LẠI THÈM ĐƯỢC LĂN LÓC
GIỮA VỒNG KHOAI LANG NĂM
NÀO
Thật ra, rau khoai cũng
có hoa, hoa của khoai lang rất đẹp và duyên dáng. Cánh hoa mỏng mảnh yểu điệu
như mảnh lụa mỏng ấp ủ trong khóm lá. Sắc tím nhẹ bao quanh chân nhụy làm cánh
hoa trắng mỏng thêm hồn hậu, đơn thuần như nét cười hồn quê. Tuổi thơ của tôi
là những chiều gió nồm mát rượi, cùng bọn bạn lăn lông lốc giữa các vồng khoai
lang.
Khoai lang nhiều dây,
tua tủa lá, chỉ vài ngọn nhỏ thôi mà sinh sôi thành từng bụi rậm rạp, xanh non,
sum suê cả vồng đất. Nội tôi vun từng vồng đất dài thẳng tắp, xen kẽ giữa các
vồng là lối đi thấp trũng men theo các vồng khoai, tôi thích nhất là nằm dài
trên những lối đi ấy, để cho những nhánh khoai lang phủ mơn man trên khắp da
thịt. Đôi khi chơi trốn tìm, tôi nằm nấp ở đó mà bọn bạn đố hòng tìm ra. Chao
ôi cái mùi đất thật thơm, nền đất mát rười rượi và lá khoai thơm thảo lạ lùng.
Những đứa trẻ ở thôn quê chúng tôi hồn nhiên lớn lên, tinh khôi với đất ruộng
quê hương. Cái mùi bùn tanh lạ, mùi rơm thơm nắng, và những vạt rau xanh mát
rượi đến vô cùng.
Tôi nhìn những luống
khoai dài tăm tắp, hái những bông hoa khoai đặt lên mũi hít hà, hoặc đôi lúc
tinh nghịch hơn thì đưa bàn tay bé xíu gom những cánh hoa chụm lại rồi thổi tu
tu, hà hơi vào đó. Có lúc thì ngắt cuống mỏng ra rồi ngậm giọt ngọt nơi đầu
lưỡi, ngọt lịm cả cuống họng, tưởng như có thể thỏa được cả cơn khát sau một
chiều chạy nhảy hét hò. Trời quê trong và xanh, gió quê mát rượi trong lành,
tha hồ mà hít vào buồng phổi luồng khí thanh sạch thơm tho ấy. Bọn chúng tôi
chơi trốn tìm, tè núp tích bắn, rồi lăn lông lốc cuộn tròn nơi vồng khoai lang
cho đến khi ông nội hay bà nội la lên : này mấy đứa đừng làm nát lá khoai...Thế
là cả bọn lại nháo nhào chạy trốn. Cười hi hi ha ha một cách sảng khoái và rộn
rã cả xóm chiều, đôi khi làm mấy chị cào cào châu chấu phải giật mình bay vút.
Rau khoai có thể ăn cả
lá, cả củ. Thân khoai để trồng cây mới, hoặc những thân già thì làm thức ăn cho
gia súc như trâu, bò, heo,... Chú tôi còn bằm nhỏ thân lá khoai trộn với cám
rồi đổ xuống hồ cho cá ăn. Lá khoai non nấu canh với ruốc, hay với tép khô,
khuyeeec, tép tươi hay tôm thì cứ là hao cơm. Lá khoai còn luộc chấm ruốc, xì
dầu, mắm nêm, nước mắm; hoặc rau khoai xốc tỏi, rau khoai xào nấm, rau khoai
chiên dầu,... Rau khoai hiền, không kén người ăn, không kén bệnh kiêng, ai ăn
cũng được. Cứ như vậy tuần hoàn một đời rau, có ích cho người, có ích cho đời.
Rau khoai có thể giải cảm, tăng cường vitamin C, giúp nhuận tràng, chống táo
bón. Củ khoai lang thì càng thơm ngon hơn, củ khoai cung cấp một lượng tinh bột
không béo, vừa giúp no bụng, đẹp da, đẹp dáng, vừa không tăng cân. Củ khoai
lang giúp nhuận tràng, tiêu hóa tốt, còn có thể làm ra nhiều món. Khoai lang
luộc thơm mùi đồng nội. Khoai lang nướng thì chao ôi là thơm nồng mũi, thơm
ngậy, thơm béo, thơm chi lạ lùng. Nhất là khi trời trở rét hay mưa lâm thâm,
ngồi hơ tay bên bếp lửa, nướng củ khoai nói chuyện phiếm, chuyện nhà trên xóm
dưới, chuyện trời, chuyện đất, chuyện yêu thương. Mắt nhìn mắt bên ánh lửa
hồng, tay nướng khoai vương đầy nhọ nghẹ, quẹt lên má đẹp lòng thôn nữ, trêu
đùa nhau nhọ nghẹ má hồng. Bà với ông mỉm cười tủm tỉm, lũ trẻ con tíu tít
tranh giành, có đứa nhỏ khóc váng lên vì anh chia củ khoai không đều, nửa bên
em sao mà ít quá. Cu anh vừa dỗ dành vừa bỏ tọt miếng khoai vào miệng, thôi anh
nướng củ khác cho nghe.
Dưới gầm giường bao
nhiêu là khoai, củ lớn củ bé, củ đỏ củ trắng, để dành khi đói lòng, để dành khi
trời mưa. Khoai có củ bở củ trong, củ nhạt, củ ngọt. Có củ hình tròn tròn nhỏ
nhỏ, có củ dài ngoằng lêu nghêu, có củ tròn trịa duyên dáng, cũng có củ bóc lớp
vỏ mỏng ra thì toàn sâu là sâu. Ăn trúng củ khoai sâu cứ đăng đắng nhạt nhạt,
vội chạy đi mách bà mách ông, khoai sao nhiều sâu vậy bà? Ông nội nhai trầu
cười vang vang : Tổ cha bây biết chê khoai nữa. Mẹ dưới nhà mắt nhìn âu yếm, tội
con bé ăn phải khoai sâu. Khoai luộc rồi ăn không hết, bà nội xắt lát mỏng đem
đi phơi nắng. Nắng quê giòn, vàng rụm, những lát khoai phơi dần trở nên dai dai
ngọt ngọt, quê tôi gọi tên là khoai gieo. Khoai gieo dẻo sần sật, được cất kỹ
và đến mùa đông khi rảnh vụ mùa, lại lấy ra cùng nhau quây quần, nhai nhai
trong miệng, cái ngọt của khoai, cái thơm của nắng nó tan mềm nơi đầu lưỡi,
nuốt vào qua cổ rồi vẫn còn thấy vị ngọt thanh. Khai chưa luộc thì được xắt
thành từng thanh nhỏ, đều tăm tắp, phơi nắng giòn. Món khoai này có thể cất
được lâu, và khi đem ra nấu cùng với nước, cho thêm đường, hoặc nếu có thể thêm
đậu đỏ và chút gừng, nấu thành một món ăn rất ngọt, gọi là khoai ngào đường.
Lâu dần, chúng tôi bớt chữ “đường” đi và chỉ còn gọi tắt cái tên thân mật là
khoai ngào. Bây giờ, củ khoai còn được xay nhuyễn làm nên loại bột khoai, có
thể làm bánh tu huýt, quê tôi ngày xưa gọi là bánh cứt chó. Khi nhồi, người ta
bỏ thêm chút nước và đường, cầm một chiếc đũa, quấn thứ bột dẻo dẻo mịn mịn ấy
xung quanh một đầu đũa, sau đó nhẹ nhàng rút chiếc đũa ra, vậy là một chiếc
bánh nhỏ, thon mảnh, không đặc ruột, bỏ vào hấp trong nồi cơm cho đến khi cơm
chín thì truống xuống và gắp ra ăn. Khỏi phải nói cái mùi thơm của cơm, mùi
ngọt của khoai nó hòa quyện tạo nên một món bánh “cứt chó” ngon cỡ nào. Cứ hễ
trời trở gió, ông bà o chú ba mẹ tôi lại quây quần bên nồi cơm hấp bánh tu
huýt, mùi khói nóng bốc lên thơm lừng, cái mũi tôi cứ hít hà hít hà mãi. Cứ thế
mà bốn mùa khoai cõng cái đói cái nghèo đi qua, đi xa và xa dần.
Cây khoai lang còn gắn
cới một câu chuyện cổ tích về lòng hiếu thảo của một cậu bé đối với người bà,
truyện còn giải thích nguồn gốc cây khoai lang ngày nay. Ở bìa rừng có hai bà
cháu nghèo khổ sinh sống. Hàng ngày, hai bà cháu phải đi đào củ mài để ăn. Một
hôm, cậu bé nói với bà là cậu đã lớn, cậu sẽ đi kiếm củi đổi thóc giống và cây
lúa để nấu cơm cho bà ăn. Nhưng chẳng may cả khu rừng bị cháy, nương lúa mà cậu
chăm chút cũng cháy thành tro.
Cậu ôm mặt khóc núc nở.
Bỗng bụt hiện lên và nói với cậu bé chăm chỉ rằng ông cho cậu một điều ước, cậu
bé vội ước rằng “thưa ông, con chỉ mong bà của con không bị đói thôi”. Ông Bụt
gật đầu rồi biến mất, sau đó cậu đào được một củ lạ, thơm lừng, khi bẻ ra ăn
thì ngọt bùi ngon miệng. Cậu đem về cho bà ăn và đã nghe lời bà đi khoai giống
khắp khu rừng. Cây này mọc lan ra khắp nơi nên được đặt tên là khoai lang, để
nhớ về cậu bé chăm chỉ và hiếu thảo. Theo khoa học thì khoai lang có họ hàng
với cây khoai tây, có nguồn gốc từ khu vực nhiệt đới châu Mỹ, và được con người
trồng cách đây trên 5.000 năm .
Hoa của khoai lang nhỏ
xinh, mọc thầm lặng trong những tán lá, không nồng nàn hương sắc, không gai góc
rực rỡ. Phạm Toàn (Virginia, Mùa Đông 2014) đã viết bài thơ về hoa khoai rất
hay như thế này:
Sao mãi
tới giờ anh mới biết
Hoa
không yểu điệu, chẳng mơ màng
Nhạt
nhoà hương sắc không thắm thiết
Âm thầm
hồn hậu cánh khoai lang
Trên
vồng đất đỏ hoa thinh lặng
Bình
minh gọi gió đón hương trời
Phớt
phơ phấn tím pha sắc trắng
Đêm
thanh dìu dịu ướp hương rơi
Ta đi
lưu luyến bao màu sắc
Ca tụng
ngàn hoa nét trang đài
Dịu
dàng hoa nhỏ như thầm nhắc
Rằng nụ
khoai lang thương nhớ ai.
Không mặn mà bung tỏa
như hương bưởi sang thu, hoa khoai cuối vườn chỉ se sẽ cựa mình e ấp trong tán
lá mỗi khi làn gió thấp vẩn vơ qua. Hoa dịu dàng, sắc trắng mảnh mai mong mùa
no ấm. Ngay đến cái tên “hoa rau khoai” cũng thật hiền lành, đơn sơ và giản dị.
Như mái nhà tranh cuối chiều vương làn khói trắng. Như tiếng kêu chiều của mẹ
“Bé ơi về ăn cơm”...
Hương sắc hoa khoai
mảnh dần trong trí nhớ, trong thực tại chẳng thể đưa tay hứng khẽ những cánh
hoa, đếm hạt sương rơi trong veo phút tinh khôi ngày mới, chẳng thể cuộn tròn
lăn lông lốc như hồi còn bé lăn mình vào đất và những bụi lá khoai. Lớn rồi,
tất bật trong guồng quay cơm áo gạo tiền, trong tiếng con khóc, tiếng mẹ chồng
mắng, tiếng chồng trầm ngâm...
Thỉnh thoảng, lại ra
ngồi sau bếp củi, nhen ngọn lửa hồng, nhìn vào đó thật lâu để nước mắt không
tràn ra khỏi mi mắt. Dẫu khóe mắt có đọng hạt nước long lanh nào, cũng có thể
lấy cớ là khói lửa hun nhèm mà thôi, để mạnh mẽ mà gồng gánh những ưu tư của
tuổi trưởng thành. Cuối đông giáp tết, mưa bụi bay lất phất, nhìn bó rau khoai
mới mua ở chợ, lại nhớ quay quắt vườn rau chốn quê nghèo.
Bỗng chốc thức dậy cả
miền ký ức, xao xuyến trước lá khoai lang, rung rinh hoa khoai đồng nội, để
thấy cuộc đời sẽ lại dịu nhẹ và lấp lánh những yêu thương. Dẫu bàn chân ta đành
hẹn một mùa xuân nào đấy vui đoàn viên, sẽ về…
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Bạn đọc cảm nhận
về thơ của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
bài thơ “Quê Nghèo” của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến -
Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ
CUỒNG YÊU, thơ của Đặng Xuân Xuyến:
*.
TRẦN HIỀN (Trần Thị Hiền)
Địa chỉ: Thôn Đùng Hói
Bàu, xã Triệu Long,
huyện Triệu Phong, tỉnh
Quảng Trị.
Điện
thoại: 091.833.73.69
.............................................................................................................
- Cập nhật từ email:
nguyenhung967812@gmail.com ngày 13.04.2023.
- Bài viết không thể
hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Ảnh minh họa cho bài
viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
về quê như vậy là rất sướng đó
Trả lờiXóa