DƯƠNG
THU HƯƠNG
NGƯỜI
ĐI GIỮA 2 LÀN ĐẠN
Không
hiểu thế quái nào, từ những thập niên cuối của thế kỷ hai mươi đến
nay, văn chương đất Việt, lại mắc phải chứng bệnh lệch pha. Âm phần
thịnh vượng khí xung. Dương phần sợ gió máy, đụng chạm chướng khí,
đâm ra lại còi cọc. Điều này, càng rõ ràng hơn, ngay sau khi ông Tổng
bí thư Nguyễn Văn Linh hứa hẹn cởi trói, bóc keo dán miệng cho văn
nghệ sỹ. Chúng ta thấy, đã xuất hiện một loạt tên tuổi của những
văn nhân, nữ sĩ, từ Dương Thu Hương, Võ Thị Hảo, đến Phạm Thị Hoài…
Sự can đảm, tiếp nối nhau ấy của họ, tuy ở những mức độ khác nhau,
nhưng đã góp phần không nhỏ, cho sự hồi sinh dòng văn học hiện thực
phê phán.
Cho
đến tận hôm nay, vẫn có những ý kiến, đôi lúc còn khác nhau, nhưng
có lẽ, không ai có thể phủ nhận, nhà văn Dương Thu Hương là người đã
bập nhát cuốc đầu tiên, khơi thông dòng chảy này.
Có một giai điệu lạ, lạc ra khỏi trong
dàn đồng ca ấy.
Tôi
không rõ, chính ông Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, hay văn kiện của Đảng,
hoặc ai đó đã viết: TBT Nguyễn Văn Linh kêu gọi, hãy cởi trói cho các
văn nghệ sĩ. (Như vậy, có sự khẳng định, từ trước đến nay, các văn
nghệ sĩ đã bị trói tay, bịt miệng) Câu văn này, đã được nhắc lại
nhiều lần, trong bài viết của các giáo sư, các nhà ngôn ngữ học và
từ cả các văn nghệ sĩ ở trong nước. Đọc nó, tôi thấy rất mâu thuẫn
và dường như có một chút hề hề. Bởi, đảng Cộng sản là đảng cầm
quyền. Từ trước đến nay, chính Đảng (mới đủ khả năng) trói tay, bịt
miệng các văn nghệ sỹ và kiểm duyệt sách báo. Vậy, ông TBT đứng đầu
đảng kêu gọi ai, cởi trói cho các văn nghệ sĩ? Khi chính ông thắt và
đang cầm cái dây đó. Hay ông đang kêu gọi chính ông? Người bình thường,
không ai, làm một công việc kỳ quái như vậy.
Vâng!
Một lời kêu gọi, rặt tính vờ vịt, vô trách nhiệm, chạy tội này,
không hiểu các giới trí thức trong nước, có suy nghĩ gì, khi sử dụng
câu văn này?
Phải
nói, đây là thời kỳ khởi sắc nhất của văn học trong nước, kể từ sau
Nhân Văn- Giai Phẩm. Một loạt tên tuổi nhà văn và các tác phẩm của
họ, đã tách hẳn ra khỏi dàn đồng ca, tụng ca, tìm một hướng đi,
cách viết mới, rửa lại bộ mặt nhem nhuốc cho nền văn học trong nước.
Những Thân Phận Tình Yêu (Nỗi Buồn Chiến Tranh) của Bảo Ninh, Tướng
Về Hưu của Nguyễn Huy Thiệp…gắn liền với tên tuổi của bà đỡ Nguyên
Ngọc. Thiết nghĩ, dù có đổi mới, có cởi trói cho văn nghệ sĩ, nhưng
nếu không có Nguyên Ngọc, khao khát cái mới của người đọc ở thời điểm
ấy, thì những tác phẩm trên chưa chắc đã thành công đến như vậy.
Bởi, đến nay, có nhiều tác phẩm, xét về nghệ thuật cũng như nội
dung, không hề thua kém Nỗi Buồn Chiến Tranh, hay Tướng Về Hưu, nhưng
lại không được công kênh, chào đón nồng hậu như vậy, vì thiếu địa
lợi, vắng nhân hòa và bàn tay bà đỡ như Nguyên Ngọc. Qủa thực, văn
chương thơ phú, cũng như con người, đều có số phận của nó.
Khi
các nữ sĩ Dương Thu Hương, Võ Thị Hảo, Phạm Thị Hoài…vẫn đủ can đảm
và nội lực viết thẳng tưng về những vấn đề nhức nhối nhất của xã
hội, con người, thì các đấng văn nhân dường như, ngòi đã bị xì, bị
tịt. Người đọc, chờ cuốn tiểu thuyết kế tiếp của Bảo Ninh, đến nay,
đã một phần tư thế kỷ, nhưng vẫn thấy tít tắp mù xa. Nguyễn Huy
Thiệp lại chuyển sang (gam) truyện dài, tiểu thuyết lịch sử, nhưng anh
đã thất bại, về cả nội dung, tư tưởng lẫn nghệ thuật viết. Gần đây,
nghe nói, anh tuyên bố, rửa tay gác bút.
Thật
là buồn thay! Các nhà văn thuở ấy, hồn khí ở nơi đâu bây giờ?
Nhà
văn Dương Thu Hương, sinh năm 1947 tại Thái Bình, chị đã có những năm
tháng dài là người lính, ở mặt trận ác liệt Bình Trị Thiên. Rất
may mắn, chị còn sống và trở về, sau chiến tranh. Giải ngũ, chị vào
học trường viết văn Nguyễn Du và làm việc trong ngành điện ảnh. Và
từ đây, chị chuyên tâm, và hoàn toàn dấn thân vào con đường văn chương
đầy khổ ải này.
Có
thể nói, trong chiến tranh, Dương Thu Hương đã mờ mờ nhận ra, không
riêng thế hệ chị, mà cả một dân tộc bị dối lừa. Nhưng chỉ đến khi,
kết thúc cuộc chiến, chị mới nhận thức được rõ ràng, đầy đủ. Đắng
cay là như vậy, nhưng dường như, Dương Thu Hương đã kịp kìm lại nỗi đau
ấy. Sự dồn nén, đợi chờ đó, nó chỉ phát nổ và cháy lên, khi chị
đã có một chỗ đứng, và trở thành nhà văn Dương Thu Hương nổi tiếng.
Thật
vậy, những bài văn chính luận, những trang sách hiện thực phê phán
của chị đã phơi trần những sự thật, từ cung đình xuống đến đời
sống dân cày. Để từ đó, Dương Thu Hương đã xổ toẹt Đảng, ly dị hội
nhà văn. Và cánh cổng nhà tù, đã mở ra cho chị từ đây…
Có
một số nhà văn, nhà nghiên cứu cho rằng, những tác phẩm của Dương Thu
Hương gây tiếng vang và đọng lại trong lòng người, phần nhiều do chính
trị. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, chị đã đứng hẳn về phía
nhân dân để viết. Và chính sự thật trong những cuốn sách của chị,
đã mở cửa, cho độc giả nước ngoài, tiếp cận và hiểu đúng về văn
học Việt, cũng như nỗi thống khổ của con người. Từ đó, làm tên tuổi
của chị gần gũi, và được người đọc trong, ngoài nước yêu mến nhiều
hơn, là lẽ đương nhiên.
Tuy
đến với văn chương hơi muộn, nhưng Dương Thu Hương viết nhanh và khỏe.
Kể từ năm 1980, đến những năm cuối thập niên chín mươi, dường như năm
nào chị cũng ra sách. Đặc biệt, năm 1985, chị cho in ba, bốn tập
truyện ngắn và tiểu thuyết. Viết nhanh và khỏe như vậy, nhưng có thể
nói, tập truyện nào của Dương Thu Hương cũng hay, nhiều người tìm
đọc, kể cả những truyện ngắn đầu tay. Tư tưởng, cách viết của chị
đã vượt ra khỏi cái dàn đồng ca, tụng ca ấy. Và cũng chính nó, đã
xé toạc bóng tối của đời sống con người, xã hội, mà bấy lâu nay
người ta cố tình che đậy. Thật vậy, nếu văn chương không đi thẳng vào
đời sống xã hội, một cách trung thực nhất, thì nó chỉ là những
trang viết chết.
Nếu
như được phép lựa chọn, những cuốn sách đại diện cho sự nghiệp văn
chương của Dương Thu Hương, thì chắc chắn, tôi sẽ nghĩ đến tiểu thuyết
Những Thiên Đường Mù và tập truyện Chân Dung Hàng Xóm. Đây là hai
cuốn sách điển hình về tư tưởng, nghệ thuật viết truyện của chị.
Nhưng nhìn từ góc độ khác, Tiểu Thuyết Vô Đề (Khải Hoàn Môn), lại là
cuốn sách tôi thích hơn cả. Bởi Dương Thu Hương rất can đảm, đánh giá
lại, đưa ra cái nhìn rất mới về chiến tranh, ngoài ra còn nhiều chi
tiết, tình huống phức tạp, dễ gây tranh luận với lối hành văn nhanh,
sinh động, khác với cách viết thông thường của chị.
Nhà văn phản kháng - Sự phản kháng
trong văn chương
Cùng
với Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh, Tháng Ba Gãy Súng của Cao Xuân
Huy, Tiểu Thuyết Vô Đề là cuốn sách viết về chiến tranh hay nhất mà
tôi đã được đọc. Có thể nói, Tiểu Thuyết Vô Đề là cuốn tự truyện
trong tiểu thuyết, mổ xẻ tâm lý người lính, trước sự tàn nhẫn man
rợ của chiến tranh. Cuốn sách này, được xuất bản ở Hoa Kỳ vào mùa
hè năm 1991, khi Dương Thu Hương đang ngồi tù ở Việt Nam. Đặt bút viết
Tiểu Thuyết Vô Đề, chắc chắn, chị đã lường trước được áp lực không
chỉ của chính quyền trong nước, mà còn cả phần đông người Việt ở
nước ngoài. Nhưng chị đã vượt qua cả hai làn đạn ấy, để có một tác
phẩm văn học, hay đến như vậy. Thì quả thật, làm cho người đọc không
chỉ yêu mến tài năng, mà còn cảm phục, tinh thần, lòng dũng cảm của
chị.
Có
thể nói, khuynh hướng mới, tự truyện trong tiểu thuyết gần đây, đã
cho người đọc hiểu được tác giả và cuộc sống, thời đại đó, soi rọi
qua chính những tình tiết, gắn liền cuộc đời hay những trải nghiệm
thật của họ. Tiểu Thuyết Vô Đề cũng vậy, nhà văn Dương Thu Hương, đã
dùng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, thay cho Quân, thuật lại thân
phận, cuộc đời người lính chiến. Tư tưởng, cảm xúc của tác giả,
được thông qua sự hồi tưởng, hành động nhân vật, bằng thủ pháp bẻ
đôi câu chuyện, cắt ngang cuộc đời Quân. Và lời tự thuật của người
lính, được bắt đầu từ nhát cắt ấy.
Ngay
những dòng đầu tiên, Dương Thu Hương đã dẫn người đọc vào cận cảnh
rùng rợn của cuộc chiến. Dù không có tiếng bom rơi, đạn nổ, nhưng ta
đã cảm được cái chết ở đâu đó, hoặc nó đang đến rất gần: “ Suốt
đêm tôi nghe gió hú ngoài vực cô hồn.
Tiếng
rên rỉ triền miên, tiếng nức nở, đôi lúc tiếng rít hỗn hào như ngựa cái hí ngày
động cỡn. Mái lán rung bần bật, những ống tre nứt thổi sáo từng hồi, tấu lên
giai điệu thê lương của đám tang vùng thôn dã. Cây đèn chai của chúng tôi phập
phù như muốn tắt. Tôi thò cổ khỏi chăn, thổi tắt ngọn lửa, mong bóng đêm sẽ bịt
hết mọi giác quan…“ (chương1)
Vâng!
Đó là cái chết tang thương của sáu cô gái ở binh trạm hay thanh niên
xung phong, người miền Bắc, mà tác giả cho rằng, (có thể) do những
người lính thám báo Việt Nam Cộng Hòa gây ra. Chi tiết này, gây ra phản
ứng, tranh cãi cho người đọc, nhất là những người lính Việt Nam Cộng
Hòa. Như có lần tôi đã viết, là người sinh sau đẻ muộn, rất may, tôi
không phải tham gia, cuộc chiến huynh đệ tương tàn, đẫm máu và nước
mắt này. Nhưng đọc và nghe, tôi cảm được quân kỷ, cũng như phẩm chất
của người thám kích nói riêng và người lính Việt Nam Cộng Hòa nói
chung. Cho nên, đến lúc ngồi viết những dòng chữ này, tôi vẫn không
tin, hành động dã man bỉ ổi đó, do một số người lính thám báo gây
ra. Nhưng, đọc Tháng Ba Gãy Súng của người sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa Cao
Xuân Huy, viết về hành động giết chính đồng đội mình, của lính thủy
quân lục chiến, rồi quăng xác xuống biển, chỉ vì chỗ ngồi trên tàu,
khi di tản, rút chạy, làm tôi thấy khó hiểu. Buộc tôi phải hoài nghi:
Sự quân kỷ của lính thám báo Việt Nam Cộng Hòa, có lẽ, nó lại nằm
trong cái (xác suất) số dư như trong toán học chăng?
Sự
giết chết đồng đội của nhóm lính thủy quân lục chiến, giữa chốn
đông người, tôi cho rằng, còn dã man, tàn bạo hơn nhiều lần, so với
những kẻ đã giết 6 nữ thanh niên xung phong, là người của phía bên
kia.
Tôi
hoàn toàn, không tìm ra lời giải đáp. Và tôi chỉ còn có thể an ủi
mình: Chiến tranh điều gì cũng có thể xảy ra.
Vâng!
Chúng ta nghĩ gì? Khi đọc đoạn trích hồi ký dưới đây:
“…Chưa
kịp tìm chỗ ngồi, tôi nghe một tiếng súng nổ.
Hai
người lính Thủy Quân Lục Chiến cúi xuống khiêng xác một người lính Bộ Binh vừa
bị bắn chết ném xuống biển. Một người lính Thủy Quân Lục Chiến khác đang gí
súng vào đầu một trung úy Bộ Binh ra lệnh:
“Ðụ
mẹ, có xuống không?”
“Tôi
lạy anh, anh cho tôi đi theo với.”
“Ðụ
mẹ, tao đếm tới ba, không nhảy xuống biển tao bắn.”
“Tôi
lạy anh mà, tôi đâu có gia đình ở ngoài này.”
“Ðụ
mẹ, một.”
“Tôi
lạy anh mà, anh đừng bắt tôi ở lại, anh muốn lạy bao nhiêu cái tôi cũng lạy
hết. Tôi lạy anh, tôi lạy anh.”
“Ðụ
mẹ, hai.”
“Trời
đất, mình đồng đội với nhau mà, anh không thương gì tôi hết. Tôi lạy anh mà.”
“Ðụ
mẹ, ba.”
Tiếng
ba vừa dứt, tiếng súng nổ.
Người
trung úy Bộ Binh ngã bật ngửa ra, mặt còn giữ nguyên nét kinh hoàng. Viên đạn
M-16 chui vào từ đỉnh đầu. Xác của anh ta được hai người lính Thủy Quân Lục
Chiến khác khiêng ném xuống biển.
Tên
lính vừa bắn người thản nhiên tiếp tục chĩa súng vào đầu một thiếu tá Bộ Binh
đang sợ hãi nằm mọp người ở cạnh đó, mặt lạnh băng đầy sát khí:
“Ðụ
mẹ, tới thằng này, mày có xuống không?”
Ông
thiếu tá Bộ Binh này hơi lớn tuổi, mặt cắt không còn hột máu, run lên cầm cập,
năn nỉ:
“Anh
tha cho em, anh tha cho em.”
“Ðụ
mẹ, một….” (Tháng ba gãy súng –chương 5- Cao Xuân Huy)
Vâng!
Tôi cũng định dừng sự việc đau đớn này ở đây, bởi tình tiết trên,
không phải là điều chính, tôi muốn viết, muốn bàn trong bài này.
Nhưng trời đã về khuya, màn đêm dày đặc trước ô cửa, không có gió,
mà lòng cứ thấy nao xao, buộc tôi phải bật dậy. Tôi ngồi, viết những
suy nghĩ của mình, gửi cho hai người anh văn chương lớn tuổi. Các anh
là sĩ quan cấp tá quân đội Việt Nam Cộng Hòa, đều chỉ huy trung đoàn
ngoài mặt trận. Rất may, cả hai anh đều viết, trả lời những thắc
mắc, suy nghĩ của tôi. Tuy nhiên, là kẻ hậu bối, tôi không dám, không
đủ khả năng kết luận đúng sai. Nhưng khi đi sâu vào phân tích Tiểu
Thuyết Vô Đề, tôi giữ nguyên những tình tiết vốn có trong tác phẩm.
Và
cũng xin phép các anh, tôi đưa nguyên văn bức thư ấy lên đây, để bạn
đọc tự suy xét, có đánh giá của riêng mình vậy:
“1/-
Lính thám báo (biệt kích) hầu hết đều được chọn lựa rất kỹ càng, sau đó cũng
phải trải qua một thời kỳ huấn luyện nghiêm khắc. Không phài chỉ có khả năng
tác chiến, mưu sinh giỏi mà quan trọng là tinh thần kỷ luật rất cao. Tất cả đều
đáng tin cẩn. Vì các toán thám báo hoạt động đơn độc và hầu hết trong các công
tác thật nguy hiểm, nếu không có kỷ luật, họ sẽ không thi hành nghiêm chỉnh
mệnh lệnh của cấp chỉ huy, nhất là trong tình trạng sinh tử. Vì vậy, việc nhà
văn Bảo Ninh (hay là Dương Thu Hương) kể về hành động của thám báo (biệt kích)
trong các tác phẩm của họ, dưới con mắt của người lính miền Nam, sẽ trở nên
quá cường điệu, nếu không nói là … không thể.
Điều
nên nhớ là nhiệm vụ chính của lính thám báo hay biệt kích là đột nhập (âm thầm)
vào vùng địch để ghi nhận tin tức, tình hình của quân địch, hay bắt sống địch
mang về khai thác. Chỉ nổ súng khi thực sự cần tự vệ (nếu bị phát hiện), và
nhanh chóng phân tán, tìm mọi cách thoát ra khỏi vùng địch. Với họ, nổ súng là
điều tối kỵ và bất lợi nhất. Như vậy các sự kiện (theo Bảo Ninh và Dương Thu
Hương) kể: các thám báo bắt địch quân (lính gái hay Thanh niên xung phong) tra
khảo, hảm hiếp …(nhẫn nha ngay trong lòng địch một thời gian khá dài) là điều
không đúng !
2/-
Về chuyện đám lính TQLC bắn giết các quân nhân không cùng binh chủng trên các
tàu di tản từ Đà Nẵng (theo Tháng Ba Gãy Súng của Cao Xuân Huy) là chuyện có thật.
Là một vết nhơ đáng lên án. Nhưng bản chất sự việc khác hẳn với chuyện Thám
Báo.
Vì
đám lính này thuộc loại vô kỷ luật. (Có nhiều thanh niên du đãng, phạm pháp,
sau thời gian thụ xong án, cũng được đưa vào lính, bổ sung cho một số đơn vị
hao hụt quân số). Với bản chất (xấu) ấy, lợi dụng khi đơn vị gặp lúc xáo trộn,
mạnh ai nấy sống, không còn được sự chỉ huy chặt chẽ nữa, thì những con người
này trở về với bản chất xấu của họ, giết người, cướp bóc. Vì vậy, sau khi các
chiếc tàu di tản từ miền Trung vào Nam, đã không cho cặp bến Vũng Tàu hay Sài
gòn, mà tất cả được lệnh cặp vào Đảo Phú Quốc. Một Tòa Án Mặt Trận đã được
thành lập khẩn cấp tại đây, hầu hết những người lính TQLC phạm tội đều bị xử
bắn.
Do
đó, theo mình, những tên lính lưu manh. phạm tội này, không thể so sánh với
những người lính thám báo hay biệt kích. Khác nhau rất xa, mà người sĩ quan
miền Nam nào cũng nhận thấy khác biệt rất rõ ràng.“
Tuy
có lần, nhà văn Dương Thu Hương đã tuyên bố, dùng văn chương để làm
chính trị. Nhưng khi đọc, nghiên cứu, tôi thấy những tác phẩm của chị
được chia thành hai mảng, chính luận và văn hiện thực phê phán nhân
đạo, rất rõ ràng. Nếu như, văn chính luận của chị đanh thép, quyết
liệt, hừng hực sức chiến đấu chống bạo quyền, làm nên tên tuổi nhà
văn phản kháng Dương Thu Hương, thì văn học hiện thực, nhân đạo xoáy
sâu vào nỗi đau của con người, xã hội, lại làm nên một nhà văn Dương
Thu Hương can trường và tài hoa khác.
Phải
nói thẳng, từ sau Nhân Văn- Giai Phẩm bị đàn áp, đến năm đầu đầu thế
kỷ này, chưa có nhà văn nào, can đảm viết thẳng thắn, máu lửa như
Dương Thu Hương. Những ngày tháng tù đày ấy, dường như càng làm cho
tinh thần chị vững vàng và can đảm hơn lên. Những bài viết, những
trang sách của chị, không chỉ còn là nhát dao chọc vào ung nhọt của
xã hội nữa, mà nó như trái bom, dội xuống đầu chế độ và nhà cầm
quyền. Do vậy, sách của chị, cho đến nay, hoàn toàn bị cấm xuất bản
và phát hành trong nước.
Việc
cấm xuất bản và phát hành, kể cả những cuốn sách văn học hiện
thực nhân đạo, của những nhà văn Dương Thu Hương, Võ Thị Hảo, Phạm
Thị Hoài… gần đây, cho thấy rõ một điều, nhà nước chưa bao giờ từ
bỏ lý lịch hóa, chính trị hóa văn học. Với cách quản lý văn hóa,
nhưng lại thiếu văn hóa, ích kỷ, thiển cận như vậy, gây thiệt thòi
cho người đọc và tổn hại cho cả nền văn học, vốn dĩ đã èo uột.
Hệ quả quái thai được sinh ra từ chiến
tranh.
Ngược
dòng lịch sử, đất Việt ta đã trải qua bao phen chống ngoại xâm và
những năm tháng dài nội chiến, chém ngang hình đất nước, nhưng chưa
cuộc chiến nào tàn nhẫn, man rợ như cuộc chiến huynh đệ tương tàn
vừa qua. Chủ thuyết nào, ý thức hệ nào, đã ấn súng, ấn dao vào tay
học sinh, sinh viên, và cả những người nông dân chất phác, hiền lành,
để họ lao vào nhau chém giết, một cách thú vật, điên cuồng như vậy?
Một
câu hỏi tưởng chừng đơn giản, vậy mà, trải qua mấy chục năm và bao
thế hệ, không tìm ra câu trả lời. Bởi, lời giải đáp ấy, đã được che
giấu, bằng họng súng và tù đầy. Và chỉ đến khi, người nghệ sĩ,
nhà văn Dương Thu Hương dám đánh đổi tù đày, thì sự thật mới được
phơi bày. Một sự thật, ai cũng biết, nhưng không đủ can đảm nói và
viết ra.
Để
viết những trang sách này, Dương Thu Hương đã bước ra khỏi cuộc chiến,
ra khỏi hận thù, để tìm góc nhìn trung thực nhất. Thông qua lời tự
thú của Quân, nhà văn không chỉ vạch trần tội ác dã man tàn bạo,
của người lính miền Bắc, mà còn vạch ra hành động vô nhân đối với
đồng loại của người lính thám kích miền Nam. Chúng ta, đọc lại đoạn
trích dưới đây, để thấy được cách giết người man rợ của người lính
miền Bắc:
“…Hùng
thường nghĩ ra những cách giết người đặc sắc trong các trận giáp lá cà. Và gã
kể lại cho đồng đội nghe với khoái cảm không che đậy. Kẻ thì gã xọc lê từ họng
xuống tim, – kẻ gã chọc từ nách bên phải qua bên trái, – kẻ gã lại đâm từ hạ bộ
ngược lên ở bụng. Kỳ thú nhất là một lần đánh ấp, gã bò vào phòng riêng một tên
sĩ quan nguỵ, chờ tên này dính chặt với cô vợ trắng phôm phốp của y như một cặp
cá thờn bơn, gã mới phóng lê từ trên xuống “Một xọc xuyên hai, bảo đảm là
sướng mắt…”.(chương 11)
Khi
người lính miền Bắc, đang sung sướng, vui mừng, tìm ra những kiểu
giết người mới, thì người lính miền Nam lại điên cuồng với những
với những kiểu hãm hiếp, giết người thời trung cổ:
“…Chúng
tôi hướng vào góc rừng đã tỏa ra mùi thối khủng khiếp mà đi. Tới vực cô hồn,
gặp sáu cái xác truồng. Xác đàn bà. Vú và cửa mình bị xẻo, ném vung vãi khắp
đám cỏ xung quanh.
Nhờ
những tấm khăn dù, nhờ những chiếc cổ áo sơ mi kiểu lá sen tròn và hai ve nhọn
mà chúng tôi nhận ra đấy là những người con gái miền Bắc. Có lẽ họ thuộc một
binh trạm hoặc một đơn vị thanh niên xung phong cơ động nào đó bị lạc. Cũng có
thể họ đi kiếm măng hoặc rau rừng như chúng tôi rồi vấp bọn thám báo.
Chúng
đã hiếp các cô tàn bạo trước khi giết! Những cái xác bầm đập méo mó! Da thịt
con gái nõn nà tươi thắm vậy mà khi chết cũng thối rữa y như da thịt một lão
già phung lỡ hay một con cóc chết! …“(chương 1)
Viết
đến những hình ảnh man rợ này, chợt làm tôi nhớ đến câu chuyện, hơn
bốn mươi năm trước. Tôi có người chị họ khá xinh đẹp, làm việc ở
Hòa Bình. Đầu những năm 1969-1970, chị đang là đối tượng kết nạp Đảng.
Thời kỳ đó, thương binh, bộ đội người miền Nam ra Bắc tập kết, an
dưỡng khá đông. Thành phần này, rất được chính quyền ưu đãi. Bọn
này, thường tụ tập bầy đàn, rượu chè, ăn nhậu, không chịu trả tiền,
đập phá, đốt nhà, đánh người vô cớ… Nhưng chính quyền thường làm
ngơ. Không hiểu sao, có một thương binh quê ở miền núi An Khê, Bình
Định, đem lòng yêu người chị họ tôi. Lúc đầu, chị không chịu, nhưng
có lẽ, do sắp xếp của tổ chức hay vì cái thẻ Đảng viên, nên chị
gật đầu. Cưới được một thời gian, chị dẫn hắn về nhà tôi chơi. Bữa
tối, mẹ tôi mua lòng lợn, đãi khách. Cả nhà đang ăn ngon lành, tự
nhiên hắn kể chuyện chiến trường. Đến đoạn giết tù binh, lấy gan xào
với rau rừng ăn, làm cả nhà buông bát đứng dậy. Lúc đó, tôi hơn chục
tuổi, nhưng do tính tò mò, ngồi nghe hết câu chuyện ăn gan người của
bọn hắn. Theo hắn, bọn hắn ăn thịt đồng loại, không hẳn là vì đói,
mà cần cảm giác và ăn cho biết vậy thôi. Sau năm 1975, hắn cũng không
chịu về quê Bình Định. Sau này, nghe nói hắn bị điên. Không rõ, bị
điên vì bị vợ bỏ, hay bị vật, bởi những linh hồn người, hắn đã ăn
gan xẻ thịt.
Không
ai có thể giải thích được, những cái quái đản, mà người ta đã đưa
vào cuộc chiến này. Nó như những thứ bùa ngải hận thù, không chỉ
nhử một dòng họ, gia đình, anh em, mà cả dân tộc lao vào chém giết
nhau.
Vâng!
Một sự nhồi sọ của chủ thuyết quái thai, không tưởng, hay một học
thuyết bán mua chiến tranh của những kẻ đến từ bên kia bán cầu.
Chúng cùng nhau, đưa cả dân tộc đến tuyệt lộ. Đoạn văn diễn tả sự
dã man, lòng hận thù đến mù quáng, lên tới tột đỉnh, dưới đây, là
những tiếng kêu bi thảm, xót xa, hay là một lời ai điếu cho cả một
dân tộc, của Dương Thu Hương?
“…Hai
bên đều hò hét, cả hai bên đều điên cuồng chém giết, – cả hai bên đều rú lên
khoái trá khi máu đối phương phụt khỏi tim, óc đối phương vọt khỏi não, – cả
hai bên đều quằn quại như sâu bọ dưới những làn đạn lửa, – phần sống sót lê
khỏi chiến địa để làm mồi dự trữ cho các mặt trận tiếp theo, – phần đã chết tự
hiến nốt hình hài cho các loài ác thú và dòi bọ.
Cả
hai bên đều yên trí là mình đã hy sinh xứng đáng cho lý tưởng. Than ôi, họ có
chung một nòi giống, con của mẹ Âu Cơ và cha Lạc Long Quân. Họ là những hữu thể
được tái sinh trong cùng một bào thai – không xứ sở nào có được cái huyền thoại
mê ly đến thế!. “(chương 13)
Quan tài, đường đi đến của cuộc chiến
huynh đệ tương tàn
Hành
trình, dòng người cõng những cỗ quan tài, đi ra nơi có tiếng súng
nổ, là biểu tượng, là con đường chết của cuộc chiến này. Và đó
cũng là thông điệp nhà văn muốn gửi đến người đọc, về giá trị, kết
cục của nó, trong tác phẩm Tiểu Thuyết Vô Đề. Chiếc quan tài đó,
không chỉ chứa thể xác, mà nó còn là những nấm mồ chôn đi ham muốn,
linh hồn khát vọng của con người.
Nếu
ta đã đọc, Bên Kia Bờ Ảo Vọng, hay Những Thiên Đường Mù, thì thấy
tính ẩn dụ, so sánh trong Tiểu Thuyết Vô Đề, đã đạt đến mức độ cao
hơn. Thủ pháp nghệ thuật này, được chiếu rọi từ những ký ức rời
rạc, đứt quãng của Quân, (người thuật truyện) xuyên suốt tác phẩm.
Đọc
đoạn văn dưới đây, ngoài cái quặn đau cho một kiếp nhân sinh, ta còn
thấy được, trong binh đao khói lửa, còn đâu nữa cái đẹp, thanh bình
từ tạo hóa sinh ra. Chiến tranh đã nhập đồng vào linh hồn, với người
lính, vẻ đẹp chỉ còn hiển hiện trong cái chết, trong sự chém giết
nhau điên cuồng. Đây là một trong những đoạn văn ẩn dụ, so sánh, hay
và rung động nhất, mà tôi đã được đọc: “… Đoàn người mang những
cỗ quan tài in hình trên đường viền của núi, giữa khung cảnh rạng đông. Bóng họ
đi động chậm chạp nhưng kiên nhẫn, mê mải. Hành trình. Con người tự vắt kiệt
sức mình để đem được quà dâng cho chiến trường. Trong các tặng vật ấy, biết đâu
chẳng có một chiếc dành cho tôi?… Và tôi, và bất cứ người lính nào cũng đã sẵn
sàng tiếp nhận món quà kì lạ đó… Trong cả hai hành động, có chung vẻ đẹp tuyệt
vời của chiến tranh.
Bất
chợt, tôi sực nhớ tiếng kêu xé ruột, man đại của mẹ tôi, gương mặt dầm mồ hôi,
nỗi đau làm méo mó một cách kinh dị. Rồi cũng chính trên gương mặt méo mó kinh
dị ấy, ngời lên nụ cười rạng rỡ hạnh phúc khi tiếng khóc oe oe của đứa con cất
lên và đôi bàn chân đỏ hỏn của nó quẫy đạp trong không khí… Đó, vẻ đẹp mặn mòi
của đời sống, vẻ đẹp của tạo sinh. Vẻ đẹp ấy đã xa vời. Nó lẩn khuất với những
kỷ niệm vụn vặt thời thơ bé. Tôi bỗng kinh hoàng. Người ta không thể cùng một
lần đắm mình vào hai dòng nước…” (chương 9 )
Có
người đã mạt sát, hành vi chủ động, van xin được làm tình với Quân
là thú vật của Viếng, người nữ quân nhân, một mình quanh năm canh
nghĩa địa, sống với xác chết, giữa rừng. Tôi cho đây là cái nhìn
khắt khe, thiếu cảm thông. Bởi, hành động đó là bản năng, khao khát
sống, khao khát yêu, khao khát làm tình của con người. Ai cho Viếng,
một cơ hội, một ước vọng đó? Khi chiến tranh bom đạn và những xác
chết đang bủa vây lấy cô. Nếu như, ta đã đọc những câu thơ của người
lính Việt Nam Cộng Hòa Huỳnh Hữu Võ, chắc chắn sẽ có cái nhìn khách
quan, cảm thông hơn về Viếng, về những người lính cả hai phía, nơi
chiến trường: Anh phải ngủ thật nhiều ban ngày/để đêm từng đêm ngồi
ôm súng gác/anh phải cười nơi đây thật to/để khỏi nghe tiếng súng/anh phải văng
tục nơi đây cho đã/vì thiếu bóng đàn bà suốt tháng/anh phải thủ dâm.
Tôi
nghĩ, nếu như nhà văn để Quân không từ chối cự tuyệt Viếng, thì tính
nhân đạo sẽ nhân lên. Và chắc chắn, người đọc sẽ thỏa mãn hơn. Tuy
nhiên, ý đồ của tác giả, muốn bật lên cái tàn nhẫn tận cùng của
chiến tranh, sẽ phải giảm đi.
Đọc
Tiểu Thuyết Vô Đề, ta không chỉ thấy được bản năng sống, khao khát
yêu, nhu cầu sinh lý con người bị tước bỏ, để cho những người lính,
như Biền phải làm tình với cả súc vật, một cách nhục nhã như vậy.
Mà ta còn thấy được, sự giả dối lưu manh ngay trong chiến tranh, của
những tướng lãnh, những kẻ chuyên giảng giải đạo đức. Hình ảnh so
sánh dưới đây, cho ta thấy rõ điều đó:
“…Lũ
dân thường như chúng ta, chịu cực đủ điều, bóp miệng bóp mồm, bóp cả đến con c…
Tụi tướng lĩnh nó có khổ như thế đâu? Ra Bắc vào Nam, đâu đâu chúng nó cũng có
đàn bà. Ngày xưa thì là phi là thiếp, giờ thì các đồng-chí-nữ phục vụ! Trò đểu,
thời nào cũng giống nhau là thế!…” (chương 6)
Sự
lưu manh, giả dối ấy, không dừng lại mức độ ăn chơi hưởng lạc, nó đã
được đẩy lên mức giết người tàn nhẫn. Nhân danh đảng, cùng với sự
dốt nát của mình, chính ủy trung đoàn đã đưa cả đại đội nướng vào
cái cối xay thịt. Từ đây, ta thấy rõ hơn, sinh mạng người lính trong
chiến tranh, dưới bàn tay của những kẻ cuồng vọng này, quả thật,
chỉ là trò chơi, quá rẻ mạt:
“Lão
Hữu muốn lập công với sư đoàn nên quyết định đánh lẻ. Bọn dưới nịnh lão, ủng hộ
kế hoạch tác chiến vắng mặt sư trưởng. Lão lại là bí thư đảng ủy trung đoàn,
toàn thể các đảng ủy viên nhất trí quyết định của ban thường vụ. Đại đội trinh
sát vừa muốn lấy lòng lão Hữu, vừa lười nên báo cáo ẩu, đia hình địa vật hoàn toàn
sai. Thế là đại đội B41 của thằng em tôi được lệnh tiêu diệt các hỏa điểm của
địch, mở đầu trận F.E.18. Chúng nó bò tới trận địa, vừa rút xẻng ra đào hầm trú
ẩn thì bị ngay. Ở đó, không phải loại đất pha cát như tụi trinh sát báo cáo,
thuần một thứ đất sỏi pha đá ong già, lưỡi xẻng chọc xuống là lửa lóe lên. Các
hỏa điểm đích cứ thấy đốm lửa lóe lên ở đâu là nã cối và các loại đạn nóng vào
đó. Đại đội B41 phơi lưng, không một hòn đá, gốc cây ẩn núp. Địch trút cả núi
đạn xuống. Hôm sau phải điều động ba đại đội tới đánh trả và lấy xác các tử sĩ
ra. Lại thêm năm mươi nhân mạng hy sinh…”(chương12)
Lời sám hối dưới cái nhìn nhân bản
Thật
kỳ lạ, hai cuốn tiểu thuyết có cách viết và cái nhìn rất mới về
chiến tranh lại thuộc về hai nhà văn nữ. Đó là Tiểu Thuyết Vô Đề
của Dương Thu Hương và Dạ Tiệc Qủi của Võ Thị Hảo. Khi đọc, tôi có
cảm giác khác hẳn, bởi nó đã giải mã được bản chất của sự việc,
cùng bộ mặt thật của những kẻ đứng sau cuộc chiến vừa qua. Mà
những cuốn sách khác chỉ mới dừng ở mức độ, bóc trần sự tàn
nhẫn, khốc liệt và thân phận con người sau chiến tranh, kể cả Nỗi
Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh.
Thật
vậy! Khải hoàn môn ấy, được tạo bằng xương máu của cả một dân tộc
khổ đau, nhưng vinh danh lại thuộc về những kẻ bán mua chiến tranh.
Những lý tưởng, những hình tượng thánh thần, chỉ là liều thuốc, ru
người vào trong khói lửa binh đao. Từ cái nhìn ấy, Dương Thu Hương đã
mỉa mai, điểm mặt chỉ tên, những kẻ đứng sau, thực sự là ông chủ
của cái Khải hoàn môn đó: “Chúng tao thờ một chủ thuyết. Chúng mày
cũng thờ một chủ thuyết. Vị thần chúng tao thờ tên là Mác, mũi lõ, mắt xanh,
râu rậm. Còn vị thần chúng mày thờ tên là gì? Tóc thưa hay tóc rậm? Trán hói
hay trán vuông? Để râu dê hay râu cáo?“(chương 12)
Và
cũng chính cái chủ thuyết hoang tưởng đó, đã đẻ ra tầng lớp thống
trị mới, với những phương thức cai trị quái đản, phi nhân. Nếu nhìn
lại lịch sử, từ cải cách ruộng đất đến những gì đang xảy ra trên
đất mẹ hôm nay, ta mới thấy được trái tim nhạy cảm trong con người
nghệ sĩ, nhà văn Dương Thu Hương:
“
…Bây giờ, đa phần là bọn phong học cương thường đạo lý. Họ học luân lý Mác-lê.
Cướp vườn cướp ruộng nhà người ta cũng là theo sách Mác. Lột quần vợ người ta
mà ngủ cũng là vì lợi ích của đấu tranh giai cấp…” (chương 6)
Khi
chưa tàn cuộc chiến, Dương Thu Hương đã nhận ra bộ mặt tráo trở của
chế độ. Và đã vạch ra, sự coi thường, rẻ rúng con người, của những
kẻ ngồi trên, sau cuộc chiến. Đây là cái nhìn sáng suốt, đầy ắp nhân
bản của nhà văn. Sự đập phá kho hàng chiến lợi phẩm, không để rơi
vào tay những kẻ có chức, có quyền của những người lính, tuy là
hành động tiêu cực, nhưng nó lại là phát súng, báo hiệu sớm, cho sự
phản kháng của người dân lương thiện với cường quyền, sau này. Rất
cảm ơn, nhà văn Dương Thu Hương, đã sớm chỉ ra điều này, từ mấy chục
năm về trước: “– Em nghĩ nhiều… Em cũng nghe chán vạn điều thiên hạ nói.
Nhưng mà, nhân dân lúc có thật, lúc như bóng ma: Nếu cần lúa, nhân dân là con
bò kéo cày. Lúc có chiến tranh, con bò ấy mặc áo giáp và cầm súng. Rồi, khi mọi
sự đã qua, vào những ngày lễ lạt, hội hè… người ta tôn xưng nhân dân như hú
vọng các hồn ma, tưởng thưởng cho khói thơm và tro tiền, còn phần xôi thịt thì
kẻ khác hưởng…”(chương 15)
Có
thể nói, Tiểu Thuyết Vô Đề có lời văn đẹp và súc tích nhất, trong
những cuốn sách của Dương Thu Hương, mà tôi đã đọc. Tâm trạng, cũng
như cái nhìn của tác giả về chiến tranh và xã hội đương thời, đã
hiện lên rõ nét, từ diễn biến nội tâm của (nhân vật) người lính. Và
tác giả, đã giải quyết thành công mâu thuẫn nội tâm nhân vật. Tuy
nhiên, không riêng Tiểu Thuyết Vô Đề, mà các tác phẩm khác, của Dương
Thu Hương, có nhân vật và những câu thoại căng, khá lên gân làm cho
người đọc, đôi khi cảm giác hơi bị hẫng.
Tôi
không dám nghĩ, Tiểu Thuyết Vô Đề là kêu tiếng kêu đau đớn, lời sám hối
chung cho một nòi giống, một cộng đồng, như có lần nhà văn Dương Thu
Hương đã viết. Nhưng đọc nó, quả thật, tôi đã cảm được nỗi lòng
người nghệ sĩ, nhà văn qua những hành động, hay giằng xé nội tâm nhân
vật của mình. Và đây, là một trong ba cuốn sách viết về chiến tranh,
mà tôi thích. Đọc xong, gấp cuốn sách lại, tôi vẫn cảm thấy thiêu
thiếu, dường như có điều gì nhà văn chưa nói hết….
Mời
nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết của
(về) tác giả Dương Thu Hương0
- Các bài viết của
(về) tác giả Đỗ Hoàng0
- Các bài viết của
(về) tác giả Trần Mạnh Hảo0
- Các bài viết của
(về) tác giả Nguyễn Đăng Mạnh0
- Các bài viết của
(về) tác giả Sương Nguyệt Minh0
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ CUỒNG YÊU:
*.
ĐỖ
TRƯỜNG
Địa chỉ: Thành phố Leipzig, tỉnh Leipzig,
Bang
Sachsen, Cộng hòa Liên Bang Đức.
Email: dotruong07@yahoo.de
.............................................................................................................
- Cập nhật từ email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn ngày 23.09.2020.
-
Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng
Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét