ con lấy làm lạ. Hỏi một bác tài lái xe về hiện trường
thì anh ta có vẻ không hào hứng lắm:
- Ra hiện trường phải đi mất nửa buổi, mà bây giờ
thì tối quá rồi, chẳng làm cách nào đi được.
Bà mẹ của Vượng sốt ruột:
- Tôi không thể chờ đợi đến sáng mai được. Nếu các
anh không đưa tôi đi thì cho tôi mướn ai đó dẫn đường, chúng tôi đi bộ cũng
được!
Hà Thanh cũng nói: - Giá nào chúng tôi cũng phải ra
đó ngay đêm nay!
Họ phải đi báo ngay cho ban giám đốc và một lệnh được
ban ra:
- Không cho đi. Bởi đây là khu vực cấm đi lại ban
đêm!
Và hình như họ cũng ra lệnh cấm mọi nhân viên không
ai được giúp mẹ con Hà Thanh. Bà Dung, mẹ Vượng bàn riêng với con dâu:- Mình
đợi họ ngủ rồi lén ra nhà dân gần đây, mướn họ dẫn đi.
Và họ đã được toại nguyện. Khoảng mười giờ đêm hôm
đó, bà Dung và Hà Thanh đã lần tới được một nhà dân gần đó. Sau khi hỏi thăm,
họ được chủ nhà nhiệt tình cung cấp thông tin:
- Chỉ duy nhất ông kỹ sư Vượng là còn kẹt dưới đó.
Đã có năm người khác được đưa ra khỏi, ba người chết, hai người sống. Nhưng
chẳng biết sao từ trưa đến giờ, trong nhà máy lại ngừng hoàn toàn cuộc tìm kiếm
người còn mất tích đó?
Càng nghe kể, mẹ con Hà Thanh càng khóc dữ. Nhất là
Hà Thanh, cô gào lên:
- Họ giết chồng con rồi! Biết đâu nếu tích cực tìm
kiếm, thì anh Vượng có cơ may còn sống sót!
Bà Dung đề nghị thẳng:
- Có ai ở đây đưa chúng tôi vào chỗ đó, tôi trả cho
hai chỉ vàng?
Một người trong nhà tình nguyện:
- Tôi không lấy tiền, vàng của bà. Chỉ vì bức xúc
nên tôi sẽ đưa bà và cô đây đi vô điều kiện. Chỉ có điều đường đi hơi cực, sợ
e...
Cả bà Dung và Hà Thanh đều cả quyết:
- Cực mấy, khó mấy chúng tôi cũng đi!
Có hai người đàn ông dẫn đường, và họ đã đi ngay
sau đó. Trên đường đi, một người dẫn đường tiết lộ: - Nghe nói trước ngày xảy
ra tai nạn thì giữa kỹ sư Vượng và nhóm người trong ban giám đốc đã xảy ra một
cuộc cãi vã dữ dội lắm. Kỹ sư Vượng là người đứng về phía công nhân, phản đối
chuyện tăng ca và bắt công nhân phải lao động ở hầm sâu mà không có các phương
tiện bảo hộ. Cuộc cãi vã dẫn tới cuộc đình công hai ngày liền. Bữa bị tai nạn
là bữa làm việc đầu tiên sau đình công. Kỹ sư Vượng đang xuống tận hầm sâu thu
thập chứng cớ để phản đối ban giám đốc không cho mạng sống người lao động. Lúc
đang làm việc dưới đó thì hầm sụp, kỹ sư Vương và gần chục công nhân bị mắc kẹt
lại.
Tới nơi, nhìn hiện trường còn ngổn ngang gạch đá,
bà Dung kêu trời:
- Làm việc trong điều kiện như vậy bảo sao không
xảy ra tai nạn! Cũng tại con tôi cả sao lại đi làm ở một nơi xa xôi, hiểm trở
và nguy hiểm như thế này!
Bà khóc khiến cô con dâu cũng khóc theo. Hai người
dẫn đường khuyên:
- Lúc này mà khóc lóc thì chẳng giải quyết được gì,
chỉ làm rối thêm mà thôi. Bây giờ bà và cô muốn ngủ lại đây hay là về rồi mai
vào lại?
Bà Dung cương quyết bảo:
- Cứ ngủ lại. Ngủ ngồi ngủ đứng gì cũng được!
Hai người dẫn đường nói:
- Chúng tôi có một lán trại ở gần đây, bà và cô có
thể tới đó ngủ tạm, tuy không tiện nghi, nhưng cũng đủ ấm.
Cám ơn hai người tốt bụng, bà Dung động viên con
dâu:
- Ráng chịu đựng con!
Hà Thanh siết chặt tay mẹ chồng, trấn an bà:
- Con chịu được, chỉ sợ má...
Bà Dung ôm con dâu vào lòng: - Tội nghiệp con dâu
tôi, mới ngần này tuổi mà đã...
Bà ngừng nói, bởi biết hễ nói thêm thì hai mẹ con
lại khóc nữa. Khi về tới lán trại thì hai người đàn ông nói để họ an tâm:
- Hai người cứ ngủ yên bên trong. Tụi tôi sẽ ở
ngoài này ngồi uống rượu, hút thuốc chờ sáng, vừa để canh phòng.
Bà Dung nằm ôm chặt Hà Thanh vào lòng, đến lúc này
hai mẹ con mới khóc. Sự dồn nén nãy giờ đã được dịp trào ra. Nhất là Hà Thanh,
cô khóc to đến nỗi những người ở ngoài cũng nghe được. Họ định ngăn cô lại,
nhưng thương cảm, nên họ cứ để cho cô khóc.
Đêm khuya dần...
Bên trong tiếng khóc đã dứt, có lẽ quá mỏi mệt nên
hai người đàn bà đã ngủ say...
Hai người dẫn đường đã nhậu đến hơn nửa chai, một
người nói:
- Thôi, uống quá thức không nổi!
Họ là dân đi rừng chuyên nghiệp, nên chuyện thức
trắng hoặc ngủ ngồi giữa rừng là chuyện thường tình. Tuy nhiên hôm nay thì lại
khác, khi ngừng uống bỗng một người nói:
- Anh thấy sao Văn Hai? Chớ tôi sao... chóng mặt
quá, đầu lại nhức như búa bổ!
Người được gọi là Văn Hai giọng lè nhè:
- Hồi nãy anh lấy chai rượu ở đâu vậy, Lý Mật?
- Thì lá ở chỗ mình hay giấu rượu...
Văn Hai hình như phát hiện ra điều gì đó, anh ta
kêu lên mà không còn kêu nổi, chỉ lắp bắp:
- Bị... bị... tụi nó...
Rồi anh ta ngã lăn ra. Anh chàng tên Lý Mật cũng
chẳng còn đứng vững nữa, ngã nhào theo.
Vừa khi ấy có bốn người xuất hiện. Họ trùm kín mặt
mày và chỉ nghe họ nói rất khẽ:
- Lôi hai thằng này ra trói ngoài bụi kia, nhớ bịt
miệng chúng lại?
Hai tên thi hành ngay. Còn lại hai tên thì hất hàm
bảo nhau:
- Tính luôn hai con trong kia!
Hai tên bước nhanh vào trong, nơi mẹ con bà Dung
đang nằm ngủ. Không có đèn, nên chúng phải mò mẫm... Tuy nhiên, có lẽ đã quá
quen với lán trại này, nên một trong hai tên đã rất nhanh tay, chụp ngay một
người đang nằm, cho lên vai và chạy nhanh ra ngoài. Tên còn lại cũng làm như
vậy, vác nốt người đang nằm ngủ kia. Không có một phản ứng nào.
Ra tới một vạt rừng thưa, hai tên kia đặt hai người
trên vai xuống. Nhờ ánh trăng vừa lên ngay đỉnh đầu, nên bọn chúng có thể nhìn
rõ mặt hai người đang nằm dưới đất. Cả hai bỗng kêu thét lên:
- Trời ơi!
Rồi cả hai tên đều ngã lăn ra, bất động, có lẽ do
quá sợ hãi!
Trời đêm sáng dần...
Gà gáy rộ ở chung quanh...
Mặt trời đang lên...
Khi trời sáng hẳn thì lại có đến gần chục tên khác
kéo tới. Đi đầu là hai tên giám đốc và phó giám đốc công ty khai thác vàng.
Hình như đã biết rõ những chuyện xảy ra đêm hôm trước, nên cả bọn đều kéo thẳng
đến chỗ hai tên nọ vác người bỏ xuống.
- Cái gì đây anh Tám ơi?
Một tên thủ hạ thét lớn khi về nhìn thấy bốn người
nằm im dưới đất. Mấy tên đầu lĩnh bước tới rất nhanh và chúng nhận ra ngay hai
tên bịt mặt là thủ hạ của mình và hai cái xác đã gần rã thối!
Người được gọi là anh Tám cũng phải bước thối lui
và kêu lên thật thanh:
- Sao có chuyện này tụi bay?
Trước mặt họ hai cái xác kia hoàn toàn không phải
là mẹ con bà Dung! Một tên thủ hạ nhận ra:
- Đây là hai công nhân còn bị chôn vùi cùng với
thằng kỹ sư Vượng đây anh Tám!
Tám Thế, tên giám đốc hét bọn chúng:
- Đi tìm coi hai đứa đàn bà kia ở đâu. Đồ ăn hại,
bảo làm có chút việc mà cũng không xong!
Bọn chúng chạy trở vào lán trại tìm thì chẳng thấy
ai. Chạy ra ngoài rừng, chỗ hai người dẫn đường bị trói cũng chẳng hề thấy bóng
dáng họ đâu...
Tám Thế rụng rời cả chân. Linh tính báo cho hắn một
điều chẳng lành...
Phải mất gần một tiếng đồng hồ sau Tám Thế mới hoàn
hồn và giục bọn thủ hạ kéo xác về, hắn thì nhanh chóng trở lại văn phòng công
ty. Rồi từ đó tới hết giờ làm buổi chiều, hắn ở miết trong phòng làm việc,
không bước ra ngoài. Hắn gọi mấy tên thủ hạ đi làm nhiệm vụ đêm qua, nghe chúng
tường trình chuyện đã xảy ra. Một tên quả quyết:
- Dạ, tụi em đã cho thuốc mê vào rượu, khiến cho
hai tên dẫn đường nhiều chuyện phải gục tại chỗ. Sau đó tụi em khiêng nó ra
ngoài, trói lại bỏ đó, rồi hai thằng Mạnh và Hợi tiến vào trong lán, vác hai
con đàn bà còn say ngủ kia ra đúng nơi anh Tám dặn. Nhưng vừa lúc ấy nhờ có ánh
trăng, nên bọn em nhìn rõ mặt thì ra... không phải là họ! Tụi em sợ quá nên...
nên...
Thấy chúng ấp úng, Tám Thế thuận chân đá cho mỗi
đứa một đá, khiến cả bốn đứa ngã lăn cù.
- Cút hết đi, đồ ăn hại!
Sau khi bọn thủ hạ rút hết rồi, Tám Thế bóp trán
suy nghĩ. Hắn chẳng thể nào hiểu nổi tại sao cả bọn kia đều thoát được màn bủa
vây của hắn? Hay là có ai đến giải thoát chúng?
Nghĩ mãi không ra, hắn tự càu nhàu:
- Về nhà thôi. Mai tính...
Tám Thế theo thói quen, cứ mỗi chiều sau giờ làm là
về nhà ở gần công ty vàng. Bữa nay cũng vậy, hắn tự lái chiếc xe jeep qua vạch
rừng thưa để về nhà, nơi có vài chiến hữu của hắn đang đợi với bữa nhậu thịt
nai mới săn hứa hẹn linh đình...
Vừa qua khỏi tàn cây cổ thụ, chợt hắn nghe có người
gọi to:
- Anh Tám! Ghé chơi có chút việc anh Tám!
Tiếng kêu phát ra từ căn chòi của tên thủ quỹ thân
tín mà đáng lẽ bữa nay cũng có mặt trong bữa tiệc tại nhà hắn. Ngạc nhiên về sự
vẫn còn có mặt của tên thuộc hạ ở nhà, Tám Thế dừng xe và hỏi vọng vào:
- Sao mày chưa qua nhà tao hả Võ?
- Em đang định qua thì việc này quan trọng quá, nên
có ý đợi anh về, gặp riêng anh một chút.
Tám Thế bực mình:
- Có chuyện để mai tính đi mày, anh em người ta
đang đợi ở nhà tao.
Nhưng tên Võ vẫn cứ nằn nì:
- Chuyện liên quan đến tiền bạc, không để mai được.
Mình bị mất đến vài trăm lượng vàng trong vụ này, anh bảo trì hoãn được không?
Nghe tới mất tiền là Tám Thế rung động liền, hắn
quẹo ngay xe vào và hỏi tới:
- Làm sao mất?
- Thì anh vào nhà đi, em sẽ trình bày.
Tám Thế nhảy ngay xuống xe và đi trước cả chủ nhà.
Chợt nhìn thấy một người đang ngồi sẵn trong nhà, quay lưng ra ngoài, Tám Thế
khựng lại hỏi:
- Ai vậy mày?
Võ vừa đáp vừa bước hẳn vào nhà trong:
- Người ta đang đợi anh đó!
Người đàn ông quay lại và Tám Thế như chết điếng: -
Kỹ sư Vượng!
Trong lúc Vượng vẫn ngồi yên thì Tám Thế quỳ ngay
xuống trước mặt anh, miệng chỉ ú ớ chứ không phát thành lời.
Rất chậm rãi, Vượng từ từ đứng lên bước nhẹ về phía
Thế, miệng nở nụ cười héo hắt và từ trong miệng ứa ra một dòng máu tươi tràn
đầy khoé môi...
Tám Thế run lên, cố lắm mới thốt thành lời:
- Không... không phải tôi... không phải...
Vượng lặng lẽ đứng khoanh tay trước mặt Tám Thế,
miệng há ra, cho Tám Thế thấy trong miệng đó không có răng, cũng không có lưỡi!
- Tôi... tôi...
Tám Thế chỉ nói được mấy tiếng đó rồi lịm đi...
Việc Tám Thế đột ngột mất tích đã gây xôn xao toàn
công ty khai thác vàng.
Người ta tìm thấy chiếc xe jeep của hắn ta tại nhà
thủ quỹ Võ, nhưng cả anh chàng này cũng không cánh mà bay.
Hôm đó hầu như toàn bộ ban giám đốc đều tập hợp tại
nhà Tám Thế, bởi vậy khi xảy ra chuyện thì họ đều hay và tức tốc đi tìm. Tư Qui
phó giám đốc, sau một hồi suy nghĩ đã nói:
- Tốt hơn hết, chúng ta nên ai về nhà nấy để chờ
động tĩnh. Vụ này tôi nghi có chi không ổn đây...
Bản thân Tư Qui vừa trên đường về nhà vừa hoang
mang. Hắn như có linh tính gì đó....
Khi mới bước chân vào nhà hắn đã ngờ ngợ... nhưng
không lẽ nhà mình mà không vào? Tư Qui vừa vào tới phòng khách đã cất tiếng
hỏi:
- Giờ này tối mịt sao không đốt đèn lên tụi bay.
Hắn đưa tay bật đèn và há hốc mồm khi nhìn thấy
trước mặt mình một người treo cổ lơ lửng giữa nhà: - Trời ơi, thằng Vượng!
* *
*
Sáu Kế, một phó giám đốc khác, trấn an vợ Tư Qui: -
Bây giờ không còn gì để sợ nữa. Thằng kỹ sư Vượng sau khi thành ma hiện hình
chẳng làm được gì, và rồi treo cổ chết trở lại rồi. Tôi đã cho người chôn nó ở
thật xa, rước thầy mo ếm mả nó không cho nó về nữa!
Vợ Tư Qui vẫn chưa hết sợ:
- Chẳng biết thằng kỹ sư đó đã làm gì ông Tư Qui mà
từ đêm qua tới giờ, sau khi về nhà ông như người mất hồn. Cứ lâu lâu lại giật
mình chới với rồi hét lên như người điên!
- Chẳng qua anh ấy sợ hãi thôi. Thật ra ai mà không
sợ trước một người chết hiện hồn về!
Vợ Tư Qui hỏi thật khẽ:- Bộ thằng Vượng đã chết
trước đó hả? Sao nói nó còn kẹt trong hầm vàng?
Sáu Kế cũng thấp giọng như sợ có người nghe:
- Chuyện này đúng ra chỉ có tụi này biết thôi.
Thằng Vượng đã chết rồi, nhưng không phải chết trong hầm, mà là...
Vừa lúc ấy, có tiếng gọi ở ngoài:
- Có nhà không thím Tươi?
- Bà Tám Thế!
Vợ Tư Qui mừng rơn, bởi đang bấn mà gặp được đồng
minh tới, nên bà ta chạy ào ra cửa đón người phụ nữ quyền lực nhất của công ty
vào: - Vào đây chị, em đang muốn tìm chị đây, may quá!
Thấy cả Sáu Kế cũng có mặt, vợ Tám Thế nói liền: -
Mấy ông làm ăn thế nào mà để xảy ra tùm lum chuyện. Rồi chồng tôi mất tích mà
cũng chẳng thấy cha nào đi tìm kiếm hết là sao?
Không lạ với tính đanh đá dữ dằn của mụ ta, nên Sáu
Kế phải xuống nước nhỏ: - Tụi này đã nhờ người đi tìm rồi, riêng tôi với Tư Qui
vừa chuẩn bị đi thì xảy ra chuyện thằng Vượng...
Vừa nghe tới tên Vượng thì mụ Lệ, vợ Tám Thế giật
bắn lên:
- Thằng... thằng Vượng cũng... cũng tới đây sao?
Nhung, vợ Tư Qui ngạc nhiên:
- Chị Tám sao vậy?
Mụ Lệ chưa hết run:
- Nó... nó cũng tới nhà tôi nữa!
Sáu Kế hỏi lại:
- Khi nào?
- Mới sáng sớm này!
- Không thể có!
Mụ Lệ trừng mắt nhìn anh ta: - Sao, ông phó giám
đốc cho rằng tôi nói dối hả! Vậy thì đi với tôi, về nhà tôi chôn giùm cái xác
của nó!
Sáu Kế hốt hoảng: - Xác của ai?
- Thì của thằng kỹ sư mà các ông đã giết hại đó!
Nhung vợ Tư Qui muốn đứng tim trước tin đó:
- Sao... sao lại như vậy ông Sáu? Mấy ông đã đem
chôn rồi còn ếm bùa nữa mà?
Sáu Kế thất thần: - Không thể nào tin được. Chính
tay tôi đem chôn nó mới hồi sáng qua, vậy làm sao nó trở về liền được?
Tuy thắc mắc vậy nhưng trong lòng hắn ta đã rét
run, nghĩ tới một viễn cảnh bi thảm khó lường...
Mụ Lệ giục: - Mấy người mau qua tiếp tôi, làm cách
nào đưa cái xác đó ra khỏi phòng giùm! Tôi không tưởng tượng nổi...
Rồi mụ ta thuật lại:
- Đang ngủ bỗng tôi giật mình bởi có nước gì đó
nhểu lên mặt. Tôi chòng dậy mở đèn lên thì chẳng còn hồn vía gì nữa, khi ngay
trên trần nhà thòng xuống một cái xác mà máu từ trong miệng nó còn tuôn ra xối
xả. Đó là thằng kỹ sư Vượng!
Tuy sợ nhưng trước lệnh của mụ Lệ, nên Sáu Kế và bà
Nhung cũng phải theo mụ ta về nhà mình. Cùng đi với họ còn có thêm vài người
nữa mới huy động. Trước khi bước vào nhà, mụ Lệ còn dặn:
- Dùng cái mền lớn tôi đã để sẵn dưới sàn bao xác
nó lại rồi đưa đi ngay, đừng để cho tôi thấy!
Mấy người kia rụt rè bước vào phòng...
- Đâu rồi?
Từ trong, giọng của Sáu Kế vọng ra. Mụ Lệ hét lên:
- Sờ sờ đó, bộ mấy người mù sao chứ!
Cả vợ Tư Qui cũng nói ra từ trong phòng:
- Có thấy gì đâu?
Khi mụ Lệ đích thân bước vào thì mụ ta ngơ ngác: -
Ủa... sao lại...
Chẳng còn thấy cái xác nào hết! Chỉ còn sót lại
trên nệm giường một vài giọt máu.
Vừa ngượng vừa tức, mụ Lệ hét tướng lên:
- Ai ở nhà đã đưa xác đi đâu?
Nhưng nhà mụ ta lúc ấy đâu có người nào khác! Cuối
cùng, mụ ta ngồi bệt xuống sàn, bắt đầu rơi vào trạng thái suy sụp.
Giọng mụ mất đi sự đanh đá:
- Ông Tám ơi, ông gây ra chi những việc rắc rối này
để tôi phải chịu đựng, làm sao tôi sống nổi!
Vợ Tư Qui đồng cảm nên hai người ôm nhau rên rỉ: -
Chắc phải bỏ đây mà đi quá. Ai mà chịu nỗi cảnh cứ nhìn thấy xác chết như thế
này hoài, hở trời!
Sáu Kế cũng bắt đầu dao động, tuy nhiên hắn ta cáo
già hơn nên làm bộ như đau bụng, hắn bước ra ngoài và nói:
- Tôi đi ra ngoài này giải quyết chuyện. cái đã.
Rồi hắn ta bỏ đi luôn, để mặc cho hai mụ đàn bà ôm
nhau mà run!
Phần 2 - Quả Báo
Chiều hôm đó, người ta phát hiện xác của Sáu Kế nằm
ở bìa rừng, gần một cái hồ huyệt còn bỏ trống. Khi mấy tên thủ hạ chạy tới thì
chúng vô cùng sửng sốt, một tên nói:
- Cái huyệt này do ông Sáu sai đào để chôn xác ông
kỹ sư Vượng mà?
Chẳng biết là do ngẫu nhiên hay trời xui khiến, sau
đó đám thủ hạ cũng dùng hố huyệt đó chôn xác của phó giám đốc Sáu Kế! Khi bà vợ
hắn ta hay được, có phản đối, nhưng đã lỡ chôn rồi không lẽ lại đào lên?
Công ty khai thác vàng có một giám đốc, hai phó
giám đốc, nhưng một người thì mất tích, một người chết, còn lại Tư Qui thì điên
lọan! Do đó, công việc cứ rối tung lên. Không khí nghi ngờ, bàn tán xôn xao cả
công ty. Lại thêm vụ sập hầm vàng mấy hôm trước vẫn giải quyết chưa xong...
Có người ngại:- Công ty giờ như rắn mất đầu, biết
làm ăn ra sao?
Nhưng có một người khác lại nói ngược lại:
- Không còn mấy cha trong ban giám đốc không chừng
lại dễ làm ăn hơn. Bởi có họ chỉ tổ làm cho công việc thêm rắc rối với nhiều âm
mưu tranh giành, bòn rút!
Người nói chính là một trong hai người dẫn đường
cho mẹ con bà Dung bữa trước. Anh ta nói thêm: - Trong vụ kỹ sư Vượng bị mất
tích vẫn còn nhiều nghi vấn, tại sao ông ấy chết mà xác không có trong hầm?
Nhắc tới đây, mọi người nhao nhao lên:- Mấy bữa nay
cứ lu bu hết chuyện này đến chuyện kia, mình quên để ý, vợ và mẹ kỹ sư Vượng
đâu? Họ vừa tới đây bữa chiều đó rồi biến mất luôn. Có khi nào...
Cuộc bàn tán cứ lan ra dần. Đến chiều thì cả công
ty lại càng xôn xao nhiều hơn, khi có tin sáng mai sẽ có đoàn thanh tra về để
thanh tra những khuất tất tại đây
Lúc còn đang hoang mang thì lại có tin dữ: Đã tìm
thấy người cuối cùng còn mắc kẹt dưới hầm!
Ai cũng ngỡ là Vượng, nhưng sau đó lại ngẩn người
ra, bởi đó lại là một người rất lạ, mà anh ta lại còn sống sau ba ngày kẹt dưới
hầm tối?
Khi được kéo lên, sau hơn một giờ cấp cứu thì anh
ta tỉnh lại. Ban đầu hỏi anh ta là ai thì anh ta nhất định không nói. Mãi sau
khi trưởng ban bảo vệ hăm he và doạ giao cho cảnh sát thì anh này mới chịu
khai:
- Tôi được ông Tám giám đốc mướn về đây để thi hành
một nhiệm vụ...
Những dấu hiệu khả nghi đã dần lộ ra, nên Hai
Chiến, trưởng ban bảo vệ chụp lấy ngay:
- Làm nhiệm vụ gì phải nói ra ngay, nếu không tụi
tôi giải ra đồn cảnh sát bây giờ!
Tên nọ cuối cùng phải nhận tội:
- Ông Tám Thế trả tôi hai triệu đồng, bảo phải tìm
cách đưa một người vào trong này rồi khoá cửa hầm lại. Tuy nhiên, người mà tôi
sắp hại lúc đi nửa đường đã vùng chạy và sau đó hình như là bị nhiều người của
ông Tám Thế bắt lại và đưa đi nơi nào đó, chứ không xuống hầm vàng. Còn tôi thì
đã lỡ vào trong ấy rồi, trong lúc chưa kịp ra thì hầm bị sập, tôi kẹt lại đó
cho tới nay...
Ai đó nói sau lưng mọi người:
- Hành động đó là để thủ tiêu đầu mối đó!
Không biết là ai nói, mọi người dồn mắt nhìn về tên
thủ ác, bất ngờ hắn gào lên: - Nói đúng đó! Mấy bữa nằm dưới hầm tôi mới nghĩ
ra là mình bị lừa rồi, họ định thủ tiêu tôi luôn! Tôi nhớ ra rồi, người mà họ
bảo tôi thủ tiêu là ông kỹ sư tên là Vượng gì đó!
Ai đó lại nói: - Mấy người có tin là ông Vượng đã
hiện hồn về chưa?
Đám người này là công nhân, nên không hề hay tin
diễn ra trong nhà của các thành viên ban giám đốc, họ sửng sốt: - Có chuyện đó
sao?
Bảy Sự, một tài xế lâu năm của giám đốc Thế cũng
góp chuyện: - Chuyện ông Tám mất tích nghe nói cũng liên quan tới vụ kỹ sư
Vượng. Nghe nói cái chết của Sáu Kế cũng dính tới nữa. Người nhà của Tám Thế
nói họ thấy rõ ràng kỹ sư Vượng... treo cổ trong phòng bà Lệ!
Trước những thông tin như vậy càng gây cho mọi
người hoang mang hơn. Vài người nói: - Nếu vậy khi đoàn thanh tra đến thì lắm
chuyện rắc rối!
Sáng ngày hôm sau...
Công nhân nào vào ca làm việc thì cứ đi làm, riêng
ai chưa tới ca thì được triệu tập hết tại hội trường của công ty để nghe đoàn
thanh tra làm việc. Người họ mời đầu tiên dĩ nhiên là Tám Thế. Khi nghe tin Tám
Thế đã vắng mặt mấy ngày rồi thì một thanh tra viên có nhận xét:
- Có thể ông ta muốn tránh trách nhiệm.
Khi gọi đến Sáu Kế phó giám đốc thì ai nấy đều giật
mình khi được biết ông này đã chết được hai hôm! Hỏi Tư Qui thì một người nói:
- Ông ta phát điên đang bị nhốt ở nhà!
Vị trưởng đoàn thanh tra hạ lệnh:
- Bằng mọi cách, hãy đưa ông ta tới đây. Bởi ít ra
cũng phải có một người trong ban giám đốc trả lời thanh tra chứ.
Hai bảo vệ công ty được phái đi tới nhà Tư Qui. Tuy
nhiên, họ chưa đi thì Tư Qui xuất hiện. Anh ta tiến thẳng về phía bàn của đoàn
thanh tra, hất hàm nói kiểu ra lệnh: - Đi theo tôi!
Các thanh tra viên dĩ nhiên không thể nghe lời, họ
nghiêm giọng:
- Mời anh ngồi xuống ghế và nghe thanh tra hỏi!
Chẳng những không nghe, mà Tư Qui còn quay lưng đi
và ra lệnh hẳn hoi: - Đi nhanh kẻo không kịp!
Hắn ta cứ băng băng đi mặc cho những tiếng gọi giật
lại từ phía sau. Chẳng còn cách nào hơn, cả bốn người trong đoàn thanh tra phải
đứng dậy chạy theo.
Cả một đám công nhân cũng tháp tùng.
Họ được dẫn tới một nơi mà khi nhìn thấy, các công
nhân đã nhao nhao lên: - Hang quỷ!
Đấy là cái hang động bỏ hoang, là hang ổ của dơi,
chim, rắn rết. Hầu như không có bước chân người ra vào. Vậy tại sao Tư Qui lại
dẫn tới chỗ này?
Chưa ai kịp hỏi thì Tư Qui đã nói lớn: - Bằng chứng
là ở trong đó! Các ngài khỏi cần thanh tra chi cho mất công, cứ bước vào hang
ắt rõ mọi việc!
Các thanh tra viên vẫn còn lưỡng lự thì Tư Qui đã
xông vào trước. Hang động tối đen như mực, bỗng có người hô lớn: - Chờ đốt đuốc
đã!
Anh ta quơ đại một mớ củi nhỏ rồi dùng dây cỏ khô
cột lại thành một bó đuốc. Nhờ vậy đoàn người có đuốc dẫn đường, bước đi được
dễ dàng.
Vào không xa lắm thì mọi người phải giật mình dừng
lại. Bởi trước mặt họ là một người bị treo cổ lủng lẳng giữa động. Nhìn kỹ, một
người kêu lên:
- Là Tám Thế!
Ai cũng nhận ra đúng là giám đốc Tám Thế đang treo
mình trên không trung, thân xác đã cứng đờ?
Nhưng chưa hết, khi nhìn xuống dưới đất thì có thêm
ba người nữa đang nằm bên nhau, hai người bị trói là đàn bà, còn người kia
là... kỹ sư Vượng!
Không tin vào mắt mình, mọi người nhao nhao lên: -
Sao họ cùng ở đây?
Một thanh tra viên bước tới mở trói cho hai phụ nữ
thì mọi người mới phát hiện đó là vợ và mẹ của Vượng! Họ bất tỉnh, phải đưa ra
ngoài cứu chữa một lúc sau mới tỉnh. Phải mất hơn ba mươi phút, bà Dung mới vừa
khóc vừa kể:
- Chẳng biết sao chúng tôi lọt được vào hang. Khi
tỉnh lại, mẹ con tôi nhìn thấy thằng Vượng đang bị treo cổ chết tự lúc nào rồi
trong đó. Khó khăn lắm chúng tôi mới gỡ được nó xuống và định đưa ra ngoài để
đem về mai táng. Nhưng không được, xác con tôi tự dưng nặng đến không thể lay
chuyển được. Nên mẹ con tôi đành ở đó với nó, chờ xem có ai tới để mà kêu cứu.
Bất chợt có cái ông gì mà tôi nhớ khi tới đây chúng tôi có gặp, ông ấy là giám
đốc công ty. Ông chạy tới như bị ma đuổi và quỳ mọp xuống trước xác thằng Vượng
lạy lấy lạy để vừa van xin tha tội! Tôi còn chưa biết gì thì bỗng dưng trên trần
hang có một sợi dây thòng xuống, lay động như một con rắn, rồi xoắn lấy thân
thể của ông ấy kéo lên cao. Lão ấy vùng vẫy nhưng vẫn không thoát, cuối cùng
bất động cho tới hôm nay...
Bất chợt Tư Qui nói với mọi người: - Hãy kéo Tám
Thế xuống. Dẫu sao ông ta cũng đã chết rồi.
Mọi người lại kéo trở vào hang, lần này một người
công kênh người nữa mới đứng lên ngang với sợi dây thòng lọng. Hai người nữa ở
dưới đỡ hai chân xác Tám Thế, rồi một người hô to: - Chặt dây!
Sợi dây thòng lọng vừa được chặt đứt thì thật bất
ngờ, máu từ trong đó vọt ra có vòi!
- Một con rắn!
Thì ra sợi dây treo cổ Tám Thế là một con rắn cực
to! Đến khi bị chặt đứt mà thân thể nó còn vùng vẫy dữ dội!
Mẹ con bà Dung lúc này mới sợ đến toát mồ hôi. Hà
Thanh nói khẽ với mẹ chồng:
- Sao hai hôm nay nó không hại mình hả mẹ?
Bà Dung ngồi xuống bên xác con trai, giọng bà cũng
hạ thấp giọng: - Có nó che chở cho mình.
Các thanh tra viên cho người mang cả xác của hai
người về, nhưng riêng xác của Vượng thì chẳng ai nhấc lên nổi! Hà Thanh lên
tiếng: - Mọi người hãy ra ngoài hết, để tôi xin phép chồng tôi đã.
Lát sau, khi mọi người ra ngoài hết rồi, Hà Thanh
chỉ nhẹ chạm vào cái xác của Vượng, lập tức nó gần như bay là đà trên mặt đất.
Với thân thể ốm yếu như Hà Thanh mà đem được cái xác lúc nãy bốn người chuyển
không nổi, khiến mọi người trố mắt nhìn! Bà Dung vừa khóc vừa nói: - Con tôi
chết oan, nên nó linh lắm. Tối qua nó đã hiện về bảo rằng nó phải vạch tội được
bọn người đục khoét của công ty tại đây thì mới chịu ở yên dưới mồ!
Tư Qui nhớ lại chuyện đã xảy ra, hắn ta bỗng quỳ
xuống bên xác của Vượng, van xin:
- Tôi cũng có nhúng tay vào chuyện này, anh. Nhưng
thật ra tất cả là do Tám Thế và Sáu Kế, hai người đó âm mưu hại anh chết chỉ vì
anh là người biết việc bòn rút vàng khai thác được đem bán ra ngoài. Chúng muốn
trừ khử hết mầm họa để dễ thao túng nơi đây. Tôi hèn nên không dám đứng về phía
lẽ phải, và đã vô tình khiến anh phải chết. Việc bắt mẹ và vợ anh đem vào hang
trói lại là do tôi làm. Đúng ra thì họ đã bị giết chết, nhưng tôi không nỡ nên
trói lại bỏ đó. Xin anh lượng thứ cho tôi...
Anh ta bất thần lao đầu vào khối đá to trước mặt.
Nhưng cũng may, chính bà Dung đã kịp ngăn lại bằng cách chụp anh ta kéo lại.
Giọng bà buồn nhưng đầy nhân hậu: - Không thể lấy cái chết này bù cho cái chết
kia được. Con tôi đã không may chết rồi, cậu này tuy có nhúng vào tội ác, nhưng
cũng chưa đến đỗi táng tận lương tâm. Vậy cậu hãy sống mà kiểm điểm lại lương
tâm mình.
Bà đứng lên nói lớn: - Xin quý vị cho chúng tôi yên
trong một buổi. Chúng tôi muốn tự tay thiêu xác con mình rồi đem về quê nhà.
Chúng tôi cũng không muốn làm khó dễ gì ai. Việc gì đã qua cho qua...
Hà Thanh im lặng ngồi bên xác chồng. Thỉnh thoảng
cô nấc lên...
* *
*
Việc Hà Thanh bất ngờ có thai ngoài bản thân cô
ngạc nhiên, mà bà Dung cũng không tin nổi!
Hà Thanh thú thật: - Con mới có... cách vài ngày
trước khi hay tin anh Vượng mất, vậy làm sao có thể...
Vốn tin tưởng cô con dâu, nên bà Dung cũng quả
quyết: - Không thể có được!
Vậy mà khi đi khám, bác sĩ xác nhận rằng Hà Thanh
đã mang thai được hai tháng!
Ray rứt, hoang mang, nên suốt đêm hôm đó Thanh
không tài nào ngủ được. Cô cứ nằm đó khóc... đến nửa đêm, có lẽ trong giấc ngủ
ngắn chập chờn, cô nghe rõ có người gọi: - Bộ không muốn giữ con anh sao mà
khóc hoài vậy? Rõ ràng đó là tiếng của Vượng! Hà Thanh choàng dậy thất thanh
gọi: - Anh Vượng!
Vừa khi ấy, bà Dung từ phòng mình chạy sang, bà hớt
hải: - Mẹ vừa gặp thằng Vượng!
Rồi bà kể lại: - Đang ngủ, bỗng mẹ nghe có tiếng
gọi giật ngược. Mẹ tỉnh dậy thì thấy thằng Vượng đứng ở đầu giường, mặt nghiêm
lại, hỏi rõ ràng: Bộ mẹ không tin vợ con sao? Đứa con trong bụng Hà Thanh là
của con. Đó là giọt máu của chính con, là cháu nội chính thống của mẹ đó! Nói
xong, nó biến mất liền....Hai mẹ con ôm nhau khóc ròng...
Hơn bảy tháng sau, Hà Thanh sinh con. Song sinh mới
tuyệt vời! Một trai và một gái. Cả hai giống Vượng như khuôn đúc, khiến cho bà
Dung cũng sững sờ! Bà run giọng nói:- Đúng là trời còn thương, không nỡ để cho
dòng họ nhà này tuyệt tự mà!
HỒN
AI TRÊN ĐÈO CẢ
Chịu trách nhiệm xuất bản:
BÙI
CAO TIÊU
Biên tập:
NGỌC DIỆP
Sửa bản in: VƯƠNG BÍCH THẮM
Trình bày bìa: SONG THÀNH
In 700 cuốn khổ 13x19cm, tại Xưởng in NXBGTVT
Số trích ngang xuất bản: 382-2009/CXB/27-53/ThaH,
In xong và nộp lưu chiểu Quý IV năm 2011
.............................................................................................................
- Cập
nhật theo bản lưu trữ tại tại Công ty TNHH Văn Hóa Bảo Thắng.
- Vui
lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét