NGHIỆP, TÁI SINH VÀ ĐAU KHỔ
Có nhiều loại nghiệp: nghiệp trả
quả ngay trong kiếp sống này, nghiệp trả quả trong kiếp tới, nghiệp trả quả
trong kiếp kế tới nữa cho đến khi chúng ta đi hết vòng luân hồi.
Hôm nay, tôi sẽ giải
thích về luật nghiệp báo, tái sinh và đau khổ.
Tất cả những điều này
rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho
những người của các tôn giáo khác nữa. Tôi thích dùng chữ Pāḷi hơn chữ
Sankrit. Bởi vì chữ Pāḷi có vẻ phổ thông hơn đối với người phương
Tây, Pāḷi là ngôn ngữ ghi lại những lời dạy của Đức Phật, thế
nên Pāḷi trở thành ngôn ngữ thiêng liêng của Phật Giáo
Nguyên Thủy.
Kamma (Nghiệp)
Chữ Kamma là một từ Pāḷi tương
đương với Karma là một từ Sanskrit.
Kamma là gì? Theo nguyên gốc,
nghĩa của kamma là một cái gì đó đã được làm nên. Kamma theo nghĩa
đen là một cái gì đó đã được làm hay tác động. Kamma cũng có nghĩa là
một tâm sở, là dụng cụ để làm nên việc tốt hay xấu, thiện hay ác. Như vậy,
theo nghĩa chuyên môn từ ngữ này có nghĩa là một tâm
sở khởi sinh khi người ta làm một việc gì đó. Bất kỳ lúc nào làm việc ác
hay thiện thì đều có một tâm sở phát sinh ở trong tâm và tâm
sở này đã tổ chức và phối hợp những tâm sở khác và chính
nó tham gia vào công việc đó. Tâm sở này như một trưởng
lớp. Người trưởng lớp này là một học trò như những học trò khác,
nhưng đồng thời đóng vai trò chỉ đạo người khác làm
việc. Đúng vậy,tâm sở nghiệp chính nó tác động trên đối
tượng đồng thời khích lệ và tổ chức những tâm sở khác cùng
khởi sinh với nó, và tác động trên đối tượng. Tâm sở này
tiếng Pāḷi gọi là “cetanā” và được dịch là “cố ý”. Như vậy, khi nói đến kamma,
ta không nói đến hành động tốt hay xấu mà nói đến tâm sở cùng khởi
sinh trong tâm của một người khi họ làm đều tốt hay xấu, thiện hay ác. Bởi vì
đây là một tâm sở nên nó khởi sinh và chấm dứt nhanh chóng.
Theo lời dạy của Đức Phật dầu là tâm hay vật chất, chúng đều
khởi sinh và hoại diệt ngay tức khắc. Nhưng khác với những tâm
sở khác, tâm sở cố ý hay nghiệp này sau khi biến mất còn để lại
tiềm năng, đem lại kết quả trong luồng tồn sinh của chúng sinh. Mặc
dầu chúng ta không thể nói hay không thể biết tiềm năng này đã cất
chứa ở chỗ nào, nhưng một khi có đủ điều kiện thuận lợi, thì nghiệp
sẽ cho quả, hay quả đã được tạo ra. Ví dụ: Một cây xoài cho trái, trước khi
trái mọc trên cây, chúng ta không thể biết những trái xoài nằm ở
đâu? Phải chăng ở dưới gốc cây, trong thân, trong cành hay trong
lá? Chúng ta không biết chúng ở đâu nhưng khi hội đủ điều kiện như ánh
nắng, độ ẩm, nước thì trái được tạo ra. Tương tự như vậy, nghiệp có
tiềm năng tạo thành quả. Nghiệp có khả năng cho quả và sẽ cho quả khi
có điều kiện thuận lợi, đó là cái mà ta gọi là kamma, và kamma có thể
tốt, có thể xấu, có thể thiện, có thể ác. Bởi vì kamma là một luật tự
nhiên cho nên kamma sẽ cho quả tốt xấu tùy theo hành động của
ta có chủ ý tốt hay xấu. Nghiệp tốt cho quả tốt, nghiệp xấu cho
quả đau thương. Những người Phật Tử như chúng
ta phải tin tưởng vào luật nghiệp báo.
Khám Phá ra Luật Nghiệp Báo
Luật nghiệp báo được
chính Đức Phật khám phá không cần một vị thầy nào cả. Vào đêm
trước khi trở thành Phật, Bồ Tát ngồi hành thiền dưới
gốc cây Bồ Đề trọn đêm. Vào canh hai, từ mười giờ đêm đến hai giờ
sáng, Bồ Tát đạt trí tuệ siêu việt. Ngài có thể thấy
được chúng sinh chết đi từ kiếp sống này và sinh ra trong kiếp sống
khác. Ngài thấy chúng sinh mất ở cảnh giới này sinh vào
cảnh khổ vì họ đã làm việc xấu trong quá khứ. Ngài cũng thấy chúng
sinh mất ở cảnh giới này sinh vào cảnh an vui, như cõi trời, vì
họ đã làm những việc lành trong quá khứ.
Như vậy, trong
suốt canh hai, lúc còn là Bồ Tát, Đức Phật đã khám
phá ra luật nghiệp báo. Những lời dạy của Đức Phật về
luật nghiệp báo không vay mượn từ bất kỳ một tôn
giáo hay lý thuyết nào, nhưng đến từ trí tuệ trực
giác, sự hiểu biết siêu việt của Ngài. Chỉ có Đức Phật mới
có thể hiểu biết tất cả mọi chuyện về kamma. Học trò Ngài, dầu người
học giỏi nhất, cũng không thể nào hiểu biết luật nghiệp
báo một cách trọn vẹn. Bởi thế nếu chúng ta không hiểu mọi
chuyện về luật nghiệp báo, chúng ta cũng đừng thất vọng, vì
luật nghiệp báo nằm ngoài lãnh vực và khả năng của chúng ta.
Các Loại Nghiệp
Có nhiều loại nghiệp:
nghiệp trả quả ngay trong kiếp sống này, nghiệp trả
quả trong kiếp tới, nghiệp trả quả trong kiếp kế tới
nữa cho đến khi chúng ta đi hết vòng luân hồi. Ba loại
nghiệp trên sẽ bất động khi chúng không có cơ hội cho quả trong
một thời gian nào đó. Tóm lại, nghiệp có thể đến trong những
kiếp sống tương lai, nghiệp cũng đem đến kết quả ngay trong kiếp sống hiện
tại. Một số người nói rằng chính họ đã gặt hái quả của nghiệp ngay
trong kiếp sống này.
Lợi Ích của sự Hiểu
Biết Luật Nghiệp Báo
Hiểu biết luật nghiệp
báo giúp chúng ta tự lực, tự hỗ trợ và tự chịu trách
nhiệm về chính mình, bởi vì quả tốt xấu chúng ta nhận được ngày hôm
nay có nguyên nhân là những gì ta đã làm trước đây. Những gì chúng
ta vui hưởng trong kiếp sống hiện tại là kết quả của
nghiệp tốt chúng ta đã làm trong quá khứ. Những đau
khổ chúng ta nhận chịu ngày hôm nay là kết quả nghiệp xấu chúng
ta đã làm trong quá khứ. Do đó, chúng ta không trách cứ,
không đổ lỗi cho một ai về những thất bại, những đau
khổ của chúng ta trong cuộc sống này. Nếu bạn có trách cứ thì
hãy trách cứ nghiệp của bạn.
Như vậy, kamma là cái đã tạo ra
quả, bởi vì chúng ta tạo ra kamma nên chúng ta phải nhận
chịu. Chúng ta là nhân của quả đã tạo ra. Chúng ta là chủ
nhân ông của chính chúng ta. chúng ta tạo ra hình dáng, làm
ra khuôn đúc, bóp méo, vo tròn tương lai của chúng ta. Bởi
thế, chúng ta hoàn toàn tự do tạo tương lai tốt
đẹp của chúng ta mà không phải nhờ vào một người nào khác, vì
chính chúng ta, một mình chúng ta, tạo ra tương lai
của chúng ta, tốt hay xấu đều do chúng ta cả.
Khi chúng ta hiểu rằng
chính chúng ta chịu trách nhiệm về những đau
khổ và hạnh phúc của chúng ta. Khi chúng tabiết rằng
mình có thể tạo nên tương lai của chính mình thì chúng ta sẽ làm
những gì cần làm trong hiện tại để gặt hái hạnh phúc trong tương
lai. Nếu không muốn gặt hái những kết quả xấu, đau
thương, chúng ta chỉ cần tránh làm điều ác trong hiện tại.
Sự hiểu biết luật nhân quả sẽ giúp chúng ta tránh làm
những điều xấu xa, những gì đem lại đau khổ cho chúng ta và
cho người khác. Như vậy, nhờ hiểu biết luật nhân quả, chúng
ta có thể cải thiện đời sống chúng ta trong hiện
tại và tạo cho mình một đời sống tốt đẹp trong tương
lai.
Tái Sinh Khi nào có nghiệp
thì sẽ có quả. Chúng ta không thể tránh khỏi hậu
quả của nghiệp mà chúng ta đã tạo ra trong quá khứ trừ
khi chúng ta trở thành Phật hay A La Hán. Như vậy, một
người tái sinh vào kiếp sống mới, sự tái sinh này
là kết quả của nghiệp mà người đó đã tạo ra trong quá khứ, có
thể đó là nghiệp trong kiếp sống vừa qua hay nghiệp trong kiếp sống trước đây.
Như vậy, khi một người tái sinh thì người đó tái
sinh do hậu quả của nghiệp mà người đó đã làm trong quá
khứ.
Theo lời dạy của Đức
Phật thì tái sinh diễn ra tức khắc sau cái chết có nghĩa là chết
thì tái sinh ngay; không có mộtthời gian chuyển tiếp giữa cái
chết và tái sinh ở kiếp sống mới, có nghĩa là từ khi chết đến kiếp
sống mới không có đoạn trung gian ở giữa. Một người khi chết đi có
thể tái sinh vào một nơi xa ngàn dặm. Theo những bằng chứng cho thấy,
có người chết ở nước Anh mà tái sinh ở Úc, dù cho khoảng cách giữa
nước Anh và Úc cách xa hàng ngàn dặm. Nơi chết và nơi tái sinh có thể
xa ngàn dặm, nhưng giữa cái chết và sự tái sinh vào đời
sống mới không có một khoảng thời gian nào cả. Theo Vi Diệu
Pháp, sau khi chết là tái sinh ngay, nhưng chúng
ta phải hiểu rằng “tái sinh” ở kiếp sống mới không phải là kết quả của cái
chết trong kiếp trước. Tái sinh trong kiếp tới là kết quả
của nghiệp trong kiếp vừa qua. Rất nhiều người hiểu lầm về điều
này, nhiều người nghĩ rằng tái sinh là sản phẩm của cái
chết. Chúng ta có thể nói tái sinh bị điều
kiện bởi cái chết hay chính cái chết tạo điều kiện đưa
đến tái sinh. Bởi vậy, trong Vi Diệu Pháp nói: Sau khi "tử
thức" chấm dứt thì "thức tái sinh" khởi sinh (điều này
trong Paṭṭhāna gọi là cận duyên hay điều kiện gần).
Chết chỉ là một sát
na hay một khoảnh khắc trong đời sống, là khoảnh khắc cuối
cùng của một cuộc sống. Trước khoảnh khắc cuối cùng, tâm của người
chết bị chiếm ngự bởi một số đối tượng, một số cảnh, những cảnh này là hậu
quả của những nghiệp mà họ đã làm trước đây, và đặc tính của
cảnh này, (của đối tượng trong tâm này), đóng vai trò rất quan
trọng, vai trò quyết định tạo điều kiện cho
sự tái sinh. Như vậy, nghiệp trong quá khứ, có thể là nghiệp trong
kiếp vừa rồi hay nghiệp trong kiếp trước nữa là điều
kiện hay cái tạo ra sự tái sinh trong kiếp kế
tiếp, sau khi chết.
Sát Na hay Khoảnh Khắc
Thật ra khoảnh khắc này mất đi
khoảnh khắc khác sinh ra, tiếp tục diễn biến trong suốt đời
sống của chúng ta. Theo lời dạy của Đức Phật, chúng
ta chết rồi tái sinh, tái sinh rồi chết trong từng sát
na hay từng khoảnh khắc của cuộc đời. Khi tôi nói một câu, và bạn
nghe tôi nói. Trong câu nói của tôi gồm nhiều chữ. Mỗi chữ tôi vừa nói ra
liền chấm dứt nhanh chóng ngay, và chữ bạn nghe cũng chấm
dứt nhanh chóng ngay. Mỗi chữ đến và đi nhanh chóng, và tâm nghe cũng đến
và đi nhanh chóng. Như vậy, mỗi một khoảnh khắc qua có một cặp vật
chất và tâm mới khởi sinh rồi mất đi ngay. Trong khoảnh khắc tới lại có
một cặp vật chất và tâm đến rồi đi. Diễn biến đến đi liên
tục như vậy trong suốt đời sống của chúng ta. Một khi
đã thấy rõ trong đời sống chúng ta, sát na thân
tâm này tiếp tục theo sát na thân tâm khác
không gián đoạn, không có khoảng hở thì chúng ta có thể hiểu
được kiếp sống này và kiếp sống kế tiếp.
Kiếp Sống Này và Kiếp Sống Kế Tiếp
Thật ra kiếp sống này và kiếp
sống kế tiếp cách nhau bởi một khoảnh khắc vào sát
na chết. Và sát na kế tiếp ngay tức khắc sau sát
na chết này gọi là kiếp sống mới hay kiếp kế tiếp. Đó là chúng ta dùng ngôn
ngữ chế định để diễn tả. Đúng ra, chết trong kiếp sống này,
và tái sinh trong kiếp sống khác chẳng khác nào sát na này
nối tiếp sát na kia trong cuộc sống hiện tại thôi. Chẳng
hạn, một giây sau đêm giao thừa chúng ta gọi đó là một ngày mới, một
tháng mới, một năm mới, nhưng đúng ra, đó chỉ là một giây xê
xích giữa năm cũ và năm mới thôi. Chúng ta có thể nói rằng: một
khoảnh khắc cũ là năm cũ và một khoảnh khắc sau đó là năm mới. Khoảnh khắc
trước là năm cũ và khoảnh khắc sau là năm mới, nhưng chúng ta đã đồng
ý với nhau gọi đó là năm cũ và kế tiếp sau đó là năm mới.
Khi chúng ta nói “chúng ta đã ở trong năm mới”, nhưng thật ra năm mới
chỉ cách giao thừa có một giây thôi.
Cũng vậy, khi chúng
sinh tái sinh sau khi chết chỉ có một sát na. Vì thế, sự
khởi sinh và hoại diệt của vật chất và tâm
liên tiếp mãi cho đến khi ta trở thành A La
Hán hay một vị Phật. Khi đã thành Phật hay A La
Hán thì không còn có sự sinh diệt của vật chất và tâm, không
còn tái sinh nữa. Nhưng khi chưa giải thóat, sự liên
tục sinh diệt của vật chất và tâm vẫn diễn
tiến mãi không ngừng.
Tóm lại, tái sinh là
kết quả, là sản phẩm của nghiệp mà chúng ta tạo ra. Chúng
ta có thể tạo ra những nghiệp thiệntrong đời sống hiện
tại để tái sinh vào kiếp sống tốt đẹp ở tương lai. Khi
nói về thuyết tái sinh, người ta muốn biết cái gì đi tái sinh.
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta dùng câu thành
ngữ sau:
“Không phải nó, và cũng không
phải cái khác”. Người mà ta gọi là tái sinh trong kiếp sống mới không
phải cùng là người chết ở kiếp sống trước, cũng không phải là một người
mới hoàn toàn. Người tái sinh trong kiếp sống mới không hoàn
toàn độc lập hay không hoàn toàn chẳng có liên
hệ gì đến người chết trước đây. Bởi thế, chúng ta dùng câu ngạn
ngữ: “Không phải nó, mà cũng chẳng phải cái khác”. Cái xảy ra vào lúc tái
sinh là nghiệp tạo ra tâm và một ít vật chất, ta gọi đó là tái
sinh. Vì thế, vật chất và tâm được tạo ra hay khởi sinh vào
lúc tái sinh là đúc kết của sự nối tiếp từ đời sống trước.
Ví Dụ về Chuỗi Hột
Theo lời dạy của Đức Phật,
không có cái gì chuyển từ đời sống này sang đời sống khác,
đó chỉ là những gì đã làm trong đời sống trước tạo ra kết quả trong tương
lai. Như vậy từ đời sống này đến đời sống kế tiếp có liên
hệ nhân quả. Chúng ta hãy nghĩ đến một chuỗi hột; hột này khác
biệt với hột kia, nhưng người ta dùng sợi dây luồn bên trong để nối chúng lại.
Nhìn chuỗi hột, chúng ta có ý niệm rằng đó là một chuỗi
dính liền với nhau, nhưng thật ra chúng chỉ là những hạt riêng biệt. Cũng
vậy, thân và tâm ở mỗi sát na đều mới, chúng sinh và diệt
từng sát na. Chẳng khác nào xâu chuỗi hột, hột này liên kết
với hột kia. Đó là sự liên hệ nhân quả. Như vậy, khi kết quả tạo
ra bởi một nguyên nhân nào đó thì nó phải có liên hệ đến nhân đó.
Không có một sự hỗn loạn trong khởi sinh và hoại diệt và
không hề có chuyện: ““Nghiệp tôi trả quả cho anh, nghiệp anh trả
quả cho tôi”. Có một dây liên lạc giữa nhân và quả xuyên
qua sự sinh diệt của vật chất và tâm trong từng sát na
Tái Sinh và Đau Khổ
Khi vật chất và tâm
được tạo ra, hay khi vật chất và tâm khởi sinh vào sát
na tái sinh ta gọi đó là tái sinh. Đức Phật nói tái
sinh là đau khổ. Đây là chữ mà nhiều người không thích và họ thường
nói rằng: “Người Phật Tử các bạn luôn luôn nói đến đau khổ”.
Theo lời Phật dạy, tái sinh cũng là đau khổ. Sinh ra làm
người, làm trời hay làm thú cũng đều đau khổ. Mọi chuyện trên thế
gian đều đau khổ. Trước tiên, bạn phải hiểu về chữ
“khổ”. Chúng ta phải trở về với tiếng Pāḷi và xét chữ
“dukkha” mà ta thường dịch là khổ. Gọi dukkha là khổ thì không thể
nào diễn tả đúng và chính xác ý nghĩa của chữ dukkha. Bởi
vậy, mỗi lần nghe đến chữ “dukkha” trong tiếng Pāḷi hay chữ “khổ” trong tiếng
Việt, ta liền liên tưởng đến đau khổ, đau khổ về thân
hay đau khổ về tâm. Đau khổ về thân tâm rất dễ
thấy, nhưng chữ dukkha Đức Phật dùng có ý nghĩa sâu
xa hơn. Theo lời dạy của Đức Phật, tất cả mọi sự trên thế
gian này đều khổ, ngay cả khi bạn hưởng thụ những điều tốt đẹp, hưởng
thụ dục lạc thế gian, mọi hỷ lạc đó cũng đều được Đức
Phật gọi là dukkha.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
Chuyện làng văn0
- Các bài viết về
khoa Phong Thủy0
- Các bài viết về
khoa Tướng thuật0
- Các bài viết về
Kiến thức cuộc sống0
CHUYỆN ĐẦU THAI NHẬN LẠI BỐ MẸ Ở HÒA BÌNH:
Khánh Hỷ chuyển ngữ
Tác giả: Silānanda -
nguồn: chuaadida
Ảnh minh họa sưu tầm
từ nguồn: internet
Bài viết là quan
điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét