THUẬT
XEM TƯỚNG NGƯỜI
Tác
giả: Thiệu Vĩ Hoa ; Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin 1998
*
NGHỆ THUẬT XEM TƯỚNG TỔNG
QUÁT
Tự
tin vào bản thân,có ý chí thì có thể tránh được những gì xấu có thể xảy ra,
phát huy những điều tốt đẹp sẵn có. Tương lai tươi sáng vẫn đang chờ đợi ta ở
phía trước.Bằng vốn tri thức khoa học, hiểu biết của bản thân chúng ta làm việc
sao cho lòng cảm thấy thanh thản, lạc quan làm được nhiều việc tốt, không mưu
hại ai là điều rất tốt. Có câu: "Đức năng thắng số" Số mệnh là điều hoàn
toàn có thể thay đổi: tùy thuộc vào đức của mỗi người, đức do ông bà cha mẹ
truyền lại.
Nghệ
thuật coi tướng được đúc kết từ kinh nghiệm hàng ngàn năm của Trung Quốc. Nó đã
ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người chúng ta.
Ví
dụ: Con người ai cũng thích người đẹp, không thích người xấu. Những người mặt
mũi sáng sủa thì bao giờ cũng được trọng hơn những người mặt mày tối tăm. Hay
những người cao lớn, dung mạo đẹp đẽ thì bất luận già trẻ lớn bé, giàu nghèo,
sang hèn ai ai trông thấy cũng mến, cũng thích.
Xét
ở mặt đối lập, chưa hẳn xấu xí chưa hẳn đã là bất lợi. Như thầy bói Quỷ Cốc Tử
thuộc loại quái tướng, mặt mũi cực kì xấu xí, lộ hầu, lộ răng nhưng tài năng
thì đã trở thành bất tử, lưu truyền hàng ngàn năm nay.
Tuy
nhiên, những gì thuộc về tướng mạo, số mệnh, vận mệnh chỉ nên xem như tham
khảo, góp một phần nhỏ vào việc biết mình, biết người vậy.
Giống
như tôn giáo, nghệ thuật nhân dạng đã ra đời từ hàng ngàn năm nay, có liên quan
đến đời sống tinh thần của con người. Tướng thuật hoàn toàn không phải ra đời
từ các nguyên nhân thần bí mà dựa trên cơ sở những sự tương quan nhất định,
những kinh nghiệm được đúc kết qua hàng ngàn năm lịch sử Trung Quốc cổ đại.Tuy
nhiên trải qua một thời gian lâu dài, xã hội phát triển càng nhanh. Các nhân tố
không thể đóan định được xuất hiện ngày càng nhiều. Ngành nhân dạng học ngày
càng bị biến tướng để trục lợi . Đó là một điều rất đáng tiếc".
Tướng Phú Quý, Giàu Sang:
Tướng
này có người sinh ra đã có, có người do tu tâm dưỡng tính, làm nhiều việc
thiện, do gặp vận may, hay do đức của cha mẹ truyền lại mà có:
+
Khí trong, tiếng nói vang, trán cao, mắt sáng, mày thưa, tai dày, môi hồng, mũi
thẳng, mặt vuông, lưng đầy đặn, thẳng.
+
Da trơn, bụng to, răng trâu, đi nhu ngỗng, mày thanh tú, mắt nhãn ướt át.
+
Ngồi vững như tảng đá, đi nhẹ như trên mây.
+
Người nhỏ nhưng tiếng vang, mặt như mặt con rồng, trán vững như tường, mắt sáng
như sao, mũi thẳng, da thịt tỏa hương như hoa
+
Da óng mịn, mắt đen nhánh, lưỡi dài, tóc mai dài, hổ tụ rồng bay, tay dài quá
gối, lưỡng quyền bằng phẳng, ngọc chẩm đầy đặn, mặt đẹp như ngọc đều là tướng
quý.
+
Đầu to mà tròn, mắt to mà không thô, bụng to mà ít sệ, tai to nhưng có vành
quách, miệng to nhưng môi không mỏng, ngược lại thì sẽ gặp khó.
+
Đầu nhọn, trán vuông mà rộng, mày thưa mà dài, thanh tú, mũi thẳng, lưng thẳng
đầy, nhần trung rõ ràng, khí hòa mà thuận, thanh tròn mà vang xa,tiến thoái có
lễ, làm việc điều độ, có tiền của nhưng không lãng phí... tất cả đều là tướng
quý.
Mười cái Đẹp Làm Nên Tướng
Mạng Giàu Sang Là:
1- Lông tóc mềm mại
như tơ, mắt thanh tú có thần, miệng rộng có hình tròn đẹp
2- Thân hình tựa
ngọc, tựa châu.
3- Thân gầy nhưng
đầu tròn.
4- Tai đầy đặn,
vành tai đứng thẳng.
5- Da trơn, như tỏa
hương thơm, khí sắc tươi tắn.
6- Thân đen mặt
trắng, trong âm có dương. Lưng đen đầy đặn.
7- Người khác nhìn
vào mắt thấy có thần, môi hồng tươi.
8- Thân tuy nhỏ
nhưng tiếng nói hùng tráng.
9- Mắt như có ánh
sáng, trong bóng tối có thể nhìn thấy vật.
10-Sinh ra đã thanh
tú, mặt đẹp như ngọc.
Mười Cái Thanh Tú Là:
1- Tiếng nói hoành
tráng, trước nhỏ sau to, không được càng nói càng nhỏ đi.
2- Lông tóc nhỏ
mềm, không quá thô cứng.
3- Răng nhỏ đều
đặn, răng trắng như ngọc.
4- Tay dài, vân bàn
tay như tơ.
5- Tai trắng như
mặt,, sắc hòa tươi tắn.
6- Lông mày đen,
đầu tóc gọn gàng ngay ngắn.
7- thanh có thần,
môi đỏ tươi tắn.
8- Tuy gầy nhưng
không lộ xương, khí huyết tươi tắn, da đỏ hồng.
9- Thân tuy gầy
nhưng ngực tròn.
10- Bụng to, rốn
sâu.
Tướng Nghèo Hèn:
Không
có địa vị trong xã hội, nghèo khó,túng quẩn, không đủ ăn như thế là nghèo
hèn.Các nhà tướng thuật điều thống nhất cho rằng tướng nghèo hèn tương phản với
tướng giàu sang là do quá nhiều thiếu hụt hoặc không hài hoà.Năng làm việc
thiện có thể khắc phục, tạo phúc cho con cháu.
+Trán nhỏ có góc.
+Lưng và ngực đều
lép.
+Thanh âm loãng
không tụ
+ Mắt lấm lét.
+ Mũi cong, tẹt.
+ Mắt kkhông có
sắc.
+ Mặt mày tăm tối.
Tướng Hung Bạo:
+ Mặt như người
uống rượu say
+ Không có người mà
tự nói một mình.
+ Không có đờm mà
thường cố ý khạc nhổ.
+ Mắt thường có tia
đỏ, lộ ánh hung bạo.
+ Tinh thần hỗn
loạn, cả ngày chìm đắm trong mê muội.
+ Tiếng nói gầm gừ
như sài lang.
+ Không có mép.
+ Mũi khoằm, lỗ mũi
trống hoác.
Tướng Đẹp Của Người Phụ Nữ:
+ Trán bằng, đầu
tròn.
+ Xương nhỏ, da
mịn.
+ Môi hồng, răng
trắng.
+ Mắt dài, mi đẹp.
+ Ngón tay dài,
thon, bắp tay tròn.
+ Tiếng nói trong
như nước chảy.
+ Cười không lộ
răng.
+ Đi đứng khoan
thai.
+ Làn da mỏmg, mịn.
Tướng Xấu Của Người Phụ Nữ:
+ Mặt xấu, lưỡng
quyền nhô cao.
+ Lộ hầu, lộ răng.
+ Đầu nhỏ, tóc rối
tung.
+ Đi như rắn, như
chuột.
+ Mày dài, thô.
+ Mũi nhăn, mặt dê,
mắt trắng dã.
+ Tiếng nói nhỏ
dần, môi thâm sì.
Tất
cả những điều này chỉ có tính tương đối. Một người có thể có cùng lúc có nhiều
tướng đẹp, xấu vì vậy cần phải quan sát kĩ, từ đó mới có thể đưa ra dự đoán
tương đối chính xác nhất.
Ví
dụ: Những người trán rộng không phải ai cũng là bậc tài trí, ngược lại những
người trán nhỏ nhưng đường nét từ đỉnh trán đến sống mũi rất ngay thẳng thì
hoạt động tinh thần rất phong phú, đa mưu túc kế.
Tướng Đại Nhân:
1. Lòng bàn chân
bằng phẳng.
2. Dưới hai lòng
bàn chân có hiện ra hình bánh xe với đầy đủ các bộ phận, vành xe, trục xe và
1000 căm xe.
3. Gót chân thon
dài.
4. Ngón tay ngón
chân dài.
5. Tay chân mềm
mại.
6. Tay chân có chỉ
giăng như màn lưới.
7. Mắt cá chân dáng
như con sò.
8. Ống chân thon
thả như chân hươu.
9. Ðứng thẳng không
khom xuống, cũng có thể với bàn tày sờ chạm đầu gối.
10. Ngọc hành ẩn
kín trong bọc da.
11. Màu da sáng ánh
như vàng ròng.
12. Da thật láng
mịn, bụi bặm không bám.
13. Mỗi lỗ chân
lông mọc chỉ một sợi lông.
14. Lông mọc hướng
về phía trên, các lông có màu xanh đen và xoáy tròn chiều bên hữu.
15. Thân hình ngay
thẳng như thân phạm thiên.
16. Bảy chỗ là cổ,
2 lưng bàn tay, 2 lưng bàn chân, 2 bả vai, đều no đầy.
17. Bán thân trên
tựa như mình sư tử hẩu.
18. Lưng bằng
phẳng.
19. Thân cân đối
như cây bàng, thân cao bằng sải tay và sải tay dài bằng thân.
20. Vị giác nhạy
bén, tức là thần kinh lưỡi cực nhạy dễ dàng hấp thụ hương vị thức ăn.
21. Cần cổ tròn
trịa, thẳng đều.
22. Càm tròn như
càm sư tử.
23. Có 40 cái răng,
mỗi hàm 20 cái.
24. Răng bằng và
đều.
25. Răng mọc khít
khao.
26. Bốn chiếc răng
nhọn thật trắng sạch.
27. Lưỡi rộng dài.
28. Tiếng nói trong
ấm rõ ràng như tiếng nói của phạm thiên hoặc như tiếng chim karavika.
29. Tròng mắt đen
huyền.
30. Lông mi dài mịn
như mi mắt con bê.
31. Giữa đôi lông
mày có chùm lông trắng mềm như bông.
32. Ðầu có nhục kế,
là xương đỉnh đầu nổi vung lên trông như đội mão
Tổng Quan Về Khuôn Mặt
LÔNG
MÀY:
Lông
mày dài quá đuôi mắt: THÔNG MINH
Từ
đuôi mắt gióng thẳng lên trên. Nếu đuôi mày dài quá đường gióng đó thì xin chúc
mừng bạn, bạn đích thị là một người rất thông minh. Việc gì vào tay bạn thì
cũng chỉ...5 phút, thế là xong. Đi cùng một bộ não đầy chất xám và lắm nếp nhăn
ấy nên là một tâm hồn bao dung nhân hậu, tớ đoán là cậu cũng có cái đó mà.
Hai
đầu lông mày cách xa nhau: THAM VỌNG
Ngay
từ hồi mẫu giáo cậu đã hùng hồn tuyên bố với cái bọn thò lò mũi xanh là sau này
cậu sẽ trở thành...giám đốc, bọn nhóc đã ko thể hiểu nổi liệu giám đốc thì có
to hơn...cô giáo không.
Cậu
là cậu thích mấy cái trò trưởng lớp rồi bí thư hay trưởng nhóm lắm đấy. Tin tớ
đi, hãy hướng mấy cái tham vọng của cậu tới việc có ích cho xã hội, cậu dư sức
làm được. Hơn nữa, như thế mới biết là tham vọng.
Lông
mày dài, đậm: HÀI HƯỚC
Bạn
là nụ cười, niềm vui cho bạn bè và người thân, óc hài hước và tính lạc quan của
bạn chính là mật mã. Bạn là một phần tất yếu của lớp và gia đình. Tính cách
đáng quý này sẽ giúp bạn vượt qua những thời điểm khủng hoảng để đạt được mục
đích của mình.
Lông
mày ngắn, mờ: NĂNG ĐỘNG
Bạn
đã thành lập đến hàng chục cái Co.Ltd lớn nhỏ kinh doanh tạp pí lù? Hay là bạn
từng chạy bở hơi tai để xin tài trợ cho mấy cái chương trình ca nhạc, thời
trang hay hội chợ...của trường?
Nếu
bạn trả lời là "Đúng" thì bạn đang sở hữu một cái đầu bùng nổ đấy.
Đầy sáng tạo, tự tin iỏi ngoại giao và hoạt động ko ngừng nghỉ chính là chân
dung của bạn. Còn nếu bạn trả lời là "Không" ư? Rõ ràng quá rồi, bộ
óc của bạn chưa được bật công tắc thôi. Hãy kích hoạt mạnh mẽ hơn thì bạn sẽ
bất ngờ trước chính khả năng của mình mà.
Lông
mày mảnh và dài LÃNG MẠN
Bạn
biết nhìn thấy những vẻ đẹp mà người khác ko nhìn thấy. Khả năng đặc biệt này
khiến bạn rất dễ thành công trong những lĩnh vực nghệ thuật và sáng tạo. Trong
cả những lĩnh vực kinh doanh và khoa học thì bạn cũng gặt hái kha khá nhờ vào
tài tưởng tượng của bạn. Bạn còn là một người bạn tuyệt vời bởi bạn rất coi
trọng tình cảm, luôn lắng nghe và luôn thấu hiểu.
Dĩ
nhiên: Bạn phải căn cứ trên cặp lông mày lúc còn gin của bạn đấy nhé, không tỉa
tót tô vẽ gì hết!
MŨI
Chúng
ta nhận thấy ở người nữ, mũi tương đối nhỏ hơn ở người nam về hình thức, nghĩa
là chiều dài, chiều rộng và sự to, nhỏ luôn luôn thay đổi đến tuổi thật lớn mới
ngừng lại .
Hình
thức của mũi là điểm cần yếu được chúng ta chú ý nhứt trong việc nghiên cứu về
gía trị của mũi . Chúng ta có những chi tiết như sau:
-
Mũi ngắn, người nhạy cảm, dễ bắt chước, nhanh nhẹn về tư tưởng cũng như về hành
động .
-
Mũi dài, người đằm thắm, già dặn về suy nghĩ, nhiều tư cách .
-
Mũi khum, người đa dâm .
-
Mũi trũng, người kém khả năng vật chất .
-
Mũi dày, người có tư tưởng mạnh, nhân ái, hay thố lộ tánh tình .
-
Mũi mỏng, người dễ xúc động, khéo léo, kín đáo nhưng ích kỷ .
-
Mũi lõm, người đa cảm, mềm yếu, bất nhứt, dễ khích động nhưng cũng giỏi bắt
chước .
-
Mũi quặp, người tham lam, can đảm, có khả năng trí thức, có óc chinh phục .
-
Mũi ngắn, lõm và dày, người thích ở nguyên 1 chỗ .
-
Mũi ngắn, quặp và mỏng, người thích rày đây mai đó .
-
Mũi dài, quặp và dày, người ham thực hiện .
-
Mũi dài, quặp và mỏng, người suy tư .
-
Mũi to quá mức, người tự hào, tự phụ .
-
Mũi dày quá mức, người can đảm, chững chạc nhưng ô về và có óc phá hoại .
-
Mũi mỏ két, người gan dạ nhưng có tánh cướp bóc .
-
Mũi hơi cong, người nhiều thông minh và nhân ái .
-
Mũi gân guốt, hơi quặp, người sống động .
-
Mũi con, hơi nhọn ở chót, người luôn luôn nhân từ .
-
Mũi cong ở gốc, người máy móc .
Ngoài
giá trị tổng quát về hình thức, chúng ta còn giá trị riêng rẽ từng phần của
mũi, bắt đầu bằng gốc mũi:
-
Gốc mũi thẳng với trán, người thực tế, thiếu mềm mỏng .
-
Gốc mũi lõm, người rộng rãi, thích hoạt động xã hội .
-
Gốc mũi dày, người tế nhị, thông minh có giới hạn .
-
Gốc mũi mỏng, người dễ xúc cảm, khéo tay nhưng lắm lúc cũng ích kỷ .
-
Gốc mũi có nếp đứng, người hay tập trung ý chí, chịu suy nghĩ .
-
Gốc mũi có nếp ngang, người nhác gan, hay run sợ .
Về
sống mũi, chỉ có 2 hình thức giá trị:
-
Sống mũi rộng, người có khả năng trí thức, giàu cốt cách .
-
Sống mũi cong ở phần giữa, người thông minh, nhanh trí .
Sau
sống mũi, đến chót mũi:
-
Chót mũi mỏng, người ích kỷ nhưng có tài ngoại giao và trực giác .
-
Chót mũi nhọn, cong xuống, người hà tiện .
-
Chót mũi vuông, người tích cực .
-
Chót mũi tròn, người thật thà .
-
Chót mũi như viên đạn, người dâm dật .
-
Chót mũi thịt, người đa dâm .
-
Chót mũi tẹt, người dâm đãng táo bạo .
2
bên sống mũi có phần da dày bao lỗ mũi gọi là cánh mũi . Cánh mũi có những giá
trị sau:
-
Cánh mũi ốm, người sống về tinh thần .
-
Cánh mũi nhiều thịt, người ham lạc thú, thích hưởng thụ .
-
Cánh mũi rộng, người có khả năng vật chất .
-
Cánh mũi hẹp, người khiếm khuyết khả năng vật chất .
Sau
cùng trong phần mũi là 2 lỗ:
-
Lỗ mũi yếu, người bạc nhược .
-
Lỗ mũi kín như khép lại, người lạnh nhạt .
-
Lỗ mũi rộng như mở ra, người hăng hái .
-
Lỗ mũi không lay động, người thờ ơ .
-
Lỗ mũi lay động, người đa tình .
-
Lỗ mũi trống (trông thấy ở phần trong), người chua chát, lãnh đạm, bạo tàn .
MÁ
-
Má tròn và đầy, người hiền hậu, trầm lặng, êm dịu .
-
Má thịt, người đa dâm, nhẹ dạ .
-
Má thịt, cao: người nhân từ, độ lượng, nhưng cũng có nhiều dâm tính .
-
Má thỏn, người mê tín dị đoan .
-
Má hóp, lưỡng quyền cao: người tánh tình hay dời đổi, nhiều khát vọng .
-
Má lưỡng quyền rộng và xương, người ích kỷ, dữ dằn, tàn bạo .
-
Má lưỡng quyền cao, thái dương (màng tang) hóp: người kém tinh thần .
-
Má lưỡng quyền đầy, gân guốc: người dâm dật, có thú tính .
-
Má có những lằn dài theo 2 bên lỗ mũi: người có mãnh lực phá hoại .
MIỆNG
Miệng
càng mở, việc giao dịch càng lợi; miệng càng khép, người càng vắng lặng trong
việc xã giao. Người trầm mặc, ham ăn có miệng rộng và dày . Người hoạt động,
rộng xã giao, bặt thiệp, có miệng với môi nhiều thịt . Người có khả năng thực
hiện, tập trung tư tưởng, hay châm chích, có miệng như hình lưỡi dao. Người suy
tư, thủ phận, miệng có môi mỏng, khoé môi xệ .
Nghiên
cứu về miệng, chúng ta cũng cần tìm hiểu giá trị về khoảng cách giữa môi trên
và cậy mũi, nghĩa là phần dưới 2 lỗ mũi . Trung bình chiều cao của phần này
chiếm 1/3 của hàm . Nếu phần này thật lớn, người học rộng, uyên bác, tự chủ,
hay suy nghĩ và can đảm . Phần này thật nhỏ, người có tánh xung động, dễ bị
kích thích, ương ngạnh, bướng bỉnh, ngoan cố . Phần này thẳng hay mô, người
chặt dạ .
Nghiên
cứu về miệng cũng cần biết về khuôn khổ của 1 chiếc miệng trung bình như thế
nào, để dễ nhận xét thế nào là miệng to, miệng nhỏ, miệng rộng, miệng hẹp ...
Trung bình 1 chiếc miệng, chiều dài được kể từ khoé này đến khoé kia. Kinh
nghiệm cho biết với người đàn ông, chiều dài của miệng là 52 mm; với người bạn
gái, chiều dài trung bình là 47 mm. Chiều cao được tính từ chót vành môi trên
đến chót vành môi dưới, trung bình 1/4 của ni tất trên. Thông thường thì môi
trên có phần lồi và ít thịt hơn môi dưới . Môi trên là bộ phận giữ gìn, cầm,
nắm . Môi dưới là bộ phận thu nhận, tiếp đón, thụ hưởng . Người mê tẩu, thân
kinh cương rất nhiều nước miếng .
-
Miệng đều đặn, khéo đóng: người quân bình tư tưởng cũng như ý chí .
-
Miệng đóng không khéo, có vẻ như nhăn nhó: người đau khổ, đa tình .
-
Miệng rộng: người hoạt động, rộng xã giao, dễ phát biểu tư tưởng .
-
Miệng hẹp: người câu ngạnh, gút mắt .
-
Miệng hở: người thiếu can đảm, hay làm những việc gàn dở .
-
Miệng kín: người hà tiện, ít nói .
-
Miệng như hình trái tim: người nhẹ dạ, nông nổi, có hoàn toàn nữ tánh .
-
Miệng thẳng: người trầm tĩnh, khách quan.
-
Miệng có nhiều nếp xếp, người chủ quan .
-
Miệng vảnh lên, người lạc quan .
-
Miệng xệ xuống, người bi quan .
-
Miệng lệch, méo: người có tánh thù oán, hay mai mỉa .
-
Miệng phía mặt đầy hơn phía trái: người nghiêng về trí óc hơn, người duy tâm .
-
Miệng phía trái đầy hơn phía mặt, người nghiêng về vật chất hơn, người duy vật
.
-
Miệng như hé mở: người dễ bị xúc động, người đa cảm .
-
Miệng như mím lại: người lạnh nhạt, khô khan tình cảm .
-
Góc miệng xệ xuống, người đa sầu .
-
Miệng quặp xuống như không thấy môi dưới: người chuyên chế, có óc độc tài, tàn
bạo .
MÔI
-
Môi dày: người chủ quan, thực tế, hay lộ tánh tình .
-
Môi mỏng: người khách quan, kín đáo, biết tự chủ, không hề bộc lộ tánh tình .
-
Môi trên dày hơn, người can đảm, nhân từ, nhưng tham vọng và dâm dục .
-
Môi dưới dày hơn: người ham ăn, cứng đầu, đa dâm .
-
Môi kín: người giàu nghị lực .
-
Môi mềm, người ham mê sắc dục .
-
Môi trên cao ở giữa: người dễ bị kích thích dâm tính .
-
Môi trên hình vòng cung, người mau mắn, giàu nghĩa cử .
-
Môi dưới đưa ra: người phách lối, hay miệt thị, tự phụ .
-
Môi dưới xệ: người nhân từ .-
-
Môi có vẻ nặng và chù vù: người đa dâm, ham ăn .
-
Môi có những lằn thật nhỏ như những chỉ song song nằm ngang: người hăng hái .
-
Những đường dọc chung quanh môi, người ham hoà mình với bạn bè, xã hội .
CẰM
Về
phương diện nhận xét tổng quát, cằm là môi trường tìm hiểu khả năng trí thức
cũng như sự tinh khôn của mỗi người .
-
Cằm đầy, người giàu ý chí .
-
Cằm thiếu, người thiếu khả năng vật chất .
-
Cằm cao, người biển lận, ham ăn .
-
Cằm ngắn, người thiếu kiên nhẫn, có óc gây sự .
-
Cằm đứng, người quân bình ý chí, tự chủ .
-
Cằm nhô ra, người có ý chí mạnh, có óc chinh phục, có sức chiến đấu .
-
Cằm thụt vào, người yếu tinh thần, kín đáo, thâm hiểm .
-
Cằm rộng, người có óc tự chủ, thích chống chọi .
-
Cằm hẹp, người ít hăng hái, tỉ mỉ, mềm mỏng, qủi quyệt .
-
Cằm tròn, người nhân từ .
-
Cằm nhọn, người hung ác, nham hiểm .
-
Cằm đôi hay cằm ba, người đa dâm, ham ăn .
-
Cằm có nún đứng, người can đảm, có tài ngoại giao .
-
Cằm có nún ngang, người ham chuộng hoa bình .
-
Cằm như viên đạn, người hay nản chí, dễ bị xúc cảm .
-
Cằm xương, to, có góc cạnh: người chặt dạ, nhiều suy xét, ham hoạt động về tinh
thần, có nam tính .
-
Cằm rộng, đầy, nặng: người ô về, cộc cằn, thô lỗ .
-
Căm nhỏ, tròn và hơi nhô ra: người rụt rè, tánh tình bất nhứt .
HÀM
-
Hàm mạnh, người giàu ý chí, có nhiều khả năng hoạt động .
-
Hàm yếu, người bạt nhược, thiếu tinh thần hăng hái .
-
Hàm xương, người hoạt động nhưng nóng nảy, dễ xúc động .
-
Hàm nhiều mỡ, người nhạy cảm, ham ăn, không chịu dời đổi .
-
Hàm tròn, người mềm mỏng, dịu ngọt .
-
Hàm đứng, có góc, người ham chiến đấu .
TAI
Tai
có 1 tác dụng như miệng, nhưng chỉ có thụ cảm mà không có xuất cảm . Tai được
nghiên cứu về mọi khía cạnh, từ hình thức, vị trí, ni tấc đến chiều đóng và màu
sắc, mỗi hình thức đều có ý nghĩa khác nhau . Kinh nghiệm cho biết chiều cao
của 1 lỗ tai trung bình = với chiều dài của mũi . Cũng có thể dài hơn, nhỏ hơn
hoặc lớn hơn, tùy theo mỗi hình thức, chúng ta xách định sự lớn, rộng, hẹp của
tai .
Chiều
rộng của lỗ tai, thông thường = 2/3 chiều cao . Về chiều đứng, chúng ta có thể
tính như sau: Lỗ tai trung bình là lỗ tai nghiêng theo chiều sọ không hơn 5 độ,
từ 15 độ gọi là xếp, trên 30 độ gọi là giảo .
-
Lỗ tai đứng, người chăm chỉ, cẩn thận, khách quan, tập trung ý chí .
-
Lỗ tai giảo, người chịu hiểu, chịu suy xét, biết bắt chước .
-
Lỗ tai xếp, người dễ bị gợi cảm, dễ bị khích động .
-
Lỗ tai đóng cao, người nhặm lẹ, nhanh trí, linh hoạt, sắc sảo .
-
Lỗ tai đóng thấp, người đa sầu đa cảm, ưu tư, nặng nề, đần động .
-
Lỗ tai như dán vào sọ, người nhạy cảm, vô kỷ luật, tàn bạo, thiếu tự chủ .
-
Lỗ tai dán phần trên, người dễ bị khích động, có những ý nghĩ kỳ quặc, lập dị .
-
Lỗ tai dán phần giữa, người dễ dung hoà, cũng dễ hờn giận .
-
Lỗ tai dán phần dưới, người đa tình, nhân hậu, tốt bụng .
-
Lỗ tai bằng phẳng, không đều đặn, người bất nhứt, thiếu bình tĩnh .
-
Lỗ tai dán như có quai, người hay xáo trộn về tinh thần .
-
Lỗ tai có vành trong to, người phách lối, sống về tinh thần .
-
Lỗ tai có nhánh to, người hoà hoãn, chịu nghe, có trực giác, hay làm vui lòng
người .
-
Lỗ tai có trái tai to, người có óc mỹ thuật, thích hoà hợp màu sắc .
-
Lỗ tai có vành vòng cung nhọn, người có tánh kiêu ngạo, chua chát, hay châm
biếm .
-
Lỗ tai có vành viền đều, người tập trung ý chí, có óc thực tế, quân bình tư
tưởng .
-
Lỗ tai có vành viền không đều, người thiếu bình tĩnh, do dự, kỳ quặc .
-
Lỗ tai có vành ngắn, người thiếu khả năng bắt chước, kém chăm chỉ, hay dài dòng
.
-
Lỗ tai có vành dài, người hay chỉ trích .
-
Lỗ tai có vành trong lớn và mỏng, người sống về tinh thần .
-
Lỗ tai có vành trong nhỏ, người can đảm, có hậu nhưng kém khả năng sống về tinh
thần .
-
Lỗ tai có vành trong như chạm trỗ, người có khiếu mỹ thuật và âm nhạc .
-
Lỗ tai có vành nhỏ, người hay cương thần kinh, biết tùy thời .
-Lỗ
tai có nhánh rộng, người dễ mến, được thiện cảm của mọi người .
-
Lỗ tai có nhánh cao và rộng, người có khiếu âm nhạc, có khả năng nghiên cứu
nhiều thứ tiếng .
-
Lỗ tai có nhĩ to, người có nghị lực .
-
Lỗ tai có tiền nhĩ to, người có tư cách, biết cư xử .
-
Lỗ tai có tiền nhĩ hơn nghiêng, người ham hoà mình với mọi người .
-
Lỗ tai có tiền nhĩ ngã ngược, người nhác gan .
-
Lỗ tai thiếu tiền nhĩ, người cô độc .
-
Lỗ tai có trái tai ốm, người thiếu tinh thần hoạt động .
-Lỗ
tai có trái tai trung bình, người có khả năng hiểu biết, nhân từ, rộng rãi .
-
Lỗ tai có trái tai to, người nhạy cảm, giàu tình thương, giàu nhân ái .
-
Lỗ tai có trái tai to và nở, người nhiều khả năng nhục dục, đa dâm, chú trọng
về xác thịt, ích kỷ .
-
Lỗ tai có trái tai nở, người thực tế, có óc thực hiện .
-
Lỗ tai có trái tai nở, hình tam giác, người tích cực, ham kiến tạo .
-
Lỗ tai có trái tai nở, xệ, người tham vọng, thiếu tinh thần tha thứ .
-
Lỗ tai không có trái tai, người có trí óc mù mờ, không quyết định, thiếu khả
năng hoạt động .
-
Lỗ tai có trái tai trũng, người nhu nhược, sợ phấn đấu .
Về
màu sắc của lỗ tai, chúng ta có những giá trị như sau:
-
Lỗ tai màu tái mét, người yếu ớt, ẻo lã .
-
Lỗ tai màu hường, người quân bình ý chí .
-
Lỗ tai màu hồng, người có tánh giận dỗi, hay gây gỗ .
-
Lỗ tai màu đất, người thiếu điều hoà về thần kinh .
-
Lỗ tai có trái tai tái mét, người hà tiện, biển lận .
-
Lỗ tai có trái tai ửng đỏ, người đa dâm .
-
Lỗ tai nhiều thịt, người giàu ý chí, nhiều sinh lực .
-
Lỗ tai mỏng, ít thịt, người bạc nhược, khô cạn tấm lòng .
Ngoài
những hình thức bình thường, chúng ta còn những hình thức bất thường của lỗ
tai, dĩ nhiên lỗ tai thiếu hình thức bình thương là lỗ tai của người thiếu
quyết định, tánh tình bất nhứt . Sau đây là những giá trị đó, tùy theo mỗi hình
thức:
-
Lỗ tai mặt lớn hơn lỗ tai trái, người thiêng về trí não hơn .
-
Lỗ tai trái lớn hơn lỗ tai mặt, người thiêng về thể xác hơn .
-
Lỗ tai nhìn rõ ràng và trọn vẹn phần mặt, người dồi dào sinh lực .
-
Lỗ tai nhìn không trọn vẹn phần mặt, người khiếm khuyết sinh lực .
CỔ
Kinh
nghiệm cho biết vòng cổ trung bình của người Á Đông là 38 phân cho phái nam, 35
phân cho phái nữ . Vòng cổ người Âu Mỹ to hơn 2 phân ở mỗi phái, nghĩa là vòng
cổ đàn ông trung bình 40 phân và đàn bà 37 phân . Về chiều cao thì rất phức
tạp, không có ni tấc nhất định và sự dài ngắn cũng bất thường .
Chúng
ta có những giá trị về cổ sau đây:
-
Cổ bình thường, người quân bình mọi mặt, sức khoẻ bình thường .
-
Cổ to, người giàu nghị lực .
-
Cổ to, dài, người dồi dào khả năng thực hiện .
-
Cổ to ngắn, người có tánh võ phu .
-
Cổ dài và ốm, người hèn yếu, dễ nghe theo, lắm lúc cũng dối láo .
-
Cổ mịn, mát, người hoàn toàn nữ tánh .
-
Cổ ngắn, người có tính cách trẻ con, hay châm biếm .
-
Cổ to, ửng hồng, người bạo ngược, đa dâm .
-
Cổ mảnh khảnh và ngắn, người nhát gan, đần độn .
-
Cổ như chỉ có da với xương, người yếu đuối, chịu khuất phục .
-
Cổ trũng về phía dưới 2 lỗ tai, người yếu về phổi .
-
Cổ bầu về phía trước, người đa nghi, nóng nảy .
-Cổ
có ót ngắn, to và đỏ, người bạo dâm, có óc hãm hiếp .
-
Cổ có ót ngắn, mập và tái nhợt, người chú trọng về thể xác, ham xa hoa vật chất.
-
Cổ có ót ốm, người nghiêng về trí não, nhiều đức in .
-
Cổ có trái cổ lồi xa ra, người có tánh do dự, hay thay đổi tính tình .
-
Cổ có nhiều đường gân nổi lên, người dễ giận, dễ bị lôi cuốn .
-
Cổ có những đường ngang, hoàn toàn nam tính .
MÀU
DA
Màu
da là sắc thái quyết định tâm tánh của người trên phương diện hình thức, nó rất
liên quan mật thiết với tướng mạo, vóc dáng và bàn tay .
-
Da mét lợt, người mềm yếu, thích ở 1 chỗ .
-
Da trắng hồng, người hoàn toàn nữ tính .
-
Da trắng dễ biến sang màu khác, người rất nhạy cảm, buồn vui vô chừng .
-
Da hồng bóng, người có óc luôn trẻ trung, mềm mỏng .
-
Da đỏ gay, người nóng nảy, thích rày đây mai đó, người thực tế, dễ sôi nổi .
-
Da đỏ sẫm, người có tánh quạu qọ, nghiêng về vật chất .
-
Da màu đỏ ửng vàng, người hoạt động, hăng hái, quân bình ý chí .
-
Da mịn, người giàu thiện chí, nhân ái, dồi dào sinh lực cũng như trí thức .
-
Da nhám, người đa cảm, thông minh, có óc mỹ thuật .
-
Da xám nhạt, người nghiêng về tinh thần, ham chuộng giáo lý .
-
Da màu đất, người bạc nhược, thiếu ý chí, không ham hoạt động .
-
Da vàng ( không phải màu da của người Đông Phương, cần phân biệt điểm này),
người có tánh chua chát, hay ghen tuông, đố kỵ .
-
Da đỏ hoe, người ẻo lả, dễ bị cám dỗ .
THÂN
THỂ
Nghiên
cứu về thân thể, chúng ta có đối tượng rõ rệt giữa nam và nữ . Người nam bẩm
sinh thân trên vuông lớn, thân dưới nhỏ; người nữ thân trên nhỏ, thân dưới tròn
lớn .
Ở
người nữ, dạ dưới to hơn ở người nam và khum về phía trước, thắt lưng trở thành
eo.
Ở
người nữ, đùi dài hơn người nam nhưng chân ngắn hơn người nam.
Về
người mập, chúng ta để ý như thế này: Người nam mập phần trên như cổ, ót, vai,
bụng trên. Người nữ mập phần dưới: háng nở, bụng xệ, mông và đùi tròn .
Về
người ốm cũng vậy: Người nam ốm ở cổ, ngực và tay. Người nữ thì xương háng lồi
lên, vế và bắp chân teo lại .
Biết
qua những điểm đặc biệt về thể chất của 2 phái nam và nữ, chúng ta tìm hiểu về
cá tánh riêng biệt của 2 phái về mọi phương diện, nó sẽ tùy theo vóc dáng, bộ
phận trong thân thể, và cũng tùy hình thức mập ốm mà có những cá tánh đặc biệt,
dĩ nhiên khác nhau. Chúng ta có những chiết tính sau đây về cá tánh mỗi người:
-
Người tác lớn cân đối: tánh chậm nhưng cương nghị .
-
Người tác lớn không cân đối: tánh chậm và nhu nhược .
-
Người tác trung cân đối: tánh sống động và tích cực .
-
Người tác trung không cân đối: tánh sống động như tiêu cực .
-
Người tác nhỏ cân đối: linh hoạt mau mắn .
-
Người tác nhỏ không cân đối: tánh nóng nảy, dễ xúc động nhưng mau nguội .
-
Người tác lớn mập: chậm chạp thiếu ý chí .
-
Người tác lớn, tròn trịa: hoạt độ;ng đúng mức nhưng không liên tục .
-
Ngước tác lớn, ốm: không bền chí .
-
Người tác trung, mập: hoạt động đúng mức nhưng mau bỏ cuộc .
-
Người tác trung, tròn trịa: sống động, bình tĩnh .
-
Người tác trung, ốm: thật hoạt động nhưng không bền chí .
-
Người tác nhỏ, mập: linh hoạt, trung trực .
-
Người tác nhỏ, tròn trịa: linh hoạt, trầm tĩnh .
-
Người tác nhỏ, ốm: linh hoạt, nóng nảy, dễ xúc động .
-
Người có thắt lưng cao: phát triển về thực tế, có nữ tánh .
-
Người có thắt lưng thấp: phát triển về tinh thần, có nam tánh .
-
Người có ngang lớn: có khả năng thực hiện .
-
Người có ngang nhỏ: thiếu khả năng thực hiện .
-
Người có ót nở, vai rộng: cường tráng, giàu nghị lực .
-
Người có ót hẹp, vai ốm: không thích hoạt động, hay mơ .
-
Người có ngực nở phần trên: ham thực hiện .
-
Người có ngực nở phần dưới: ham hoạt động .
-
Người có ngực nhỏ hơn bụng: trầm mặc .
-
Người có ngực hẹp và ốm: suy tư .
-
Người có bụng bằng, thịt săn: ham thực hiện .
-
Người có bụng thẳng, nhiều thịt: ham hoạt động .
-
Người có bụng to: trầm mặc .
-
Người có bụng nhão: suy tư.
-
Người có xương chân hẹp: nam tính .
-
Người có xương chân rộng: nữ tính .
-
Người có đùi dài: nữ tính .
-
Người có đùi ngắn: nam tính .
Trên
đây là cá tánh tổng quát nghiên cứu theo hình thức vóc dáng, lần lượt chúng ta
tìm hiểu về cá tánh của người tùy từng bộ phận riêng rẻ, dĩ nhiên là bộ phận
bên ngoài như đầu, mặt, trán, chân mày, mắt, mũi, gò má, miệng, cằm, hàm, tai,
cổ, tóc, màu da và sau cùng mới đến bàn tay là điểm chánh trong phần nghiên cứu
về cuộc đời của người con gái, hay người n ữ hiện diện trong bàn tay.
Chúng
ta khởi sự bằng sự nghiên cứu về cá tánh của người qua hình thức của mỗi thứ
đầu .
ĐẦU
Nghiên
cứu về đầu, chúng ta phải nghiên cứu 2 phần chánh diện tức là nhìn trước mặt và
bình diện tức nhìn nghiêng.
Về
chánh diện, chúng ta có những cá tánh sau đây, tùy theo mỗi hình thức:
-
Đầu rộng, quá mức bình thường (nghĩa là 2 bên xương tai gồ ra): giàu năng lực,
rộng xã giao.
-
Đầu hẹp: thiếu năng lực, không hoạt bát .
-
Đầu hình trái lê: trầm mặc .
-
Đầu trái xoan: tánh tình hay thay đổi .
-
Đầu vuông hay chữ nhựt: ham thực hiện, có khả năng.
-
Đầu hình tam giác: suy tư.
-
Đầu có những nét béo, mỡ: nặng nề, ham vật chất .
-
Đầu có những nét tròn hay trái xoan: dịu dàng, dễ cảm, nữ tánh .
-
Đầu có những nét gân guốc: nam tính .
-
Đầu có những góc cạnh: dễ xúc động, nóng nảy .
Về
trắc diện, nghĩa là nhìn nghiêng, chúng ta có những cá tánh sau đây:
-
Phần trên nảy nở: nghiêng về tinh thần, chú trộng về thần bí, duy tâm.
-
Phần dưới nảy nở: chú trọng về thể xác, duy vật .
-Phần
trước nảy nở: nghiêng về hoạt động, có ý chí chinh phục .
-
Phần sau nảy nở: nghiêng về thụ động, có ý chí tự vệ .
-
Phần trước, ở trên nảy nở: trí thức, chủ động .
-
Phần sau, ở trên nảy nở: trí thức, thụ hưởng .
-
Phần trước, ở dưới nảy nở: có khả năng hoạt động về thể xác .
-
Phần sau, ở dưới nảy nở: thực tế, nhưng thụ động .
MẶT
Đây
là phần có thể được xem là trọng yếu vì đặt ra là con người, xấu rốt, sang hèn,
cao thượng hay đê tiện đều do mặt và tay mà ra, nếu xét đoán về hình thức .
Có
câu: "trông mặt đặt lòng". Nghĩa là chỉ xem qua gương mặt cũng có thể
đoán được phần nào lòng dạ con người .
Nói
như thế có nghĩa là mặt giữ một phần tối yếu trong con người . Đối với bàn tay,
mặt có một giá trị về bên ngoài, bàn tay có giá trị bên trong, cũng như một
trái cây, vỏ và ruột hay tình thần vật chất cũng thế .
Nghiên
cứu về mặt, chúng ta có 4 thể thức phân chia khuôn mặt thành 4 phần nổi bật:
1-
Khuôn mặt có phần hàm lớn hơn, tượng trưng cho bản tính tự nhiên.
2-
Khuôn mặt có phần gu, tức phần giữa lấn hơn, tượng trưng cho bản tính đa cảm .
3-
Khuôn mặt có phần trán lấn hơn, tượng trưng cho đời sống tinh thần .
4-
Khuôn mặt cân xứng về các phần, tượng trưng cho sự hoà hoãn, quân bình cuộc
sống .
Cũng
có những phần lớn hơn, bản tánh càng bộc lộ rõ rệt hơn. Thường thường ở người
bạn gái, huôn mặt luôn nhỏ và có những nét lấn rất ít trông thấy, nhưng cành
lớn tuổi những nét ấy càng thấy rõ hơn.
TRÁN
Chúng
ta khởi đầu bằng việc nghiên cứu phần trên của trán, vì đó là phần quan trọng,
có thể nói đó là sự phân biệt giữa người và vật .
Dĩ
nhiên một chiếc trán thấp là 1 hình thức tượng trưng sự kém về thông minh,
thiếu ý chí và tất cả, có nghĩa là khiếm khuyết về mặt tinh thần .
Về
phương diện giá trị, chúng ta có những giá trị tổng quát như sau:
-
Trán to và rộng tượng trưng cho sự nảy nở và khả năng tinh thần, thụ cảm .
-
Trán nhỏ và hẹp tượng trưng cho trí óc hẹp hòi, cừng đầu, có óc phe đảng .
-
Trán thấp tượng trưng cho sự ham muốn .
-
Trán cao và bằng: dễ xúc cảm, giàu tưởng tượng, lãn mạn .
-
Trán tròn: mơ mộng, mềm dịu, dễ thụ cảm .
-
Trán chữ nhật: thông minh, thực tế và có quy tắc .
-
Trán bằng: thông minh tầm thường .
-
Trán vồ: thông minh, hoạt động, thực hiện .
-
Trán vuông có cạnh: chặt dạ, thiếu cảm giác .
-
Trán vuốt: nghiêng về thần bí, mộng ảo .
-
Trán có chiều nghiêng đưa ra: cứng đầu, có thái độ trẻ con, ương ngạnh, ngoan
cố .
-
Trán có chiều nghiêng hơi xiên: thông minh chững chạc .
-
Trán trợt: có óc thực tế nhanh trí, giàu tưởng tượng, nhiều ham muốn .
-
Trán trợt và tròn: dễ tin dị đoan, nhiều mê tín .
Cũng
như khuôn mặt, nghiên cứu về trán chúng ta có thể chia vầng trán thành 3 khu
vực để tìm hiểu chính xác về ý nghĩa của từng khu vực . Ba khu vực đó là:
1-
Khu vực trên
-
Khu vực trên là khu vực rất nhạy cảm, có thể nói đây là khu vực cao nhất trong
con người chịu ảnh hưởng trực tiếp về tinh thần .
Khu
vực này nảy nở về phần trên, người sẽ nghiêng về thần học, về huyền bí .
Khu
vực này tròn người giàu tưởng tượng .
Khu
vực này lồi, người lý thuyết mơ hồ .
2-
Khu vực giữa nằm ở giữa khu vực trên và khu vực dưới .
Khu
vực này không thấy rõ người có một khả năng trí thức tầm thường .
Khu
vực này trong thấy rõ, người có nhiều suy nghĩ .
Khu
vực này có một lằn ngang, người có những suy nghĩ thái quá hay quá đáng cũng
thế .
Trán
lồi ở khu vực này, người rất thẳng thắn, chân thật, cao thượng và nhất là ham
thích đạo giáo .
Trán
tròn ở khu vực này: người sẽ có 1 trí nhớ dồi dào .
Trán
bằng ở khu vực này, người sống động .
Trán
lõm ở khu vực này, người có tánh do dự, đa nghi và lắm chuyện . 3- Khu vực dưới
nằm trên chân mày .
Nếu
khu vực này chồm ra, sát với chân mày, người sẽ có khả năng đáng kể về cảm giác
và rất nhạy cảm . Khu vực này nổi nhiều chừng nào, người có óc thực tế nhiều
chừng ấy .
Khu
vực trên chân mày như có bướu, người có óc thực hiện, chịu phê bình, chỉ trích
.
Khu
vực này có những nếp nhăn từ mũi đứng lên, người hay tập trung tư tưởng, có
thiện chí .
Trán
tròn ở khu vực này, người có tánh kín đáo .
Những
nếp nhăn nằm vắt ngang khu vực này, người thiếu khả năng quan sát, thiếu thực
tế .
Ngoài
giá trị riêng biệt của từng khu vực trên đây về trán, chúng ta còn để ý những
nếp nhăn, gần như luôn luôn có trên vầng trán của mỗi người, nếu lúc còn trẻ
tuổi không lộ ra, vào lúc trung tuần cũng thấy rõ .
Cũng
như những hình thức của trán, nếp nhăn có nhiều ý nghĩa khác nhau:
-
Nếu trán không có nếp nhăn: người sẽ kém khả năng hoạt động về tinh thần .
-
Trán nhiều nếp nhăn, dĩ nhiên là ngược lại với trán không nếp nhăn, người sẽ có
một khả năng rộng rãi về hoạt động tinh thần .
-
Trong phần dưới của trán có những nếp nhăn nằm ngang, người có óc miệt thị, tự
hào .
-
Trán có nhiều nếp nhăn tréo nhau, người có tánh kỳ quặc, tinh thần luôn luôn
giao động .
-
Trán có nhiều nếp nhăn song song và nghiêng, người đểu giả, gây rối và đa nghi.
-
Trán có nhiều nếp nhăn đứng và nghiêng chen lẫn nhau, người có óc đê tiện, cứng
đầu .
-
Trán có những nếp nhăn đứng giữa 2 chân mày, người luôn luôn tập trung suy nghĩ
trong bất cứ việc gì .
-
Trán có nhiều nếp nhăn ngang ở chí gốc mũi, người lỳ lợm .
CHÂN
MÀY
Muốn
nghiên cứu về chân mày, chúng ta cần phân tách làm 4 sắc thái riêng rẽ nhau để
nghiên cứu . Đó là chiều dài, chiều cao, chiều dày và hình thức . Chiếu theo
những sắc thái đó, chúng ta có những giá trị khác nhau về chân mày như sau:
-
Chân mày lá liễu, người mềm mại, duy tâm, hoàn toàn nữ tánh .
-
Chân mày ngang, người thực tế, hay tìm tòi, thông minh, ngăn nắp, tự chủ và có
óc sáng tạo .
-
Chân mày ngang, ngắn, người giàu thiện chí, can đảm về tinh thần cũng như vật
chất .
-
Chân mày xiên quớt về phía trên, tánh tình bất nhứt, đa nghi, giọng chua chát
và hay châm biếm .
-
Chân mày xiên xuống, người có óc bi quan, duy ngã, bần tiện, ghét đời, khiếp
nhược .
-
Chân mày nhiều và dài, người nhiều khí chất, kiên gan, tiến thủ .
-
Chân mày nhiều và ngắn, người ham hoạt động, tế nhị, dễ khích động nhưng trong
thời gian không lâu.
-
Chân mày mỏ và dài, người bình dị, mềm mỏng, kiên trì .
-
Chân mày mỏng và ngắng, người lãnh đạm, hờ hững, kém hoạt động .
-
Chân mày lá liễu, thưa và nhuyễn, người nhu nhược, thích trầm lặng .
-
Chân mày rậm, cứng, người bồng bột không ngăn được, lanh lợi, hoạt động .
-
Chân mày lợt, người yếu ớt .
-
Chân mày đậm, người mạnh dán .
-
Chân mày đứng chấm tới gốc mũi, người cứng cỏi, đanh thép, không chịu bắt
chước, nhưng lắm lúc phải trụy lạc về tinh thần cũng như về luân lý .
-
Chân mày thiếu đều đặn, người sắc thái mất quân bình .
-
Chân mày dang ra, người nhác nhúa, thiếu suy xét .
-
Chân mày gần lại, người hay tập trung ý nghĩ, chịu suy xét .
-
Chân mày chấm nhau, người có tánh ghen tuông, thâm hiểm, đố kỵ .
-
Chân mày thật đều, đồng thanh đồng thủ trên mắt, người nhát gan, không rõ ràng,
nhẹ dạ, dễ khích động, hay thay đổi, thiếu xét đoán nhưng rất trong trắng và
thật thà .
-
Chân mày thật gần với mắt, người bướng bỉnh, ưa phê bình, khinh người, nhưng
chịu suy nghĩ và sáng suốt .
Những
giá trị trên đây là gía trị căn cứ trên sự điều hoà về hình thức . Nói một cách
khác, đó là giá trị của các loại chân mày đều đặn, dù bên mặt hay bên trái .
Nhưng
trên thực tế, còn có những chân mày không đều đặn mà chúng ta cần phải nghiên
cứu cho đầy đủ .
Trường
hợp chân mày không đều đặn, trước nhất sự nghiên cứu phải được căn cứ theo từng
chi tiết thiếu đều đặn ấy dung hoà với nhau, tìm kết quả sau cùng, tức là giá
trị của hình thức chân mày ấy trên thực tế .
Về
chân mày không đều đặn, chúng ta có như thế này về giá trị:
-
Chân mày phía mặt xác nhận bản năng tinh thần mong muốn .
-
Chân mày phía trái xác nhận khả năng vật chất nhứt định .
Căn
cứ 2 phương thức trên, chúng ta sẽ dễ dàng phân tách giá trị của chân mày, dĩ
nhiên phần thiếu đều đặn ở đâu, sẽ chiếu theo giá trị ở đấy có quyết định sau
cùng .
Một
phần khác nữa rất cần thiết . Đó là đối với người sử dụng tay trái, việc nghiên
cứu về trường hợp chân mày không đều đặn sẽ được áp dụng ngược lại với phương
thức trên. Nghĩa là chân mày phía mặt xác nhận khả năng vật chất, chân mày phía
trái xác nhận bản năng tinh thần .
Dĩ
nhiên là thực tế và kinh nghiệm chứng minh rất ít có những chân mày thật đều
đặn, mà ngược lại vẫn có những chân mày xiên quớt về phía trên, lại có đuôi lá
liễu .
Trường
hợp này phải được nghiên cứu hỗn hợp gía trị của 2 mẫu chân mày xiên quớt và lá
liễu và đương nhiên sự chen lẫn ở chân mày phía nào, sẽ nghiên cứu giá trị hoả
hợp của chân mày phía ấy .
Chúng
ta có 1 thí dụ cụ thể cho 1 mẫu chân mày tượng trưng như thế này: chân mày trái
lá liễu, chân mày mặt ngang và xiên xuống .
Giá
trị sau cùng của nó là: người duy tâm, thông minh, mực thước, tự hiểu giá trị
của chính mình . Dĩ nhiên người này có đức tánh là chịu suy xét, biết kiềm hãm
dục vọng của mình .
MẮT
Chân
mày khoa trương sự kiều diễm của khuôn mặt, thì mắt lại là một thứ nhỡn tuyến
sắc bén của linh hồn, phát xuất từ linh hông và nói lên tâm não . Do mắt, chúng
ta có thể đọc được dễ dàng bản tánh cũng như phản ứng trong tâm não của mỗi
người .
Chúng
ta có thể qui định giá trị cho đôi mắt như thế này: mắt thông minh, mắt lãnh
đạm, mắt khờ khạo, mắt đa tình ... Đó là tâm lý xét đoán . Không chỉ thuần có
đôi mắt, mà còn phải dung hoà với những nét phô bày trên khuôn mặt nữa .
Về
phương diện phân tách đôi mắt, chúng thử lấy 1 thí dụ như thế này: thử vẽ trên
giấy 2 khuôn mặt giống nhau, mắt cũng giống nhau. Nhưng trong 1 khuôn mặt chúng
ta vẽ miệng xệ xuống, khuôn mặt kia miệng lại vảnh lên . Chúng ta sẽ thấy rất
rõ ràng ở trường hợp:
-
Trường hợp thứ nhứt, đôi mắt buồn .
-
Trường hợp thứ hai, đôi mắt tươi cười .
Chỉ
2 thí dụ cụ thể như trên, cũng đủ để chúng ta có 1 kết luận: đôi mắt là cánh
cửa sổ mở cho thấy tâm hồn của con người .
Chúng
ta còn 1 điểm đặc biệt khác, dùng quan sát giá trị của mắt là:
-Với
đôi mắt bình thường, khoảng cách nhau sẽ bằng với chiều ngang của 1 mắt và
chiều cao của 1 mắt đo theo 2 mí trên và dưới khi mắt mở ra, sẽ bằng phân 1/2
của chiều dài mắt ấy .
Chúng
ta có những giá trị khác nhau về đôi mắt như thế này:
-
Mắt dang ra, người giàu tưởng tượng .
-
Mắt gần lại, người có qui cũ, có óc minh bạch .
-
Mắt mặt dang xa gốc mũi hơn mắt trái, người có nhiều tưởng tượng đẹp về tinh
thần .
-
Mắt trái dang xa gốc mũi hơn mắt mặt, người giàu tưởng tượng và nhiều trực giác
.
-
Mắt gần chân mày, người có tánh khinh thường, hay chỉ trích .
-
Mắt xa chân mày, người nhẹ dạ, nhát gan .
-
Mắt lộ, người bồng bột quá đáng, hay hành động nghịch thường .
-
Mắt cùng màu sắc với da, người ưa mơ mộng, hay vẽ vời những sự mộng ảo .
-
Mắt sâu, người có nghị lực, chịu suy nghĩ, ít nói .
-
Mắt lồi (hay mắt ốc), người rắc rối, lắm lời .
-
Mắt lồi có vẻ lờ đờ, mi dày, người ham ăn, đần độn, dâm dật .
-
Mắt như mở to, người khẩu khí, trung trực .
-
Mắt chìm trong mi, người quỉ quyệt, nhiều tính toán nhưng có tài giao thiệp .
-
Mắt nhỏ, tròn, sâu, lóng lánh, người minh mẫn, sáng suốt, khéo léo .
-
Mắt nhiều tròng trắng bao quanh con ngươi, người bồng bột, khát vọng, dễ hờn
giận .
Ngoài
những cá tánh trên, mắt còn có những giá trị khác nhau tùy theo hình thức, màu
sắc và cái liếc nhìn nữa .
Về
hình thức, chúng ta nghiên cứu được như sau:
-
Mắt to, người tiêu cực, duy tâm.
-
Mắt nhỏ, người tích cực, hoạt động .
-
Mắt nghiêng có đuôi quớt lên, người sống động, vui tính .
-
Mắt nghiêng, đuôi cong về phía dưới, người yếu bóng vía, mơ mộng, dễ chán nản .
-
Mắt ngang, người thiết thực, bình dị, tích cực .
-
Mắt có con ngươi to, người thần kinh dễ căng thẳng .
Về
màu sắc, chúng ta tìm thấy:
-
Mắt trong, người nhác nhúa, mềm dịu, thiếu cương quyết .
-
Mắt xanh trong, người kín đáo, nhu mì.
-
Mắt xanh, người thích ở 1 chỗ .
-
Mắt màu măng, người thích rày đây mai đó .
-
Mắt màu đất lợt, người bạo dạn, hung hăng.
-
Mắt màu đất sậm, người giàu nghị lực tinh thần cũng như vật chất, ham xoay sở .
-
Mắt màu xám hoặc xanh lợt, người suy tư .
-
Mắt đen, người hách dịch, bồng bột .
Chót
hết, cái liếc của một người, nhứt là phái nữ, càng có nhiều ý nghĩa, mà chúng
ta cần ghi nhận:
-
Cái nhìn nóng bỏng, người dạt dào tình thương .
-
Cái nhìn nguội lạnh, người thiếu tình cảm .
-
Cái nhìn đục, người khờ khạo, nhu nhược và đa sầu .
-
Cái nhìn tươi, người nhanh trí .
-
Cái nhìn chăm chú, người trầm mặc .
-
Cái nhìn sâu, người thâm hiểm .
-
Cái nhìn óng ánh, người vui tính, thông minh.
Một
phần dính liền với mắt như môi với răng là đôi mi. Mi không khác nào 2 chiếc
cửa khép của mắt, nên mi rất đầy đủ ý nghĩa và giá trị .
Khi
nhìn ở đôi mi 1 người nào, chúng ta có thể xét được 1 phần tánh tình của người
ấy:
-
Mi có chiều cong xuống, người nhọc nhằn .
-
Mi cong ở mắt trái, người nhọc nhằn về vật chất .
-
Mi cong ở mắt phải, người nhọc nhằn về trí não .
-
Mi vảnh lên về gốc mũi, người độ lượng, chững chạc, chịu nghe lời phê bình .
-
Mi dưới đưa ra, người ham gây, ưa hoài nghi.
-
Mi trên bầu, người ham chuộc màu sắc, nhạy cảm .
-
Mi trên bầu và cong vào mắt, người có khả năng diễn tả, rành việc so sánh giá
trị của bất cứ việc gì .
-
Mi dày, người láu ăn, đa dâm .
-
Mi sâu, rõ và vòng cung, người quí phái .
Sau
mi mắt, đến lông nheo. Chúng ta có những giá trị về lông nheo như sau, độc đáo
về nam tính và nữ tính cho 1 người bạn gái:
-
Lông nheo dài và cong, người có dâm tính dồi dào, nữ tính .
-
Lông nheo dài và ngay, người có dâm tính dồi dào, nam tính .
-
Lông nheo ngắn và ngay, người kém khả năng dâm dục, hoàn toàn nam tính .
-
Lông nheo ngắn và cong, người kém khả năng dâm dục, hoàn toàn nữ tính .
TÓC
Có
tính di truyền rất mạnh. Tình hình sinh trưởng tóc của mỗi người thường rất
giống với bố mẹ. Có thể có cứ để nói rằng: tóc là bộ phận thể hiện cá tính rõ
nhất. Tóc nói ở đây bao gồm: dày, mỏng, thô, mịn, cứng, mềm, màu sắc và độ
xoan. Tóc tuy không cố định suốt đời như vân tay, nhưng cũng biểu thị những đặc
trưng tính cách khác nhau khá rõ. Tóc của mỗi người khác xa với hình dạng của
người đó. Nếu phân tích tóc của mỗi người một cách khoa học, chúng ta có thể
rút ra được những nét đặc trưng trong tính cách của họ.
Tóc dày
Nói
chung mỗi người có khoảng từ 10 - 11 vạn cây tóc. Bình quân 1 cm, mọc khoảng
200 cây tóc trở lên thì gọi là tóc dày. Người như thế có những đặc điểm tính
cách sau.
-
Tính tình ôn hoà: Người tóc dày ngoài đời rất trọng tình nghĩa, ứng xử lễ độ
đầy tình người, tính tình ôn hoà. Vì vậy rất dễ được mọi người ưa thích, kính
trọng.
-
Hồn nhiên, chất phác: Người tóc dày có tính cách cởi mở, hoạt bát, tích cực,
hiếu động. Tuy bề ngoài họ tỏ ra mạnh mẽ, nhưng trong tính cách lại khá mềm
mỏng, hồn nhiên, chất phác.
-
Có tài lãnh đạo: Nói và làm nhất trí, nói đến đâu làm đến đó, có tài lãnh đạo.
Tuy khéo léo ra mệnh lệnh nhưng tính cách của họ cũng rất đằm thắm, ít lãng mạn
mà thiên về hiện thực.
-
Nghiêm túc, cẩn thận: Người nhiều tóc bề ngoài có vẻ là hướng nội, nhưng trên
thực tế lại rất mạnh mẽ. Khi mà họ đã cố ý cẩn thận thì cũng rất cố chấp. Tuy
tính cách mạnh mẽ, nhưng lại có lòng độ lượng nghiêm túc, và chặt chẽ.
Tóc cứng
Tóc
cứng là chỉ tóc cứng, thẳng. Người có loại tóc này có các đặc điểm tính cách
sau.
-
Cá tính mạnh mẽ: Người có tóc cứng tính cách rất thoải mái, trái phải rõ ràng.
Một khi họ đã thích việc gì hoặc vật gì thì nhiệt tình đến cùng. Nói chung
người tóc cứng hay cố chấp, bảo thủ, tuy cầu an, vô sự, nhưng trong nội tâm
không thỏa hiệp. Đặc biệt là khi rơi vào hoàn cảnh khó khǎn hay bước đường cùng
thì tính cách đó lại càng trở nên mạnh mẽ.
-
Không sợ khổ, không sợ mất lòng: Người tóc cứng đối với công việc thường tỷ mỉ,
không sợ khổ, không sợ mất lòng, thái độ trước sau như một, không vì một khó
khǎn nào đó mà dao động. Đáng tiếc là có một số người rất bảo thủ, thiếu sự
linh hoạt cần thiết.
-
Giàu lòng thông cảm: Người tóc cứng giàu lòng thông cảm, ôn hoà. Nói chung họ
thường nhiệt tình giúp đỡ người khác.
Tóc mỏng
Tóc
mỏng là chỉ tóc ít và thưa. Người có mái tóc như thế thường có những tính cách
dưới đây.
-
Tính cách hai mặt: Người có tóc mỏng về nhiều mặt thường có tính cách hai mặt.
Họ không quen nói chuyện trước mặt người khác, hoặc không chủ động tiếp xúc,
cũng không muốn người khác đi lại với mình. Đối với bất cứ việc gì đều thiên về
thái độ tiêu cực. Tuy bình thường là hướng nội, rất ít bộc lộ chân tướng của
mình, nhưng một khi họ tức lên thì không ai cản nổi.
-
Thiếu bền bỉ, dẻo dai: Người tóc mỏng cho dù là làm việc hay học tập đều thiếu
sự bền bỉ, dẻo dai cần thiết. Mới đạt được một chút thành tích đã thoả mãn.
-
Nhạy cảm: Người tóc mỏng đối với các sự vật bên ngoài thường rất nhạy cảm, đặc
biệt là về mặt tiền tài. Nói chung loại người này thường cầu an vô sự, ít tranh
chấp.
Tóc thô
Độ
to nhỏ của tóc thường khoảng 0,05 đến 0,15mm. Tóc người bình thường khoảng 0,08
đến 0,09 mm. Người tóc thô thường là trên 0,1mm. Người tóc thô có đặc điểm tính
cách sau.
-
Tính cách hào phóng: Người tóc thô tính cách hào phóng, lòng tự trọng cao. Vì
vậy thường không chịu nghe những lời nói thật của người khác. Trong gia đình
hay biểu hiện tính cách gia trưởng.
-
Không sợ trắc trở: Người tóc thô làm việc mau chóng. Khi gặp trắc trở cũng
không nản chí, có thể kịp thời rút kinh nghiệm để quay lại từ đầu.
-
Độc đoán, chuyên quyền: Độc đoán chuyên quyền là mặt làm cho người ta không ưa
người tóc thô, vì họ thường tự cao tự đại.
Tóc mịn
Tóc
mịn là chỉ các sợi tóc nhỏ khoảng từ 0,06 đến 0,07mm. Người tóc mịn có những
đặc tính tính cách dưới đây.
-
Ham muốn mạnh mẽ: Nói chung người tóc mịn tham vọng rất nhiều. Họ luôn luôn
quan tâm tô vẽ cho mình, nhưng lại không muốn lộ mặt ra.
-
Tính cách hướng nội: Người tóc mịn thường có tính cách hướng nội, không quen ra
lệnh. Khi xử lý vấn đề thường thiếu tính quyết đoán. Một khi đã quyết định thì
rất khó thay đổi.
-
Thiếu chính kiến: Nói chung người tóc mịn thường thiếu chính kiến, hay dựa vào
người khác, dễ dao động. Nếu gặp được người lãnh đạo tốt thì họ có thể phát huy
đầy đủ sở trường của mình.
-
Tính tình ôn hoà: Người tóc mịn tính tình ôn hoà, giàu lòng thông cảm. Ơ' ngoài
đời họ chǎm chỉ, thành thực nên dễ được mọi người yêu mến. Nhưng nhược điểm là
hay ảo tưởng, hay lãng mạn.
Tóc xoǎn
Tóc
xoǎn là chỉ tóc xoǎn bẩm sinh. Tính cách của người tóc xoǎn phụ thuộc vào mức
độ xoǎn khác nhau mà có biểu hiện khác nhau. Nhưng xét một cách tổng quát người
tóc xoǎn tính cách thường bướng bỉnh.
-
Tính tình bướng bỉnh: Nói chung người tóc xoǎn tính tình bướng bỉnh, cho dù
trong công việc, học tập hay trong giao tiếp họ đều rất khó làm vui lòng người
khác. Mức độ xoǎn càng cao thì tính cách này càng rõ rệt.
-
Tự cao, tự đại: Người tóc xoǎn có tật hay tự cao tự đại. Họ thích móc máy vào
nhược điểm của người khác, lật đi lật lại thất thường, lúc sang trái, lúc lại sang
phải, hơn nữa nhiều khi việc nhỏ cũng xé ra to. Thích nói những điều đao to búa
lớn hù doạ người.
-
Tóc thật nhiều, người có khả năng dồi dào về vật chất .
-
Tóc ít, người có khả năng trí thức .
-
Tóc rậm, chi chít, người có nghị lực nhưng ham gây gỗ .
-
Tóc mịn, người dễ mến .
-
Tóc ngắn và quăn, người cứng đầu .
-
Tóc to, người tánh lỗ mãng .
-
Tóc nhuyển, người duyên dáng nhưng kém sức lực .
-
Tóc bồm xồm, người khó tánh, bất phục tùng .
-
Tóc gút mắt, người mềm mỏng .
-
Tóc sậm hoặc đen huyền, người giàu nghĩ ngợi .
-
Tóc màu hung (màu hạt dẻ), người tầm thường .
-
Tóc màu vàng hoe, người nhạy cảm, dễ cám dỗ .
-
Tóc đỏ hoe, người thích bềnh bồng, dễ giận .
-
Tóc trắng (không phải tóc bạc), người bạt nhược .
-
Tóc óng ánh, người sang trọng, dồi dào sinh lực .
-
Tóc mờ, người suy yếu, thiếu nghị lực .
TƯỚNG PHÁT ĐẠT
Thông
thường bàn về việc giải đoán tướng mạo, người ta hễ thấy diện mạo khôi ngô tuấn
tú,tiếng nói vang dội,Tam đình bình ổn Ngũ quan cân xứng hoặc Ngũ nhạc triều
cũng là vội vã cho ngay đó là loại tướng người chắc chắn sẽ có thể phát đạt.
Thực ra, tuy các điều kể trên là các dấu hiệu hàm ngụ sự phát đạt, nhưng trong
đời sống thực tế không thiếu gì kẻ hội đủ các dấu hiệu trên mà không khá giả,
hoặc có phát đạt một thời nhưng không được hưởng phúc đến già hoặc nửa đời vinh
hoa cực điểm nhưng rốt cuộc nhà tan thân diệt. Sở dĩ có những hiện tượng đó là
vì theo luận của tướng học, hoặc do Ngũ hành sinh khắc ( trong cái tốt đã hàm
chứa cái xấu ) hoặc do tâm tính kiêu sa, độc hại không biết giữ gìn để rồi tự
mình làm hại mình trước khi bị người ta làm hại (phần tâm tướng không đi đôi
với phần hình tướng).
Ngược
lại, Ngũ quan, Ngũ nhạc không nẩy nở, mũi không đẫy đà, thoáng trông không có
gì là tướng phát đạt theo định nghĩa thông thường mà vẫn được hưởng phúc lúc
trung niên hay tuổi già. Hiện tượng này trong thực tế cũng không hiếm. Đứng về
mặt tướng học chuyên môn, loại tướng người có vẻ không phát đạt mà lại phát
đạt, chính là những kẻ có tướng phát đạt đặc biệt, tỷ như các loại tướng ngũ
lộ, ngũ tiểu, ngũ hợp, bát tiểu, cầm thú tướng, nếu các điều kiện hình thức lẫn
lộn nội dung của các loại tướng ( vốn bị coi là tiện tướng theo nhãn quang
thường tục ) kể trên phải đồng thời kiêm bị.
Ta
hãy lấy ví dụ về tướng ngũ lộ. Tướng ngũ lộ là :
-
Mắt lồi ( vốn là tướng chết yểu )
-
Tai phản ( Luân Quách đảo ngược vốn là tướng người ngu độn )
-
Lỗ mũi hếch lên ( tướng của người chết thảm )
-
Môi cong lên ( Tướng của người chết thảm )
-
Lộ hầu ( cùng ý nghĩa như môi cong )
Thoáng
nhìn qua, tướng người như vậy, kẻ học tướng thông thường vội vã cho là ác
tướng, nếu không kết luận là tướng người yểu thọ, bần hàn thì cũng không dám
nghĩ đó là tướng người phát đạt. Thế mà, một cá nhân nếu đủ cả ngũ lộ thì lại
thường là kẻ phúc thọ song toàn. Tướng " Ngũ lộ câu toàn " tuy thường
là tướng phát đạt đặc biệt, nhưng không phải hầu hết là phát đạt, vì chữ câu
toàn *chỉ mới là hình thức chứ không không đủ thực chất đi kèm. Ví dụ như ngũ
lộ mà :
-
Mắt lộ nhưng không có thần quang
-
Tai lộ mà không có vành tai ngoài hoàn mỹ
-
Mũi lộ mà chuẩn đầu trơ xương hoặc quặp xuống như mỏ chim ưng
-
Môi hếch mà răng sún hoặc khểnh
-
Lộ nhưng âm thanh rè và nhỏ
thì
đó lại là tướng thô trọc, chủ về khốn quẫn, chết non, vì chỉ đắc cách có phần
hình thức mà không có phần thực chất nên không phải là tướng phát đạt .
Tướng
pháp có câu : Nhất lộ, nhi lô thì quẩn bách, bần yểu, ngũ lộ thì phát đạt. Câu
nói đó chỉ có tính cách tương đối. Ngũ lộ câu toàn có phát đạt hay không, còn
tuỳ thuộc vào một số điều kiện như đã nói trên. Còn nhất lộ, nhị lộ thì quẫn
bách, bần yểu, cũng không phải là điều đương nhiên phải thế. Vì cũng như ngũ lộ
câu tòan nhất nhị lộ nhiều khi là tướng của kẻ bần cùng nhưng đôi khi cũng là
tướng của người phát đạt. Nếu mắt lộ mà có chân quang và thu tàng thì nếu các
bộ vị khác không khuyết hãm thì đến ngoài 40 tuổi sẽ có cơ hội khá giả, mũi lộ
** mà khí sắc lúc nào cũng hồng nhuận, cánh mũi dầy và lỗ mũi không hếch lên (
tham khảo đoạn nói về các loại mũi điển hình ) thì tuy thiếu niên có bị khốn
khổ nhưng nói về những vãn niên ắt phát đạt. Môi, tai, lông mày, yết hầu
...cũng đều có thể suy diễn tương tự như trên để định xem " lộ " là
tốt hay xấu chớ không thể vội vã võ đoán.
Ngoài
tướng ngũ lộ được coi là phát đạt ( nếu hội đủ cả hình lẫn chất ) còn có các
tướng ngũ tiểu, bát tiểu, ngũ hợp, tướng cầm thú ...cũng đều là tướng phát đạt
đặc biệt với điều kiện là hình và chất đi đôi với nhau .
Tóm
lại, các tướng đặc biệt vừa kể, tướng pháp gọi đó là biến cách hay phi thường
cách để phân biệt với loại tướng người bình thường, đều có thể phát đạt hay
không tuỳ theo sự hội đủ được cả hình lẫn chất không. Hình thì như đã miêu tả
trong quyển I, còn chất thì đó là những điểm độc đáo về nội dung đã nói ở
chương nguyên lý về thanh trọc. Những loại tướng phát đạt đặc biệt chính là căn
cứ vào nguyên tắc " Trọc trung hữu thanh ", Thanh và trọc tương đối
dễ phân biệt, nhưng " thanh trung hữu trọc và trọc trung hữu thanh "
thì lại rất khó tìm ra. Trong chương nói về thanh trọc, soạn giả đã cố gắng
tổng hợp các điều liên quan đến thanh trọc tản mát trong các sách vở về tướng,
nhưng thực tế không phải chỉ có bấy nhiêu. Muốn thấu hiểu phải tường tận, phải
chuyên tâm nghiên cứu và có năng khiếu đặc biệt bén nhạy. Bởi lẽ trên, chúng ta
sẽ không thấy gì đáng ngạc nhiên khi trong các sách nói về tướng học, người ta
thường nói " Tâm lĩnh thần hội" nghĩa là những gì uyên thâm cao xa,
thì có thể hiểu thấu đáo bằng lối tâm truyền chứ không thể bằng lối ngôn truyền
được. Điển hình cho lề lối này là phần hình nhi thượng của nho giáo do Khổng Tử
hấp thụ được chỉ còn lưu lại qua con người của Tử Tư rồi Tử Tư chỉ truyền được
đến đời Mạnh Tử là mất chân truyền.
Tuy
vậy, mặc lòng sự cố gắng liên tục vẫn là điều tối thiết yếu cho bất cứ ai muốn
đạt đến một mức độ thành quả nào đó, còn năng khiếu đặc biệt về một ngành học
càng huyền ảo, thì lại càng khó phát hiện nếu chưa nỗ lực tới mức tối đa. Vì
vậy độc giả không nên thấy khó mà đã vội ngã lòng khi nghiên cứu và ứng dụng
nguyên lý thanh trọc trong tướng học " đường đi khó, không khó vì ngăn
sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông " kia mà.
TƯỚNG PHÁ BẠI
Các
dấu hiệu của sự phá bại
Chữ
phá bại dùng ở đây có nghĩa rộng rãi, bao gồm :
-
Số kiếp long đong vất vả về một hay nhiều lĩnh vực của đời người, không bao giờ
có thể khá giả, công danh, sinh kế trì trệ
-
Tâm tính thấp hèn, ngu muội quá mức bình thường
-
Kết quả cuộc đời thường bi thảm : chết trong cô đơn, chết bất đắc kỳ tử, chết
thảm, đói rách, bị khinh rẻ ...
Đứng
về mặt hình tướng, tướng người phá bại được nhận ra nhờ các dấu hiệu bề ngoài
sau đây :
-
Trán nhỏ, nhọn, hẹp, chủ về hình khắc, công danh trắc trở, thuở thiếu niên gặp
nhiều tai họa
-
Lông mày mọc thấp, lan xuống gần bờ mắt chủ về cùng khốn. Lông mày thưa thớt
chủ về vất vả, nhọc nhằn trong cuộc sống, đứt đoạn chủ về công việc thành bại
thất thường, ngắn cụt chủ về nghèo hèn ...
-
Mắt vừa ngắn vừa nhỏ chủ về tâm địa nhỏ mọn, nếu thêm mặt mập núng nính như mặt
heo thì sẽ chết không toàn thây.
-
Mắt lớn, lồi và hời hợt, chủ về chết non, lộ và có hùng quang chủ về chết thảm,
đồng tử vàng và lờ đờ thần chủ về khắc thê và hay bị hình phạm
-
Mũi hếch và lộ chủ về phá tán, cùng khốn. Thấp, hoặc có gân có vạch chủ về công
ăn việc làm lên xuống thất thường, chuẩn đầu má cao so với khuôn mặt và nhất là
so với lưỡng quyền thì chủ về cô đơn hay phá bại , quá lớn và mỏng gọi là không
phù hoặc nghiêng lệch đều chủ về cô đơn trì trệ.
-
Miệng nhỏ, môi mỏng chủ về nghèo hèn, rộng mà lệch, lớn mà thường há hoác ra
không khép kín lại đều chủ về cô đơn, nghèo hèn. Môi túm lại và nhô cao lên,
khoé miệng trễ xuống, pháp lệnh ăn vào khoé miệng đều có ý nghĩa tương tự.
Riêng pháp lệnh ăn vào khoé miệng gọi là " Đằng xà nhập khẩu " dù các
bộ vị khác có tốt nhưng chung cuộc cũng chết đói hoặc chết đường chết chợ.
-
Tai không có Luân, Quách rõ ràng minh bạch chủ về cùng khốn, mỏng nhọn chủ về
nghèo túng, đen đủi, thấp, lệch chủ về hèn mọn chết non.
Đại
để những kẻ mà ngũ Quan đều vấp phải một trong các khuyết điểm của từng Quan kể
trên khả dĩ đủ để xếp vào loại tướng người phá bại.
Ngoài
tướng phá bại vì Ngũ Quan khuyết hãm kể trên còn có một số hình cách đặc biệt
sau đây cũng bị xếp loại vào tướng phá bại.
a)
Lục cực - Đó là kẻ có một trong sáu dáng dấp cực đoan sau đây :
-
Đầu lớn nhưng cổ nhỏ : chủ về bần tiện, yểu vong. Riêng đàn bà đầu lớn cổ nhỏ
vai ngang là số goá bụa, làm bé.
-
Mặt lớn, đầu nhỏ : chủ về nghèo và tính nết độc ác.
-
Thân thể phì nộm cao lớn mà tiếng nói quá nhỏ, không có âm lượng, chủ về vãn
niên nghèo khổ, chết chờ tay người ngoài tống táng.
-
Ức nổi cao mà bụng dưới lại quá lõm : chủ về hậu vận không ra gì
-
Vai lưng quá trơ xương so với toàn thể các phần khác của thể : chủ về nghèo hèn
không con cái.
-
Chân cẳng khẳng khiu không tương xứng với thân mình : cùng một ý nghĩa như đệ
ngũ cực kể trên.
b)
Lục tiện -Xét về mặt tâm tướng, vô luận hình hài ra sao, nếu phạm vào một trong
các khuyết điểm sau về đức hạnh cũng thuộc về tướng phá bại :
-
Không biết liêm sỉ, giữ gìn đạo lý.
-
Thường tự khoe mình (tự cao, tự đại)
-
Thích châm chích những khuyết điểm của người.
-
Không có gì đáng cười mà lại cười như kẻ phát khùng.
-
Không biết lẽ tiến thoái trong khi giao thiệp hay làm việc
-
Lúc ăn hay nói chuyện huyên thuyên trên trời dưới đất (đây phải là một có tật
bẩm sinh mới kể. Còn như với dụng tâm làm sai lạc nhận định của người chung
quanh thì không kể)
c)
Lục nại - Lông mày thô, mọc thẳng đứng, không xuôi theo chiều từ đầu đến đuôi
mắt chủ về hay bị hình phạm.
-
Ngay giữa Sơn căn có một lằn sâu chạy xuyên qua Aán đường lên tới giữa trán,
Sống mũi cao gầy trơ xương : chủ về khổ sở, tai nạn.
-
Tròng mắt lồi cao rất tốt rõ : chủ về hình khắc.
-
Sống mũi có xương phát triển về chiều ngang và nổi cao lên chủ về trung niên
phá tán, long đong vất vả.
-
Răng vẩu và khấp khểnh, lồi ra khỏi miệng chủ về bực dọc lo lắng uất ức suốt
đời.
-
Xương lộ, thịt xệ và thường gặp tai nạn, hung hiểm và có số cơ hàn.
d
) Lục ác
-
Đầu quá nhỏ, bần tiện, ngu độn.
-
Mắt dê : chết thảm hoặc đoản mệnh
-
Môi túm cong lên, răng lởm chởm : nghèo túng
-
Yết hầu lộ : khắc vợ, muộn con, hay gặp tai vạ.
-
Tam đình bất quân xứng, Hạ đình đặc biệt dài và nhọn chủ về nghèo khổ, cô đơn
lúc tuổi già.
-
Đi thân hình lắc lư như rắn bò, bước chân nhún nhảy như chim chìa vôi : long
đong khốn quẫn.
e
) Thập sát
-
Mặt mày lúc nào cũng ngơ ngác như kẻ si ngốc.
-
Thần khí hôn ám thô bỉ
-
Lòng trắng mắt pha hồng vì thiên bẩm.
-
Lỗ hếch hếch, sống mũi quá thấp gần như vào mặt phẳng của khuôn mặt.
-
Vô bệnh tật mà có thói quen bẩm sinh hay khạc nhổ dường như trong miệng lúc nào
cũng có đờm.
-
Chỉ có râu cằm mà môi trên không có ria
-
Lúc ăn uống thường đổ mồ hôi dù rằng thân thể không bị bệnh và trong khi mọi
người khác ở vào hoàn cảnh tương tự không có đổ mồ hôi.
-
Tự nói, tự cười với chính mình mà không cần người đối thoại.
-
Thanh âm khan lạnh giống như tiếng chó sói tru.
-
Bị bệnh hôi nách (ở đây phải hiểu là riêng nách có mùi hôi vì bệnh tật, còn các
bộ phận khác không có mới kể vào thập sát. Nếu như vì không năng tắm gội mà
toàn thân có mùi hôi hám thì không kể)
Bất
kể phạm vào một trong thập ác nào thì cuộc đời cũng thường gặp hung hiểm, bất
trắc ( hoặc về gia đạo, bạn bè, công danh, sự nghiệp v.v...). Càng gặp nhiều
sát thì mức độ hung hiểm càng gia tăng và sự giải đoán càng thêm chính xác*.
Ngoài
những nét tướng hình thể ở vị thế tĩnh hoặc bán tĩnh, bán động đề cập ở mục vừa
kể liên quan đến phát đạt hay phá bại, ta còn phải kể đến những nét tướng về
thần, khí sắc ( đặc biệt là khí, sắc ) ở từng bộ vị một. Những điểm này soạn
giả đã trình bày khá tường tận ở chương " Thần khí, sắc và khí phách"
cho nên mục này không nhắc lại. Độc giả nên tham chiếu chương đó để việc giải
đoán thêm phong phú.
*Trên
đây là ý nghĩa thập sát của Phong Vân Tử, tác giả cuốn Giám nhân thuật Nghiễn
Nông cư sĩ trong bộ Quan nhân ư vị ( cuốn 4 trang 148 ) thì lại cho rằng
"thập sát" là :
-
1 Dáng đi chậm chạm như người say
-
2 Mũi khấp khúc
-
3 Da mặt thô, đen đúa
-
4 Mắt sần sùi như trái qua lâu (tên một loại dưa)
-
5 Lông mày quá đậm
-
6 Tiếng lanh lảnh như chó sói tru
-
7 Giọng nói the thé
-
8 Gian môn lõm và hãm
-
9 Miệng quá rộng
-
10 Mắt quá lớn.
TƯỚNG THỌ, YỂU
Tướng
người trường thọ
Tướng
người trường thọ phải hội đủ tối thiểu bảy điều kiện sau đây :
-
Lông mày phối hợp thích nghi với râu và tóc, càng về già càng dài lại là dấu
hiệu tốt. Tuy nhiên, dưới 30 tuổi mà lông mày đột nhiên dài ra một cách bất
thường lại là chứng yểu mạng
-
Tai có Luân Quách rõ ràng, lớn và dầy, rắn chắc, sắc tươi nhuận
-
Sống mũi ( Phần Niên thượng, Thọ thượng ) đầy và có thịt
-
Nhân trung sâu và rộng
-
Răng chắc chắn
-
Tiếng nói rõ ràng, vang dội
-
Thần khí sung túc
Ngoài
ra, những dấu hiệu sau đây cũng liên quan khá mật thiết tới việc giải đoán thọ
mạng:
-
Cổ phía dưới có thêm lớp da trễ xuống vai ( trường hợp khí người đứng tuổi và
mập ).
-
Nếu là lộ hầu thì âm thanh phải trong trẻo và cao
-
Xương Lưỡng quyền vững vàng và ăn thông lên ngang phía
-
Xương hai bên đầu phía trên và sau tai nổi cao rõ rệt
-
Ngũ nhạc đầy đặn và đúng cách tục
-
Đến tuổi trung niên ( khoảng ngoài 30 tuổi ) Tai mọc lông dài hoặc Lông mày bắt
đầu mọc dài và sắc thái tươi nhuận
-
Lưng rộng, bụng dầy
Người
có đầy đủ tất cả các điều kiện kể trên chắc chắn là tướng trường thọ trong
trường hợp bình thường.
Tướng
người non yểu
Một
cá nhân bị xem là tướng non yểu nếu đồng thời phạm bảy khuyết điểm sau đây :
-
Lông mày đẹp đẽ về hình thức nhưng hỏng về thực chất ( chẳng hạn sợi thô vàng,
sắc khô héo ), Lông mày mọc xệ xuống phía dưới mi cốt, dáng vẻ lạnh lẽo.
-
Tai nhỏ, úp xuống phía trước mặt, Tai quá mềm và sắc không xạm, tai quá mỏng,
nhĩ căn bạc nhược.
-
Mũi gãy khúc, Sơn căn gập xuống, Chuẩn đầu nhỏ nhọn, khiến mũi trở thành liệt
thế.
-
Đầu nhỏ, cổ dài, trán nhỏ nhọn và nổi gân xanh, thiếu niên mà đi hoặc ngồi co
đầu rụt cổ.
-
Nhân trung ngắn nông cạn
-
Tiếng nói đứt đoạn, giọng nói gấp mà hời hợt như người thiếu hơi, âm điệu buồn
tẻ như người không có sinh khí.
-
Ánh mắt đờ đẫn như kẻ si ngốc hoặc người ngái ngủ, ngồi thì lưng như gục ngã,
đứng nhìn thì chân không có gân cốt, đi thì thân hình xiêu vẹo, bước chân thiếu
vững vàng.
Tất
cả những dạng thức trên đều là biểu hiện của "Thần suy nhược, hôn ám đoản
xúc" nên không thể nào sống quá 50 tuổi. Bởi lẽ đó, có người tuy về hình
tướng rất đẹp đẽ phương phi mà chết yểu chỉ vì khí chất không quân xứng.
Ngoài
cách cục tổng quát về non yểu kể trên, tác giả Phong Vân Tử trong cuốn Giám
Nhân Thuật còn liệt kê một vài hạn tuổi non yểu với một số hiệu đặc biệt rất dễ
nhận xét như sau :
a
) Chết yểu trong vòng 10 tuổi trở lại : Phàm tướng người non yểu trong tuổi
trên được thể hiện qua đầu và trán nhỏ quá mức so với thân mình, trán nổi gân
xanh quá rõ rệt, phía sau đầu xương bị lõm xuống
b
) Chết yểu trong vòng 20 tuổi trở lại : Tác người lớn con mà đầu lại nhỏ bé
cộng thêm với tiếng nói quá nhỏ là tướng khó sống qua năm 15 tuổi. Tai mỏng như
giấy, nhĩ căn bạc nhược, da mỏng và bóng như bôi dầu khó vượt qua quãng 16, 19
tuổi, Mắt lồi mà lòng đen ít, lòng trắng nhiều, nhĩ căn xạm đen, tai mỏng và
hướng về phía trước, khó sống qua tuổi 20.
c
) Chết yểu trong vòng 30 tuổi : Lông mày ngắn, mặt ngắn không thọ quá 25 tuổi.
Mày thưa thớt, xâm phá Aán đường, mắt không có thần, môi xám đều là tướng đoản
thọ trong vòng 26 tuổi. Mắt nhỏ, quyền thấp, xương thô, thịt teo mà hạ đình quá
dài nhọn: không quá 27 tuổi. Lông mày giao nhau mà mắt thoát thần, môi vẩu mà
môi trên lại ngắn, da mặt quá mỏng đều là tướng khó sống được quá 30 tuổi.
d
) Chết yểu trong vòng 40 tuổi : Mắt lồi, lông mày ngắn, mà đại các quá dài
không tương xứng với khuôn mặt khó sống qua 32 tuổi. Mắt thì lúc như lộ chân
quang, lúc thì lại như chìm xuống. Lông mày vừa thô vừa ngắn lại thêm hạ đình
dài hẹp: không quá 34 tuổi. Mắt lộ mà lộ hầu, xương nhỏ mà người mập: không quá
36 tuổi. Mắt lộ hung quang hừng hực, tính tình thô bạo thì dẫu mũi cao, sơn căn
không gẫy khúc thì cũng chỉ đến năm 39 tuổi khó tránh được số trời.
e
) Tướng mạng vong trong khoảng 50 tuổi : Con người quá 50 tuổi mà chết thì theo
câu nói vẫn thường truyền tụng " nhân sinh thấp thập cổ lai hy "
không còn gọi là yểu tử nữa mà nên gọi là mạng vong hay thọ chung. Thông
thường, kẻ sống mũi không ngay ngắn (có chiều hướng lệch sang bên trái hay bên
phải ) ít khi sống quá 42 tuổi. Mắt nhỏ, mày co rút lại không tương xứng với
khuôn mặt, sơn căn lại đầy đặn thường sống đến khoảng 42, 44 tuổi. Bắt đầu phát
phì mà thần khí lại có vẻ co rút thì khó qua được tuổi 49 và 50.
ĐOÁN TƯỚNG TIỂU NHI
Con
nít vì cơ thể chưa phát triển đầy đủ nên không thể căn cứ vào ngũ quan, Lục phủ
để định tốt xấu như người đã thành niên. Việc coi tướng trẻ em phần lớn chỉ dựa
vào thần khí, cử chỉ nên chỉ có tính cách phỏng chừng. Ở mục này, soạn giả cố
gắng tổng hợp các nét chính về tướng tiểu nhi phân thành từng trọng điểm để độc
giả tiện tham khảo.
1
- Tướng trẻ sơ sinh dễ nuôi
Hầu
hết trẻ em dễ nuôi và sống đến tuổi thành niên, trong hoàn cảnh bình thường đều
có bảy nét tướng chính yếu sau :
-
Mới sinh ra tóc dài tới sát lông mày
-
Đầu tròn trịa, da hồng hoặc ngăm đen
-
Lỗ mũi khi thở phát ra hơi đều và mạnh, lúc ngủ ngậm miệng
-
Mắt có thần, khi cất tiếng khóc mới đầu giọng cao, tiếng lớn có âm lượng .
-
Con trai, hai trứng dái ( âm nang ) đàn hồi và có nhiều nếp xếp
-
Tai và miệng lớn
-
Mũi cao, môi hồng và dầy cân xứng
2
- Tướng trẻ sơ sinh khó nuôi
-Da
đầu trông có vẻ quá mỏng và căng
-Lông
mày quá lớn so với Đầu và mũi quá thấp đường chỉ thấy có phần chuẩn đầu
-Mắt
thay vì có màu đen bóng như hạt huyền lại có màu lạt như đậu đỏ
-Khuôn
mặt tròn như mắt gà
-Tai
nhỏ và mềm như bún
-Không
có bắp chân
-Khi
cất tiếng khóc mới đầu rất lớn , về sau nhỏ dần
-Thịt
nhiều, bệu, xương quá ít
-Môi
mỏng như giấy và phía sau tai không có nhĩ căn nổi rõ
-Đầu
lớn, cổ quá nhỏ
-Hai
mắt lờ đờ không thần
-Mắt
lúc nào cũng ướt như khóc
-Đầu
nhỏ, nhọn
-Bụng
lớn, rốn nhỏ
-Tóc
vàng khè và thưa, ngắn
-Chưa
tới sáu tháng mà đã sớm mọc răng trong khi lông mày hầu như không có
Sự
dễ nuôi và có khả năng sống đến tuổi thành niên hay khó nuôi hoặc yểu tử còn có
thể căn cứ vào xương đầu để đoán định. Trong phần xương đầu của tiểu nhi ta cần
đặc biệt lưu ý mấy khu vực sau đây :
-Xương
chẩm ( phía sau đầu , trên xương gáy )
-Sơn
căn
-Tỵ
lương ( Sống mũi )
Xương
chẩm nổi rõ và rộng, Sơn căn có bề ngang và cao hơn mặt phẳng của lưỡng quyền,
sống mũi ở ngay giữa khuôn mặt và không lệch là dấu hiệu bề ngoài về mặt hình
thể cho biết đó là cát tướng. Ngược lại là yểu tướng.
3
- Tướng tiểu nhi phúc hậu
Từ
khi bắt đầu biết đi đến 5 tuổi muốn biết phúc phận trẻ em dầy mỏng ra sao thì
coi thần khí. Thần khí nói ở đây bao gồm tọa thần, ngọa thần và mục thần nghĩa
là ánh mắt hoà ái, nói năng thong thả trong trẻo, đi đứng nằm ngồi có vẻ nhàn
hạ là tướng phúc hậu. Sau 6 tuổi coi thêm Nam, Trung và Bắc nhạc. Nam nhạc cao
rộng đúng cách chủ về sơ vận phúc lộc tốt, Trung nhạc đắc thế thì trung vận khá
giả, Bắc nhạc đầy đặn cân xứng thi vãn vận hưởng phúc. Tóm lại cuộc đời về sau
của trẻ em có thể biết trước được một cách khái quát ngay từ khi chúng còn thơ
ấu.
4
- Tướng tiểu nhi tương lai nghèo hèn
Lúc
còn nằm trong nôi mà tiếng khóc không trong trẻo chủ về lớn lên vừa nghèo khổ
vừa khó nên người, tiếng khóc mà âm thanh tản mát, lớn lên thì vô tài bất
tướng. Thần khí bất túc, biết đi quá sớm cũng cùng một ý nghĩa như trên .
Từ
3, 4 tuổi trở lên không thích quần áo sang trọng, không phân biệt sạch bẩn Nam,
Trung và Bắc nhạc lệch hãm ....đều là dấu hiệu báo trước rằng khi lớn lên khó
có thể khá giả.
5
- Tướng tiểu nhi trong bệnh
Góc
trán có sắc xanh xám, hai mắt thất thần, Thiên thương và ấn đường sắc đỏ, môi
miệng xám đen. Khi thấy có những màu sắc trên bắt đầu xuất hiện là phải đề
phòng trọng bệnh.
Khi
bị bệnh nặng, nếu thấy Sơn căn, Tỵ lương, môi, miệng đều xám xanh một lúc là
dấu hiệu sẽ chết trong vòng năm, bảy ngày tới. Các bộ vị trên đều từ xám xanh
chuyển dần sang màu vàng nghệ thì khoảng ba bốn ngày khó tránh khỏi tuyệt mạng.
Nếu mắt lộ phù quang, gián đài, đình uý khô cằn, chuẩn đầu đen, môi miệng vàng
là dấu hiệu sắp chết nội trong ngày.
Ngược
lại, bệnh dù nặng, nhưng màu đỏ của ấn đừơng biến dần sang màu vàng, môi miệng
từ đen xạm sang hồng lạt là dấu hiệu nội tại cho biết bệnh tạng bắt đầu thuyên
giảm, sinh mạng không có gì nguy hiểm.
6
- Tướng trẻ em trai khắc cha
-Phía
trán bên trái thấp, lõm hoặc bị tật nệnh bẩm sinh hoặc khu vực trán có nhiều
lông tơ nhỏ và rậm đen khác thường
-Lông
mày trái bất thường tỷ như nửa phần rủ xuống, nửa phần hướng lên, sợi lông thô,
mọc dựng đứng
-Thân
mũi lệch về bên trái hoặc một trong các bộ vị bên trái của mũi bị khuyết hãm
-Quyền
trái lộ
-Tai
trái thấp hơn tai phải hoặc hình thái có Luân Quách đảo ngược
-Nhân
trung lệch về bên trái
-Khoé
miệng lệch về trái. Môi trên dài hơn môi dưới quá đáng
Có
từ hai dấu hiệu trên trở lên có thể coi như tướng khắc cha. Càng nhiều hơn thì
sự khắc phá càng nặng. Nếu có đủ tất cả có thể quả quyết là cha sẽ chết trước
mẹ, hoặc người cha sẽ khốn khổ vì đứa con đó
7
- Tướng trẻ em trai khắc mẹ
-Nguyệt
giác thấp, lệch, lẹm có lông măng quá đậm
-Lông
mày phải có lông mọc ngược hoặc thẳng đứng, trái lẽ thường trong khi phía trái
bình thường
-Sống
mũi lệch về phải, các bộ vị phía phải của mũi có hình dạng bất thường
-Quyền
phải lệch, lộ, nhọn
-Tai
phải thấp, nhọn, khuyết
-Nhân
trung lệch về bên phải
-Môi
dưới dài hơn môi trên, hoặc khoé miệng phải lệch
Nói
chung, khuôn mặt bên phải chủ về mẹ. Nếu các bộ vị bên trái bình thường mà ít
nhất hai hay nhiều bộ vị bên phải có các dấu hiệu trên thì có thể tiên đoán
được đứa trẻ đó khắc mẹ. Nhẹ thì mẹ con bất hoà, tính tình xung khắc, nặng thì
có thể vì sinh đứa con đó mà chết trước chồng .
ĐOÁN TƯỚNG PHỤ NỮ
a
) Tương quan giữa vài nét tướng mặt và cơ thể
Đời
Đường (618 - 907), Nhất Hạnh Thiền sư, một nhà tướng học khét tiếng thời đó mà
nay một phần tác phẩm về tướng vẫn còn được lưu truyền, có lẽ là người đầu tiên
phổ biến quan niệm cho rằng có thể căn cứ vào một số nét tướng khuôn mặt để suy
đoán ra các nét tướng trên thân mình. Để phân biệt con người thưc tế với con
người thu gọn trên khuôn mặt, thiền sư mệnh danh hình ảnh đó là Tiểu Hình Nhân.
Trải
qua nhiều sóng gió của thời cuộc, công trình độc đáo của Nhất Hạnh Thiền sư bị
binh lửa Trung Nguyên làm thất truyền khiến cho các sách tướng cổ điển của
Trung Hoa không còn tài liệu độc đáo này. Tuy vậy, một số người Nhật giao
thương với Trung Hoa thời đó may mắn sưu tập được một vài di cảo của Nhất Hạnh
đem về nước nghiên cứu và phát huy thêm. Thành thử, nguyên cảo Trung Hoa bị
thất lạc chỉ còn lời đồn, may nhờ Nhật giữ hộ mà không bị mai một vĩnh viễn. Từ
công trình khảo sát sơ khởi của Nhất Hạnh đem ra nghiên cứu tướng đàn bà bổ túc
thêm cho hợp với nữ giới. Người Trung Hoa đầu tiên du nhập lại kiến thức này là
Tô Lãng Trai, tác giả quyển Ngũ quan tướng tĩnh nghiên cứu. Những điều trình
bày trong mục này phần lớn căn cứ vào các tác phẩm của Ngũ Vị Trai và Tô Lăng
Thiên cả.
Muốn
có tiểu hình nhân ta lấy khuôn mặt làm mẫu mực, miệng là đầu, hai mi cốt (xương
lông mày) là hai chân, hai pháp lệnh là hai tay, nhân trung là cổ, mũi là toàn
thể thân mình.
1
- Hai cánh mũi
Phàm
hai cánh mũi phụ nữ cân xứng thì nhũ hoa cũng cân xứng. Hai cánh mũi nẩy nở
tròn trịa thì ngực nở, nhũ hoa lớn. Ngược lại, Chuẩn đầu thấp, gián đài, đình
uý nhỏ hẹp thì nhũ hoa cũng nhỏ hẹp. Đàn bà mũi xẹp cánh mũi mỏng và nhỏ mà có
bộ ngực núi lửa thì đó chẳng qua chỉ là phần nhân tạo chứ không phải là phần
thiên bẩm.
Hơn
nữa, màu sắc của hai cánh mũi còn cho ta biết được nữ giới hiện đang ở thời kỳ
kinh nguyệt hay không. Đang lúc hành kinh cánh mũi bao giờ cũng có sắc ửng hồng
mà ngày thường không có.
Những
điểm trình bày trên đây đúc kết từ những nhận xét của các nhà y học nhằm mục
đích giúp bạn trai những kiến thức giải hữu ích cần thiết tránh được những hành
vi tổn thương đến đời sống gia đình chỉ vì ngộ nhận thiện chí của nhau.
Nói
chung sơn căn cho ta biết phần co lưng, sống mũi cho ta biết nửa phần thân
trên.
2
- Nhân trung
Nhân
trung và môi miệng giúp ta biết được một cách khái quát về cơ cấu sinh dục cũng
như khả năng sinh dục của phụ nữ.
Nói
một cách tổng quát muốn biết việc sinh sản dễ dàng hay khó khăn, ta cần nhớ là
: Nhân trung ngay ngắn, rõ ràng cộng thêm với lộc thượng, thực thương, Tả Hữu
Tiên Khố tề chỉnh, đầy đặn và cân xứng là những dấu hiệu chắc chắn của việc
sinh sản bình thường, ít gặp hiểm ngo vì thai sản.
Hai
bờ nhân trung đàn bà đều rõ tạo thành hình dạng trên hẹp dưới rộng là dấu hiệu
nhiều con và sinh sản dễ. Nếu có thêm chỗ gần tiếp giáp với miệng trũng xuống
như vùng trâu đằm thì con trai ít hơn con gái. Nếu hai lằn gồ cao của nhân
trung gần giáp với môi trên lại nổi cao và rõ thì sinh trai nhiều hơn gái.
Nhân
trung đàn bà trung bình và không có có đặc điểm trũng xuống hay nổi cao vừa kể
thì số con trai và gái gần như ngang nhau nhưng không quá nhiều.
Dĩ
nhiên, những nhận định nào không áp dụng cho các trường hợp giải phẫu thẩm mỹ.
Nhân
trung quá mờ hoặc bị vạch ngang là dấu hiệu khá chắc chắn của kẻ có khả năng
sinh dục không đáng kể. Quá mờ lại có vạch ngang rõ rệt là tướng không con vì
lý do thiên nhiên bất túc.
3
- Nốt ruồi ở nhân trung
Nốt
ruồi đàn bà xuất hiện ở nhân trung cũng là nét tướng có ý nghĩa quan trọng cần
được đặc biệt lưu ý :
Bất
kể hình dạng Nhân trung ra sao bỗng nhiên có nốt ruồi đen đọng lại vị trí 1, là
tướng đoản mệnh, hay chết sớm vì thai sản hoặc bệnh liên quan đến tử cung.
Nốt
ruồi ở vị trí 2 là dấu hiệu tử cung không được ổn, dễ bị bệnh phụ nữ. Đồng thời
về mặt mạng vận là điềm báo trước ít nhất cũng phải dang dở hay tái giá mới
được an thân. Nốt ruồi ở vị trí 3 dù lệch sang phải hay trái, không liên hệ đến
tử cung nhưng liên quan đến mật thiết đường tình dục. Đàn bà có nốt ruồi đen
như vậy phần lớn là không chung thuỷ, ít khi thoả mãn tình dục với một người khác
phái.
Nốt
ruồi ở vị trí số 4 dấu dâm đãng. Theo Ngũ vị trai, kẻ có nốt ruồi đó nếu thêm
mặt có đào hoa sắc thì trước khi kết hôn đã chung chạ chăn gối, có chồng rồi
vẫn còn bướm ngõ ong tường, chồng ra cửa trước rước người tình ở sau. Về đường
tử tức, ít khi có con. Thỉnh thỏang hoặc có thì về già cũng cô độc kể như không
có.
4
- Mội, Miệng
Tướng
học hiện đại Á Đông dựa trên các nhận xét của khoa học thân thể. Khác với tiếng
học gia thời xưa, các tướng học gia Nhật bản ngày nay cũng là chuyên viên về y khoa
và tâm lý. Nhờ đó, họ đã phong phú và hiện đại hoá tướng học Á Đông rất nhiều
Tướng
học Nhạt Bản cho rằng người ta có thể căn cứ vào mặt bất cứ nam nữ mà thôi cũng
tạm đủ dữ kiện để phát đoán về toàn thể con người một cách tổng quát. Đối với
tượng phái hình thể này, khuôn mặt là hình thể rút gọn của con người, từ khuôn
mặt suy ra con người là một điều đáng rầt phù hợp với thực tế, không có gì đáng
gọi là thần bí hoang đường cả. Tiếc thay quan điểm khoa học này bị một số người
coi tướng giữ kín làm bí quyết sinh nhai và cố tình bí hoá nó khiến cho đa số
quần chúng ngộ nhận là họ có tà thuật và coi tướng học như một môn thần bí học.
Môn
phái Nhật Bản cho rằng Môi, Miệng và hạ thể có nhiều tương đồng với hình thể và
màu sắc .
5-Tai
Vẫn
theo tướng phái trên, rãnh tai và màu sắc của tai là dấu hiệu để xét định bộ
phận sinh dục của phái nữ .
Theo
ngũ Vi Trai, tác giả cuốn Ngũ quan tướng tinh nghiên cứu vào những năm trước
khi xảy ra cuộc chiến tranh giữa Nhật Bản và Trung Hoa, ông ta đã tự mình khảo
nghiệm khoảng tám mươi trường hợp thực tiễn thấy rằng tuy không đúng hẳn 100 %
nhưng đại đa số những điều phát biểu về lý thuyết đều phù hợp với thực tế .
b
) Những nét tường đặc trưng về phụ nữ của Viên Liễu Trang
Cổ
nhân Trung Hoa nặng đầu óc phong kiến, quá trọng nam quyền cho rằng chỉ đàn ông
mới thanh khiết, mới đáng trọng và đáng giữ vai trò chỉ huy trong mọi lãnh vực
sinh hoạt. Quan niệm chuyển thế " trọng nam khinh nữ " này buộc đàn
bà phải lệ thuộc và phục tùng tuyệt đối ở đàn ông, ở nhà phải nghe lời cha, lấy
chồng phải nghe lời chồng, hoạt động gì (đặt biệt là hoạt động ngoài đời lẫn
chủ động trong đời sống tình dục). Nói khác đi, dưới nhãn quang luân lý cổ điển
khắt khe này, phụ nữ hoàn toàn bị động, phải tỏ ra vô tài cán. Có như thế mới
coi là có đức: vì tục ngữ Trung Hoa : Nũ tử vô tài tiên thi đức (Con gái không
có tài cán tức là có đức vậy ). Người đàn bà được trời phú tính thông tuệ, tư
tưởng độc lập hoặc nhan sắc tự cho là mình có khả năng, không chịu hoàn toàn
công nhận quyền tuyệt đối của nam giới, muốn tham gia vào đời sống cộng đồng
một cách tương đối bình đẳng ( tỷ như nghề nghiệp tình dục ), muốn sống theo
lương tri và phát triển khả năng thiên phú theo ý riêng, dám bất đồng ý kiến
với chồng đều coi là hình khắc tư dâm.
36 TƯỚNG HÌNH KHẮC
-Tóc
vàng khè, xoắn tít lại với nhau thành từng bụi một
-Tròng
đen có màu vàng xậm ( như nước trà pha đặc ) tròng trắng đục đỏ
-Lưỡng
quyền quá cao nhọn, lấn hết khuôn mặt và các bộ vị khác
-Trán
nổi từng cục u nhỏ như ốc bám
-Trán
cao, mặt hõm
-Trán
có vằn sâu hoặc thẹo
-An
đường có hằn sâu dài chạy thẳng từ sơn căn lên trán , xung phá
-Tuổi
trẻ mà tóc rụng quá nhiều
-Xương
da khô, phá
-Mắt
dài, miệng lớn quá mức
-Mặt
gầy guộc nổi gân
-Mặt
hình tam giác
-Tai
chỉ có vành trong mà không có vành ngoài
-Mặt
choắt, nhọn, eo bụng quá hẹp
-Sắc
mặt khô xạm trì trệ như đất bùn
-Sơn
căn thấp gẫy
-Cằm
nghiêng lệch
-Cổ
gầy, trơ xương nổi đốt
-Tiếng
oang oang như tiếng sấm
-Tính
nóng như lửa
-Thần
khí thô trọc
-Trán
rộng, cằm nhỏ và nhọn
-Mắt
có khí sắc lốm đốm màu trắng
-Sống
mũi nổi gân máu hoặc nổi đốt
-Thịt
lạnh như nước đá
-Tay
lớn, xương thô
-Vai
lưng nghiêng lệch
-Mắt
tròn và quá lớn
-Lộ
hầu, răng như bàn cuốc
-Xương
thô cứng, tóc rễ tre
-Đêm
ngủ hay la hoảng
-Miệng
như thổi lửa
-Lỗ
mũi có lông dài thò ra ngoài
-Trán
gồ, mang tai bạnh
-Xương
che lỗ tai quá cao và đầy
-Mắt
trắng bệch, không huyết sắc
NHỮNG TƯỚNG CÁCH PHỤ NỮ
Theo
quan niệm " Nam ngoại nữ nội" dưới nhãn quang tướng học Á đông, những
tướng tốt đối với đàn ông không bắt buộc phải là tốt với đàn bà. Chẳng hạn :
-Đàn
ông mà trán cao, rộng, sáng sủa, đầy đặn là biểu hiện của trí tuệ sâu sắc, kiến
thức rộng rãi, dễ thành đạt lúc thanh niên. Ở đàn bà, kẻ có tướng trán như vậy
lại là kẻ long đong về đường gia thất.
-Đàn
ông có lưỡng quyền cao rộng và nảy nở là tướng có thực quyền, quả cảm ưa phấn
đấu. Ở đàn bà, quyền cao và nảy nở là kẻ có khí khái trượng phu, có khuynh
hướng ăn hiếp chồng và khắc chồng.
-Đàn
ông có tiếng nói cao và vang xa hoặc trầm hùng ngân lâu như tiếng chuông là
tướng âm thanh thượng cách, chủ về thông minh tháo vát, hoặc công danh đầy hứa
hẹn. Ngược lại, đàn bà mà có âm thanh kể trên lại là tướng âm thanh khắc phu,
dâm loạn, phá bại hoặc trùng hôn.
Trong
phép xem tướng diện mạo nữ giới, ngũ quan cần phải để ý đã đành nhưng ba bộ
phận mà người xem tướng đặc biệt phải chú trọng là Mắt, Mũi, Môi và Miệng. Mắt
cho ta biết được trạng thái qua tinh thần của nữ giới, Mũi chủ về chồng, Môi và
Miệng liên quan mật thiết đến con cái.
Nói
một cách tổng quát, đàn bà có mũi ngay ngắn, dài và đầy đặn, sắc da tươi mát và
không có tỳ vết được xem là tướng vượng phu.
Miệng
không lớn, không nhỏ, hay môi dày mỏng tương xứng, lưỡng quyền bằng phẳng không
quá cao, không nổi, toàn thể da mặt hồng nhuận không có nốt ruồi. Tàn nhang hay
bã chè làm mất vẻ mỹ quan là tướng ích tử.
Lục
phủ (hiểu theo nghĩa rộng là toàn thể xương khuôn mặt) chủ về tiền tài, sinh kế
mà người chồng có thể hưởng thụ khi lập gia đình với phụ nữ đó*. Nếu khuôn mặt
phụ nữ đầy đặn phúc hậu, xem tướng cân phân (trong trường hợp nếu là người gầy
thì dĩ nhiên mặt không thể bầu bĩnh. Lúc đó, chỉ cần xương lưỡng quyền không lộ
cao, mặt mũi không hốc hác) là tướng vượng tài.
*Nói
như vậy không có nghĩa là người chồng sẽ được hưởng của hồi môn mà chỉ hàm ý
rằng nhờ sống chung với người vợ đó mà công việc làm ăn của người chồng sẽ
vượng thịnh về mặt tiền bạc.
Dưới
nhãn quan tướng học nam giới, người đàn bà có đủ cả tam vượng là người vợ lý
tưởng trong đời sống gia đình. Nói khác đi, đó là loại cát tướng của phụ nữ.
Ngược
lại, Mũi lệch cong queo hoặc trơ xương, lỗ mũi hếch hoặc quá ngắn là tướng lấy
chồng khiến phu quân tổn thương, khắc hãm hoặc ly hôn. Vì vậy, tướng thuật có
câu : "Mũi đàn bà là phu tinh". Miệng quá lớn và mỏng, môi sáng hoặc
trắng bệch, lưỡng quyền cao nhọn : vừa khắc chồng lại vừa lận đận về đường tử
tức. Khu vực quanh mắt thâm đen, sâu hõm là tướng không con.
Đàn
bà tối kỵ tướng cách cô thần nghĩa là mắt tròn và trắng dã, mũi hếch, môi vẩu
và lộ cả chân răng, tai khuyết hãm, trán lẹm hoặc lồi, hoặc có loạn văn, đầu
quá lớn, mũi sư tử, mũi sống kiếm mà lưỡng quyền cao rộng, mắt lồi, lông mày
dựng đứng,thân hình quá ngắn mà mặt lại quá dài. Pháp lệnh quá dài và sâu lúc
còn trẻ, tiếng nói như phèng la bể v.v... người có tướng cách cô thần vừa khắc
chồng, vừa tổn con, về già cô đơn khốn khổ.
Về
phong thái có loại phụ nữ vừa thoáng nhìn đã khiến ta sinh lòng tà vạy là loại
dâm tướng, vì mọi cử động hành vi, ngôn ngữ, đầu, mặt, đuôi mắt đều khơi động
xuân tình. Lại có loại phụ nữ thoáng thấy sinh dạ nể vì do ở ánh mắt nghiêm,
tinh thần nghiêm túc, đó là tướng tôn quý; lại có tướng người vừa thấy mặt đã
nảy sinh lòng coi rẻ là loại tiện tướng; còn loại người thoáng qua có cảm giác
kinh sợ là tướng hình khắc.
Một
số người khảo cứu về sự tương quan hợp hình tướng của đời sống nội tâm phụ nữ,
sau khi quan sát và phỏng vấn một số phụ nữ thành gia thất đã phân chia phụ nữ
thành 3 loại điển hình chính yếu sau đây:
Loại
hướng nội:
Loại
có tâm hồn hướng nội, phần lớn có dáng người thấp, cổ ngắn, đầu khá lớn,miệng
rộng, môi dày. Cá tính trội yếu của họ là trầm mặc, không ưa gây gổ lạc quan,
dễ dàng thông cảm, thích ăn uống, tham lợi ích nho nhỏ, tâm địa thẳng thắn,
không thích thủ đoạn.
Trong
đời sống gia đình, họ là hiền thê, lương mẫu, thai kỳ đều đặn, chính thường, dễ
sinh sản và lắm con, nấu nướng khéo, không ưa nhõng nhẽo, chung thuỷ với chồng.
Loại
hướng ngoại:
Phần
lớn có dáng người cao và thon, vai xuôi mông nhỏ, tứ chi dài, mũi cao, môi mỏng
cằm hơi lộ, cổ nhỏ và dà, da dẻ hơi khô và mỏng. Cá tính của họ dễ vui, dễ
buồn, thích hoạt động nhưng mau chán.
Về
mặt sinh lý, họ dễ bị bệnh phụ khoa, tính lãnh cảm. Trong đời sống gia đình, họ
không ưa nấu nướng,kém tháo vát, dễ cáu kỉnh.
Loại
trung tính:
Loại
này là trung gian giữa hai loại trên nên thân hình có thể cao hơn và khá mập,
có thể hơi thấp và gầy, môi miệng không quá đầy, không quá mỏng. Các bộ phận
khác cũng ở mức trung dung. Họ có thể là kết tinh phần tốt hay phần xấu của hai
cá tính hoặc nội hay hoặc ngoại tuỳ theo sự tốt xấu của từng bộ vị. Quan sát
loại tướng trung tính này rất khó, cần phải có kinh nghiệm và nhãn quang bén
nhạy mới đạt được mức độ tương đối chính xác .
Tuy
nhiên, các điểm nêu trên chỉ có tính cách khái lược. Việc xem tướng trong thực
tế không quá đơn giản như vậy. Muốn có một ý niệm rõ ràng, chúng ta cần phải
đào sâu vấn đề hơn nữa, xuyên qua việc khảo sát một số lãnh vực bao gồm nhiều
trọng đề dưới đây :
a ) Lãnh vực cá tính
1
- Tướng người ham mê nhục dục
Tính
dục thì ai cũng có, nhưng người quá trọng nhục dục thường ít ra cũng có một vài
nét tướng đặc biệt :
-Đàn
bà trời phú sắc da mặt trắng hơi pha màu hồng lạt gọi là đào hoa sắc hoặc mặt
trắng mà có nhiều tàn nhang đều chủ về háo dâm
-Lông
mày nhỏ hẹp, uốn cong dài quá mắt, mắt lớn và sáng
-Phía
dưới mắt ( Lệ đường ) có lằn xếp hay gân màu xanh xám hoặc hồng chạy về phía
đuôi mắt ( Ngư vĩ ) là tướng đàn bà thường có khuynh hướng ân ái vụng trộm
-Mắt
đào hoa thấy người đàn ông xa lạ, ưa nhìn, thừơng hay cười tình liếc xéo
-Phía
dưới mắt có nốt ruồi đen nổi rõ hoặc mắt không khóc mà vẫn ướt và nhìn cặp mắt
không rõ cười hay khóc : tiện dâm
-Miệng
lớn và khoé đi xuống lưng ong
-Ngồi
hai bàn chân bắt chéo, hai bàn tay đan nhau và bó lấy gối hoặc hay rung gối là
tướng đàn bà trong đới ít ra cũng vài ba bận thông dâm
-Eo
lệch, rốn quá sâu, lòng trắng pha hồng, tiếng nói liến thoắng hầu hết là những
người dễ bị quyến rũ vào đường sắc dục
-Bước
đi uốn éo như rắn, nhún nhẩy như chim sẻ và thường ngoảnh lại là tướng háo dâm
-Nhân
trung gẫy khúc, quanh mép miệng sắc da xanh xám một cách tự nhiên không vì bệnh
tật
-Mặt
ngăm đen, đầu tóc rậm, ánh mắt ướt và sắc, da bóng bẩy
-Có
thói quen lấy đầu lưỡi khoa động nước răng, hoặc cận răng đen xám, không cười
mà thường lộ chân răng
-Trường
hợp phụ nữ hút thuốc lá, kẻ có thói quen thở khói rất mạnh là kẻ háo dâm
Những
nét tướng cho thấy rằng có thể căn cứ vào nhiều bộ vị, nhiều lãnh vực sinh hoạt
để biết khái quát về cá tính tiềm ẩn của một cá nhân về mặt tình dục. Hơn nữa,
mọi nét tướng thể hiện dục của nữ giới, dù đứng trên bình diện sinh lý hay đạo
lý, không có chung cùng một giá trị : có những nét tướng khả chấp, có những nét
tướng bất khả chấp. Dục tính không phải đương nhiên là xấu xa như các nhà Nho
cổ hủ vẫn thường lên án, mà xấu hoặc tốt còn tùy người, tuỳ trường hợp. Đặc
điểm này cần phải được quan tâm đặc biệt để có thể nhận định đúng đắn cá tính
của người phụ nữ, đồng thời có thể chế ngự hay hướng dẫn họ tuỳ theo sở nguyện
của mình.
Ngoài
ra, người phụ nữ có tính trăng hoa, chưa hẳn họ đã có dịp thực hiện được cá
tính đó. Muốn biết người phụ nữ đã có cơ hội thực hiện được tính trăng hoa của
họ hay không, cần phải lưu ý các khu vực sau :
a
) Nhân trung có tía đỏ : Phía trên Nhân trung là mũi, phía dưới là miệng, mũi
và miệng có hình dạng tương tự như bộ phận sinh dục của nam và nữ giớ . Tướng
học căn cứ vào đó để phát hiện ra rằng phần lớn phụ nữ chìm đắm trong hoan lạc
nhục dục đều có một đường vạch ngang màu đó hoặc hồng ( tuỳ theo truy hoan
nhiều hay ít ), nhỏ như sợi tơ nhện, phải tinh mắt lắm mới thấy. Nếu như ta
thấy dấu hiệu đó xuất hiện thì có thể biết là người phụ nữ đó quả là đã có gì rồi
.
b
) Mắt tam bạch : Bình thường nếu người đàn bà đó không có loại mắt này nhưng vì
đắm say nhục dục nên có thể sau một thời gian ngắn, khu vực xung quanh lòng đen
bị thu hẹp dần nhường lại chỗ cho lòng trắng khiến lòng đen đều bị lòng trắng
bao bọc, biến thành một loại tam bạch nhãn tạm thời. Còn như nếu bình thường
vẫn là hạ tam bạch nhãn, thì nếu có thông gian ta sẽ thấy Nhân trung có vạch
hồng hoặc đỏ như trên vừa nói.
c
) Khu vực Lê đường : Bình thường không có màu sắc xanh đen nhưng nếu giao hoan đầy
lạc thú, tinh dịch tiết ra quá nhiều thì thường biến sang màu xanh đen.
d
) Khu vực Sơn căn và Ngư vĩ : Đột nhiên có màu xám đen ở hai bên hoặc rõ rệt
hơn lúc bình thường.
Tất
cả các dấu hiệu về màu sắc ở bộ vị nói trên là các bằng chứng cụ thể của kẻ lặn
hụp trong tình dục. Những đàn ông chưa từng ân ái với tình nhân, những đấng phu
quân xa nhà một thời gian dài khi gặp mặt tình nhân hoặc vợ nhà chưa mây mưa mà
đã thấy có hầu hết các dấu hiệu dẫn thượng thì quả là đáng ngại, cần phải lưu
tâm theo dõi hành tung của người nữ đó hầu tránh những hậu quả tai hại có thể
xảy ra.
2
- Tướng người trinh thục :
Trong
nền luân lý á đông cổ điển, người ta đặc biệt quý trọng cá tính trinh tiết
thuần thục của phụ nữ, coi đó là một đức tính tối cần thiết của hôn nhân, là
một hãnh diện của người chồng. Muốn coi tướng đàn bà con gái để xem đức tính
trên của họ cao thấp tới mức độ nào, điểm tối trọng yếu là cặp mắt, vì mắt là
cửa sổ tâm hồn. Cặp mắt đối xứng qua sơn căn, mục quang ôn hoà thanh tĩnh,
không liếc xéo là một bảo đảm đáng kể. Tuy nhiên, như vậy vẫn chưa được đầy đủ.
Những người đàn bà lấy chồng giữ vững được ái tình thủy chung như nhất, ngoài
cặp mắt kể trên thường có tướng kết hợp một số đặc điểm sau :
-Trán
tròn nhưng không cao, không lồi
-Lông
mày đẹp và phối hợp với cặp mắt, tạo ra một phong thái khiến mọi người phải
kính nể
-Môi
hồng, răng đều và trắng
-Mũi
ngay ngắn, không trơ xương, không quá cao
-Đi
đứng, ngồi chững chạc, đoan trang
-Tính
nết ôn hoà nhưng không nhu nhược, ít nó, ít cười
3
- Tướng người hung tợn
Đại
để đàn bà tính nết hung tợn, mạnh bạo, thường phạm vào nhất vài ba dấu hiệu sau
đây :
-Miệng
thô, môi lộ xỉ
-Giọng
nói khô khan, tóc cằn cỗi và ít
-Quyền
cao và lộ, hầu lộ, tiếng nói rè như tiếng phèng la bể
-Mũi
gầy và lộ khổng, mắt có hung quang
-Mặt
đen, lông mày thô, thân hình kệch cợm
-Mắt
nhỏ, miệng túm, giọng đàn ông, chân tay lông mao rậm như đàn ông
-Thân
dài, giọng đớt, tay chân thô, ngón tay mập và quá ngắn
-Mắt
lộ tứ bạch mà mục quang lại lỗ liều
4
- Tướng người không thích ràng buộc trong gia đình
Những
phụ nữ thích tự do phóng khoáng không có năng khiếu của người nội trợ cổ điển Á
đông là những kẻ có nét tướng sau :
-Lông
mày đậm và khá lớn, mọc xa nhau và không có giữa lông mày với mắt khá rộng,
miệng rộng, da mỏng
-Mắt
tròn, lớn, mục quang thuộc loại cương nhi cô, tính thích cạnh tranh, đua đòi,
ưa được người xu phụng, đi lanh lẹ và cao
-Khéo
ăn nói, giao thiệp rộng và thích tự quyết định thân mình, coi rẻ tiền bạc,
không thích săn sóc con cái, bếp
5
- Tướng người cần kiệm
Tóc
den mướt, lông mày hình dạng vừa phả, màu xanh đen, lòng đen lòng trắng phân
minh và mục quang mạnh mẽ nhưng ẩn tàng thức khuya không mệt mỏi, dậy sớm mà
thần sắc thư thái, nói năng chậm rãi từ tốn, không mấy khi than thở oán hận,
không cạnh tranh hơn thua với người về công việc ....là những đặc điểm của
tướng người giúp việc có năng suất cao, người vợ đảm đang tháo vát.
6
- Tướng người biếng nhác
Những
kẻ biếng nhác hoặc vô tài bất tướng trong mọi hoạt động ( đặc biệt là trong
việc tề gia ) đều thuộc các tướng cách sau :
-Tóc
nhiều, thô lộ mày thô và giao nhau
-Mắt
tròn, nhỏ, đen trắng không rõ ràng, mục quang hôn ám, hoặc trắng nhiều đen ít
-Mắt
lớn hơi lồi, đen trắng phân minh nhưng mục quang lúc nào cũng ngơ ngác khiếp
hãi như mắt nai, mắt hươu
-Mắt
lúc nào cũng như kẻ ngái ngủ
-Ham
ăn, ham ngủ, thích rong chơi
b ) Lãnh vực vận mạng
1
- Tướng người cao quý
Đại
để tướng người cao quý toàn thân toát ra vẻ quý phái sang cả
Những
người như vậy diện mạo không hẳn là xinh đẹp, đôi khi còn dưới mức trung bình,
nhưng hầu hết đều có một số nét tướng sau đây :
-Mục
quang sáng sủa, chính đính và mạnh mẽ khiến người đối diện phải kính nể.
-Vành
tai đầy đặn và hơi hồng, trái tai trái trắng hơn da mặt.
-Mũi
thẳng và phối hợp thích nghi với lưỡng quyền tạo thành một khối có thể vững
vàng, mang tai xuôi thẳng.
-Lông
mày thanh nhã có thần khí.
-Trán
tròn, không thấp không cao, tóc đen mịn thanh nhã, cổ dài.
-Xương
và thịt của mặt cân xứng, môi hồng răng trắng và đều.
-Tiếng
nói trong và ấm, giọng điệu thong thả nghiêm trang
-Ngón
tay thon và thẳng, chỉ tay mịn và rõ.
2
- Tướng người phú túc
Đàn
bà có số no đủ thường có : khuôn mặt đầy đặn và hồng nhuận nhưng phải không
được thành đào hoa sắc hoặc có tàn nhang, mày thanh, mục quang sáng một cách
hiền hoà, tai dày và cứng, mũi thẳng và dài ( dán đài, đình uý rõ và cân xứng
đầy đặn ) nhân trung dài, địa các tròn đầy và vững, mang tai nảy nở nhưng không
bạnh ra phía sau, môi hơi dày và có sắc hồng tự nhiên, lòng bàn tay hồng hào và
dày, bụng tròn, lưng nở, tướng đi rậm rãi, thân thể có mùi thơm tự nhiên.
3
- Tướng người khốn khổ
Tướng
đàn bà khốn khổ nghèo đói hoặc long đong được biểu hiện qua những nét tướng sau
đây :
-Trán
hẹp và thấp, tóc khô và vàng mắt sâu, mày đậm: long đong về sinh kế hiếm con
-Bụng
quá sẹp, eo quá nhỏ, lưng quá hẹp suốt đời không có lộc
-Mũi
nhỏ hẹp lệch ngắn, chuẩn đầu không thịt
-Môi
quá dày, miệng quá rộng mà tay ngắn, ngón tay mập ngắn và thô
-Tiếng
nói nhỏ và khàn, mặt lúc nào cũng có sắc thái sầu thảm
-Mặt
lúc nào cũng như ngửa lên trời dáng dấp và giọng nói có vẻ đàn ông
-Sơn
căn thấp, gãy lệ đường khô hãn tròng mắt vàng lạt có gân máu
4
- Tướng người có nhiều con
Những
bộ vị quan trọng để quan sát về đường tử tức của phụ nữ là Lê đường (còn gọi là
Ngoa tàm), nhân trung, vú, mông, kế đó là hai mắt và hai tai.
Thông
thường trừ một vài loại mắt tối kỵ như mắt tam tứ bạch, mắt dê, mắt heo, mắt
đào hoa không kể còn phần đông nên có lòng đen lòng trắng rõ ràng, mí mắt dài,
mục quang sáng sủa, phía dưới hai mắt đầy đặn không không có tỳ vết thiên nhiên
như nốt ruồi, tàn nhang, gân máu, Nhân trung sâu và thẳng, trên nhỏ dưới rộng,
chỉ tay rõ và tươi, vú lớn và núm vú sạm, không được quá nhỏ và lệch lạc :
miệng đều đặn, môi có nhiều vằn, mông tương xứng với thân người.
Riêng
về tai, một vài tác phẩm cổ điển ghi rằng : tai giúp ta biết được đứa con dầu
lòng sẽ là trai hay gái. Theo lý thuyết này, nếu tai phía trái của người mẹ mà
đầy hơn tai phía phải thì con đầu lòng sẽ là trai, tai phía mặt đầy hơn thì con
đầu lòng là con gái.
5-
Tướng người hiếm con hoặc không con
Ngược
lại với tướng đàn bà nhiều con và sinh đẻ dễ dàng nói trên là tướng phụ nữ hiếm
hoi hoặc không con. Các dấu hiệu này thể hiện ở nhiều phía của cơ thể.
Tại
diện mạo ta thấy có : tóc thô và vàng; mày ngắn, hẹp, thưa và mỏng hầu như
không có hoặc thô ngắn, trán quá cao : mắt sâu hãm và khu vực Lệ đường khuyết
hãm cả về phẩm lẫn lượng; mắt mông lung, hỗn tạp: có quyền mà không có mang tai
thích nghi : mũi hoặc quá gãy, thấp hoặc quá cao, nhọn và có gân hay vết hằn tự
nhiên : môi vểnh và xanh xám hoặc trắng bệch, hoặc môi trên bao phủ môi dưới :
nhân trung hẹp và bằng phẳng, da mặt không có huyết sắc : mặt nhỏ nhọn, tai quá
nhỏ.
Tai
thân hình : vú gẫy, đầu vú hướng xuống, núm vú thụt sâu vào thịt : da mỏng mà
xương quá ít, thịt khô hoặc thịt nhiều mà xương quá nhỏ.
Nếu
chỉ có vài ba khuyết điểm nhỏ liên quan đến mắt, môi, tai v.v... thì đó là
tướng hiếm hoi nhưng khả dĩ còn cơ duyên tử tức. Nếu cả đầu mặt lẫn thân hình
đều có khuyết điểm trầm trọng như lệ đường,vú, Nhân trung, trán bị phá thì rất
ít hy vọng về đường con cái.
6
- Tướng đàn bà khắc chồng :
Danh
xưng hình khắc ở đây có nghĩa rất rộng rãi. Nhẹ thì hàm ý rằng khi lấy chồng,
vợ chồng sẽ xung đột, gia đạo sóng gió, ít khi có hạnh phúc, nặng thì biểu lộ
sự hung hiểm xảy đến cho người chồng công danh sự nghiệp, sức khoẻ hoặc sinh
mạng, vợ chồng chia ly hay đứt đoạn. Ngoài ra khi luận đoán về sự hình khắc của
đàn bà đối với chồng, ta còn cần phải đặc biệt chú ý đến chính bản thân người
chồng nữa. Nếu toàn thể bộ vị của người chồng tốt đẹp, nhất là mạng cung thê
thiếp không khuyết hãm thì sự tai hại của hình khắc giảm thiếu rất nhiều. Trái
lại, bản thân người chồng (cả hình tướng lẫn tâm tướng) đều dưới mức trung bình
thì sự tác dụng của hình khắc do người vợ đem lại sẽ rất lớnvà có ảnh hưởng sâu
rộng đến mọi lãnhvực sinh hoạt của đấng phu quân. Xin độc giả lưu ý điểm này
trước khi đoán xét về tướng hình khắc chồng của phụ nữ.
Đại
để các dấu sau đây đều bị tướng học liệt kê vào tướng đàn bà khắc chồng :
-
Phía dưới hai mắt vô bệnh tật mà có sắc khí xanh xám .
-
Mắt lớn lồi ( nhỏ và dài mà lồi thì đỡ tai hại hơn ). Lông mày thưa vàng và
ngắn .
-
Mày thô, mắt có sát khí
-
Hai mép miệng và hai phát lệnh đều có nốt ruồi
-
Phần sống mũi ( Niên thượng, thọ thượng ) nổi gân máu
-
Trán cao, hai phần Nhật Nguyệt giác nổi cao và hướng lên
-
Tiếng nói như nam giới hoặc oang oang như sấm động hoặc âm thanh sắc cao như
sói vào tai người nghe
-
Trán vuông, mày lớn cao và đậm
-
Xương lưỡng quyền vừa thô vừa lộ
-
Tán lồi, cổ ngắn, hoặc trán cao mặt hãm
-
Mũi hếch thấp, mắt thuộc loại tam tứ bạch, hoạc hình tam giác mà lộ hung quang.
Có đủ tất cả là tướng đại hình khắc và yểu
-
Sắc da mặy thô xạm như màu đất chết
-
Mặt chè bè về chiều ngang ( phần Trung đình ) mà lại sát thanh nghĩa là tiếng
nói lanh lảnh như tiếng kim khí va chạm nhau khiến người nghe cảm thấy ớn lạnh
xương sống .
-
Trán hẹp, nhọn, tai thấp hoặc trán nhỏ nhọn hẹp và lông mày giao nhau
-
Trán có tật bẩm sinh ( vết sẹo, vằn trán thuộc loại loạn văn rất rõ lúc còn niên
thiếu ) .
-
Mũi hếch, tai khuyết hãm, mày thô và mắt có tia máu ăn lan từ tròng trắng xuyên
qua lòng đen đén đồng tư, thuật ngữ tướng học gọi là Xích mạch xâm đồng
-
Sơn căn có nốt ruồi và dưới mắt có nhiều vết nhăn ( đây nói phụ nữ ở trung niên
trái lại )
-
Xương lưỡng quyền nổi cao và nhọn như chỏm núi
-
Tác có phù quang ( trơ trẽn không có sinh khí ), da trắng và khô mốc
-
Mặt dài quá, cộng với miệng lớn ( thành ngữ nói là miệng ngoác tới tận mang tai
như miệng cá sấu)
-
A án đường có một lằn sâu chạy thẳng lên trán, thuật ngữ tướng học gọi là Luyến
trâm văn .
-
Lông mày thưa và mường tượng như co rút lại ( nghĩa là đầu và lông chân mày lớn
ngang nhau trái với lẽ thường là đầu lông mày thon dần còn chân lông mày lớn )
-
Cốt cách thô lỗ, tóc cứng như rễ tre
-
Xương che lỗ tai ( mạng môn cốt ) nổi cao.
Đi
xa hơn nữa, Nghiễn Nông cư sĩ trong bộ Quan nhân ngư cho rằng có một số tướng
cách của phụ nữ giúp ta biết được bụng dạ của người đó đối với chồng hiền thục
hay hung dữ thậm chí có thể vì lý do nào đó manh tâm hãm hại chồng. Theo tác
giả trên, phàm đàn bà lông mày mọc ngược chiều tự nhiên, mắt hình tam giác hoặc
lộ tam tứ bạch, hoặc phía dưới mũi có hằn giống như móc câu, sắc mặt xanh xám (
tục gọi là mặt gà mái). Lệ đường ảm đạm, sơn căn có sợi máu rất nhỏ chạy thẳng
đến giữa trán, chuẩn đầu có màu đỏ, Ngư vĩ xanh xám, nốt ruồi (sống càng xấu
hơn chết ) ở mang tai đối với chồng dễ nổi hung tính và là các dấu hiệu khắc
phu nặng nề. Kết duyên với họ không có hạnh phúc thật sự. Nếu kẻ đó còn có thêm
nhiều tia đỏ ở lòng trắng mắt. Sống mũi có khí sắc xanh chạy luôn ấn đường thì
tâm tính tàn nhẫn. Những người có tướng cách như vậy chẳng những sẵn sàng đoạn
nghĩa phu thê khi bất hoà mà còn có thể đi đến chỗ mưu hại hạ độc thủ với chồng
khi bị cơn gian làm mất lý trí.
7
-Tướng đàn bà vương phụ ích tử
Đặc
điểm của tướng bà vương phụ về mặt mạng vận là khi lập gia đình dú chỉ về nhiều
lãnh vực đặc biệt là sự nghiệp và tiền bạc. Đại để phụ nữ như vậy thường có
nhiều nét tướng thuộc các loại sau đây :
-
Nói một cách tổng quát thân hình diện mạo đôn hậu, đẹp một cách oai vệ, cử chỉ
ngôn ngữ thư thái ôn hoà : khuôn mặt cân phận về cả tam đình, Ngũ nhạc và tứ
đậu. Nếu đi sâu vào từng chi tiết ta thấy :
-
Aán đường rộng rãi không xung phá, diện mạo tươi tỉnh.
-
Mũi thuộc loại Huyền đảm tỵ đúng cách : màu da khuôn mặt tươi nhuận đặc biệt là
chuẩn đầu và tỵ lương sáng sủa, phối hợp với mày thanh mắt đẹp.
-
Lòng bàn chân hoặc trong thân thể ( rốn hoặc khu vực trên dưới rốn một chút,
phần ngực dưới hai vú, hai bên háng ) có nốt ruồi đen huyền hoặc son.
-
Bất kể gầy mập mà lòng bàn tay mập, nếu lòng bàn tay có thịt quá đầy thì đa dâm
và có thể ngoại tình mặc dầu vẫn vượng phụ : màu sác hồng nhuận ấp áp, ngón tay
thon dài, thẳng, khít nhau, chỉ tay rõ và đẹp.
Thường
thường tướng đàn bà vượng phụ đi đôi với tướng ích tử. Vì người đem lại thịnh
vượng cho chồng đa số đem lại ích lợi cho con cái. Trong một số ý nghĩa chuyên
biệt hơn, ích tử còn có ý nghĩa là sinh con trai quý hiếm, làm rạng rỡ gia môn
lo tròn đạo hiếu và giữ vững dòng giống (không phân biệt vợ lớn vợ bé ).
Về
điểm này các sách tướng hầu như đều đồng ý về một số dấu hiệu sau :
Ngũ
quan phối hợp đúng cách đặc biệt là sắc mặt trắng ngà, mắt phượng môi hồng.
-
Rốn hoặc khu vực dưới rốn đôi chút có nốt ruồi sống màu son tàu.
-
Xung quanh khu vực bụng có thịt nổi rõ như một vành đai.
Người
đàn bà có hai đặc điểm về tướng cách cuối cùng như trên dường như chắc chắn sẽ
sinh quý tử bất kể diện mạo xấu đẹp ra sao. Vì đó là hai nét tướng ngầm có khả
năng chế ngự tất cả các phá tướng khác (dĩ nhiên là trong trường hợp như vậy
ông chồng phải có khả năng truyền giống thì quý tướng trên mới phát huy được
kết quả thực tiễn).
NGUYÊN LÝ ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ
HÀNH
ÂM
DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH TRONG VŨ TRỤ QUAN CỦA NGƯỜI TRUNG HOA
a
) Lược sử :
Thuyết
âm Dương Ngũ hành đã được đề cập đến trong một tác phẩm thành văn tối cổ Trung
Hoa là kinh Dịch. Tuy vậy, kinh Dịch của Khổng Tử chỉ là sự thâu nhập các kiến
thức và quan niệm của người xưa từ thời vua Phục Hy lưu truyền đến đời Khổng
Tử. Khổng Tử chỉ góp nhặt và suy diễn thêm cho thành một hệ thống và ghi lại
thành văn bản cho hậu thế mà thôi.
Theo
truyền thuyết, người đầu tiên nhận thức được các lẽ âm dương biến hoá của Trời
Đất, vạn vật là vua Phục Hy ( khoảng 44 thế kỷ trước Tây lịch ), người minh thị
đề cập đến cái dụng của Ngũ hành là vua Hạ Vũ ( khoảng 22 thế kỷ trước Tây lịch
).
Đến
thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, tại nước Tề ( nay là tỉnh Sơn Đông ) có học giả
Trâu Diễn, căn cứ vào Kinh Dịch, đã phổ biến hết tinh thần và công dụng của Âm
dương, ngũ hành không những vào sự vật thiên nhiên mà còn cả vào việc người
nữa. Do đó, người đời sau coi Trâu Diễm như người khai sáng ra phái Âm Dương.
Phái này chính là nguồn gốc của phái Lý Số do các học giả đời Tống sau này sáng
lập.
Đến
đời Hán, học giả Dương Hùng ( 53 trước Tây lịch - 20 Tây lịch ) tham bác kinh
Dịch và Đạo đức kinh mở ra ngành Lý số học sơ khai qua tác phẩm Thái huyền
kinh.
Đến
đời Tống sơ ( khoảng thế kỷ thứ 10 ) một nhân vật đạo gia kiêm nho gia là Trần
Đoàn tự là Đồ Nam, hiệu là Hi Di tiên sinh, tinh thông cả Lý Số học của các nhà
đi trước đã tổng hợp các kiến giả về lý Thái cực của vũ trụ, lấy tượng số mà
xét sự vận chuyển của Trời Đất, suy diễn ra hành động của vạn vật rồi áp dụng
các hệ quả của Lý thái cực vào Nhân tướng học đế giải đoán tâm tình, vận số của
con ngườ , mở đầu cho Lý Số và Tướng số học.
Từ
đó về sau, quan niệm Âm Dương, Ngũ hành được áp dụng rộng rãi vào Nhân tướng
học và thành ra một thành tố bất khả phân trong tướng thuật.
b
) Nội dung của Thuyết âm Dương, Ngũ hành
Theo
cổ nhân Trung Hoa, lúc đầu vũ trụ chỉ là một khối hỗn độn, không có hình dạng
rõ ràng được gọi là thời Hỗn mạng. Trong sư Hỗn mạng đó, bàng bạc cái lẽ vô
linh linh diệu gọi là Thái cực. ( Sở dĩ gọi là Thái cực vì nó huyền bí và vô
tận nên không thể xác định rõ ban thế cuả nó ra sao).
Tuy
nhiên, dẫu không biết được chân tính và chân chất của cái lẽ Thái cực huyền vì
song ta có thể dựa vào sự quan sát về tính cách biến hoá của vạn vật mà suy ra
được cái đông thể của Thái cực. Căn bản của sự chuyển biến hoá được biểu lộ
bằng hai trạng thái tương phản là Động và Tĩnh. Động gọi là Dương, Tĩnh gọi là
Âm. Dương lên đến cực độ thì lại biến ra Dương. Hai cái trạng thái tương đối
của cái Bản thể nguyên khởi duy nhất ( Thái cực ) cứ tiếp diễn mãi, điều hợp
với nhau, sinh sinh hoá hoá không ngừng mà sinh ra Trời, Đất, Người cùng vạn
vật. Vì Âm Dương phối hợp, đun đẩy lẫn nhau nên có sự biến chuyển. Sự biến
chuyển chính là nền tảng của Dịch. Do đó, trong phần chú giải kinh Dịch, Khổng
Tử đã nói " Âm nhu Dương Cương, Cương nhu tương thôi sinh nhi biến hoá
"(Nghĩa là Âm thì mềm, Dương thì cứng, cứng mềm đun đẩy lẫn nhau chuyển
hoá thành thiên hình vạn trạng).
Theo
cổ nhân, mỗi chu trình gồm bốn giai đoạn :
a
) Nguyên : Khởi đầu của sự biến hoá
b
) Hạnh : Sự thông đạt , hội hợp các thành tố
c
) Lợi : Sự thỏa đáng các điều kiện cần thiết cho sự tăng trưởng
d
) Trinh : Sự thành tựu chung cuộc của một chu trình sinh ra sự vật
Biến
hoá là ngoại biểu của Thái cực mà đạo Dịch căn cứ trên sự biến hoá của vũ trụ
và vạn vật. Do đó, Kinh Dịch mô tả diễn trình chuyển hoá (Dịch) một cách khái
quát như sau :
"
Dịch hữu Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh Bát
quái, Bát quái sinh Ngũ hành : Đạo Dịch có nguồn gốc là Thái cực, Thái cực sinh
ra hai Nghi ( Âm và Dương ) hai Nghi sinh ra bốn Tượng ( bốn trạng thái tượng
trưng bằng bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông ) bốn tượng sinh ra tám Quẻ ( Kiền,
Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài ) tượng trưng cho Trời, Đầm, Lửa, Sấm,
Gió, Nú, Nước, Đất ) tám Quẻ sinh ra năm Hành ( năm loại nguyên tố cấu tạo ra
vạn vật hữu hình Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ ).
Khởi
đầu của sự biến hoá rất đơn giản, rồi từ cái đơn giản đó mà chuyển hoá dần dần
để thành ra phồn tạp. Vì Âm Dương là hai thành tố đầu tiên của vũ trụ, nên được
Kinh Dịch chọn là biểu tượng căn bản và tượng trưng bằng hai cái vạch đơn giản
:
a
) Vạch liên tục tượng trưng cho Dương
b
) Vạch gián đoạn ( - - ) tượng trưng cho Âm
Trong
phép biến đổi hoá để sinh ra Bát quái, hai vạch tượng trưng cho Âm Dương lần
lượt chồng chất lên nhau theo nền tảng tam tài mà thành ra tám Quẻ căn bản với
hình dạng và ý nghĩa tượng trưng sau đây :
1
- Kiền tượng trưng cho Trời
2
- Đoài tượng trưng cho Đầm , Ao
3
- Ly tượng trưng cho Lửa
4
- Chấn tượng trưng cho Sấm
5
- Tốn tượng trưng cho Gió
6
- Cấn tượng trưng cho Núi
7
- Khảm tượng trưng cho Nước
8
- Khôn tượng trưng cho Đất
Đó
là tám Quẻ nguyên thủy gọi là " Tiên thiên Bát quái " do vua Phục Hy
( 4477 - 4363 ) trước Tây lịch vạch ra để giải thích cái lẽ Âm Dương biến hoá
của Thái cực. Về sau vua Hạ Vũ (2205 - 2163 trước Tây lịch) đặt ra Cửu trù (
chín pháp lớn ) phối hợp với Bát quái và tính cái số của Ngũ hành trong việc
giải thích lẽ biến hoá của vũ trụ và vạn vật.
Tới
đời Tây Chu, vua Văn Vương, trong thời gian bị giam ở ngục Dũ Lý ( khoảng thế
kỷ 11 trước Tây lịch ) đã dành thì giờ nhàn rỗi diễn lại các quẻ tiên thiên Bát
quái của Phục Hy thành tám quẻ, Bát quái mới gọi là hậu thiên Bát quái với các
ý nghĩa thiên về nhân sự để dùng vào việc bói toán và suy gẫm việc ngườ . Con
Văn Vương là Chu Công Đán về sau có giải thích thêm đôi chút về ý nghĩa và công
dụng của kẻ Bát quái, nhưng rất ngắn và mơ hồ, chỉ có các kẻ có thiên tư đặc
biệt tâm truyền mới có ánh mắt hiểu được. Tình trạng của Dịch lý từ thượng cổ
đến trước khi Khổng Tử ra đời chỉ có như thế mà thôi.
Đến
đời Đông Chu, Khổng Tử ( 511 - 478 trước Tây lịch ) đem kiến giảu cảu mình bổ
xung vào các điều truyền lại của Dịch lý đời Chu, san định lại và viết thành
Kinh Dịch trong đó bao gồm cả Âm Dương, Bát quái và Ngũ hành.
Căn
cứ theo ý nghĩa thông thường, cổ nhân gán cho Âm Dương Ngũ hành, các ý nghĩa
tượng trưng sau đây :
Dương
: Tượng trưng cho mặt trời, lửa, ánh sáng, sinh động, cứng cát, ban ngày, đàn
ông .....
Âm
: Tượng trưng cho mặt trăng, tối tăm, nguội lạnh, bất động, mềm nhão, ban đêm,
đàn bà ....
Kim
: Vàng, bạc, hiểu rộng ra là tất cả các chất kim thuộc
Mộc
: Cây trong rừng, nói tổng quát ra là mọi thực vật trên mặt đất
Thủy
: Nước và nói rộng ra là các chất lỏng
Hỏa
: Lửa, hơi ấm
Thổ
: Đất đá, nói chung Thổ bao gồm mọi loại khoáng chất trừ kim loại
Về
phương diện siêu hình. Âm Dương không phải là cái khí vật chất hữu hình hữu thể
mà chỉ là biểu thị tượng trưng cho hai trạng thái tương đối, mâu thuẫn như nóng
lạnh, sáng với tối, cứng với mềm, sinh với diệt, khoẻ với yếu ....
Về
phương diện ý nghĩa siêu hình của Ngũ hành, ta cũng đi đến kết quả tương tự
Kim, Mộc, Thủy, Hoả, ngoài tìm cách vật chất của nó kể trên có một ý nghĩa
tượng trương có tính cách tương sinh tương khắc trong sự biến hoá của muôn vật
diễn ra hàng ngày trước mắt.
Trong
tướng học, người ta rất chú trọng đến Ngũ hành và thường hiểu Kim, Mộc, Thủy,
Hỏa, Thổ theo cả hai ý nghĩa : vật chất lẫn siêu hình qua sự tượng hình chuyển
ý của văn tự từ nghĩa hẹp đến nghĩa rộng.
c
) Ảnh hưởng của thuyết ngũ hành trong nhân sinh quan Trung Hoa
Từ
quan niệm là một lý thuyết triết học thuộc phần Hình nhi thượng từ đời Tống trở
đi, Âm Dương thuộc Ngũ hành được đem áp dụng vào lãnh vực Hình nhi hạ. Đại đa
số học giả Trung Hoa và các dân tộc Á Đông chịu ảnh hưởng văn hoá sâu đậm của
Trung Hoa đã dùng lý thuyết Ngũ Hành đem giải thích và gán ghép các đặc tính
của vật chất được siêu hình hoá của Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ vào các lãnh vực
thường dụng của nhân loại, điển hình là các trường hợp sau đây :
1
- Phương hướng, màu sắc, bốn mùa
1a
) Mộc tượng trưng cho Mùa Xuân, màu Xanh, phương Đông
Mùa
Xuân khí hậu mát mẻ như sương buổi ban mai, biểu hiện khởi đầu của một chu
trình biến hoá mới của vạn vận bắt đầu hồi sinh và tăng trưởng. Mặt đất về Mùa
Xuân, đâu đâu cũng một màu xanh thắm, Thái dương bắt đầu mọc ở phương đông. Tất
cả đều bàng bạc ý nghĩa của Âm Dương tương thôi với Dương lấn lướt Âm một cách
tương đối trong cái trung dung của Âm Dương ( Âm Dương tỷ hoà thì vạn vật mới
sinh ). Do đó, cổ nhân đã lấy Mộc tượng trưng cho mùa Xuân, màu Xanh, phương
Đông.
1b
) Hỏa biểu thị mùa Hạ, màu Đỏ, phương Nam
Mùa
hè nóng nực bức như lửa thiêu, Dương cương lên đến cùng cực. Hoa lá đặc trưng
của mùa này như lụa và phượng vĩ trổ bông màu đỏ, phương Nam gần như ấm áp
quanh năm nên Hỏa tượng trưng cho mùa Hạ, màu Đỏ và phương Nam vậy.
1c
) Kim tiêu biểu cho mùa Thu, màu Trắng, phương Tây
Mùa
Thu là giai đoạn cho Âm Dương tương thôi bình hoà khí trời nóng quá, không lạnh
lắm, nhưng Dương cương bắt đầu suy, Âm nhu bắt đầu thịnh. Mặt trời lặn ở phương
Tây sau khi đã mọc ở Phương Đông. Trời Mùa Thu thường có mây trắng ngà bao phủ,
nên cổ nhân mới nhân đó mà chọn Kim tiêu biểu cho mùa Thu, màu trắng và phương
Tây. Nói khác đi, theo Ngũ hành thì mùa Thu, sắc trắng phương Tây thuộc Kim.
1d
) Thủy tiêu biểu cho mùa Đông , màu đen , phương Bắc
Hiện
tượng độc đáo nhất của mùa Đông là tuyết rơi, giá buốt, cảnh vật ảm đạm, cửa
nẻo đóng kín, tối tăm. Tuyết là một trạng thái của nước, phương Bắc thường hay
có tuyết nên với tinh thần tượng hình, chuyển ý, cổ nhân Trung Hoa chọn hành
Thủy để tượng trưng cho mùa Đông, màu Đen, phương Bắc.
1e
) Thổ tiêu biểu cho Đất , màu Vàng , Trung ương
Người
Tàu phát tích ở lưu vực sông Hoàng Hà, đất đai ở đây màu vàng ( hoàng thổ ) nên
dựa vào sự vật để định tên, lấy đất tiêu biểu cho chất Thổ và màu vàng tượng
trưng cho sắc Thổ. Bởi người Tàu lấy địa phương của họ làm trung tâm quan sát,
tự coi mình là người trung Thổ, danh xưng là Trung quốc nên màu vàng, vàng là
màu trung ương, Thổ là Hành chủ bao gồm cả bốn hành còn lại với lý do Địa tải
sơn hà vạn vật ( Sông núi, muôn loài vạn vật đều do đất chứa đựng ).
2
- Năm đức tính căn bản của con người
Trên
bình diện đạo đức, năm đức tính căn bản để phân định kẻ lương tri với kẻ bại
hoại là Nhân Nghĩa Lễ Trí và Tín, gọi chung là Ngũ thường. Dựa vào ý nghĩa siêu
hình của Ngũ hành và đặc tính bao quát của Ngũ thường người ta đã đi đến chỗ
Ngũ hành hoá Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín .
2a
) Nhân ứng với Mộc : Nhân chủ ở chỗ thanh tĩnh, ung dung tự tại, không cạnh
tranh bao dung và đãi người đồng đẳng. Thảo mộc, vốn không di động cạnh tranh,
loài tùng bách quanh năm xanh tươ , bất chấp gió sương, nóng lạnh, tượng trưng
cho thái độ an tĩnh, ung dung tự tại. Cây cỏ còn để người che mưa tránh nắng,
không phân biệt một ai. Hoa quả trong chốn sơn lâm ai thưởng thức cũng được.
Cái đức tự nhiên lưu hành của thảo mộc tương tự như đức Nhân của bậc thức giả
nên Mộc được coi là biểu tượng của đức Nhân ở nhân loại. Do ở ý nghĩa mà Khổng
Tử đã nói " Nhân giả nhạo sơn ( Bậc nhân giả thích núi ) vì trên núi có
thảo mộc tượng trưng cho đức Nhân của tạo vật.
2b
) Nghĩa ứng với Kim : Luôn luôn thích ứng với phép tắc thiên nhiên hoặc công
lý, hằng cửu, không biến chất, cứng cỏi không sờn. Đó là những ý nghĩa bao quát
của Nghĩa. Loài Kim thuộc như vàng luôn luôn giữ mãi vẻ sáng cứng rắn, khuyết
biết tiết, dù ở nơi này hay nơi khác, lúc nào cũng vậy, phảng phất ý nghĩa của
đức Nghĩa nên cổ nhân lấy Kim tượng trưng cho Nghĩa.
2c
) Lễ ứng với Hỏa : Lễ gồm chung tất cả những gì soi sáng khuôn phép, tạo nên
tôn trọng duy trì diềng mối, phát huy chân lý tự nhiên lưu hành, Tế tự là một
hình thức cụ thể của Lễ, biểu dương sự tôn kính. Một trong những cái ứng dụng
của Hỏa là soi sáng tại nơi, làm hiển lộng cái tôn kính quỷ thần của con người
nên cái dụng ( về phương diện ý nghĩa triết học ) của Hoả và Lễ tương đồng, nên
Lễ ứng với Hoả.
2d
) Trí ứng với Thủy : Kẻ trí không điều gì là không thấu triệt, nước không đâu
là không thông qua. Cái đức của Trí và Nước có sự tương đồng đại lược nên người
xưa đã nói một cách đầy biểu tượng " Trí giả nhao Thủy " ( Bậc trí
giả thích nước ). Do đó, Thủy tượng trưng cho Trí.
2e)
Tín ứng với Thổ : Bản chất của Thổ là không bao giờ sai chạy. Thảo mộc dựa vào
đất mà sống và đất cứ theo từng mùa nhất định mà thúc đẩy sự sinh diệt của cây
cối theo đúng chu trình chuyển hoá tự nhiên của tạo vật, không bao giờ sai
chạy. Do đó, so với Tín thì bản chất của Tín và Thổ về ý nghĩa tổng quát có
những nét tướng đồng.
3
- Năm cung bậc trong âm nhạc
a
) Cung ( âm thấp nhất ) ứng với Thổ
b
) Thương ứng với Kim
c
) Giốc ứng với Mộc
d
) Chủy ứng với Hỏa
e
) Vũ ứng với Thủy
ỨNG
DỤNG CỦA ÂM DƯƠNG TRONG TƯỚNG HỌC
Âm
Dương trong nhân tướng học không có tính cách cứng nhắc như thế nhân vẫn tưởng
mà lại rất tương đối. Ngửa lên gọi là Dương, úp xuống gọi là Âm, cứng là Dương,
mềm là Âm .......Nói một cách tổng quát thì Trời có Âm Dương. Đàn ông được xem
là Dương, đàn bà là Âm, nhưng chỉ là điều khái lược. Trong mỗi con người lại
cũng có phân biệt Âm và Dương nữa.
Toàn
thể thân thể đàn ông là Âm, nhưng bộ phận sinh dục lại là Dương nên có tên là
dương vật. Toàn thể đàn bà là Dương, nhưng bộ phận sinh dục lại là Âm nên mới
có danh là âm hộ.
Xương
được coi là Dương, thịt được coi là Âm
Phía
mặt bên trái là Dương, phía mặt bên phải là Âm
Phía
trên của khuôn mặt ( kể từ chính giữa thần mũi ) thuộc Dương, phía dưới thuộc
Âm.
Phần
thân trước là Dương, phần thân sau là Âm
Trong
khu vực thuộc mắt, phần trên là Dương, phần dưới coi là Âm, mắt trái là Dương,
mắt phải là Âm
Những
phần lồi lõm của xương khuôn mặt là Dương, những phần trũng xuống coi là Âm.
Dương
thì lộ liễu và hướng lên. Âm thì ẩn tàng và hướng xuống. Dương cốt ở an hoà, Âm
cốt ngay ngắn, Dương chủ về cứng rắn, Âm chủ về mềm mại.
Âm
Dương trong mỗi con người cần phải Hòa, phải Thuận, Hoà có nghĩa là xương ngay
ngắn, không lệch, không cong, thần khí thanh nhã. Thuận là thịt phải được phân
bố đều đặn khắp châu thân. Âm Dương thuận hoà chủ về phúc thọ.
Nếu
như xương lộ mà không ngay ngắn, thịt chỗ nhiều chỗ ít không hợp lẽ tự nhiên (
chẳng hạn bộ phận này quá nhiều thịt, bộ phận kia lại quá cằn cỗi ) thì gọi là
Âm Dương không thuận hoà. Hoặc Âm thịnh Dương suy ( thịt nhiều mà bệu, xương
lại nhỏ và yếu, không cân xứng ) hoặc Dương cường Âm nhược ( cốt lộ, thịt ít )
đều là các tướng phản lại nguyên tắc Âm Dương thuận hoà: chủ về hung hiểm bất
tường.
Nói
một cách tổng quát, vô luận nam nữ, trong mỗi con người ( hình tướng, tính
cách, khí sắc, thanh âm, phần vô hình cũng như phần hữu hình ) đều bị nguyên lý
Âm Dương chi phối.
Đàn
ông bản chất vốn Dương nhưng cần phải có Âm thích nghi điều hoà. Đàn bà vốn thuộc
Âm nhưng phải có Dương để phụ giúp. Nếu khống thế, đàn ông chỉ có thể Dương
thuần mà không có Âm chất thì sẽ mất sự khống chế cần thiết, đàn bà chỉ có Âm
nhung mà không có Dương chất thêm vào thì trở thành quá mềm yếu và không tự
tiến triển được.
Tuy
nhiên dù Dương thuận phải có Âm chất để điều hoà cho thích nghi nhưng Âm không
được lấn át phần Dương. Nếu Âm chất thái quá người ta gọi là Dương sai.
Âm
nhu tuy phải cần Dương cương để tiết giảm phần xấu và phát huy phần tốt nhưng
nếu phần Dương lấn át hẳn phần Âm ( vốn là phần căn bản ) thì trường hợp đó
mệnh danh là Âm thác.
Nguyên
tắc tổng quát trên áp dụng cho tất cả các bộ vị trọng yếu trong con người.
Nghĩa là các bộ vị không được vi phạm các điều cấm kỵ của nguyên lý Âm Dương
thích nghi. Nói khác đi, không được phạm vào Âm thác hoặc Dương sai. Đi sâu vào
phần chi tiết ta phân biệt :
a
) Dương hoà :
Tính
cách Dương mạnh mẽ nhưng được tiết chế đúng mức cần thiết thì gọi là Dương hoà,
Dương hoà bao gồm :
-Đầu
tròn, đỉnh đầu bằng phẳng
-Đầu
hơi có góc cạnh, mặt hơi vuông vức, trán có xương tròn nổi lên rất rõ
-Ngũ
nhạc nổi nhưng không quá lộ liễu, Sơn căn nổi khá cao gần ăn thẳng lên Aán
đường
-Lông
mày mọc xếch lên cao và có uy lực, lông mày hơi có góc cạnh ( hình thù lông mày
gập cong lại như hình chữ, chứ không cong như hình bán nguyệt hoặc thẳng như
chữ )
-Sợi
lông mày hơi hướng về phía trên
-Mắt
có chiều dài rõ rệt và có tụ thần
-Sắc
diện hoà ái, chẳng cần phải lập uy mà vẫn có vẻ oai nghiêm tự nhiên
-Nói
năng mau chậm thích nghi với từng câu chuyện, tư tưởng khoáng đạt, lâm sự quyết
đoán chuẩn xác, xử trí quang minh, đi đứng thung dung .
b
) Âm thuận
Tính
cách Âm rất rõ ràng nhưng không quá ủy mị hèn yếu thì gọi là Âm thuận. Được coi
là Âm thuận khi :
-Đầu
tròn, mặt hơi vuông nhưng vẫn không xoá hẳn được những nét tròn trịa
-Ngũ
nhạc đều có dáng phảng phất hình tròn ( nhưng không nổi bật các nét tròn đó )
-Sơn
căn mạnh mẽ có thế. Aán đướng bằng phẳng, rộng
-Lông
mày hơi cong mà mắt lại hơi dài ( không được quá dài )
-Tiếng
nói hơi nhỏ nhưng âm thanh rổn rản trong trẻo
-Nói
năng từ tốn, nhưng không chậm, phản ứng không nhanh nhưng không quá trễ hoặc lỳ
lợm
-Sắc
diện hoà nhã khiến người ngoài dễ sinh thiện cả
-Xử
sự ôn hoà
c
) Kháng Dương
Tính
cách Dương quá mạnh không có sự tiết chế đúng mức thì gọi là Kháng Dương. Các
chỉ dấu của Kháng Dương bao gồm :
-Đầu
tròn nhưng đỉnh đầu nhọn
-Mặt
có những bộ vị nổi tròn thành từng cục
-Ngũ
nhạc nổi tròn mà đầu có dạng nhọn, nhỏ
-Lông
mày ngắn mà cong vòng hoặc ngắn mà thế của mày lại hướng lên
-Mắt
lồi và tia mắt long lanh
-Tai
nhọn và dựng đứng
-Tiếng
nói lớn nhưng giọng điệu quê kệch hoặc giọng rè
-Tính
tình nóng nảy thô bạo, xử sự sơ xuất, không nghĩ trước, không lo sau khiến
người quan sát thoáng qua đã nhận được ngay sự thô lỗ .
d
) Cô Âm
Chỉ
có những cách Âm thuần túy mà không có Dương tính để hỗ trợ thì gọi là Cô Âm.
Đặc tính này được phát hiện ra ngoài qua các dấu hiệu sau đây :
-Toàn
thể đầu và khuôn mặt đều chỉ có hình vuông, hoặc thiên về hình vuông, hoặc đầu
lớn mà khuôn mặt lại quá nhỏ không tương xứng
-Chính
diện thì nhìn thấy bằng phẳng mà trắc diện lại thấy ở phần giữa lõm xuống
-Mắt
sâu mà lông mày mọc lan xuống tận bờ mắt hoặc mắt sâu mà xương lông mày thô,
hoặc lông mày quá đậm mà ngắn
-Râu
ria quá râm rạp, không thích nghi với tóc
-Tiếng
nói như có vẻ khò khè ở cuống họng, điệu nói chậm rãi mà trong đó lại xen kẽ âm
thanh chói tai hoặc thanh mà đứt đoạn
-Sắc
diện lúc nào cũng có vẻ u uất, xử sự quá tính toán, cân nhắc khiến người ngoài
thoáng thấy đã nhận ra ngay là con người ác hiểm.
e
) Âm thác, Dương sai
Bản
chất căn bản là Âm nhưng pha trộn quá nhiều Dương tính khiến phần Âm trở thành
thứ yếu thì gọi là Âm thác. Ngược lạ , bản chất căn bản là Dương mà Dương tính
quá yếu khiến Âm chất lấn át rõ rệt thì gọi là Dương sai. Dưới đây là các dấu
hiệu bề ngoài cảu các hiện tượng trên
-Đầu
tròn thuộc Dương, mặt vuông thuộc Âm, phía trước mặt thuộc Dương, phía sau gáy
( ót ) thuộc Âm cho nên đầu lớn mặt nhỏ, phía trước lớn mà phía sau nhỏ thì gọi
là Dương sai
-Đầu
vuông thuộc Âm, mặt tròn thuộc Dương, nếu như hai phần đó quá sai lệch thì gọi
là Âm thác
-Phần
lồi trên khuôn mặt thuộc Dương, phần lõm trên khuôn mặt thuộc Âm . Do đó, nếu
Đông Tây Nam Bắc Nhạc nảy nở, cao ráo mà Trung nhạc lại trũng xuống thì gọi là
Dương sa . Trái lạ , bốn Nhạc phụ tuỳ đều trũng xuống hoặc bị phá hãm chỉ có
Trung nhạc nổi cao một mình thì gọi là Âm thác
-Chỉ
có xương mà không có thịt, mắt lộ mà không có lông mày người lớn, tiếng nhỏ gọi
là Dương sai
-Có
quá nhiều thịt mà thiếu xương, lông mày rậm rạp lam xuống bờ mắt, chân tóc mọc
thấp, Thiên thương hẹp, nhiều râu ria mà giọng nói khô khan ......đều được mệnh
danh là Âm thác
-Mặt
tuy lớn, nhưng sắc ảm đạm, thân hình tuy có vẻ nam tính mà bước chân lệch lạc
ẻo lả như con gái thì gọi là Dương sa . Thân hình nữ mà cử chỉ mạnh bạo cứng
cỏi như nam giới thì gọi là Âm thác
Tóm
lại, vấn đề Âm thác, Dương sai rất phức tạp, khó mà lĩnh hội toàn vẹn nếu không
có kiến giải sâu rộng, quan sát tinh tế. Chương này chú trọng đặc biệt đến hai
nguyên tắc căn bản của Dương sai, Âm thác như sau :
1
- Đàn ông được gọi là thuần Dương mà lẫn lộn cá tính phụ nữ ( bất kể về phương
diện gì : đi, đứng, ăn, nói .....) khá rõ thì gọi là Chính Dương sai
2
- Đàn bà được coi là thuần Âm nếu, pha trộn nam tính ( dù về phương diện gì
cũng vậy ) quá lộ liễu thì gọi là Chính Âm thác
Từ
hai nguyên tắc căn bản trên, ta đi đến bốn hệ luận :
a
) Bất kể nam, nữ đều lấy đầu, âm thanh, cốt cách tượng trưng cho Dương chất.
Cho nên, không cần biết thân hình lớn hay nhỏ, điểm căn bản là phải lấy cốt
cách trầm ổn, vững chãi, tiếng nói trong trẻo, rõ ràng có tiếng vang làm chính.
Được như thế là cát tướng
Tiếng
khô khan, âm vận không có hoặc ngắn ngủi thì dầu thân hình lớn hay nhỏ đều
không đáng kể gì tới vì đó là hung tướng, tượng trưng cho Dương sai.
b
) Bất kể nam nữ, đếu lấy khuôn mặt tượng trưng cho Dương, cho nên Ngũ nhạc nổi
rõ nhưng không quá lộ liễu thô bỉ, râu tóc và lông mày thích nghi tương xứng là
dấu hiệu cát tướng. Ngũ nhạc phá hãm, râu ria và lông mày quá đậm là hung tướng
vì đó bị gọi là Âm thác
c
) Thân hình to lớn khôi ngô mà khí phách nhỏ hẹp, xử sự thô lỗ, âm hiểm tàn
nhẫn, chấp nể tiểu tiết, không biết quyền biến, đó là Dương không khống chế
được Âm nên gọi là Dương sai
d)
Người nhỏ mà xử sự xô bồ không có giới hạn, khí phách cuồng ngạo chỉ biết tiến
mà không biết thoái lui khi cần thiết thì đó là Âm không kiềm chế được Dương
nên gọi là âm thác
TƯƠNG QUAN GIỮA SẮC VÀ CON
NGƯỜI
a
) Về mặt kiện khang
1
- Nguyên tắc quan sát
Quan
sát màu da để biết một cá nhân bị bệnh cần chú ý đến hai điều cấm kỵ sau đây,
được gọi là ngũ kỵ và ngũ tuyệt
a
) NGŨ KỴ
-Kỵ
môi xám mà lưỡi đen
-Kỵ
yết hầu nổi màu đen hoặc đỏ mà ngày thường khoẻ mạnh hay khi mới bị bệnh chưa
thấy hai màu đó xuất hiện ở yết hầu
-Kỵ
sắc đen xạm hiện ra ở thiên thương và Địa các
-Kỵ
khoé miệng có màu vàng nghệ
-Kỵ
lòng bàn tay bỗng nhiên khô cằn
Lúc
chưa bị bệnh, gặp một trong các màu trên ở các bộ vị kể trên thì chắc chắn khó
tránh bị mắc bệnh. Nếu đã bị bệnh mà phạm vào một hay nhiều điều cấm kỵ trên
thì đó là dấu hiệu bệnh chuyển từ nhẹ sang nặng. Nếu phạm vào cả năm điều trên
thì xác suất càng cao hơn nữa.
b
) NGŨ TUYỆT
Trong
lúc bệnh mà gặp một trong năm tuyệt chứng sau đây thì khó mong mau lành, sắc
càng rõ thì hậu quả càng tai hại. Nếu đồng thời hội đủ cả Ngũ tuyệt thì chắc
chắn không tránh khỏi tuyệt mạng vì cả Ngũ tạng đều kiệt lực.
-Tâm
tuyệt : Hai môi túm cong lại, màu môi đen và khô, chủ về tim kiệt sức, bộ máy
tuần hoàn sắp ngưng hoạt động
-Can
tuyệt : Bệnh nhân cứng miệng há ra được nhưng không ngậm lại được, vành trong
mắt nốt ruồi sắc đen là dấu hiệu cho biết gan đã kiệt
-Tỳ
tuyệt : Môi xám xanh mà thu hẹp lại , sắc mặt vàng vọt thê lương là dấu hiệu
cho biết khí ở tỳ vị sắp tuyệt
-Phế
tuyệt : Mũi xạm đen, da mặt khô xạm là dấu hiệu ở phổi đã cạn
-Thận
tuyệt : Hai tai khô, xạm đen đột nhiên bị ù tai hoặc điếc hẳn nướu răng đổ máu
và răng khô là được khí ở thận đã dứt.
2
- Các loại bệnh và dấu hiệu bệnh
Dưới
đây là lược huật phương pháp quan sát màu sắc một số bộ vị có thể biết được căn
nguyên phát sinh bệnh trạng cùng là dự đoán phần nào được sự chuyển biến của
bệnh.
Bệnh
ở tim và hệ thống tuần hoàn: Lông mày nhăn nheo, Sơn căn nhỏ hẹp, hai mắt cũng
như khu vực quanh mắt có khí sắc đen xạm hoặc xanh pha đen.
Bệnh
ở gan: Hai tròng mắt có gân vàng pha hồng, khí sắc khô xạm
Bệnh
ở khu vực tỳ vị: Sắc mặt ( Bao gồm tất cả mọi bộ vị ) xanh pha vàng thuộc loại
tà sắc, thần khí trì trệ, suy nhược, môi trắng bệnh ăn uống kém
Bệnh
ở bộ máy hô hấp: Lưỡng quyền xạm đen và khô cằn, lúc nóng, lúc lạnh thất thường
Bệnh
ở thận: Sắc mặt đen xạm, đặc biệt là hai tai và trán đen hơn lúc bình thường,
mục quang hôn ám
Chứng
khật khùng: Mắt lồi, trong mắt có sắc vàng, phía dưới mắt có sắc trắng như màu
đất mốc, đó là dấu hiệu kẻ có bản chất nóng nảy, mất tự chủ như Tôn Thất Thuyết
trong lịch sử Việt Nam cuối thể kỷ 19
Chứng
thổ huyết: Sơn căn nhỏ, gầy và trơ xương, mắt có sắc xanh xạm
Chứng
hoại huyết: Da mặt và tứ chi sắc vàng pha xanh và khô, râu ria đỏ như râu ngô (
mà bản chất không phải là loại Hoả hình ) tóc rụng nhiều
Chứng
thận suy: Phần lệ đường bị ám đen, sắc mặt ảm đạm, mắt trũng sâu là dấu hiệu
của kẻ trong tuổi thanh xuân đã hoang dâm vô độ, nên thận suy yếu và hiện ra
các khí sắc kể trên tại các bộ vị dẫn thượng
Dấu
hiệu bệnh nặng, nhưng sẽ thoát khỏi hiểm nghèo: Mặc dầu bệnh trạng ra sao mà
nhãn quang thanh thản, linh hoạt, còn ngươi đen láy, có thần khí, chắc chắn
không có gì nguy hiểm đến tính mạng
Triệu
chứng sắp chết: Hai tai, miệng ( kể cả khu vực xung quanh ) đều xám đen và khô,
hai mắt đờ đẫn, nhãn cầu gần như ngưng đọng là dấu hiệu sắp sửa tắt thở
Dấu
hiệu sắp bị bệnh: Sơn căn xám đen, thiên đình có vết xám và lan rộng dần ra
xung quanh, Chuẩn đầu ám đen và khô
b
) Về mặt mạng vận
1
- Các trạng thái biến thiên của thời vận
Trạng
thái thời vận cực thịnh: Trạng thái vận khí cực thịnh khí sắc biểu hiện vận khí
cực thịnh gồm có :
-Mạng
môn ( Aán đường ) chuẩn đầu đều màu hồng
-Aán
đường sáng sủa
-Chuẩn
đầu hiện rõ màu tía nhạt pha lẫn màu vàng nhạt trông sáng láng
-Râu,
lông mày tươi đẹp, có thần
Có
một trong các biểu hiện trên là dấu hiệu của thời cực vận cực thịnh. Làm quan
sẽ thăng tiến, đi buôn sẽ thu hoạch tối đa, càng hoạt động càng phát huy hảo sự
a
) Trạng thái thời vận đứng vững lâu dài : Biểu hiện bề ngoài của loại vận khí
này là :
-Nhãn
thần sung túc sáng sủa
-Hai
tụng lưỡng quyền Aán đường, chuẩn đầu, quanh năm tươi nhuận, không bị hôn ám,
lòng bàn tay hồng hào hoặc mịn màng
Có
những dấu hiệu trên thì diện mạo, bộ vị đôi lúc bị hôn ám bề ngoài nhưng ẩn
hiện sắc sáng vẻ thanh ở trong là vận khí vững vàng thì sự hôn ám của các bộ vị
khác trên mặt không đủ gây trở ngại cho tiến trình phát đạt.
Người
có loại thời vận trên mưu sự gì cũng được toại nguyện làm điều gì cũng có lợi.
b
) Trạng thái thời vận bắt đầu tu: Khi vận khí bắt đầu tụ sắc thì đó là dấu hiệu
báo trước tài lộc sắp tới, càng hoạt động càng tốt đẹp thêm. Ví dụ khi gặp các
trạng thái sau :
-
Sắc mặt hôn ám, nhưng gián đài, đình úy sáng sủa, có sắc hơi vàng lạt phương
lẫn màu màu tía lạt.
-
Mặt mũi trông hôn ám, nhưng nhìn kỹ thì lại có ẩn tàng tươi mịn bề trong, lòng
trắng của mắt không có tia máu, râu tóc tươi đẹp. Trong trường hợp này, bất kể
là màu sắc gì mà kẻ tinh mắt thấy rõ là có khí sắc thì chắc chắn tốt sắp phát
hiện, tạo thành trạng thái thời vận toàn thịnh trong tương lai.
c
) Trạng thái thời vận sắp biến chuyển từ xấu tới xa ra tốt: Nói cho đúng, đây
là loại vận khí giúp ta biến hung thành kiết, gặp dữ hoá lành, tuy gặp cảnh khó
khăn nhưng rốt cuộc vẫn lướt qua được. Dấu hiệu bề ngoài của trạng thái này là:
-
Sắc mặt hôn ám nhưng ánh mắt sáng sủa
-
Sắc mặt xanh đen, nhưng chuẩn đầu có màu vàng lạt tươi mịn
-
Sắc mặt đỏ nhưng có pha lẫn màu vàng lạt (hoặc hồng) tươi mịn
Người
có trạng thái thần sắc kể trên thì tuy gặp lúc thất bại nhưng sau đây, thất bại
lại trở nên thành công, thất y trở thành đắc ý.
d
) Trạng thái thời vận bắt đầu xấu: Dấu hiệu của trạng thái vận khí bắt đầu xấu
là khí sắc trên mặt không sáng sủa đều, hoặc trông sáng không ra sáng, trông
hôn ám không ra hẳn hôn ám, hoặc câm có râu trắng hiện ra, hoặc chuẩn đầu hiện
ra màu hồng đâm thuần tuý không có màu vàng lạt đi kèm.
Gặp
trạng thái trên, nên cố giữ mức độ bình thường hoặc bảo trì hiện tại, tuyệt đối
không nên vọng động vì càng vọng động thì càng đi đến hậu quả xấu hơn.
đ
) Trạng thái thời vận sắp tàn lụi: Trạng thái này là giai đoạn kế tiếp của
trạng thái kể trên, dấu hiệu bề ngoài có thể nhận thấy là :
-
Thoáng trông mặt mũi rạng rỡ, nhưng nhìn kỹ thấy lác đác có vài chỗ sắc thái
tạp loạn, không toàn vẹn
-
Mặt sáng nhưng hai tai và chuẩn đầu ám đen hoặc không sáng, ánh mắt mờ yếu
-
Mặt trông sáng láng nhưng trắng bệch không có vẻ chân khí ẩn tàng. Đây là trạng
thái được tướng học mệnh danh là hữu sắc vô khí
Gặp
loại khí sắc đột nhiên xuất hiện chỉ nên an phận thủ thường không nên vong
động, cố cưỡng lại chỉ nghĩ đến thất bại vô ích.
e
) Trạng thái thời vận xấu:
-
Sắc mặt thoáng trông có vẻ sáng sủa nhưng nhìn kỹ thì thấy khô và hai mắt hôn
ám
-
Da mặt đen xạm khô khan
-
Khí sắc biến đổi thất thường ( hoặc một vài bữa, hoặc năm sáu ngày ) không phải
vì bệnh trạng mà tự nhiên phát hiện
Đây
là trạng thái khí sắc xấu nhất, tuyệt đối không nên mưu sự, cầu danh trong giai
đoạn có loại khí sắc kể trên xuất hiện.
2
- Sắc và vận mạng qua thời gian
a
) KHÍ SẮC VÀ VẬN MẠNG THEO TỪNG MÙA
*Mùa
xuân : Ba tháng mùa xuân thuộc Mộc, sắc xanh, muốn coi vận mạng của con người (
Đây chỉ nói về đàn ông ) thì coi xương quyền bên trái.
-
Quyền trái mà mùa xuân có sắc xanh thì trước lo lắng sau vui vẻ
-
Quyền trái về mùa xuân có sắc đỏ là tương sinh ( Mộc sinh Hỏa ) chủ về sự trước
có tai họa khẫu thiệt sau thành sự đắc ý thỏa lòng
-
Quyền trái về mùa xuân có sắc trắng là tương khắc ( Kim khắc Mộ ) chủ về tụng
ngục, hoặc tang ma trong vòng ba tháng sẽ thấy ứng nghiệm
-
Mùa xuân mà Quyền trái biến thành sắc vàng khè là điềm tương khắc (Mộc khắc Thổ
) tối hung, có thể bản thân bệnh nặng hoặc chết, nếu lưu niên vận hạn năm đó,
mùa đó cũng là Quyền trái.
*Ngoài
ra , trong ba tháng mùa xuân mà thấy :
-Mũi
có màu đỏ tươi : Thân mình bị tai nạn cây gẫy hoặc người nhà bị thương tích ,
đổ máu vì cây gẫy
-
Sơn căn có sắc ám đen chủ anh em gặp tai nạn, hoặc gia súc thất lạc
-
Khí sắc ám đen mà ăn lan cả lên Aán đường chủ về văn chương trì trệ
-
Khí sắc ám đen cả khu vực mắt chạy dài tới cả hai tai là trong nhà có tang sự
hoặc chết hụt
-
Mắt trái sắc xám xanh: Con trai bị tai ách, nếu là mắt phải chủ về tai ách của
con gái
-
Mắt trái có sắc pha hồng mà tươi mịn, chủ về con trai lại có tin vui: vợ có
mang chủ sinh con trai, mắt phải có dấu hiệu tương tự chủ về con gái
-
Nếu đàn bà có thai mà cả hai mắt và khu vực dưới mắt đều sắc ám đen mà lại
không được sáng sủa thì đó là dấu hiệu thai sản khó khăn, có thể nguy hiểm đến
tính mạng thai nhi lẫn sản phụ
-
Nếu trong ba tháng mùa xuân mà bỗng nhiên môi trên từ sắc thái bình thường
chuyển sang sắc trắng rõ rệt là điềm báo trước về bệnh ruột
-
Nói chung, nếu mũi từ chuẩn đầu đến Aán đường) và trán về ba tháng mùa xuân có
sắc sáng do màu vàng pha hồng tạo nên thì trong vòng từ 27 đến 47 nagỳ sẽ có
tin lành đưa tới (hoặc là tiền bạc, nhà cửa, con cái ...)
*Mùa
hạ : Ba tháng mùa hạ thuộc Hỏa, sắc chính yếu của mùa hạ là màu đỏ ( biến thái
là màu tía màu hồng ). Bộ vị được dùng để đoán vận khí xấu tốt trong ba tháng
hè là trán
-
Trán về ba tháng hè mà có màu sắc đỏ rõ ràng là chính cách, chủ về sự có lôi
thôi khẩu thiệt, nhưng sau đó lại trở thành tốt lành. Tướng pháp gọi đó là tỷ
hòa ( Hoả gặp hoả )
-
Trán về ba tháng hè có sắc xanh pha vàng là tương sinh ( Thổ Mộc sinh Hỏa ) thì
trước xấu sau tốt
-
Trán mà ba tháng hè có sắc đen hoặc trắng là điềm bất lợi, dễ bị bệnh hoạn
-
Sắc tía hiện rõ rệt trên trán trong khoảng thời gian này là điềm báo trước cò
nhiều sự bất trắc về quan tụng, đồ vật
-
Hai mắt về mùa hạ cũng như lông mày, pháp lệnh hôn ám là thân thể bất an
-
Hai cánh mũi có sắc đen pha tía là điềm tật bệnh về khí huyết
-
Sơn căn sắc đen chủ huynh đệ có việc lôi thôi đưa đến tụng đình hoặc đồ vật
thất tán
-Thùy
châu ám đen : Vật tài hao tổn , vành tai mà đen xạm thì chính bản thân dễ chết
vì tật bệnh tai nạn
-
Nếu lưỡng quyền sắc đỏ tươi, mịn màng, từ chuẩn đầu đến tận trán có pha sắc
vàng pha hồng tươi sáng là điềm báo trước mọi sự thuận lợi. Nếu tất cả các bộ
vị trên bị pha xanh xám pha đen xạm là điềm trăm sự thất bại
-
Sống mũi mà đen xám nhưng chuẩn đầu tươi nhuận hồng hào thì đau ốm nhì nhằng.
Nếu tất cả đều hôn ám thì khó tránh khỏi chết vì tật bệnh
*Mùa
thu : Ba tháng mùa thu thuộc Kim, sắc trắng là chính cách. Muốn xem vận khí mùa
thu thì lấy quyền bên phải làm chuẩn.
-
Quyền phải sắc hồng hoặc đen là chính cách hoặc tương sinh , trước buồn sau vui
-
Chuẩn đầu trong ba tháng mùa thu mà có sắc đỏ như mào gà chọi là điềm quan lộc
hao tổn, tụng ngục lôi thôi
-
Phía dưới hai mắt có màu đỏ là điềm xấu về con cái. Mắt phải con gái, ngược lại
là phía con trai
-
Ngư vĩ sắc đen là có tai nạn về sông nước. Sơn căn có sắc đen, mép miệng cũng
hắc ám là điềm tật bệnh nội tạng
-
Nếu mui ( từ đầu đến cuối ) hơi có khí sắc vàng mà rõ là công danh, tài lợi tấn
phát
*Mùa
đông : Ba tháng mùa đông thuộc Thủy, tượng trưng bằng màu đen. Muốn xem vận khí
trong khoảng thời gian này phải lấy Địa các làm chủ.
-
Ba tháng mùa đông mà cằm có sắc đen thì trước xấu sau tốt. Có sắc xanh thì
tương sinh ( Thủy sinh Mộc ) kết quả tương tự
-Cằm
có sắc vàng về mùa đông chủ về tụng ngục , sắc trắng chủ chết chóc
-
Lưỡng quyền về mùa đông có sắc đen là biểu hiện tai nạn hoặc tiền bạc hao phá
-
Sơn căn sắc đen pha vàng : bất lợi về khẩu thiệt
-
Aán đường xanh vàng : Cầu công danh sẽ thất bại. Nếu có sắc đen pha tía lẫn lộn
thì coi chừng xe cộ, sông nước
-
Dưới hai mắt có màu xanh vàng : Trong vòng mười ngày có chuyện lôi thôi, có sắc
đỏ là lôi thôi quan tụng, sắc vàng là tin vui
-Đầu
lông mày có sắc đỏ chủ lôi thôi về những chuyện không đâu
-Trái
lại, nếu phía dưới hai mắt có sắc vàng nhuận là điềm lành, làm việc gì cũng đạt
sở nguyện
Tuy
nhiên có một điều cần lưu ý là trước khi áp dụng vận khí bốn mùa cần phải xét
xem người đó thuộc về hình gì trong năm hình rồi áp dụng nguyên lý tương sinh
tướng khắc vào Ngũ hình để ấn định tầm ảnh hưởng tổng quát tiên khởi rồi mới áp
dụng vận khí bốn mùa sau. Đi ngược lại điểm khởi nguyên này, sự đoán định mất
hết giá trị, đôi khi còn đưa đến kết quả ngược lại.
b
) KHÍ SẮC VÀ MẠNG VẬN HÀNG THÁNG
*Tháng
Giêng : ( vị trí chủ yếu ở tại cung Dần , trên Pháp lệnh phải ) tháng giêng thì
diện bộ có sắc xanh trắng hiện rõ từng, điểm sáng sủa tinh khiết là sắc tốt,
chủ về vận khí đang lên.
*Tháng
hai : Trong tháng hai thì trên mặt cần phải hiện rõ sắc hồng tía nếu không thì
sắc xanh sáng sủa hiện thành từng mảng mới là sắc tốt, vận khí hạnh thông.
Xem
khí sắc tháng hai phải xem ở cung Mão ( từ đuôi mắt phải đến khoảng giữa tai phải
).
*Tháng
ba : Bộ vị chủ yếu tại cung Thìn, nói khác đi đó là Thiên thương ( khoảng cuối
chân mày phải tới đầu tai bên phải ).
Màu
vàng phương hồng : đắc cách, trắng hoặc đen rõ ràng là phá cách. Trong ba tháng
màu sắc cần phải lạt. Thiên thương đắc cách là triệu chứng tốt bị ám đen hoặc
trắng là tang chế, xanh quá rõ là dấu hiệu báo trước bản thân sẽ gặp tai ách.
*Tháng
tư : Khí vận tụ lại ở cung Tỵ ( khu vực từ Thái hà tới Nguyệt giác tức là từ
phía trên mày phải tới mép tóc phải ).
Màu
tốt nhất là màu hồng tía sáng sủa : chủ mọi việc tốt đẹp, khí sắc trì trệ là
bất tường
Các
màu khác đều khắc tỵ : màu đen chủ về chết chóc, xanh chủ về hình phạt, vàng
chủ về thất tán, trắng chủ về ma chay.
*Tháng
năm : Khí vận tụ ở cung Ngọ ( khoảng từ Aán đường chạy thẳng lên mí tóc trên
trán )
Màu
đỏ hoặc hồng tía là khí vận tốt. Các màu khác đều biểu hiện sự thất ý, thất là
màu xanh.
*Tháng
sáu : Khí vận tu ở cung Mùi ( khoảng đầu chân mày trái tới phía trên Nhật giác
)
Sắc
chính trong tháng này là cung Mùi phải có màu vàng pha tía. Nếu có sắc xanh xạm
hoặc chỉ hơi hồng mà lẫn trắng trộn với nhau thì công việc trì trệ hay gặp tai
ách.
*Tháng
bảy : Khí vận tụ ở cung Thân ( khoảng cuối đuôi mày trái tới Thiên thương ).
Sắc
chính là tốt là sắc vàng và trắng. Kỵ pha sắc đỏ hoặc đen xạm. Nếu sắc chính là
trắng pha chút màu vàng hoặc tía chủ đại cát.
*Tháng
tám : Khí vận tháng tám coi tại cung Dậu
Khí
sắc chính là ít vàng nhiều tía, không nên có nhiều sắc hồng hoặc đỏ rõ rệt.
Trong khoảng tháng tám, chẳng kỵ sắc hồng và đó ở cung Dậu mà còn kỵ ở bất cứ
bộ vị nào nữa.
*Tháng
chín : Khí vận tháng chín coi tại cung Tuất.
Khí
sắc chính là màu và hồng, kỵ màu đỏ, xanh, đen. Màu đen trong thời gian này chỉ
tai họa. Màu vàng cần hiện ở ngoài, màu hồng thì mới tốt, ngược lại là xấu.
*Tháng
mười : Khí vận tháng mười coi tại cung Hợi
Màu
trắng: chủ về tài lộc với điều kiện sáng sủa
Màu
đỏ: tai ách
Màu
vàng: bệnh tật
Màu
xanh: không may mắn về cầu công danh sự nghiệp
*Tháng
mười một : Khí vận coi tại cung Tý
Màu
sắc tốt là màu sắc đồng dạng với tháng mười. Có màu xanh hoặc đen thuần túy
sáng sủa là trung bình, tối kỵ màu hồng, màu đỏ dù là từng nảng hay từng chấm
nhỏ cũng vậy
*Tháng
chạp : Khí vận tháng chạp coi tại cung Sửu (từ mép miệng phải chạy ngang má và
chạy dọc xuống hạ đình)
Màu
sắc chính yếu đắc thế của tháng chạp là hai màu xanh, màu vàng. Điều đáng chú ý
nhất là cả hai màu đó phải mờ ám nhưng không được ngừng trệ bở sự xuất hiện bất
chợt của các màu đen hoặc đỏ ở cung Sửu.
Tuy
nhiên vì hạn chung Tý, Sửu ở sát gần nhau nên ta phải phân rõ mảu sắc giao liên
của chúng. Tháng chạp thì cung Sửu có thể trắng nhưng cung Tý phải đen mới hợp
cách.
Tóm
lại, khi dựa vào khí sắc để đoán vận khí tốt xấu, cần phải nhớ các nguyên tắc
căn bản sau đây :
a
) Theo đúng nguyên lý vạn vật biến chuyển không ngừng, khí sắc mỗi tháng cũng
biến chuyển theo từng tiết ( mỗi tháng có 2 tiết, mỗi năm 24 tiết ) :
-Từ
mồng 1 đến 15 mỗi tháng: Khí sắc tươi nhuận và rõ rệt
-Từ
15 đến cuối tháng chỉ cần tươi nhuận nhưng phải mờ dần
b
) Sắc diện mỗi ngày ở một người vô bệnh tật cũng biến chuyển.
Buổi
sáng mới thức dậy: khí sắc trong sáng, buổi trưa mạnh mẽ và buổi chiều an tĩnh.
c
) Chỉ có loại khí sắc tự nhiên mới cho phép dự đoán vận hạn hàng tháng, hay
hàng năm mà thôi. Khí sắc hàm dưỡng, hay tà khí dùng để khám phá khí phách tinh
thần.
Ý NIỆM SẮC TRONG TƯỚNG HỌC
Á ĐÔNG
I
- Ý NIỆM SẮC TRONG TƯỚNG HỌC Á ĐÔNG
Trong
tướng học Á Đông, từ ngữ sắc bao trùm nhiều lãnh vực:
a
) Màu da của từng cá nhân
Tướng
học Á Đông là kết quả tích luỹ các kinh nghiệm thực tế của nhiều thế hệ, chỉ áp
dụng được cho các chủng tộc Á Đông có cùng màu da căn bản là vàng, có cơ thể
tầm vóc tương tự như người Trung Hoa và cùng chịu ảnh hưởng sâu đậm của tập
quán và văn hoá Trung Hoa như Cao Ly, Nhật Bản, Việt Nam mà thôi.
Nói
chung, người Á Đông tuy là giống da vàng, nhưng trong thực tế, trong cái vàng
tổng quát đó, ta vẫn phân biệt được sắc ngăm đen như Trương Phi, sắc trắng ngà,
sắc hung hung đỏ như mặt Quan Công, sắc hơi mét xanh như Đơn Hùng Tín, trong
truyện cổ của người Trung Hoa.
Về
vị trí quan sát, tuy nói tổng quát là làn da, nhưng trong tướng học khi nói đến
sắc da, người ta chú ý nhất đến da mặt, chỗ sắc dễ thấy nhất, còn các phần khác
của cơ thể không mấy quan trọng.
b
) Màu sắc của từng bộ vị trên khuôn mặt hoặc thân thể
Trên
cùng một khuôn mặt hay cùng một thân thể của một cá nhân ta thấy có nhiều loại
màu đơn thuần khác nhau :
-Màu
hồng, màu hơi thâm đen của môi, của các chỉ tay, của vành tai
-Màu
đen hoặc hung hung của râu tóc, lông mày
-Màu
trắng của lòng trắng mắt, màu nâu ( ta thường gọi là đen của tròng đen )
-Màu
đỏ của các tia màu mắt ....
c
) Sự đậm lạt của từng loại màu
Cùng
một loại màu, chẳng hạn như da mặt hay làn môi ta thấy có môi hồng lạt, hồng
đậm, hồng phương trắng. Cùng một loại da trắng, ta thấy có người trắng hồng,
trắng xanh, trắng ngà. Tóm lại, sự đậm lạt của màu cùng là một thành tố của ý
niệm sắc trong tướng học không thể bỏ qua được.
d
) Phẩm chất của từng loại màu đơn thuần
Cùng
một màu hồng của môi, của cặp má, nhưng ta thấy có người môi khô, có người môi mọng,
có người sắc da hồng nhuận, có người da khô trông như vỏ cây hết nhựa.
Ngoài
màu đơn thuần, ta còn có những màu phức hợp do nhiều màu đơn thuần hợp thành.
Lãnh vực của chúng cũng đồng một khuôn khổ như các lãnh vực của các đơn sắc.
Sau
hết, trên khuôn mặt của một cá nhân, dù màu đơn thuần hay mau phức hợp, chúng
có thể biến đổi từ màu này sang màu khác, hoặc về phẩm chất, về độ đệm lạt, về
thành phần cấu tạo ( đối với các loại màu phức tạp ) qua thời gian. Chẳng màu
da trắng của một người có thể sau một thời gian biến sang hồng hay xanh xám:
tóc có thể từ đen mướt đến hung đỏ; cặp mắt trong xanh và là môi tươi thắm có
thể vì một lý do bệnh nào đó mà biến thành cặp mắt trắng đã làn môi thâm sì.
Tóm
lạ , khi nói đến sắc trong tướng học là ta nói đến màu của các loại da, màu của
các bộ vị, độ đậm lạt, phẩm chất, sự phối hợp các màu đơn thuần thành các màu
phức hợp, sự biến thiên của màu trên con người từ khu vực này sang khu vực
khác, từ thời gian này sang thời gian khác. Nghiên cứu về sắc tức là nghiên cứu
về tất cả mọi trạng thái của các lãnh vực nói trên, đi từ tổng quát tới chi
tiết, từ chỗ đơn thuần tới chỗ phức tạp. Đôi khi quan sát bằng thị giác chưa
đủ, người ta còn phải vận dụng đến cả trực giác bén nhạy thiên phú nữa, nhất là
trong lãnh vực quan sát phẩm chất và độ đậm lạt của màu sắc ở từng bộ vị trên
con người.
II
- CÁC LOẠI SẮC TRONG TƯỚNG HỌC
Nói
đến sắc tức là nói đến màu, nhưng ở đây nặng nề về phần màu của da trên khuôn
mặt. Tướng học Á đông phân ra bảy loại đơn sắc:
-
màu đỏ - màu xanh - màu vàng - màu hồng - màu trắng
-
màu tía - màu đen
Ba
màu Đỏ, Hồng, Tía được tướng học Ngũ hành hoá thành ra hỏa sắc là màu chính
thức của ba tháng hè, là màu da căn bản của loại người hình Hoả trong phép phân
loại Ngũ hành hình tướng.
Màu
xanh thuộc Mộc, là màu sắc chính của ba tháng mùa xuân màu da căn bản của loại
người hình Mộc.
Màu
trắng thuộc Kim là màu sắc tượng trưng cho ba tháng mùa thu là màu da căn bản
của người hình Kim.
Màu
đen thuộc thuỷ là màu sắc thuộc về mùa đông là màu da chính cách của loại người
hình Thủy.
Sau
cùng, màu vàng thuộc thổ, là màu sắc tượng trưng an lan quanh năm, là màu da
căn bản của loại người hình Thổ.
a
) Ý nghĩa của từng loại màu trên con người
Theo
sự kinh nghiệm tích luỹ lâu đời của cổ nhân, người ta thấy thông thường mỗi một
màu xuất hiện bất chợt trên các bộ vị của một cá nhân có một ý nghĩa riêng biệt
như sau:
-Màu
xanh chỉ về lo lắng, kính hiểm, tật ách, trở ngại, tiểu nhân, nhục nhã
-Màu
đỏ chỉ khẩu thiệt thị phi, quan tụng,tù ngục phá tà , tật bệnh, hung tai
-Màu
đen chỉ thuỷ ách, hao phá, mất chức, chết chóc
-Màu
trắng chỉ hình khắc, hiếu phục, tật bệnh
-Màu
hồng ( và đôi khi màu Tía ) chỉ về các sự ngẫu nhiên đắc tài, đắc lợi, may mắn
ngoài ý liệu
-Màu
vàng chỉ vui vẻ, tài lộc thăng tiến, bình an may mắn
Tuy
vậy, các ý nghĩa trên không phải là định lệ bất di bất dịch, trong thực tế,
việc phân định và giải đoán ý nghĩa của sắc vô cùng phức tạp vì mỗi loại sắc có
liên hệ xa gần chằng chịt với nhiều dữ kiện khác. Sách Quy giám đã từng nói
" vui buồn, may rủi đều có thể hiện lên khuôn mặt qua khí sắc".
Sắc
phân ra lớn nhỏ, dài ngắn, rộng hẹp, tuỳ thời cải biến hoặc xấu hoặc tốt, hoặc
khô hoặc nhuận. Khởi nguyên của khí ở Ngũ tạng, sắc bắt nguồn từ khí, ban ngày
hiện ra ở ngoài. Cái dụng của sắc còn tùy theo thời gian, khí hậu. Sắc hiện ra
có khi lớn như sợi tóc nhỏ như sợi lông con tằm, dài như sợi lông ngắn như
chiều dài hạt tấm. Thế cảu sắc có thịnh có suy. Cho nên cần phải phối hợp thời
gian, khí hậu và Ngũ hành mà quan sát. Trong các loại sắc, sắc đỏ rất khó quan
sát cho chính xác, hoặc do nội trạng, hỏa vượng mà mặt đỏ, hoặc do đột nhiên
cảm cúm mà mặt đỏ, hoặc do uất ức mà mặt đỏ, hoặc uống rượu mà mặt đỏ. Chỉ đỏ
sắc tự nhiên thiên bẩm hặoc vô bệnh tật mà phát sinh ra mới thực là sắc đỏ của
tướng học. Về thời gian, ít ra nó phải xuất hiện rõ rệt ở một bộ vị nhất định
cả ngày mới có thể lấy làm căn cứ mà đoán tật bệnh cát hung quan sự gia vận.
Nói
tóm lại, biết ý nghĩa đặc thù của từng loại sắc chưa đủ để đoán mà còn phải
lồng được ý nghĩa đơn độc của nó vào một khung cảnh tổng quát bao gồm các yếu
tố sau đây để tìm ra ý nghĩa kết hợp của nó :
-
Sự lớn rộng hay hẹp của một khu vực xuất hiện sắc
-
Tính cách thanh trọc của sắc
-
Hư sắc hay thực sắc
-Bộ
vị xuất hiện
-Phối
hợp hay không với màu da tổng quát căn bản của từng loại người ( Ngũ hành hình
tướng )
-Phối
hợp hay không phối hợp với màu sắc từng mùa
-Rõ
ràng hay mờ ảo, thường trực hay bất chợt
-Đơn
thuần hay tạp sắc ...
Chẳng
hạn màu đen, tuỳ theo định nghĩa thông dụng là một màu xấu nhưng nếu thấy xuất
hiện ở người hình Thủy trong ba tháng mùa đông mà đặc biệt lại ở Địa các, với
sắc thái tươi bóng lại là một màu tốt đặc biệt chủ về khang kiện và phát tài.
Màu
đỏ, tuy là màu chỉ về thị phi, quan tụng nhưng nếu ởn gười hình Kim trong ba
tháng hè, sắc tươi tắn không hỗn tạp. Nếu vẫn ở cá nhân trên mà trong đỏ lại
pha lẫn đen thành màu huyết dụ thì lại chủ về hung hiểm khó tránh: pha lẫn màu
xanh hay vàng mà lại là thanh sắc thì tuy tai ương vẫn có nhưng mức độ nguy hại
giảm thiếu tới tối đa, rốt cuộc không có gì đáng ngại. Từ đó, ta có thể áp dụng
lối suy luận trên vào các màu khác.
b
) Quy tắc tổng quát về cách đoán sắc
Trong
phép đoán sắc ta không cần quá câu nệ vào ý nghĩa riêng rẽ của từng màu mà cần
phải để ý đến ý nghĩa kết hợp của nó trong một bối cảnh chung.
Ngoài
các yếu tố kể trên, ta còn phải phân biệt một vài điểm quan trọng trước khi lưu
ý đến ý nghĩa của từng loại sắc. Đó là :
1
- Hư sắc và thực sắc
Hư
sắc là trường hợp sắc và khí không tương hợp, chỉ có sắc hiện ra ở ngoài da, mà
phía dưới da không có khí. Để hiểu ta có thể ví hư sắc với vết bùn hay một vết
màu bất chợt phết lên lớp da cây, thành ra nhìn vào vết đó trên thân cây, ta
không thể biết được chất nhựa chu lưu dưới lớp vỏ cây ra sao. Trường hợp này
cũng còn gọi là hữu sắc vô khí.
Trái
lại, thực sắc là màu da thực sự của vỏ cây, nó phản ảnh trung thực chất nhựa
cây chu lưu ở dưới lớp vỏ cây. Tùy theo chất nhựa sung mãn hay khiếm hụt, màu
sắc của vỏ cũng biến chuyển theo.
Trong
tướng học chỉ có thực sắc mới đáng lưu tâm còn hư sắc không đáng kể.
2
- Vương sắc, trệ sắc, hoại sắc
Bất
cứ loại thực sắc nào dù đơn thuần hay phức hợp cũng đều có thể ở vào một trong
ba trạng thái trên.
*Vương
sắc : màu thuộc loại chính cách, sáng sủa, phân phối đều khắp bộ vị quan sát,
phù hợp với thời gian tối thuận của nó. Vượng sắc đắc cách phù hợp với từng
loại hình tướng là dấu hiệu tốt.
*Trệ
sắc : Màu xuất hiện đúng chỗ, đúng lúc, nhưng phẩm chất xấu hặoc phân phối
không đều đặn (hoặc lốm đốm, hoặc chỗ đậm chỗ nhạt).
Trong
tướng học, nói đến vượng sắc cách và trệ sắc là người ta chú ý đến màu sắc
chính yếu trên khuôn mặt hoặc các bộ vị chính yếu.
Như
danh xưng của nó , trễ sắc chủ về các sự bất tường tiềm ẩn sắp bộc phát
-Kim
trệ : Da mặt hiện ra sắc trắng bệch và khô như mặt đất bị mốc là đềim báo trước
vẽ sự cùng khốn, ngưng trệ về của cải.
Mộc
trễ : Khuôn mặt xanh xao, u ám chủ về tật bệnh, tai họa .
Thuỷ
trệ : Toàn thể các bộ vị chính trên mặt, nhất là hai tai mờ ảo như khói ám là
dấu hiệu tiềm ẩn chủ về quan trung thị phi.
-Hỏa
trệ : Mặt nổi màu đỏ trông khô héo là điểm hao tổn tiền bạc.
-Thổ
trệ : Màu da mặt vàng lốm đốm không đều, không sáng như màu nghệ khô là triệu
chứng nội tạng bệnh hoạn, công việc khó thành.
*Hoại
sắc : Xuất hiện trái thời gian, sai bộ vị hoặc pha trộn nhiều màu sắc tương
khắc.
BÍ ẨN LÒNG BÀN TAY
BÀN
TAY LÀ GÌ ?
1
- Bàn tay giúp sự nhận xét bịnh tật .
2
- Bàn tay giúp sự xét đoán tâm lý cá nhân.
3
- Bàn tay giúp sự tiên đoán những điều nguy hại, cũng như thuận lợi cho người .
Hai
bàn tay mặt và trái được chia thành 2 địa hạt rõ rệt: tinh thần hay thiên định
được ghi ở bàn tay trái; vật chất hay nhân lực được ghi trong bàn tay mặt .
Sự
mâu thuẫn giữa bàn tay nam và nữ được chứng minh qua những nguyên nhân sau:
1
- Khuôn khổ: với 1 mẫu bàn tay, chẳng hạn như vuông, dài, tròn, bầu, nhọn, mũi
viết ... giá trị sẽ khác nhau nếu không nói là trái ngược nhau giữa bàn tay nam
và nữ .
Thí
dụ: 1 bàn tay mũi viết ở người bạn gái, đó là hình thức bàn tay gặp nhiều may
mắn trong bất cứ trường hợp nào: tiền, tình, cũng như danh vọng . Ngược lại
cũng bàn tay mũi viết ấy ở người bạn trai, giá trị lại như sau: giàu tưởng
tượng, thiếu thức tế, do dự, đôi khi trở thành khiếp nhược, bỏ lỡ cơ hội vì nữ
tánh của mình .
2
- Hình thức: 1 bàn tay mập và dày
Ở
người bạn trai sẽ nói lên sự may mắn và thành công về phương diện vật chất, sự
nghiệp .
Ở
người bạn gái, nhiều dâm tính, lúc nào cũng tìm cách thoả màn nhục dục, do đó
có thể là bàn tay của người bạn sa đoạ .
3
- Màu sắc: màu trắng
Ở
bàn tay người nữ là bàn tay thắng lợi về mọi phương diện .
Ở
bạn trai thì ít được may mắn, đó là mẫu bàn tay của người háo ăn, ham chưng
diện, thích xa hoa, nhưng kém bình tĩnh và thản nhiên trước sự khốn khổ của
người khác .
NHỮNG
NÉT ĐẠI CƯƠNG TRONG BÀN TAY
Lưu
ý: một đường chỉ, một ấn tượng trong bàn tay không đáng kể, mà trọn bàn tay mới
đáng kể .
Đường
Chánh:
-
Có 6 đường chánh trong bàn tay, không luận nam nữ .
1
- Đường Sanh Đạo: bắt nguồn từ khoảng giữa 2 ngón cái và ngón trỏ, bọc vòng
theo thân dưới ngón cái chạy như 1 hình vòng cung xuống cườm tay.
2
- Đường Trí Đạo: bắt nguồn từ 1 chỗ với đường Sanh Đạo, hoặc dính liền với
đường này, hoặc phát nguồn rời ra và chảy về rìa bàn tay hoặc lên trên hoặc
xuống dưới, nghĩa là đổ vào các gò nằm cận rìa bàn tay.
3
- Đường Tâm Đạo: phát nguồn từ rìa bàn tay, dưới ngón út chảy vào lòng bàn tay hoặc
chấm dứt thật xa dưới ngón trỏ, hoặc chấm dứt lưng chừng dưới ngón giữa, dưới
ngón áp út . Cũng có những đường Tâm Đạo quá ngắn, vừa phát ra là chấm dứt ngay
tại thân dưới ngón út . Đây là 1 điểm cần đặc biệt để ý, vì rất dễ nhận định
lầm với đường Hôn Nhân.
4
- Đường Định Mạng: nằm giữa ở thân giữa lòng bàn tay, phát nguồn từ cườm tay,
hoặc ở lưng chừng khoảng trên cườm tay, hoặc ở lưng chừng khoảng trên cườm tay
chảy đứng lên và chấm dứt ở nhiều nơi, thường thì đường này hay chấm dứt chỗ
đụng nhằm đường Trí Đạo, dài hơn 1 chút là chấm dứt chỗ đụng nhằm đường Tâm Đạo
.
5
- Đường Thái Dương: phát nguồn từ lưng chừng bàn tay, gần như không bao giờ ở
thân dưới bàn tay, mà từ giữa lòng bàn tay trở lên và chảy vào thân dưới ngón
áp út, tức là gò Thái Dương.
6-
Đường Trực Giác: luôn luôn nằm ở rìa bàn tay và phát nguồn trong gò Thái Âm
thành hình vòng cung, bề cong ở phía lòng bàn tay, chảy lên gò Thủy Tinh tức gò
nằm dưới ngón út và chấm dứt nơi đây.
Đường
Phụ:
1
- Vòng Kim Tinh: là 1 đường cong, nằm vắt ngang dưới 2 ngón giữa và áp út, hoặc
dài hơn từ cạnh ngón trỏ đến thân dưới ngón út . Đường cong này có nhiều hình
thức: cong như vòng cung, cong 1 đầu, thẳng 1 đầu hoặc 1 đường cong dài và 1
đường cong ngắn đi cặp ở khoảng đầu hay ở khoảng cuối . Cũng có những vòng Kim
Tinh gần như ngay và bị cắt đứt nhiều khoảng, hoặc gồm những chỉ tay nhỏ vấn
vào nhau như sợi nhợ se lại . Chiều cong của vòng Kim Tinh luôn nằm về phía
dưới, gần như hình 1 lưỡi liềm, có 2 đầu vấn vào nhau như sợi nhợ se lại
2-
Đường Xà Ngang (đường Xuyên): là những đường nhỏ, đa số là ngắn và thường phát
nguồn từ gò Kim Tinh xuyên ngang đường Sanh Đạo, qua đường Trí Đạo . Vượt thẳng
thêm lên đường Tâm Đạo, đường xuyên được xem là dài . Đường Sà luônc ó 1 chiều
cong ở thân dưới, chiều này luôn luôn hướng về phía ngón cái, đầu phát nguồn từ
gò Kim Tinh hay đồng Hoả Tinh.
3
- Đường Hôn Nhân: là những đường nhỏ, luôn luôn là ngắn, dài nhất trong đường
Hôn Nhân là 1 đường chấm đến khu vực giao liên giữa 2 ngón út và áp út . Đường
Hôn Nhân luôn luôn đóng thân trên đường Tâm Đạo, và phát nguồn từ rìa bàn tay,
hoặc nhiều, hoặc ít, tối đa là 5. Có 3 hình thức: thẳng, cong về phía trên hoặc
công xuống phía dưới . Một hình thức đặc biệt là chỗ cuối đường Hôn Nhân rẽ làm
2 (chỉ xuất hiện ở bàn tay nữ, rất ít ở bàn tay nam).
4
- Đường Hoả Tinh: luôn luôn nằm trong khu vực gò Hoả Tinh và không bao giờ vượt
ra ngoài gò này . Phát nguồn từ rìa bàn tay và luôn luôn ngắn nhưng ngay thẳng,
ít thấy cong.
5
- Đường Du Lịch: xuất hiện trong gò Thái Âm, vượt vào đồng Hoả Tinh và phát
nguồn từ rìa bàn tay . Đường Du Lịch có thể nhiều, đôi khi chỉ có 1 và là đường
dài hơn hết trong 2 đường Hông Nhân và Hoả Tinh.
6
- Đường Thủy Tinh (Sinh Lực): phát nguồn từ gò Thái Âm, nơi giáp giới giữa gò
này và gò Kim Tinh hoặc trong đồng Hoả Tinh . Nằm nghiêng theo rìa bàn tay và
lúc nào cũng chảy lên gò Thủy Tinh, ngắn nhứt cũng vừa chấm vào địa phận gò này
.
7
- Sau đường Thủy Tinh là ngấn cườm tay. Đó là những đường nằm vắt ngang thân
dưới lòng bàn tay, trong khu vực cườm tay. Nó có thể vượt lên khỏi cườm tay và
đôi khi cũng rời khỏi bàn tay, lệch về phía dưới . Ngấn cườm tay ít nhất là 1,
nhiều nhất là 3, cũng còn gọi là vòng Kỳ Diệu .
8
- Vòng Mộc Tinh: nằm vắt ngang dưới khu vực từ ngón trỏ qua ngón giữa .
9
- Vòng Thủy Tinh: nằm vắt ngang dưới khu vực từ ngón út qua ngón áp út .
10
- Đường Tử Tức: là những đường tí ti nằm lí nhí đứng trên đường Hôn Nhân. Những
đường này có thể đóng cao trong khu vực lóng thứ 3 của ngón út . (Là đường duy
nhất có giá trị trong bàn tay bạn gái mà vô nghĩ trong bàn tay bạn trai)
Các
Gò:
1
- Gò Kim Tinh: nằm trọn ở thân dưới ngón cái, và có đường Sanh Đạo bọc vòng
theo .
2
- Gò Mộc Tinh: chiếm dưới thân ngón trỏ, dính liền với gò Thổ Tinh và giao tiếp
với đồng Hoả Tinh.
3
- Gò Hoả Tinh Âm: là 1 khoảng cách rất nhỏ nằm ở gữa 2 gò Kim Tinh và Mộc Tinh.
4
- Gò Thổ Tinh: nằm dưới ngón giữa, giao tiếp với gò Mộc Tinh và dính liền với
gò kế cận ngón áp út .
5
- Gò (đồng) Hoả Tinh: nằm ở thân dưới gò Thổ Tinh.
6
- Gò Thái Dương: nói theo Gò Thổ Tinh, chiệm trọn thân dưới ngón út .
7
- Gò Hoả Tinh Dương: dọc theo rìa bàn tay, nằm ở lưng chừng .
8
- Gò Thái Âm: tiếp với cườm tay và gò Kim Tinh.
Các
ngón và khu vực khác:
Trong
bàn tay, ngoại trừ ngón cái được xem là ngón tượng trưng cho cá tánh của người,
hay là ngón chỉ huy, các ngón khác đều có 1 tên của nó chiếu theo ảnh hưởng của
hành tinh.
-
Ngón trỏ là ngón Mộc Tinh.
-
Ngón giữa là ngón Thổ Tinh.
-
Ngón áp út là ngón Thái Dương.
-
Ngón út là ngón Thủy Tinh.
-Thân
dưới
ngón
út chạy dọc đến cườm tay gọi là rìa bàn tay.
-Khu
vực nằm giữa 2 đường Tâm Đạo và Trí Đạo gọi là Hình Bốn Góc .
-Khu
vực nằm trong khoảng giao nhau giữa những đường Sanh Đạo, Trí Đạo và Trực Giác
gọi là hình Tam Giác Lớn .
-Góc
tiếp giáp của 2 đường Sanh Đạo và Trí Đạo là góc Tối Cao.
-Góc
tiếp giáp của 2 đường Trí Đạo và Trực Giác gọi là góc Trung Gian hay Góc Trái .
Góc còn lại nơi tiếp giáp giữa 2 đường SAnh Đạo và Trực Giác là Góc Hạ hay Góc
Nội, hoặc Góc Mặt .
-Khu
vực nằm trong khoảng giao nhau giữa những đường Trí Đạo, Định Mạng và Trực Giác
gọi là hình tam giác nhỏ .
Trước
hơn hết, chúng ta tìm hiểu về ni tấc của 1 bàn tay trung bình . Bàn tay gồm 2
mặt:
-
Mặt ngoài gọi là lưng bàn tay mà thông thường kêu là mu .
-
Mặt trong gọi là mặt bàn tay, hay gan bày tay cũng thế .
Lưng
bàn tay không có gì đáng nói, ngoại trừ hình thức và màu sắc, vì thế trong việc
tìm hiểu ni tấc lưng bàn tay không được đề cập đến .
Mặt
bàn tay hay gan bàn tay được chia thành 2 phần rõ rệt không đồng nhau:
1-
Lòng bàn tay được ghi nhận từ ngấn cườm tay đến chân ngón giữa .
2-
Các ngón gồm mỗi ngón 3 lóng: lóng thứ 1, lòng nhì, lóng 3; hay lóng có móng,
lóng giữa và lóng chót .
Chiều
dài của 1 lòng bàn tay trung bình được xác nhận là non 3/5 của chiều dài bàn
tay . Trong lúc đó, chiều dài ngón giữa cũng được xác nhận là già 2/5 của chiều
dài bàn tay .
Chiều
ngang bàn tay trung bình, như chúng ta đã biết về thể thức tìm chiều ngang,
được đo từ đầu đường sanh đạo qua rìa bàn tay, sẽ già hơn chiều dài ngón giữa 1
chút .
Về
chiều dài các ngón trong bàn tay trung bình, chúng ta được biết:
-
Ngón trỏ trung bình sẽ chấm dứt tại 1/3 đầu lóng có móng của ngón giữa .
-
Ngón út trung bình sẽ chấm dứt ở giữa lóng giữa của ngón giữa và ngang với mắt
phân chia lóng có móng tay và lóng giữa của ngón áp út .
-
Ngón cái trung bình sẽ chấm dứt ở giữa lóng chót của ngón trỏ .
-
Chiều dài các lóng đối với ngón tay, được xác nhận như sau, bất cứ ngón nào đều
như nhau:
+
Lóng có móng, 2.5 phần 10 của ngón tay .
+
Lóng giữa, 3.5 phần 10 ngón tay .
+
Lóng chót, 4 phần 10 của ngón tay .
Về
ni tấc của bàn tay, chúng ta được biết cùng 2 bàn tay của 1 người, ni tấc không
bao giờ đồng nhau, mà bàn tay mặt luôn luôn trội hơn bàn tay trái, dù nam hay
nữ .
Chúng
ta cũng được biết về phương diện phân tách bàn tay, bàn tay mặt được xem như sở
đắc hay kiến thức của người hay nói cách khác, là khả năng tiến thủ của người .
Bàn tay trái được xem như bẩm sinh hay thiên phú cũng thế, nghĩa là do định
mạng an bài . Dĩ nhiên đối với người thuận tay trái, ý nghĩa sẽ ngược lại.
A
- HÌNH THỨC BÀN TAY
Các
nhà giải phẫu bàn tay đều đồng ý, đối với người bạn gái, bàn tay được phân định
thành 4 loại rõ ràng như sau:
1
- Người trầm mặc
-
Bàn tay dày, mềm, ướt và lạnh .
-
Da trắng, thỉnh thoảng có những chấm hồng .
-
Lòng bàn tay rộng và mập, no đủ ở phần rìa bàn tay, nghĩa là thân dưới ngón út,
khu vực từ gò Thủy Tinh đến hết gò Thái Âm .
-
Ngón trắng và tròn trịa .
-
Ngón rộng, mềm và nhạt .
-
Hình thức chung: hình trái lê .
2
- Người hoạt động
-
Bàn tay dày, săn, ướt và nóng .
-
Da màu, có lông, nhứt là theo rìa bàn tay .
-
Lòng bàn tay rộng, nhiều thịt, gò Kim Tinh cũng như thân dưới ngón cái ở mu bàn
tay đều dày và săn .
-
Ngón ngắn và búp măng .
-
Móng cứng và hồng, phao có vết lưỡi liềm .
-
Hình thức chung: tròn, hột xoài hoặc lục giác .
3
- Người có óc thực hiện
-
Bàn tay săn, cứng, khô và nóng .
-
Da sạm, nám .
-
Lòng bàn tay ốm, gân guốc .
-
Ngón khá dài, mạnh, cứng, đầu vuông . Ngón cái, trỏ và giữa dài .
-
Móng chữ nhật và sậm .
-
Hình thức chung: chữ nhật .
4
- Người suy tư
-
Bàn tay dài, mỏng, lạnh và khô .
-
Da xám và muớt .
-
Lòng hẹp và xương .
-
Ngón dài, ốm, có mắt . Ngón út và áp út dài .
-
Móng dài, hẹp và ửng .
-
Hình thức chung: tam giác .
Ngoài
ra chúng ta còn có dịp để 2 sắc thái rõ rệt về bàn tay:
1-
Hoàn toàn nữ tính: tròn, hình nón, láng, lòng rộng, ngón hẹp, màu sắc lúc nào
cũng có cảm giác như mơn mởn .
2-
Hoàn toàn nam tính: đẹp, vuông, gân guốc, ngón rộng, nhiều lông.
B
- THÀNH PHẦN BÀN TAY
LÒNG
BÀN TAY
Lòng
bàn tay diễn tả đời sống vật chất, khả năng tình cảm và sinh hoạt sinh lý của
mỗi người . Khi lòng bàn tay và các ngón có chiều dài bằng nhau, người sẽ quân
bình cá tánh . Khi lòng bàn tay trội hơn, vật chất sẽ lãnh phần ưu thế . Khi
các ngón dài hơn, tinh thần sẽ ngự trị .
Lòng
bàn tay được chia thành 3 khu vực:
-
Khu vực rìa bàn tay biểu dương vật chất, tiêu cực .
-
Khu vực phía trong ngón cái, biểu dương sinh lực .
-
Khu vực bàn tay dưới ngón cái, biểu dương ý chí, khả năng .
CÁC
NGÓN TAY
Các
ngón tay diễn tả đời sống giao dịch, khả năng trí thức và sinh hoạt tinh thần
của mỗi người .
Ngón
cái và ngón trỏ biểu dương sự hoạt động của trí nào . Ngón áp út và út nói lên
sự thụ hưởng của não óc .
Bàn
tay sè (các ngón căng thẳng ra) chỉ định giá trị của người về tinh thần . Bàn
tay sè thật rộng, người sẽ có 1 kiến thức rộng rãi, thông minh, xét đoán và mau
lẹ .
Khoảng
cách giữa các ngón cũng nói lên giá trị đặc biệt, tùy theo khoảng rộng hay hẹp
khi các ngón sè thẳng ra . Đó là sự tiêu pha về mọi phương diện .
-
Khoảng cách giữa 2 ngón cái và trỏ mở ra rộng hay hẹp sẽ có ý nghĩa hoang phí
hay tiêu xài đúng mức . Từ 90 độ trở lên được coi như người có mức tiêu pha quá
độ .
-
Khoảng cách giữa 2 ngón trỏ và giữa chỉ định sự tiêu pha cho chính mình .
-
Khoảng cách giữa 2 ngón giữa và áp út chỉ định sự tiêu pha cho người khác .
-
Khoảng cách giữa 2 ngón áp út và út chỉ định sự tiêu pha cho nhu cầu tinh thần
.
Ở
mỗi đầu ngón tay đều có những chỉ nhỏ vận vào nhau, hình thức vận chuyển đều
đặc, gọi là khu ốc . Khu ốc biểu dương sự khéo léo, điều may mắn, nhứt là linh
tánh của 1 người trên mọi phương diện . Khu ốc đóng ở đầu ngón nào, giá trị sẽ
được quyết định theo ngón ấy .
Lật
úp bàn tay lại, ở chỗ giao nhau của các lóng, trên mu bàn tay, thỉnh thoảng
chúng ta thấy những nếp nhăn sâu đậm bám víu vào nhau như hình mắt, được gọi là
mắt tay . Những mắt tương tự mà chúng ta trông thấy ở mặt bàn tay đều vô nghĩa
nên sự nhận xét phải được ghi nhớ, để tránh sự đánh giá sai lầm .
Mắng
nằm chỗ giao nhau giữa lóng chót và lóng giữa được gọi là mắt duy vật . Mắt này
biểu dương khả năng kiến tạo, thực hiện, sáng tác ... có nghĩa là bất cứ hình
thức tinh vi nào của vật chất đều được biểu dương bằng mắt duy vật .
Mắt
nằm chỗ giao nhau giữa lóng giữa và lóng nhứt tức là lóng có móng tay, được đặt
tên là mắt triết lý . Như tên của nó, mắt triết lý khoa trương tất cả các khả
năng và hình thức tuyệt vời về tinh thần, chẳng hạn như óc nghiên cứu luận
chứng, về tâm linh, về thần học ... Nghĩa là trên phương diện tinh thần hay duy
tâm cũng thế .
Mắt
thứ 3 là mắt nằm tại gốc mỗi ngón tay, mắt này biểu dương cá tánh của người nội
trợ giỏi, tinh vi, tính toán thần tình, nên được gọi là mắt nội trợ . Những
người bạn gái khéo léo, hầu hết đều có mắt này .
Sau
những mắt tay, đến lóng tay .
Nghiên
cứu về giá trị lóng tay, chúng ta có 1 lập luận căn bản như thế này: càng lóng
giữa dài thêm đối với lóng chót, càng lót có móng dài thêm đối với lóng giữa,
người càng được sáng tỏ về mọi mặt: tiền, tình, danh vọng .
Về
giá trị riêng rẽ từng lóng, chúng ta có giá trị của mỗi lóng như sau:
-
Lóng 1, tức lóng có móng, diễn tả trí thông minh, khả năng sáng tác ... nghĩa
là sinh hoạt tinh thần .
-
Lóng 2, tức lóng giữa, diễn tả khả năng thu nhận thụ cảm ... nghĩa là sinh hoạt
tình cảm .
-
Lóng chót diễn tả khả năng thực hiện, phô trương ... nghĩa là khả năng vật
chất.
C
- GIÁ TRỊ TỔNG QUÁT CỦA BÀN TAY
1
- Khuôn khổ
Trong
1 bàn tay, khuôn khổ rất cần thiết trong sự dung hoà giá trị với các đường, các
gò và các ấn tượng . Phân tách 1 bàn tay mà quên nói đến khuôn khổ thì thật là
1 điều khiếm khuyết không thể phủ nhận .
Với
khuôn khổ, chúng ta có như sau: - Bàn tay trung bình, người hoà hoãn, đứng đắn
.
-
Bàn tay nhỏ, người dễ quên, bạt nhược .
-
Bàn tay to, người dễ kiếm địa vị .
-
Bàn tay ngắn, người dễ khích động, ham mê vật chất .
-
Bàn tay dài, người sống về tinh thần .
-
Bàn tay thật dài, người say mê thần thánh đến trở thành mê tín .
-
Bàn tay hẹp, người tỉ mỉ .
-
Bàn tay quá hẹp, người suy yếu .
-
Bàn tay rộng, người chịu hùn hạp, thích kết bạn .
-
Bàn tay thật rộng, người nhác nhúa, nhưng cộc cằn, thô lỗ .
-
Bàn tay mỏng, người tinh vi, tế nhị, dễ thương.
-
Bàn tay dày, người đa tình, say mê nhục dục .
-
Bàn tay mỏng và dài, người có tài ngoại giao .
-
Bàn tay thật dài và hẹp, người suy yếu về tinh thần lẫn vật chất .
2
- Hình thức
Hình
thức bàn tay là sự tròn, vuông hay nhọn ... của bàn tay . Nó cũng quan hệ không
kém về phần khuôn khổ .
Chúng
ta có:
-
Bàn tay tròn, người ham vật chất nhưng chỉ thích ở 1 chỗ .
-
Bàn tay to, người đần độn, vũ phu .
-
Bàn tay hình hột xoài, người thích di chuyển, nhạy cảm, dễ xúc động và hoàn
toàn nữ tính .
-
Bàn tay hình nón, người ưa vẻ đẹp, có khiếu thẩm mỹ, nhẹ dạ .
-
Bàn tay hình lục giác, người dễ khích động, ưa du ngoạn .
-
Bàn tay vuông, người có óc kiến tạo, ham chuộng sáng kiến .
-
Bàn tay chữ nhật, ngắn: người có nghị lực, ưa thực tế .
-
Bàn tay chữ nhật, trung bình: người hay khinh thường, hoàn toàn nam tính .
-
Bàn tay chữ nhật, dài, người dễ hờn giận .
-
Bàn tay chữa nhật, rộng và ngắn: người cục mịch, ham vật chất .
-
Bàn tay chữ nhật, rộng và dài: người hoang phí, ham hơn thua .
-
Bàn tay hình tam giác: người sống về tinh thần .
-
Bàn tay hình tam giác, ngắn: người trầm mặc, dễ khích động .
-
Bàn tay hình tam giác, dài: người dễ hờn giận, nhạy cảm, hay nản chí .
-
Bàn tay nhọn, người say mê thần học, mơ mộng, thơ ngây, thay đổi bất thường,
nhưng có trực giác .
-
Bàn tay gút mắt, người tò mò về tinh thần, hay tìm hiểu, nghiên cứu .
-
Bàn tay như mở ra, người khiêm tốn .
-
Bàn tay như khép lại, người ích kỷ .
3
- Sắc thái
-
Bàn tay trắng: người lãnh đạm, tiêu cực .
-
Bàn tay hơi đỏ: người dồi dào sinh lực, nóng nảy .
-
Bàn tay nhám, người tự phụ, hách dịch .
-
Bàn tay vàng, người dễ hờn giận .
-
Bàn tay xám xanh, người tham lam, hung bạo .
-
Bàn tay có chấm đỏ, người lạnh nhạt, thiếu hoạt động, kém khả năng về tinh thần
cũng như vật chất .
4
- Tình trạng
-
Bàn tay ốm, người tu tâm, linh tính nhưng đôi khi cũng tham vọng, biển lận .
-
Bàn tay nhiều thịt: người say mê vật chất, đa dâm .
-
Bàn tay mềm, người lười, thích im lặng .
-
Bàn tay mịn, người chín chắn, khôn lanh .
-
Bàn tay gân guốc, mịn: người có tài mê hoặc, khuyến dụ, sống động .
-
Bàn tay ướt thường xuyên, người trầm mặc, nhưng ham vật chất .
-
Bàn tay ướt giai đoạn, người dễ hờn giận, nhạy cảm .
-
Bàn tay khô, người sống về tinh thần, thiếu tình cảm .
-
Bàn tay lạnh, người suy tư .
-
Bàn tay nóng, người chủ thuyết, chủ quan .
-
Bàn tay có nếp nhăn, người nhân từ .
5
- Lông
Lông
ở bàn tay biểu dương cá tánh của con người, tiêu biểu cho sự hơn kém nhau về
tinh thần cũng như vật chất .
-
Bàn tay không lông, người suy nhược, hoàn toàn nữ tính .
-
Bàn tay có lông măng, người dễ cảm xúc, tao nhã .
-
Bàn tay có lông, người dồi dào sinh lực, hoàn toàn nam tính .
-
Bàn tay thật nhiều lông, người ham dâm dục .
-
Bàn tay ít lông, những vẫn có lông: người bồng bột, nhẹ dạ .
-
Bàn tay có lông dày, người dễ hờn giận, dễ khích động .
-
Bàn tay nhiều lông ở ngón, rất ghen tuông về tình ái .
-
Bàn tay có lông ỏ các lóng, người nam tính .
-
Bàn tay có lông ở ngón cái, người nhân từ, vị tha .
ĐỊNH
LUẬT TƯƠNG ĐỐI TRONG VIỆC PHÂN TÍCH BÀN TAY
Muốn
tìm hiểu giá trị bàn tay cho một người, để xác định cuộc đời của người ấy trên
các phương diện: tiền, tình, danh vọng, thân thế ... không những trong quá khứ
và hiện tại, mà còn trong tương lai nữa, thì việc nghiên cứu đơn thuần bàn tay
sẽ đưa đến sự sai lạc hoàn toàn .
Nói
một cách khác, muốn tìm hiểu cuộc đời của một người trong bàn tay, nếu chỉ xem
2 bàn tay suông chưa đủ mà phải áp dụng sự dung hoà về mọi mặt
1
- vóc dáng
2
- diện mạo
3
- bàn tay
4
- cử chỉ
5
- tiếng nói
Từng
ấy yếu tố kết hợp lại mới xét đoán đầy đủ giá trị ghi sẵn trong 2 bàn tay, nhứt
là bàn tay bạn gái lại càng cần thiết hơn.
Những
Mẫu Chữ Ký Thường Gặp
1.
Đường nét thanh thảng tự nhiên không công quẹo, rung rẩy . Ngập ngừng hay đứt
đoạn lệch lạc : Những chữ ký nào có nét ấy là những chữ ký của những người ngay
thẳng đàng hoàng , người cao quí và thường có tiền của . Những chữ ký này đôi
khi dễ đoán ra tên thật .
2.
Chữ ký có đường nét ngập ngừng, run , nhiều dấu móc , có vẻ chần chừ, rời rạc,
chậm chạp và nối với nhau bởi những đường nét vụng về là chữ ký chỉ rõ hạng
người không dứt khoát .
3.
Chữ ký có những đường nét vòng vo như khoanh lấy một số chữ là biểu hiện của
người dể bị phạm luật pháp , tù tội , vất vã .
4.
Chữ ký có những nét nhọn cắt nhau, nghiên đổ, có nhiều vòng tròn bao lấy và k
hông đều (to, nhỏ, không thẳng hàng ) thì đó là chữ ký của những người bệnh tâm
thần .
5.
Chữ ký có đường nét ngang ở trên và dưới . Ngoài ra các chữ nằm giữa 2 nét trên
dưới ấy có khi tạo thành một đoạn thẳng dọc xuống song song thì đây là mẫu chữ
ký của người có óc nhìn đời rất thực tê", biết làm ăn , vững chắc . Nếu là
đàn bà thì đây là mẫu chữ ký của người có óc nhìn đời rất thực tê" , biết
làm ăn vững chắc .
6.
Chữ ký của người có tay thương mại lớn , thức thời, khôn ngoan , hăng say làm
ăn và xa quê hươn g. Đây là chữ ký của người hoạt động suông sẽ, giàu thiện chí
, được nhiều người yêu thích . Người có mẫu chữ ký này thường được thành công
tốt đẹp trong lãnh vực công ăn việc làm , kể cả tình cảm . Nếu những vòng ấy
không được liên tục mà hở ra thì đây là mẫu người muốn vược ra khỏi vòng cương
toả, hay tự ý .
7
. Chữ ký mà những nét dọc chạy xuống cắt đường gạch dưới đít chữ ký là người bị
thất bại chua cay .
8.
Chữ ký có đường kéo xuống không cắt đường gạch dưới thường là chữ ký của người
có công ăn việc làm lưng chừng . Tâm tính cũng vậy . Hay bỏ lỡ cơ hội , khó đi
đến thành công .
9.
Chữ ký có nét ngang phía trên đầu (ngắn ) thì đây là người không nhất tâm , mau
thay lòng đổi dạ .
10.
Chữ ký của người hay bị cản trở, đau khổ, và bị kẻ dưới ganh ghét, hãm hại
thường có hai đường dọc thật ngă"n cắt lấy đườngang dưới .
11.
Chữ ký có sự thay đổi công ăn việc làm hay chấm dứt công việc . Cuộc đời không
xuông sẽ thường có dấu chấm chính giữa .
12.
Chừ ký có những đường nét lên xuống, to nhỏ không đều , không thẳng hàng : đây
là chữ ký của những người hay lo nghĩ , bồn chồn , hồi hợp .
13.
Chữ ký có dấu chấm phía trên : người có vấn đề tinh thần ảnh hưởng lớn lao
trong cuộc sống . Nếu cuối chữ ký có dấu chấm thì đó là dấu hiệu có sự cản trở
ngăn chặn . Nhưng chính bản thân người ấy cũng thường hay dứt khoát , chấp nhận
sự việc hay vấn đề một cách máy móc.
14.
Chữ ký như bị gạch bỏ, chỉ người hấp tấp , hay căm giận, ghét, tức tối, thần
kinh bị kích động , bị xáo trộn . Người hay tính chuyện trả đũa đối phương .
Nếu nét cuối chữ ký quay lại cắt ngang chữ ký thì đây là người hay thất vọng ,
chán đời , chua cay, khinh bỉ mọi sự đên độ gàn bướng
BÀN
TAY VÀ TÍNH TÌNH
Theo
khoa chỉ tay, đường sanh đạo biểu hiện cho sức khoẻ của mình, một đường sinh
đạo rõ sâu không dứt khúc là người khoẻ mạnh, ít khi bị đau ốm nạn tai, những
dấu hiệu bất thường trên đường sinh đạo như là lằn cắt ngang, đứt khúc, mờ
nhạt, xoắn dây thừng, tam giác, cù lao, phân nhánh đi xuống thường báo hiệu sự
đau ốm hay nạn tai trong cuộc đời, và cũng tuỳ theo vị trí của những dấu hiệu
này trên đường sanh đạo mà xét định khoảng thời gian độ tuổi xảy ra, trung bình
một đường sanh đạo dài bao hết gò kim tinh của ngón cái được tính là 60 tuổi.
Thế
nhưng xét đoán để biết qua được nạn tai hay đau ốm không, hoặc để được sống thọ
thì phải phối hợp thêm các yếu tố khác trong bàn tay đó là gò kim tinh, các
vòng cườm tay, màu sắc và thân nhiệt của lòng bàn tay nữa.
Đường
mạng đạo có người có, có người không, ý nghĩa thông thường là người có ý chí
mạnh, tự mình chủ động lấy cuộc sống và xây dựng sự nghiệp. Nếu đầu đường mạng
đạo phát xuất từ cườm tay thì có ý nghĩa là tự thân ra đời sớm không có nhờ cậy
gia đình của mình cũng như gia đình chồng.
Trường
hợp phát xuất hay dính liền với đường sanh đạo có ý nghĩa là nhờ gia đình cha
mẹ ruột giúp đỡ khi vào đời với nhiều may mắn. Trái lại phát xuất từ mép bàn
tay gọi là gò Thái âm có ý nghĩa làm nên sự nghiệp sau khi lập gia đình và có
sự hổ trợ của chồng, thế nhưng ở đây phải chú ý một điều nếu là ở bàn tay phải
thì có số nhờ chồng, nhưng nếu là bàn tay trái là số giúp chồng thành công chứ
bản thân của mình chưa hẳn đã thành cộng Nếu đường này sâu và thẳng là vận hạn
hanh thông, nếu mờ nhạt hay đứt khúc là bị gián đoạn hay thăng trầm sự nghiệp
tương ứng với thời gian ở vị trí đứt đoạn trong bàn tay.
Theo
khoa chỉ tay, một đường tâm đạo tốt thì phải rõ ràng sâu và không dứt khoảng,
đường tâm đạo càng dài thường có ý nghĩa thuỷ chung và đa tình. Nếu trện đường
tâm đạo nỗi lên những dấu hiệu đặc biệt như là cù lao có ý nghĩa tình tan vở
mang nhiều đau thương, thế nhưng có đường song song với đường tâm đạo là người
đa tình thường có nhiều cuộc tình trong một lúc thế nhưng tình yêu nhiếu chưa
phải là yếu tố tạo nên hạnh phúc mà phải xét đến những dấu hiệu đặc biệt khác
như đường hôn nhân và phần tâm đạo ở mép bàn tay.
Nếu
đầu đường tâm đạo này có nhiều nhánh chẻ ra như rễ cây là dấu hiệu mình phải
lấy người mà chưa yêu thương hay nói khác đi là rơi vào trường hợp HÔN NHÂN ĐI
TRƯỚC TÌNH YÊU nghĩa là do bạn bè hay thân nhân mai mối để lập gia đình sau đó
mới có sự cảm nhận trong tình yệu Ngoài ra cũng nên xét đến đường hôn nhân có
bền vững và hạnh phúc hay không thì phải dài sâu và không có chia nhánh, nếu
cũng trên đường này có những nháh song song nhỏ thì đó là dấu hiệu rõ ràng để
lập gia đình với người chưa thương yêu, để lại đằng sau nhiều kỷ niệm của người
bạn tình ngậm ngùi khóc thầm ngẩn ngơ theo xác pháo hồng.
Trái
lại, bàn tay cũng có đường chỉ (tâm đạo) nằm ngang, nhưng lòng bàn tay thì mềm
mại và các ngón tay cân đối, ngón tay cái dài, lóng thứ nhất của ngón cái vừa
dài lại vừa vuông, đầu ngón trỏ hơi vuông, ngón tay út dài, và đầu ngón cũng
hơi vuông - tướng người to béo, nước da trắng, pha đen, tiếng nói lớn và vang
vạng Người như vậy thường là những người có chí sưu tầm những gì tỉ mỉ, trầm
tĩnh, ít nói, nếu họ là bậc trí thức, thì họ có những đặc tài riêng, nhưng nhẹ
dạ và nhát gan. Nữ giới mà người nào có đường chỉ nằm ngang lòng bàn tay như
vậy là người hay hờn lẫy, và ghen tuông.
Tóm
lại, tất cả người nào có chỉ Tâm đạo nằm trọn ngang bàn tay thì họ là những
người quá hà tiện đến độ bần, và cũng thường có những chứng bệnh về bộ phận
tiêu hoá như ruột, dạ dày, hoặc yếu tim, phổi v.v.
Móng
tay
Giải
đoán móng tay có hiệu quả cao nhất là về mặt sinh lý và sức khoẻ, kế đến là
tính tình của người đó nhiều hơn là vận mệnh cuộc đời. Muốn giải đoán móng tay
nên chú ý 3 điểm đó là kích thước, hình dáng và màu sắc tự nhiên của nó (chứ
không phải là màu nước sơn móng tay). Điều chú ý trước tiên là chiều dài móng
tay tính từ phao trở ra tới mức móng tay còn dính vào da thịt như vậy phần móng
tay vượt ra ngoài da thịt không được tính kể cả móng tay giả.
-
Móng dài và hẹp là người thích phô trương nhưng rất mê tín
-
Trái lại móng dài và rộng là người giàu mộng tưởng, thích chuyện phiêu lưu tình
cạm
-
Móng rộng mà ngắn lại là người nói nhiều ngoài sự thật
-
Móng hình chử nhật là người năng động thích làm việc, hơi tham lam nhưng ít
sáng kiến
-
Móng vuông rộng đầu người đầy tự tin nhiều ý chí do vậy sức chịu đựng bền bỉ,
vì thế thường đưa đến kiêu căng tự phụ
-
Móng dẹp và tròn ưa lời nói ngọt thiếu tự tin nên ít khi tự mình quyết đóan
công việc
Nói
về màu sắc móng tay, màu đỏ là người nóng nảy bốc đồng, móng hồng tính cứng rắn
cương quyết, móng màu tai tái là người ích kỷ, nhu nhược, móng xám sức khoẻ
kém, móng màu tím về máu huyết không điều hòa.
Hình
dáng các bàn tay của Nam giới
Bàn
tay ngắn quá : nghĩa là bàn tay không cân đối với cánh tay, hay với một thân
hình to lớn quá. Cánh tay dài, hay thân hình to lớn thì phải có bàn tay dài hay
to thì mới tương xứng. Người có bàn tay ngắn quá, thì đó là dấu hiệu cho thấy
một con người có nhiều tánh tình lạ lùng, kỳ khôi, thường thì việc làm và lời
nói không đi đôi với nhau, nói một đường làm một nẻo, hoặc muốn làm khác người.
Bàn
tay dài quá, và ngón tay thì gút mắt, kẽ giữa các ngón tay thưa thớt, tướng cao
lêu khêu, miệng rộng, răng to, râu thưa : Bàn tay như thế, mà cộng thêm với
dáng người như vậy, thì đây là hạng người hay nói nhiều, nói dai, nhưng không
có cái gì ăn khớp với cái gì, và hay thù vặt.
Bàn
tay dài quá, mà ngón tay lại ngắn, thô kịch, có gút mắt, và ngón tay út cũng
quá ngắn : Ðây là hạng người nhẹ dạ, tính tình lại hay thay đổi và quá thiên về
vật chất, coi tiền bạc nặng hơn tình nghĩa, hay nói càng nói xiên chẳng vị nể
ai cả.
Bàn
tay đầy đặn và các đường chỉ tay rõ ràng không có những lằn cắt ngang dọc cộng
thêm với tướng người cao vừa vặn cân đối, khoẻ mạnh, mắt không bị lộ, đây là
tướng người có những đức tính tốt, trường thọ, phúc hậu, lời nói bao giờ cũng
được suy nghĩ trước khi nói, và phải có lý thì mới phát biểu, chứ không bạ đâu
nói đó, nói càng nói bậy.
Bàn
tay dài, lòng bàn tay hẹp, ngón tay không đều (ngón to ngón nhỏ, ngón mập ngón
ốm) cong quẹo, đầu ngón tay cái nhọn vót, móng tay cứng, những đường chỉ trong
lòng bàn tay không rõ ràng : ta đoán được những người như vậy có tính thái quá,
thiếu chừng mực trong mọi việc, bạ đâu vui đó, không thuỷ chung, có khi còn càn
bướng và láo khoét nữa.
Bàn
tay hơi vuông, đầu ngón tay cái và các ngón khác cũng hơi vuông, lòng bàn tay
cứng và có ba dường chỉ chính (Sanh đạo, Trí đạo, và Tâm) rõ ràng. Cộng thêm
ngón út dài, chiều dài của ngón út (mở bàn tay ra và khép các ngón tay lại) dài
hơn hai lóng của ngón áp út (ngón đeo nhẫn), đầu ngón út hơi tròn và có vành
cao lện Ðây là bàn tay của người siêng năng cần mẫn, việc làm rất chu đáo, biết
xắp xếp, điều hoà mọi việc, biết giữ lời hứa, ít nói, tánh tình ngay thẳng,
cương trực, đứng đắn, họ chịu đựng được môi hoàn cảnh của cuộc đời, cần kiệm,
sống lâu, ăn uống hay chưng diện không loè loẹt, đơn giản.
Bàn
tay với lòng bàn tay cứng dẽ, các ngón tay hơi ngắn, móng cứng, có chỉ Tâm đạo
xiả xuống giữa ngón trỏ và ngón giữa : đây là bàn tay của người có tánh lì lợm,
kỳ khộo ít chịu phục tùng ai bao giờ, dầu cho lý lẽ của họ có sai bét đi chăng
nữa, họ cũng không chịu thụa Vì sự cố chấp và cứng đầu của họ, nên cuộc đời họ
gặp nhiều sóng gió, nhiều lần suy xụp, đảo điện
Bàn
tay mà mỏng manh, ngón tay ngắn quá, lưng bàn tay xanh xao, da mặt cũng xanh
xao, răng thưa và hô, tướng ốm, tóc sợi nhỏ, lỗ mũi nhỏ và lộ xương, xương
cuống họng ló ra dài, người như vậy rất có thể mang chứng bệnh lao, và chết
yểu.
Bàn
tay vuông, các ngón tay cũng vuông, lòng bàn tay cứng de, có một đường chỉ (tâm
đạo) nằm vắt ngang bàn tay như chữ nhất (-) đây là bàn tay của những người tánh
tình nghêng ngang, hay gây sự, kiêu căng, phách lối, nhưng lại hay làm bộ hiền
lành. Phần nhiều những người này lại hay sợ ... vợ.
Trái
lại, bàn tay cũng có đường chỉ (tâm đạo) nằm ngang, nhưng lòng bàn tay thì mềm
mại và các ngón tay cân đối, ngón tay cái dài, lóng thứ nhất của ngón cái vừa
dài lại vừa vuông, đầu ngón trỏ hơi vuông, ngón tay út dài, và đầu ngón cũng
hơi vuông - tướng người to béo, nước da trắng, pha đen, tiếng nói lớn và vang
vạng Người như vậy thường là những người có chí sưu tầm những gì tỉ mỉ, trầm
tĩnh, ít nói, nếu họ là bậc trí thức, thì họ có những đặc tài riêng, nhưng nhẹ
dạ và nhát gan.
Nữ
giới mà người nào có đường chỉ nằm ngang lòng bàn tay như vậy là người hay hờn
lẫy, và ghen tuộng. Tóm lại, tất cả người nào có chỉ Tâm đạo nằm trọn ngang bàn
tay thì họ là những người quá hà tiện đến độ bần, và cũng thường có những chứng
bệnh về bộ phận tiêu hoá như ruột, dạ dày, hoặc yếu tim, phổi v.v.
DÁNG ĐI
Mỗi
người đều có tư thế đi của mình. Tuy tư thế này trên mức độ rất lớn là do hình
thể mỗi người khác nhau tạo nên, nhưng căn cứ vào bước đi, nhịp đi hoặc những
đặc điểm khác mà nói, cũng vì mọi người có tâm tính và bẩm sinh khác nhau nên
mơi có tư thế đi khác nhau. Có thể khẳng định rằng, tâm trạng, tính tình hoàn
toàn có thể thay đổi tư thế đi của một người. Khi nhịp đi của người đó nhanh
hơn bình thường, chúng ta có thể đoán rằng anh ta đang phấn khởi ; nếu một
người đi lang thang thì nhất định anh ta đang bị cú sốc nào đó ; nếu một người
đi hai vai rũ xuống, bước đi nặng nề thì khẳng đình trong lòng anh ta cũng đang
nặng trĩu.
Vậy
bước đi, nhịp đi hoặc tư thế đi cụ thể của một người trong giao tiếp thường
ngày đại biểu cho những đặc trưng tính cách và hàm nghĩa tâm lý cụ thể gì?
Dáng đi chữ bát: Đi chữ bát tức là
khi đi hai gót bàn chân hướng vào hai đầu bàn chân hướng ra thành hình chữ bát.
Khi đi tuy dùng lực, nhưng tỏ ra rất vội vàng, nửa thân trên hay lắc sang trái
sang phải. Dáng đi này có hàm nghĩa tâm lý và đặc trưng tính cách như sau:
-
Tính cách bảo thủ: Nói chung dáng đi
chữ bát không đẹp tí nào, nhưng vì họ đã quen đi như thế, điều đó chứng tỏ:
trong cuộc sống dù phát sinh sự việc gì họ cũng có thái độ chấp nhận. Họ không
dễ dàng thay đổi hành vi của mình.
-
Không thích giao tiếp: Về điểm này,
hiện nay vẫn chưa có một cách nói chuẩn xác, nhưng nhìn chung loại người này có
đầu óc thông minh: làm việc khoa học mà không ồn ào. Có thể vì đầu óc thông
minh nhưng tư thế đi không đẹp đã tạo cho họ thích kiểu đi lặng lẽ một mình này
Dáng đi lắc đảo: Dáng đi lắc đảo
tức là bước đi rất tuỳ tiện, nói chung không có quy luật cố định nào. Có lúc họ
đút hai tay trong túi, hai vai rụt lại mà đi; có lúc đánh tay thoải mái, ưỡn
ngực. Qua bước đi của loại người này ta có thể đoán biết được thế giới nội tâm
của họ như sau:
-
Tính cách hào phóng: Loại người này
có tính cách giống như cách đi của họ, rất hào phóng, không câu nệ tiểu tiết.
Xưa nay họ không vì những lời khen, chê của người khác mà thay đổi hành vi của
mình. " Đi theo cách của mình, ai nói gì kệ họ" là qui tắc hành động
của loại người này.
-
Mong muốn cao xa: Người đi kiểu này
nói chung rất thông minh. Họ có ý chí tạo dựng sự nghiệp, ước mong cao xa.
Nhưng nhược điểm là có lúc quá đề cao vai trò của mình, vì thế mà hay tranh
chấp, đặc biệt trong trường hợp họ có lý thì không dễ gì nhường nhịn người
khác.
Đi có tiếng dội: Đi có tiếng dội
tức là chân đặt lên đất có tiếng kêu, khi đi ưỡn ngực, bước đi hơi nhanh. Người
đi kiểu này có những hàm nghĩa tâm lý và đặc điểm tính cách sau:
-
Giàu chí tiến thủ: Loại người này
giàu chí tiến thủ. Tính cách giống như bước đi, cho người khác thấy rõ bản
thân, họ thường không dấu giếm khuyết điểm của mình. Làm việc gì cũng đều coi
trọng kết hợp giữa lý trí và tình cảm.
-
Đầu óc tản mạn: Người đi kiểu này, có
một số người tinh thần tản mạn. Tuy trong lòng ôm ấp chí lớn, nhưng không chủ
động tiến thoái mà thường có thái độ "đã thế thì đành sống thế".
Dáng đi thẳng: Dáng đi thẳng tức
là khi đi chân và tay song song nhau, người không lắc đảo, gây cho người khác
cảm giác họ có tác phong nho nhã. Người đi kiểu này có tính cách hướng nội điển
hình. Nói chung loại người này nhút nhát, bảo thủ, thiếu ý chí rộng lớn. Điều
đáng nói là gặp việc họ thường bình tĩnh, không dễ cáu giận. Cho nên họ giao
tiếp tốt với người khác.
Dáng xung phong: Thông qua tên gọi
chúng ta cũng có thể tưởng tượng được dáng đi tiên phong là: bước chân nhanh,
không lùi, cho dù chỗ chen chúc đông người hay chỗ yên tĩnh, vắng lặng. Loại
người này khẳng định có tính cách nóng vội. Họ thẳng thắn, bộc bạch, thích giao
kết bạn bè, ham nói chuyện, tuy nhiên tính cách nóng vội. Điều khiến người khác
yên tâm là họ không làm sai lời hẹn.
Dáng đi song song: Dáng đi song song
tức là chân bước chậm, giống như sợ trước mặt có hố sâu bất ngờ. Loại người này
tính cách khá nhu nhược. Khi gặp việc thường đo trước đắn sau. Nhưng loại người
này có cái tốt là nặng về tình cảm, có thể chọn làm bạn.
Dáng vừa đi vừa xem: Vừa đi vừa xem
tức là dáng đi chậm chạp, thỉnh thoảng nhìn sang phải, ngó sang trái. Người đi
kiểu này có hàm nghĩa tâm lý và đặc điểm tính cách sau:
-
Không có chí lớn: Loại người này điển
hình là không có chí lớn. Họ thích sống đơn độc. Đặc điểm nổi bật của họ là
không thích giao tiếp bạn bè, hiệu suất công tác thấp.
-
Ngưỡng mộ hư vinh: Trong cuộc sống
hiện thực, loại người này thường hay ngưỡng mộ những điều xa xôi, không làm
việc một cách chắc chắn, thực sự. Tuy họ có tính hiếu kỳ, nhưng đáng tiếc là
không có tính kiên nhẫn, thiếu ý chí bền bỉ. Loại người này trong cuộc sống ít
thành công.
Đi treo chân: Đi treo chân tức
là đi như nhảy, hầu như gót chân không chạm đất. Người đi kiểu này có đặc trưng
hàm nghĩa tâm lý sau:
-
Làm việc không chắc chắn: Tính cách
loại người này giống như tư thế đi : trôi nổi, không có lực. Làm việc không
chắc chắn. Tuy trong cuộc sống họ gặp được dịp tốt nhưng đều bỏ lỡ trong sự vội
vàng, cập rập.
-
Tính tình không ổn định: Loại người
đi như thế thường là người rất thông minh, nhưng ý chí bạc nhược, tính tình
không ổn định. Họ thường làm việc đầu voi đuôi chuột một cách không tự giác, vì
vậy dễ mất tín nhiệm đối với người khác.
*
Dáng đi lay người: Tư thế đi lay động, lắc lư như cây liễu gặp gió, trong mệnh
tướng học cổ gọi là "rắn bò". Tư thế đi này có những đặc điểm tính
cách sau.
-
Hay giả vờ: Người đi như thế hay làm
vẻ giả vờ. Họ làm việc nói chung không có tinh thần trách nhiệm.
-
Độ tin cậy thấp: Người đi kiểu này
phần nhiều gian trá. Cho dù là làm việc hay trong giao tiếp đều gây cho người
khác cảm giác khó tin cậy. Làm bạn với loại người này phải rất cẩn thận, nếu
không dễ bị thiệt
Dáng đi lang thang: Dáng đi lang
thang tức là bước đi thất thểu, lúc lên trước, lúc như lùi về sau. Loại người
này thường là người sôi nổi. Đặc trưng tính cách của họ là ý chí bạc nhược, làm
việc cẩu thả, vô ý. Tuy họ an phận giữ mình, nhưng cũng có quy tắc nhất định.
Tuy tư tưởng đơn giản, nhưng làm việc cũng thường kín đáo.
Dáng đi chắp tay sau lưng: Người đi kiểu này
có hàm nghĩa tâm lý sau:
-
Tính cách ôn hoà, hơi có thành tích:
Loại người này trong sự nghiệp có những thành đạt nhất định. Nói chung tính
cách của họ tương đối ôn hoà. Tư thế đi thể hiện lòng họ như cảm thấy tự mãn và
thoải mái sau khi đã đạt được thành tích nào đó.
-
Thích làm thầy người khác: Người đi
theo tư thế này còn có ý thích làm thầy người khác. Vì dáng đi chắp tay sau
lưng thường để lại cho người ta ấn tượng là người tự cao tự đại, loại người này
quả thực đúng như thế.
Dạng đi cúi đầu: Đi cúi đầu tức là
khi đi đường đầu hơi cúi xuống, chân bước chậm. Người đi kiểu này có đặc điểm
tính cách và tâm lý sau:
-
Tính cách hướng nội: Loại người này
tính cách hướng nội, ngoài đời thường không chủ động, cho nên ít bạn tri âm.
-
Suy nghĩ sâu sắc: Loại người này suy
nghĩ chu đáo. Tục ngữ có câu: "Ngửa mặt là bà già, cúi đầu là hảo
hán", hảo hán đây chính là loại người này. Nói chung họ không muốn nhìn
trực diện vào người khác và cũng không muốn người khác nhìn thấu tâm can mình,
cho nên họ thường hay cúi đầu.
Dáng đi vội vàng: Dáng đi vội vàng
tức là khi đi đường chân bước vội vàng, bước chân nặng nhưng không loạn nhịp.
Người đi như thế có đặc điểm tính cách cởi mở, bụng thẳng miệng nhanh, có tài
nǎng lãnh đạo. Nhưng có lúc vì tính tùy tiện của mình mà làm tổn thương đến
người khác.
Dáng đi tự mãn: Dáng đi tự mãn
tức là khi đi đường mặt hơi nâng lên, nhịp tay vung vẩy thoải mái, hai chân hơi
cứng, bước đi thận trọng. Người có dáng đi như thế có đặc điểm tự cao tự đại
điển hình. Dáng đi đó phản ánh chân thật thế giới nội tâm. Họ muốn thông qua
cách đi đó để gây ấn tượng sâu sắc cho người khác.
Dáng đi như vác nặng: Dáng đi như vác
nặng có tư thế điển hình sau: hai vai hơi nhô lên, đầu hơi chúi về phía trước,
mắt như nhìn xuống chân. Người đi đường như thế có các đặc điểm tính cách, tâm
lý sau.
-
Tự ý thức về mình sâu sắc: Loại người
này tự ý thức mạnh mẽ. Nói chung họ ngưỡng mộ hư vinh. Ngoài đời họ quá tự tin,
hay ǎn to nói lớn, dễ mắc lỗi nên thiếu bạn tri âm.
-
Cô độc và đau khổ: Người đi đường với
tư thế ấy vì không nhìn thẳng vào cuộc đời cho nên cũng không nhìn thẳng vào
mình, thường rơi vào hoàn cảnh cô độc và đau khổ.
Dáng đi còng lưng: Dáng đi còng lưng
điển hình là nửa thân trên hơi hướng về phiá trước, để bảo đảm cho mắt nhìn
được xa hơn thì phải ngẩng mặt lên. Người có kiểu đi như thế thường có đặc điểm
tính cách và tâm lý sau:
-
Không có lý tưởng cao xa: Loại người
này nói chung không có lý tưởng rộng lớn, đối với tương lai cũng ít hy vọng,
đối với chung quanh thiếu nhận thức tỉnh táo.
-
Mơ màng, hồ đồ: Loại người này đối
với mọi việc chung quanh thường có thái độ bi quan, thất vọng. Làm việc gì cũng
không có kế hoạch chu đáo. Họ thường làm theo cảm tính, suốt ngày sống một cách
hồ đồ.
Đi từ từ chậm chạp: Dáng đi từ từ
chậm chạp là tư thế đi : miệng hơi mở, hai tay buông thõng, tuy mắt nhìn phía
trước nhưng nhãn thần bất định, tỏ ra rất mơ màng. Người đi như thế thường có
đặc điểm tính cách và tâm lý sau.
-
Đù đờ như người nộm: Loại người này
điển hình là đù đờ không có hồn. Họ thường để lại cho người khác ấn tượng không
có sinh khí, thiếu sức sống, đối với mọi việc chung quanh thờ ơ, không quan
tâm, đồng thời thiếu khả nǎng ứng phó khi gặp sự biến.
-
Có sức mạnh tích tụ: Người đi đường
như thế nội tâm tiềm tàng nǎng lượng tích tụ. Có lúc nguồn nǎng lượng này vì
một nguyên nhân nào đó mà được giải phóng ra một cách bột phát mạnh mẽ. Nhưng
điều không thể hiểu nổi là sau khi bột phát, họ lại trở về trạng thái ban đầu
như chưa hề xảy ra việc gì
Dáng đi điệu đài các: Dáng đi điệu đài
các là tư thế đi : hai vai như nhô lên do thở mạnh, nửa thân trên dùng lực
gưỡng gạo. Người có dáng đi như thế thường có các đặc điểm tính cách và hàm
nghĩa tâm lý sau:
-
Bụng dạ hẹp hòi: Khí chất của loại
người này thường hẹp hòi, ý chí bạc nhược, muốn sống đơn độc.
-
Hư trương thanh thế: Loại người này
thường hy vọng dựa vào sức mạnh của người khác hay tập thể để thể hiện mình.
Bản thân họ không có bản lĩnh gì đáng kể, nhưng lại muốn núp dưới bóng của
người khác mạnh hơn để đạt được mục đích "sói mượn oai hùm".
Dáng đi quay đầu lại: Điển hình của
dáng đi quay đầu lại là lúc đi, không phải quên cái gì, cũng không phải chia
tay với người thân, càng không phải như đang tìm một vật gì đó nhưng vẫn thỉnh
thoảng quay đầu lại nhìn. Người có kiểu đi này có đặc điểm tính cách và tâm lý
sau:
-
Lưu luyến quá khứ: Đặc trưng tính
cách của loại người này là thường nhớ lại quá khứ. Vì họ luôn nhớ đến từng kỉ
niệm xưa nên đi đường hay quay đầu lại.
-
Tính cách cố chấp: Loại người này có
tính cách cố chấp. Nói chung họ rất khó tiếp thu sự phê bình và chê trách của
người khác
----------
Hết.
0 comments:
Đăng nhận xét