THUỶ ĐIỆN
NHỎ VÀ VẤN ĐỀ LŨ LỤT
*
1.
VỀ TÁC ĐỘNG ĐA DẠNG CỦA THUỶ ĐIỆN Ở BA MIỀN BẮC TRUNG NAM (Tác giả Nguyễn Ngọc Chu)
Thuỷ
điện là nguồn năng lượng quý giá. Nhưng phải được sử dụng một cách khoa học.
Nếu không, nó sẽ mang lại những tác hại khôn lường.
Trong
thời kỳ phát triển công nghiệp ban đầu, các quốc gia đều cần đến thuỷ điện và
thường tập trung phát triển thuỷ điện. Sự phụ thuộc lớn vào thuỷ điện đã dẫn
đến các vi phạm vượt ngoài tầm kiểm soát và để lại các tác hại cho con người
cùng môi trường. Mức độ tác hại có khác nhau tuỳ theo sự kiểm soát ở mỗi quốc
gia.
Cho
đến cuối thế kỷ 20, và đầu thế kỷ 21, sự phát triển thuỷ điện ở các nước công
nghiệp phát triển đã có những thay đổi quan trọng. Nhờ sự tiến bộ công nghệ,
năng lượng tái tạo như điện mặt trời, điện gió, điện thuỷ triều đã tăng đột phá
thị phần, từng bước thay thế cho các năng lượng truyền thống. Vì thế, các dự án
thuỷ điện mang lại nhiều tác hại xấu không được đón chào. Nhiều thuỷ điện không
được mở rộng hoặc ngừng khai thác. Hàng ngàn đập thuỷ điện đã được dỡ bỏ.
Với
Việt Nam, thuỷ điện đang mang đến những thách thức sống còn cho nhiều thế hệ
con người, động vật, sinh vật trên phạm vi toàn lãnh thổ.
Ở
đồng bằng sông Cửu Long, việc Trung Quốc xây hàng chục thuỷ điện lớn trên
thượng nguồn sông Mê Kông là những cú đòn chí tử lên toàn bộ môi trường sống.
Sau Trung Quốc, các đập thuỷ điện của Lào, Campuchia trên sông Mê Kông, của
Myanmar, Thái Lan và Việt Nam trên lưu vực sông Mê Kông đã đồng loạt trở thành
những đòn đánh bồi tổng hợp - đưa môi trường sống ở đồng bằng sông Cửu Long dần
vào hoàn cảnh nguy hiểm.
Mức
nước sông Cửu Long bị khô cạn. Trong nước không còn phù sa. Nước biển lấn tràn
sâu vào nội địa lên đến 80-100 km. Toàn bộ môi trường sống của đồng bằng sông
Cửu Long bị thay đổi. Phải chống ngập mặn, chống hạn hán, tìm nguồn nước ngọt.
Con người bị đe doạ, cá tôm bị đe doạ, cây trồng bị đe doạ. Mức đe doạ đạt tới
biên giới sinh tử. Hàng chục vấn đề trầm trọng đặt ra cho cư dân đồng bằng sông
Cửu Long. Phải thay đổi cơ cấu cây trồng, thuỷ sản. Phải thay đổi cơ cấu cư
dân. Đến mức con người cũng phải di tản.
Ở
đồng bằng sông Hồng, tuy chưa có mức độ ngập mặn, nhưng một bức tranh xấu đang
hiện ra mỗi ngày một ảm đạm hơn.
Nếu
thuỷ điện Hoà Bình và thuỷ điện Thác Bà vừa đưa lại nguồn điện, vừa giúp cắt lũ
cho thủ đô Hà Nội, có làm cạn dòng chảy sông Hồng, nhưng chưa đến mức nguy
hiểm, thì việc xây dựng thêm các thuỷ điện Sơn La, Lai Châu và cả trăm thuỷ
điện khác trên lưu vực sông Đà và sông Lô đã làm cho đồng bằng sông Hồng rơi
vào hoàn cảnh môi sinh bị đe doạ. Chưa kể đến trước đó, hàng chục thuỷ điện của
Trung Quốc xây dựng ở thượng nguồn sông Hồng - là những chiếc thòng lọng đón
chờ mọi cá thể trong toàn bộ hệ sinh thái châu thổ sông Hồng. Các dòng sông bị
cạn. Các mạch nước ngầm bị cạn. Kéo theo sự thay đổi của thuỷ mạch và toàn bộ
hệ sinh thái ở châu thổ sông Hồng.
Thuỷ
mạch thay đổi, các vết nứt địa chất gia tăng khi phải hứng chịu hai khối nặng
khổng lồ ở Hoà Bình và Sơn La, mỗi hồ nước nặng khoảng 10 tỷ tấn và 10 tỷ tấn ở
các hồ nước khác. Khả năng gia tăng động đất là không tránh khỏi. Hãy đợi chờ
nhiều hơn những cơn động đất ở vùng Tây Bắc trong tương lai.
Ở
miền Trung, thuỷ điện đưa đến các hậu quả không kém phần nguy hiểm, nhưng có
thêm phần khác lạ. Với địa hình dốc từ Tây sang Đông, có nơi chỉ 40-50km, sông
miền Trung ngắn nhưng có độ dốc lớn. Chính độ dốc lớn của sông miền Trung là
nguyên do sinh ra chi chít những thuỷ điện nhỏ. Len lỏi quanh co giữa các khe
núi cao, là nơi hứng nước mưa chảy từ các triền núi, với độ dốc đột ngột, cứ
cách khoảng 10-20 km, thậm chí 5 -7 km đắp một chiếc đập là tạo nên một trạm
thuỷ điện. Cụ thể như trên 24 km của sông Rào Trăng mà có đến 4 nhà máy thuỷ
điện. Miền Trung là cứ địa của các thuỷ điện “cóc”. Và đó cũng chính là nguồn
cơn đưa đến tai hoạ lũ lụt và sụt lở đất nguy hiểm ngày một nhiều hơn cho miền
Trung.
Rõ
ràng, ngoài tai hoạ biến đổi hệ sinh thái và môi trường sống ở cả 3 miền, thì
tác động của thuỷ điện ở mỗi miền có những phương diện khác biệt. Thuỷ điện đưa
đến cho đồng bằng sông Cửu Long trực diện nạn hạn hán, nạn ngập mặn, nạn thiếu
nước ngọt - dẫn đến thay đổi cơ cấu kinh tế và cư dân. Còn ở đồng bằng châu thổ
sông Hồng thì thuỷ điện mang đến sự thay đổi thuỷ mạch và tăng nguy cơ động
đất. Và ở miền Trung, thì thuỷ điện tham gia đưa đến các cơn lũ lụt và sụt lở
đất kinh hoàng.
2.
PHẢI HIỂU CHO ĐÚNG KHÁI NIỆM RỪNG TỰ NHIÊN
Loài
người xuất hiện sau rừng tự nhiên. Đó là điều không phải bàn luận. Cho nên mỗi
m2 rừng trước đây đều là rừng tự nhiên.
Khi
con người tiến vào rừng, đất nhà, đất nương rẫy của họ đều là rừng tự nhiên bị
họ khai phá. Có m2 đất nào giữa vùng rừng núi mà không phải là rừng tự nhiên?
Ngay cả các hồ tự nhiên, các dòng sông dòng suối giữa núi rừng đều là đất của
rừng tự nhiên. Cho nên, đừng thấy vùng cư dân, thấy nương rẫy, thấy đồi trọc mà
khẳng định là không phải rừng tự nhiên. Xa xưa đó là rừng tự nhiên. Bây giờ thì
nó đã bị con người tàn phá.
Những
ai đã đến rừng Tây Nguyên sau năm 1975 mới thấy rừng tự nhiên bạt ngàn như thế
nào. Bây giờ quay trở lại có thể nói rất ít nơi còn rừng tự nhiên đúng nghĩa.
Theo đánh giá, thì lượng rừng nguyên sinh của Việt Nam chỉ còn khoảng 0,25%
(https://thanhnien.vn/.../rung-nguyen-sinh-con-nguyen-ven...)
Dù rằng theo báo cáo của
Bộ NN&PTNN, thì tính đến ngày 31/12/2019 diện tích đất có rừng của Việt nam
là 14, 6 triệu ha (146 000 km2), trong đó rừng tự nhiên là 10,3 triệu ha và
rừng trồng là 4,3 triệu ha. Diện tích đất có rừng đủ tỷ lệ tính độ che phủ là
13,8 triệu ha, tỷ lệ che phủ khoảng 41,89% diện tích toàn quốc
(https://nongnghiep.vn/cong-bo-hien-trang-rung-toan-quoc...).
Tỷ lệ che phủ này thấp
hơn 2 nước láng giềng là Lào (58%) và Campuchia (47%).
Ba
tỉnh có diện tích rừng tự nhiên lớn nhất, dẫn đầu là Nghệ An (784 340 ha), tiếp
theo là Sơn La (588 343 ha) và Kon Tum (547 800 ha).
Theo
thông tin của Sở Tài nguyên Môi trường Đắk Lắk cho biết, rằng ở độ dốc 5-8 độ,
dưới lượng mưa hàng năm 1 905mm thì trên 1 ha đất cà phê 2 tuổi sẽ bị trôi đi
69,2 tấn đất, 1 ha đất nương rẫy sẽ bị trôi đi 95,1 tấn đất, trên 1 ha đất
trồng ngô sẽ bị trôi đi 105,7 tấn đất. Nhưng trên 1 ha đất rừng nguyên sinh chỉ
bị trôi đi không quá 6 tấn đất, và 1 ha đất rừng tái sinh bị trôi đi 12 tấn
đất. Những con số trên nói lên sự vô giá của rừng nguyên sinh trong bảo vệ đất.
Đưa
ra số liệu trên để thấy tại sao nạn sụt đất kinh hoàng đã xẩy ra như trong các
cơn lũ lụt thời gian vừa qua ở các tỉnh miền Trung. Đó là vì rừng tự nhiên bị
tàn phá. Trong sự huỷ diệt rừng tự nhiên ở Việt Nam có vai trò không nhỏ của
thuỷ điện.
3.
DIỆN TÍCH DÀNH CHO THUỶ ĐIỆN NHỎ MIỀN TRUNG TUYỆT ĐẠI ĐA SỐ LẤY TỪ ĐẤT RỪNG TỰ
NHIÊN
Bằng
điện thoại cầm tay, với sự giúp đỡ của Google maps, không khó để nhận thấy các
thuỷ điện nhỏ hoàn toàn nằm trong rừng tự nhiên. Hãy thử tự kiểm nghiệm các
thuỷ điện A Lin B1, A Lin B2, Rào Trăng 3, Rào Trăng 4 để thấy điều khẳng định
này. Nghĩa là toàn bộ đất cấp cho thuỷ điện, trừ một phần nhỏ hồ tự nhiên có
trước, đều hoàn toàn thuộc về diện tích rừng tự nhiên. Phần hồ mở rộng (nhiều
lần) - hình thành sau khi đắp đập thuỷ điện - cũng đều là diện tích của rừng tự
nhiên. Hơn thế nữa toàn bộ các đường giao thông đi đến các nhà máy thuỷ điện
này đều làm trên đất rừng tự nhiên.
Điều
mâu thuẫn của người bảo vệ thuỷ điện nằm ở chỗ, khi báo cáo diện tích phủ xanh
của rừng tự nhiên, thì họ lấy toàn bộ diện tích rừng tự nhiên (dù đã bị tàn
phá) để có được 10,3 triệu ha, nhưng khi nói đến thuỷ điện thì họ lại nói không
1 m2 đất rừng tự nhiên nào được cấp cho thuỷ điện. Vậy từ hàng chục đến hàng
trăm ha đất cấp cho mỗi thuỷ điện nhỏ - không nằm trong rừng tự nhiên thì nằm ở
đâu? Các thuỷ điện nhỏ, bởi vậy, lại là “con thú khổng lồ” ngốn rừng tự nhiên.
Một
nguyên do khác nữa làm giảm rừng tự nhiên là việc lợi dụng xây dựng thuỷ điện
để khai thác gỗ. Không chỉ trong diện tích rừng cấp cho thuỷ điện và làm đường
giao thông, mà là ngoài các diện tích đó. Số lượng này không hề nhỏ.
4.
CÁC NGUY CƠ MẤT AN TOÀN TRONG XÂY DỰNG THUỶ ĐIỆN NHỎ Ở MIỀN TRUNG
Thập
niên đầu của thế kỷ 21 ở Việt Nam diễn ra những cuộc “thập tự chinh” náo loạn.
Đó là các tập đoàn, các doanh nghiệp, các gia đình, các cá nhân – tất cả - đổ
xô đi làm bất động sản, kinh doanh khách sạn, kinh doanh ngân hàng, buôn bán
chứng khoán…Hậu quả là lãi suất ngân hàng tăng vọt đến 25% và nền kinh tế đổ
bể. Cuối cùng thì các tập đoàn lớn, trong đó có người khổng lồ Vinashin bị chìm
xuống đáy, và các tập đoàn sông Đà, dầu khí… phải rút ra khỏi các lĩnh vực
ngoại đạo, mà quay trở về chuyên môn với “đầy mình thương tích”.
Nổi
trội trong số các cuộc “thập tự chinh” náo loạn đó là cuộc “chinh phạt” thuỷ
điện nhỏ. Khắp Bắc Trung Nam, các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ, dù có vốn pháp
định từ vài tỷ cho đến vài trăm tỷ đều đổ xô đi làm thuỷ điện. Vốn cần ghi bao
nhiêu cũng không khó. Nên các công ty tư nhân, công ty cổ phần vừa thành lập
đều có thể làm thuỷ điện. Họ nhận được dự án, bất chấp năng lực thực tế, miễn
là biết đi đúng đường. Và không ít các dự án đã được bán lại cho các chủ mới.
Không
có các chuyên gia giỏi trong ngành thuỷ điện. Không khảo sát địa chất. Không
nghiên cứu tác hại môi trường. Nhưng hồ sơ vẫn hoàn chỉnh, kín kẽ. Lập hồ sơ dự
án ở nước ta đã trở thành một lĩnh vực nhiệm mầu của copy và thuê viết. Mà đâu
chỉ hồ sơ dự án, nhiều luận án từ tốt nghiệp đại học, cho đến thạc sĩ và tiến
sĩ ở nhiều nơi - đều được sinh ra từ copy và thuê viết. Hãy tự gõ vào google để
kiểm nghiệm sự rao bán. Hãy tự kiểm tra để đừng cho là bôi đen hay vơ đũa cả
nắm.
Còn
thiết bị từ đâu? – từ Trung Quốc, dù dán mác G7. Đắp đập thành hồ. Mua thiết bị
và thuê người lắp đặt là thành thuỷ điện. Người bán thiết bị đến lắp đặt xong
thì về nước. An toàn hay không thì mặc nơi có thuỷ điện phải gánh chịu. Đây
chính là mối nguy về sự không an toàn trong xây dựng thuỷ điện nhỏ.
Một
mối nguy không an toàn khác chính là việc xây dựng đường giao thông đến thuỷ
điện nhỏ. Các nhà đầu tư chỉ chú trọng đến chi phí. Họ chọn những cung đường
ngắn nhất dù phải làm đường dưới sườn núi dốc đứng. Những con đường không đủ
rộng. Họ bạt rừng để làm đường. Nguy cơ sạt lạt lở ở các con đường dẫn đến thuỷ
điện nhỏ rất cao, đầy ắp nguy hiểm. Các trận lũ lụtvà sụt lở đất trong tháng
10/2020 ở miền Trung đã minh chứng điều đó.
5.
CÁC HỒ CHỨA NƯỚC CỦA THUỶ ĐIỆN NHỎ Ở MIỀN TRUNG KHÔNG GIÚP GIẢM ĐƯỢC LŨ LỚN
Sông
Rào Trăng chỉ dài 26 km với lưu vực 141 km2 nhưng lại có đến 4 thuỷ điện A lin
B1 (42 MW), A lin B2 (20 MW), Rào Trăng 3 (11 MW, lòng hồ 8,8 ha), Rào Trăng 4
(14 MW, lòng hồ 22,281 ha). Như vậy khoảng cách trung bình giữa các thuỷ điện
chừng 8km. Một khoảng cách quá dày đặc.
Thuỷ
điện A Lin B1 có hồ chứa nước 24,8 triệu m3, lấy nước từ suối A Lin trong mạng
lưới song Sê Kông - Mekong sang Rảo Trăng. Còn 3 thuỷ điện A lin B2 , Rào Trăng
3, Rào Trăng 4 lấy nước lưu vực sông Rào Trăng.
Để
minh chứng các thuỷ điện nhỏ trên sông Rào Trăng không có khả năng làm giảm lũ
trong mùa lũ, hãy lấy thí dụ về thuỷ điện Rào Trăng 4 trong đợt lũ vừa qua.
Đợt
mưa vừa qua trong suốt một tuần ở khu vực này đo được từ 2200 - 2500 milimet.
Nếu lấy mức thấp nhất là 2200 milimet thì lượng nước lưu vực sông Rào Trăng là
141km2 x 2200 milimet = 310,2 triệu m3. Còn tính cho cả huyện A Lưới sẽ là 1
232,7 km2 x 2200 milimet = 2 tỷ 711 940 000 m3.
Lòng
hồ thuỷ điện Rào Trăng 4 là 22,281 ha. Theo quy trình xả lũ, mà Bộ Công Thương
duyệt cho thuỷ điện Rào Trăng 4 thì mực nước dâng bình thường 99,5 m; mực nước
chết: 93,0 m. Cụ thể như sau:
“1.
Cao trình mực nước lũ của hồ chứa thuỷ điện Rào Trăng 4 trong mùa lũ ở điều
kiện bình thường khi không có lũ không được vượt quá cao trình mực nước 99,5 m;
2.
Quy định về chế độ vận hành
Căn
cứ dự báo của cơ quan dự báo khí tượng thủy văn có thẩm quyền và quan trắc của
Công ty Cổ phần Thủy điện Rào Trăng 4 về số liệu mưa, lưu lượng lũ vào hồ và mực
nước hồ chứa, phương thức vận hành cửa van đập tràn như sau:
a)
Nguyên tắc cơ bản: Duy trì mực nước hồ ở cao trình mực nước dâng bình thường
99,50m bằng chế độ xả nước qua các tổ máy phát điện và chế độ đóng mở cửa van
đập tràn.
b)
Trong trường hợp bình thường từ thời điểm lũ vào hồ đến khi đạt đỉnh, việc mở
các cửa van đập tràn phải tiến hành lần lượt để tổng lưu lượng xả qua các tổ
máy phát điện và đập tràn không được lớn hơn lưu lượng tự nhiên vào hồ tại cùng
thời điểm.
-
Đảm bảo an toàn tuyệt đối cho công trình đầu mối thủy điện Rào Trăng 4, chủ
động đề phòng mọi bất trắc, với mọi trận lũ có chu kỳ lặp lại nhỏ hơn hoặc bằng
500 năm; không để mực nước hồ chứa Rào Trăng 4 vượt mực nước lũ kiểm tra ở cao
trình 101,27m”
(http://itradetthue.gov.vn/.../BFC2051C-A714-45FE.../cid/-1)
Như vậy, trên 101,27m là
hoàn toàn xả lũ. Lúc đó mực nước giữ thêm cho phép tối đa chỉ có : 101,27m -
99,5m = 1,77m. Lượng nước chứa thêm 222 810 m2 x 1,77m = 403 737 m3. Một con số
vô cùng nhỏ nhoi so với 310,2 triệu m3, chỉ bằng 0,13%. Vậy làm sao dám gọi là
“cắt lũ”?
Còn
nếu tính ưu ái cho thuỷ điện Rào Trăng 4, rằng trước khi lũ, mực nước ở mức
chết là 93,0m, thì mức nước giữ thêm cũng chỉ là 101,27m – 93,0m = 8,27m. Và
lượng nước chứa thêm được so với mức chết là 222 810m2 x 8,27m = 1 triệu 842
638 m3. Vẫn là con số vô cùng nhỏ so với 310,2 triệu m3 (0,59%). Thuỷ điện nhỏ
không giúp giảm được lũ là bởi thế.
Còn
nếu ai đó nói rằng lòng hồ thuỷ điện Rào Trăng 4 vào mùa lũ lớn hơn 22,281 ha,
thì chính họ đã chỉ ra sự sai trái trong cấp phép. Lòng hồ là diện tích đất
được cấp. Nó phải được tính toán ở mức nước cao nhất của hồ chứa nước. Đó chính
là mức nước hồ ở độ cao ngang với đập.
Thí
dụ cụ thể của thuỷ điện Rào Trăng 4 đã chỉ ra rằng thuỷ điện nhỏ không thể giúp
gì được cho giảm lũ. Đó là chưa bàn đến ở đây, việc xả lũ làm tăng thêm thiệt
hại to lớn cho người dân trong mùa lũ.
6.
HIỂU THẾ NÀO CHO ĐÚNG KHÁI NIỆM “CẮT LŨ”?
Nếu
cứ nghe theo những chuyên gia bảo vệ cho thuỷ điện nhỏ ở miền Trung thì thuỷ
điện nhỏ có vai trò “cắt lũ” đến mức vĩ đại. Chẳng hạn như, họ đã đưa ra các
con số rằng
“Tại
miền Trung, các hồ thủy điện cũng đã góp phần không nhỏ vào việc cắt lũ, như hồ
Quảng Trị 21%, Hương Điền cắt tới 45% đỉnh lũ, hồ Bình Điền 42,3%, Sông Bung 4
cắt 42,7%, Đăk Mi 4 cắt 74,7%, đặc biệt trận lũ ngày 29/10, hồ Sông Tranh 2 cắt
tới hơn 50%”…
(http://la34.com.vn/.../thuy-dien-nho-va-van-de-lu-lut.../)
Làm
sao mà có thể cắt lũ đến mức 50%? 74,7%? Đây chỉ là trò chơi con số. Là cách
hiểu khác nhau về 2 từ “cắt lũ”.
Bởi
vì những người đưa ra chỉ số “cắt lũ” này dựa vào tỷ lệ lưu lượng nước đổ về hồ
và lưu lượng nước xả qua đập thuỷ điện để ghi công cho thuỷ điện “cắt lũ”.
Chẳng hạn lưu lượng đổ về đầu hồ là 100 m3/s và lưu lượng xả qua đập thuỷ điện
cuối hồ là 80 m3/s. Lúc đó, có lẽ những nhà điều tiết xả lũ cho rằng họ đã cắt
được lũ 20m3/s. Và tỷ lệ “cắt lũ” là 20/100 = 20%?
Thực
ra hồ chứa nước của thuỷ điện không giữ lại 20% lượng nước lũ trong thí dụ
trên. 20 m3 nước đó chỉ bị lưu giữ chậm lại, và chỉ 0,25 giây sau nó sẽ đi qua
cửa xả của đập thuỷ điện. Nghĩa là sau 1,25 giây thì toàn bộ 100 m3 nước đi qua
đập thuỷ điện, không giọt nào lưu lại hồ. Nước lũ chỉ bị dồn lại trước đập thuỷ
điện và thông qua đập thuỷ điện với độ trễ. Giống như dòng người ở trạm soát vé.
Khi lũ tiếp tục tràn về, nước dâng lên đến mức cho phép tối đa thì phải xả lũ
đúng bằng lượng nước đổ về hồ, nếu không nước sẽ tràn qua đập và có thể gây vỡ
đập.
Cách
tính “cắt lũ” như trên gây ra hiểu nhầm là hồ thuỷ điện giữ lại được một lượng
nước đến 50%, 74,7% toàn bộ lượng nước lũ.
Bởi
thế, phải hiểu cho đúng khái niệm “cắt lũ”. Như thí dụ của thuỷ điện Rào Trăng
4 nêu ở trên, thì thực tế hồ thuỷ điện Rào Trăng 4 chỉ giữ thêm được có 1,77m
chiều cao mặt hồ nước, tương đương với 403 737 m3.
Các
‘hiệp sỹ” bảo vệ thuỷ điện nhỏ, trớ trêu thay tự mâu thuẫn với chính họ. Họ
biện luận về “cắt lũ” giúp dân khi lũ không đủ lớn. Khi lũ lên cao thì đột ngột
ồ ạt xả lũ để bảo về đập, rồi họ lại thanh minh là không làm cho lũ trầm trọng,
vì xả đúng lượng nước đổ về đầu hồ. Chỉ có người dân địa phương nơi vùng bị xả
lũ mới biết được việc xả lũ của thuỷ điện đã đẩy họ vào thảm cảnh bi đát như
thế nào!
7.
ĐỪNG SO SÁNH VỚI CHÂU ÂU
Có
người vin vào số lượng thuỷ điện nhỏ ở châu Âu để cổ suý cho thuỷ điện nhỏ ở
Việt Nam.
Nhưng
đó là 2 thế giới khác nhau. Ví như cùng là cảnh sát giao thông, mà cảnh sát
giao thông Singapore không hề nhận hối lộ, trong khi điều đó lại xẩy ra ở nước
hàng xóm Malaysia.
Như
ngay tại phần đầu đã lưu ý, thuỷ điện là năng lượng quý giá trong trường hợp nó
được sử dụng một cách khoa học. Thuỷ điện nhỏ được xây dựng và khai thác ở châu
Âu trong một thực tế khác hoàn toàn với Việt Nam, dù quy trình trên giấy có vẻ
gần giống nhau.
Để
nói lên sự khác biệt giữa châu Âu và Việt Nam trong cách làm thuỷ điện nhỏ, thì
trước hết là phải nói đến quy trình và sự tuân thủ quy trình. Ở Việt Nam không
có sự tuân thủ quy trình như ở châu Âu. Tính nghiêm ngặt trong tuân thủ pháp
luật ở 2 nơi là rất khác biệt. Còn nữa, thêm một minh chứng về yêu cầu bảo vệ
môi trường ở châu Âu, không chỉ trong lĩnh vực thuỷ điện, là sự tồn tại cả
những đảng phái chính trị bảo vệ môi trường - chẳng hạn như đảng Xanh, có ở
nhiều quốc gia châu Âu.
Không
ai chống thuỷ điện nhỏ khi nó được khai thác một cách khoa học. Nhưng ở Việt
Nam, thuỷ điện nhỏ đang tàn phá rừng, làm tăng thêm sụt lở, làm trầm trọng thêm
lũ lụt, làm thay đổi môi sinh. Bởi vì việc xây dựng thuỷ điện nhỏ ở Việt Nam
thoát ra ngoài tầm kiểm soát. Và không có cách nào để kiểm soát được trong cơ
chế hiện nay.
Khi
không kiểm soát được, thì cách tốt nhất là dừng.
8.
THUỶ ĐIỆN ĐÃ TỚI HẠN
Theo
thống kê của Bộ Công Thương, đến cuối năm 2018 cả nước có 818 dự án thuỷ điện
đã được phê duyệt với tổng công suất 23 182 MW. Hiện có 385 công trình thuỷ
điện đang vận hành với tổng công suất 18 564 MW. 143 dự án đang xây dựng có
công suất 1 848 MW. 290 dự án đang nghiên cứu có tổng công suất 2 770 MW. Tổng
công suất điện toàn quốc năm 2018 đạt khoảng 48 000 MW. Như vậy thuỷ điện chiếm
khoảng 38,675% công suất lắp đặt. Kế hoạch đến năm 2030 của thuỷ điện là 25 400
MW
(http://nangluongvietnam.vn/.../bo-cong-thuong-dang-nghien...).
Nhu cầu về điện tăng rất
nhanh do đòi hỏi phát triển của đất nước. Tổng công suất điện đã lắp đặt của cả
nước năm 2019 đạt 54.880MW. Phải dự liệu tăng trưởng điện ở mức độ từ 10-12%
hàng năm. Nhiệt điện than cần phải hạn chế do mức độ ô nhiễm. Còn thuỷ điện đã
đạt mức tới hạn. Nếu tính cả 143 dự án đang triển khai thì tổng công suất của
thuỷ điện đạt 20 412 MW. Nếu tiếp tục triển khai hết 290 dự án đang nghiên cứu
cũng chỉ cho thêm 2770 MW. Tiếp tục theo kế hoạch đến năm 2030 để đạt 25 400 MW
thì cũng chỉ tăng thêm 2 218 MW. Nghĩa là không đủ đáp ứng cho nhu cầu tăng trưởng
điện trong 1 năm. Bởi vậy, không nên phát triển các dự án thuỷ điện mới nữa, và
dừng hoàn toàn các dự án thuỷ điện nhỏ mà chưa triển khai, nhất là tại khu vực
miền Trung.
Thay
vào đó là điện mặt trời và điện gió. Tính đến tháng 6/2019, đã có 89 nhà máy điện
gió và điện mặt trời hòa lưới với tổng công suất 5.038 MW, chiếm khoảng 9,18%
tổng công suất điện quốc gia. Theo kế hoạch, đến 31/12/2019 sẽ có thêm khoảng
1.000 MW năng lượng tái tạo hoà vào lưới điện quốc gia. Phát triển mạnh điện
mặt trời và điện gió là hướng chiến lược chủ đạo dài lâu của Việt Nam. Nhất là
điện mặt trời. Vì Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới.
Vì
rừng bị tàn phá, đồng bào miền Trung không chỉ sẽ phải đối mặt với lũ lụt ngày
càng hung dữ, mà còn phải sống trong nơm nớp lo âu của sụt lở đất kinh hoàng.
Trong số các kẻ thù hiểm ác của rừng, phải kể đến: lâm tặc, sự di dân, sự bành
trướng đô thị, sự phá rừng trồng cây lương thực và cây công nghiệp, sự xâm
chiếm của các dự án, và thuỷ điện. Cách tốt nhất giúp cho đồng bào miền Trung
bớt lũ và tránh sụt lở đất là bảo vệ rừng, trồng thêm rừng, và thay thế thuỷ
điện bằng năng lượng tái tạo.
Không
ai chống làm thủy điện một cách khoa học. Chỉ chống cách làm thủy điện nhỏ hỗn
loạn như hiện nay.
*.
NGUYỄN NGỌC CHU
Địa chỉ: Viện Toán Học-A5/18 Hoàng Quốc Việt
quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
......................................................................................................
- Cập nhật từ email: tranchicuong27@yahoo.com.vn ngày 02.12.2020
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích
đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét