CÔ ĐƠN, KHÁT VỌNG VÀ
KHOẢNH KHẮC
TRONG THƠ HIỆN ĐẠI
-1-
Nếu nhà thơ thường xuyên bóp méo
cấu trúc của hiện thực để giữ lại cấu trúc của cái tôi, như Christopher
Caudwell từng nói, thì cấu trúc của cái tôi thi sĩ luôn cho thấy một cách sâu
sắc quá trình tự ý thức của con người qua sáng tác văn học. Sự tự ý thức này
đồng nghĩa với tiếng nói trữ tình trong tâm hồn thi sĩ. Các chủ đề của thơ hiện
đại tăng dần, khác biệt dần cùng với sự nhạy cảm của các nhà thơ. Nhà thơ hiện
đại thấy và cảm được nhiều điều mà thơ của những thế kỷ trước đây không nói
đến. Các nhà thơ ngày càng nhạy cảm hơn trước những vấn đề của tồn tại người
trong tương quan với nhiều sự việc mới của thế giới bên ngoài. Thế giới khách
quan ngày càng được nhìn nhận khác hơn trong nghệ thuật nói chung và trong thơ
nói riêng. Và sự cảm nhận các hình ảnh tự nhiên cũng thay đổi theo thời gian.
Việc người hiện đại nhìn thấy một cách khác đi cái thế giới bên ngoài so với
người xưa cho thấy, đối với đời sống tâm hồn, không tồn tại một sự vật “đúng
như nó vĩnh viễn”, bởi vì tâm hồn chỉ trải nghiệm mối quan hệ luôn thay đổi của
nó với các sự vật theo thời gian. Mối quan hệ với các sự vật không chỉ thay đổi
mà ngày càng nhiều hơn. Nhưng tự nhiên lại không nhiều hơn trong ý nghĩa mà
khoa học nhìn thấy tự nhiên nhiều hơn bằng các thiết bị công nghệ; vì sự trợ
giúp của các thiết bị chỉ làm gia tăng phạm vi nhìn thấy chứ không phải là bản
thân tự nhiên được làm cho nhiều lên. Ngôi sao đã có ở đó từ xa xưa trước khi
mắt của các nhà khoa học nhìn thấy nó. Đó là chưa nói đến với nỗ lực “đi vòng
quanh sự vật”, khoa học cần phải loại bỏ yếu tố tâm hồn khi tiếp cận sự vật, sự
việc để nhận thức chúng trong sự khách thể hóa thuần túy, không cần đến yếu tố
chủ quan, trong tinh thần “phi nhân hình hóa” (György Lukács). Như vậy, nếu
Nguyễn Trãi không viết về những vấn đề của Nguyễn Du thì không phải do Nguyễn
Trãi không nhận ra chúng, mà là vì chúng chưa tồn tại thời ông sống. Nếu nỗi
đau của Nguyễn Du không được người ta viết ra hàng ngàn năm trước thì không
phải do không có nhà thơ biết thực hiện việc đó mà bởi vì những nỗi đau đó của
Nguyễn Du chưa có trước đây.
-2-
Thời Trung đại, ở châu Âu, tâm
hồn con người lang thang trên mặt đất mà vẫn không thiếu quê hương, bởi vì nó
tin rằng quê hương chính là Thiên đường. Thấm đẫm tinh thần tôn giáo, các nhà
thơ hướng tới Thiên đường nên thơ ca Trung đại ở châu Âu thường không thể hiện
những trạng thái sống như thơ châu Âu thời hiện đại, khi cái tôi trữ tình cô
đơn đã được bao bọc bằng những hình ảnh của chính mình nơi trần thế. Có ba chủ
đề mang lại âm hưởng cơ bản cho thơ hiện đại, trở thành cảm thức nguồn, đó là
cô đơn, khát vọng và khoảnh khắc. Những chủ đề này không có trong thơ Trung đại
ở châu Âu, bởi vì đời sống tôn giáo không để cho tâm hồn cô đơn. Người ta cảm
thấy mặc dù đang ở giữa những kẻ thù thì vẫn không ở giữa những người xa lạ.
Sau thời Trung đại, khi xa rời tôn giáo, tâm hồn con người bắt đầu cảm thấy mình
xa lạ, luôn khao khát trở về nhà. Tuy nhiên, kể cả khi vắng bóng tôn giáo thì
sự cô đơn của người hiện đại cũng không đến ngay. Có thể nói, thơ trữ tình thời
Phục hưng cũng chưa biết đến nỗi cô đơn trong ý nghĩa mà sau này thơ hiện đại
quan niệm, bởi vì cho dù tôn giáo ngừng ảnh hưởng thì các tư tưởng xã hội vẫn
được thể hiện giữa những tầng lớp người có học thức. Cái cô đơn trong thời kỳ
này vẫn chưa trở thành vấn đề lớn giữa con người với nhau. Chính vì thế thời
Phục hưng, thơ trữ tình vẫn chưa phải là thơ của tâm hồn cô đơn. Với sự xuất
hiện của Rousseau, bắt đầu một thời kỳ nổi dậy của tâm hồn chống lại thứ văn
hóa đã bị đồ vật hóa, nơi tâm hồn không cảm thấy mình đang ở nhà, vì tâm hồn
bấy giờ mới thấy tự nhiên đang rời xa, sắp đánh mất nó.
Thơ hiện đại nhận từ cái khoảnh
khắc một ý nghĩa lớn khi trong đời sống hiện đại một khoảnh khắc có thể lóe lên
điều gì đó, ẩn giấu ý nghĩa và hạnh phúc của cả cuộc đời, để rồi nó sẽ mất đi
vĩnh viễn. Trong cái thoáng qua chớp nhoáng đó thi sĩ vẫn cảm nhận được nhiều
hơn cái đời sống lê thê kéo dài. Ta có thể thấy tinh thần đó trong thơ Xuân
Diệu:
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.
Thi sĩ hiện đại nắm bắt khoảnh
khắc như nắm bắt mùi hương thoảng qua. Trong các nền văn học xa xưa, ý nghĩa
của cái khoảnh khắc này còn xa lạ, vì các nền văn học tôn giáo chỉ biết đến
những giá trị ổn định. Trong thơ hiện đại, khoảnh khắc là một trong những hình
thức xuất hiện của nỗi cô đơn, giống như khát vọng vậy. Bởi vì người hiện đại
không chỉ cô đơn trong không gian mà còn cô đơn cả trong thời gian. Cô đơn thời
gian là khi con người một mình trong cái khoảnh khắc hiện tại, xa cách quá khứ,
đối diện với tương lai bấp bênh, mờ mịt. Nỗi cô đơn này khủng khiếp hơn nỗi cô
đơn không gian, vì con người không chỉ xa lạ với môi trường sống của mình mà cả
với chính mình; cảm nhận được sự xa lạ trước chính mình của quá khứ và của
tương lai. Trạng thái sống này chính là nguyên nhân làm cho cái tôi trữ tình
bất an trong từng giây phút (khoảnh khắc) sống.
Chủ thể trữ tình phản ứng như
thế nào trước các giá trị bị đánh mất? Khoảng cách làm cho thi sĩ hiện đại nhạy
cảm hơn và thấy rõ hơn các sự vật, sự việc; trong đau khổ, mất mát mới thấy rõ
hơn sức mạnh của niềm tin vào sự huyền nhiệm. Chúng tôi nghĩ đến Hàn Mặc Tử.
Đúng như nhà phê bình văn học Đặng Tiến đã viết rằng: “Người Kitô giáo quan
niệm đau thương như một huyền nhiệm, nhưng hữu hạn, trước Thượng đế là một
huyền nhiệm, vô hạn. Tôi thành thật nghĩ rằng Hàn Mặc Tử đã an vui được trong
Đau thương – một hoàn cảnh thể xác vật chất và tinh thần làm chúng ta phải rùng
minh – là nhờ huyền nhiệm đó, nhờ sức mạnh của xác tín" (1).
Chính niềm tin vào cuộc sinh tồn
của linh hồn ở một thế giới khác là sức mạnh cội rễ trong thơ Hàn Mặc Tử. Ở
Pháp, thơ tôn giáo của Verlaine tha thiết hơn các thánh ca thời Trung đại, bởi
vì thời Trung đại người ta khao khát Thiên đường, nơi người ta tin tưởng, còn
Verlaine thì khao khát Đức tin. Khi con người nhận ra nó đang trở nên xa lạ
trong nền văn minh đã bị đồ vật hóa, lúc đó con người mới ý thức về tự nhiên
một cách cụ thể. Trước Rousseau, các nhà thơ cũng thường nói về rừng, đồng
bằng, mây, gió, cỏ, hoa, nhưng thiên nhiên chưa hiện lên trong thơ họ như một
cái gì thống nhất. Trong thơ lãng mạn phương Tây, tự nhiên luôn là đối tượng hướng
đến của những tâm trạng chung chung. So với thơ thời Trung đại, trong thơ lãng
mạn ở phương Tây tự nhiên đã mang tâm trạng, nhưng tâm trạng đó cũng chỉ mới
liên quan đến toàn bộ tự nhiên như một cái gì đã bị đánh mất, đến ngôi nhà xưa
hạnh phúc đã bị bỏ rơi.
Thời kỳ đầu của thơ lãng mạn,
Byron, Shelley, Holderlin, Novális đều viết về cỏ, hoa, mây gió, nhưng những
hình ảnh này chưa thể hiện cái tâm trạng đặc biệt và cụ thể của mỗi thi sĩ. Với
việc đánh mất cảm thức tôn giáo tâm hồn vẫn chưa đơn chiếc ngay, nó chưa vội
đầu hàng trước sự khác biệt của nền văn minh mới. Nó đã cảm thấy sự cô đơn,
nhưng chưa chấp nhận. Tâm hồn biết rằng nó không còn ở nhà mình, trong cái thế
giới mà nó gắn bó, nhưng nó vẫn tìm kiếm ngôi nhà hạnh phúc của mình ở nơi nào
đó. Ngôi nhà của tâm hồn có ở đâu đó. Đây là âm hưởng chính của thơ lãng mạn.
Nếu tâm hồn của thi sĩ thời Trung đại tự tin có ngôi nhà của mình ở đâu đó thì
tâm hồn của thi sĩ lãng mạn lại tìm kiếm “cái ngôi nhà khác” một cách do dự. Có
thể nói, bước ngoặt lớn, cơ bản nhất của văn học hiện đại nói chung và thơ hiện
đại nói riêng được bắt đầu bằng Franz Kafka.
Không phải ngẫu nhiên người ta
gọi nhà văn này là thi sĩ, người mở đường cho chủ nghĩa hiện đại. Trong thế
giới nghệ thuật của Kafka, đối với cái Tôi thế giới trở nên xa lạ, đối với thế
giới cái Tôi trở nên xa lạ. Số phận của con người bị kết án là phải chết một
cách cô đơn, thê thảm “như con chó”! Nỗi lo âu và sự tha hóa là những hiện
tượng đi cùng với nhau, cùng tăng lên hoặc giảm đi trong quá trình lịch sử nhân
loại. Về phương diện này, có thể nói lịch sử nỗi lo âu của con người là nét đặt
trưng của lịch sử nhân loại. Xã hội phát triển đồng thời với việc phát sinh
những nỗi lo âu mới, bên cạnh nỗi lo sợ có nguồn gốc tự nhiên đã xuất hiện nỗi
lo sợ có nguồn gốc xã hội mà cơ sở của nó là sự tha hóa giữa con người với con
người. Như vậy, bên cạnh nỗi lo sợ Thượng đế đã xuất hiện nỗi lo sợ con người.
Tuy nhiên, về mối quan hệ giữa nghệ thuật và tôn giáo, chúng tôi muốn nói thêm
rằng, việc tôn giáo cắt đứt mối liên hệ với thực tiễn, xem những tưởng tượng
huyền ảo của nó là hiện thực hơn cả hiện thực, vẫn không loại trừ sự hòa hợp
giữa phản ánh nghệ thuật và phản ánh tôn giáo trong một thời kỳ dài của lịch sử
có sự trùng hợp về hình thức. Mối quan hệ này thể hiện qua việc tôn giáo đã sử
dụng nghệ thuật để truyền bá các tư tưởng của nó và nghệ thuật cũng có thể lấy
những đề tài rút ra từ các mô típ tôn giáo, như chúng ta đã biết.
-3.-
Không ai nghi ngờ những ảnh
hưởng của thơ phương Tây, cụ thể là thơ của các nhà thơ lãng mạn Pháp đối với
các nhà Thơ Mới ở Việt Nam trước năm 1945. Nhưng sẽ không thấy hết những nét
độc đáo trong tư duy nghệ thuật của các nhà Thơ Mới Việt Nam nếu chúng ta mô
hình hóa thế giới nghệ thuật của họ bằng các khái niệm quen thuộc. Các chủ đề
cô đơn, khát vọng và khoảnh khắc của thơ hiện đại phương Tây mà chúng tôi đã
nói ở trên cũng là những chủ đề chúng ta có thể tiếp cận trong Thơ Mới. Nhưng
nhận xét từng chủ đề đó trong thơ của các nhà Thơ Mới trong tương quan với bối
cảnh xã hội và văn hóa Việt Nam đặc thù, thì chúng ta sẽ thấy những yếu tố khác
biệt của sự nhạy cảm thi sĩ. Ví dụ, có thể xem chủ đề cô đơn của cái tôi trữ
tình trong thơ Huy Cận cũng xuất phát từ trạng thái của kẻ mất Thiên đường,
nhưng đó là trạng thái của cái tôi Việt Nam trong giai đoạn Thơ Mới “vừa thoát
khỏi bào thai cái ta làng xã cổ truyền ngàn năm trong cuộc trở dạ hơn thế kỷ,
cái tôi thị dân hiện đại sau những phấn chấn ban đầu (khởi nghĩa Yên Bái năm
1930) đã rơi ngay vào sự cô đơn”(2). Không gian Lửa thiêng của Huy Cận là sự
hóa thân của quá khứ đẹp đẽ giống như Thiên đường trong thơ phương Tây, nhưng
đúng như Đỗ Lai Thúy nhận xét: “Không gian trần thế của Lửa thiêng bao giờ cũng
có tính nước đôi. Một mặt đó là tính chất vĩnh cửu, vô hạn; mặt khác, bao giờ
cũng có những giới hạn, bởi chúng được nhìn bằng cái nhìn định hướng… Khát vọng
cao nhất của chủ thể trữ tình trong thơ Huy Cận là chiếm lĩnh không gian như
một đối tượng thẩm mĩ. Khi đó con người trở thành không gian và không gian trở
thành con người, không còn sự phân biệt chủ thể - khách thể nữa” (3).
Nếu tư duy tiền hiện đại đã khám
phá những mối liên hệ bề mặt có thể cảm nhận được của thế giới thì tư duy hiện
đại phát hiện ra rằng những mối liên kết bề mặt không phải do những quy tắc bề
mặt cụ thể dẫn dắt mà là do những hình thức ổn định, ẩn kín; những cấu trúc
trừu tượng được xác lập một cách bài bản chi phối. Tư duy hiện đại muốn nhìn ra
phía sau cái bề mặt của sự vật. Những phát hiện của Sigmund Freud cho thấy có
cái cấu trúc gì đó sâu lắng, không thể tiếp cận được nhưng lại luôn luôn hoạt
động đằng sau ý thức của con người. Cái vô thức không thể cảm nhận và đo đếm.
Tư duy hiện đại đã sử dụng một số cặp khái niệm mâu thuẫn rất đặc trưng như cái
có thể nói ra và cái không thể nói ra; bí mật và công khai; bản chất và hiện
tượng; chính thức và không chính thức; cái ngẫu nhiên chốc lát và sự tất yếu
vĩnh hằng… Như vậy, chúng ta không thể tiếp cận được bản chất của đời sống ở
một bình diện duy nhất, bởi vì đời sống không chỉ có một bề mặt, nơi các sự
việc xảy ra tiếp nối nhau. Không thể lý giải các sự kiện của đời sống bằng quy
luật nhân quả hay bằng hệ quy chiếu nào đó mà chúng ta đã thấy ở hệ hình tư duy
tiền hiện đại, vì đời sống không chỉ có các sự việc xảy ra liên tục, được ẩn
giấu nơi bề mặt. Vượt lên điều đó, tư duy hiện đại đã lấy cá nhân làm cơ sở cho
mọi sự hiểu và chiêm nghiệm đời sống. Mâu thuẫn giữa cái bên trong và cái bên
ngoài, giữa tự do và thực tại, giữa ấn tượng và lí trí, giữa giới hạn và khát
vọng là những đặc điểm của văn học nghệ thuật hiện đại nói chung, thơ hiện đại
nói riêng. Những câu thơ của Thanh Tâm Tuyền đã thể hiện một cách sâu sắc và
độc đáo cái trạng thái sống đó:
Tôi buồn khóc như buồn nôn
ngoài phố
nắng thủy tinh
tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ
thanh tâm tuyền
… Tôi thèm giết tôi
loài sát nhân muôn đời
tôi gào tên tôi thảm thiết
thanh tâm tuyền
bóp cổ tôi chết gục
để tôi được phục sinh
… Tôi thèm sống như thèm chết
giữa hơi thở giao thoa
ngực cháy lửa
tôi gọi khẽ
em
hãy mở cửa trái tim
tâm hồn anh vừa sống lại thành trẻ thơ
trong sạch như một lần sự thật.
(Phục sinh)
-4-
Khó có thể nói về hậu hiện đại
một cách chính xác, vì nếu nó tồn tại thì thời hiện tại của chúng ta là thời
hậu hiện đại, như vậy thì làm sao nói được thấu đáo về cái mà chúng ta chưa có
thời gian tách bạch? Do không đủ điều kiện để phán xét một cách chính xác nên
tên gọi của phương thức tư duy mới này chỉ cho thấy đối diện với hiện đại là
cái đang trôi đi, là hậu hiện đại.
Hậu hiện đại có mối quan hệ với
xã hội hậu công nghiệp. Xã hội hậu công nghiệp là hình thức xã hội đặc trưng
của thời hiện đại, nơi hiệu quả của hệ thống sản xuất công nghiệp đóng vai trò
trung tâm. Năm 1985, nhà nghiên cứu Ihab Hassan đã nói đến hai cách cảm nhận
khác nhau của chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại. Theo đó, sự khác
biệt lớn nhất giữa chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại là trong khi chủ nghĩa
hiện đại (trừ chủ nghĩa đa đa và chủ nghĩa siêu thực) đã tạo ra cho mình các
hình thức độc đoán, mẫu mực, thì chủ nghĩa hậu hiện đại hướng về nghệ thuật
Pop, chấp nhận sự trớ trêu của các sự vật rơi vãi hỗn loạn. Trong khi các nghệ
sĩ hiện đại cố gắng bảo vệ mình trước nhận thức về sự hỗn loạn vũ trụ, liên
quan đến tính dễ phá vỡ của tâm điểm những điều mà họ cảm nhận, thì các nghệ sĩ
hậu hiện đại chấp nhận cái hỗn loạn và sống với nó trong mối quan hệ sâu sắc,
chặt chẽ. Việc các nhà hậu hiện đại chấp nhận sự phá vỡ mọi sự độc đáo trung
tâm đã dẫn đến việc họ chấp nhận sự hỗn loạn, thậm chí họ đã hòa đồng với mọi
sự hỗn loạn một cách bí ẩn. Không phải các sự vật, sự việc, mà là lời nói quy
định ý nghĩa cho con người. Việc biết một thứ tiếng, một cách nói sẽ quyết định
chúng ta có thể thấy điều gì. Chúng ta sinh ra vào ngôn ngữ, vào lời nói chứ
không phải vào thế giới, giữa các sự vật. Michel Foucault đã hơn một lần khẳng
định như vậy. Nhìn từ lịch sử triết học thì hậu hiện đại có nghĩa là sự chấm
dứt và phê phán nguyên lý trung tâm của cái tôi René Descartes. Đối diện với
“Tôi tư duy vậy thì tôi tồn tại”, Foucault đã thể nghiệm cái nhìn mới về lịch
sử - xã hội và chỉ ra sự thiếu vắng tâm điểm của chủ thể. Hậu hiện đại cố gắng
giải thích sự liên hệ của các ký hiệu và hình ảnh với thế giới và hiện thực bên
ngoài, nó không tin cậy vào sự mô tả hiện thực của các ký hiệu và hình ảnh, vì
cho rằng ngôn ngữ giảm thiểu và làm méo mó hiện thực… Từ đây mà có sự thay đổi
vị thế của chủ thể và tri thức trong hậu hiện đại. Cơ sở tri thức của hậu hiện
đại không phải là tư tưởng phổ quát, mà là tập hợp các chiến lược tư duy không
thuần nhất, được tạo ra thông qua cộng đồng người không thuần nhất.
Văn học thế giới đã đi qua tinh
thần đó với nhiều tác phẩm mang yếu tố hậu hiện đại. Tuy vẫn còn có những nền
văn học chưa hội đủ điều kiện hậu hiện đại, chưa đặt ra những vấn đề hoàn toàn
giống như ở các nước phương Tây, nhưng không phải vì thế mà nói rằng các nền
văn học đó thấp kém. Hậu hiện đại như một trạng thái và như một đặc điểm chứ
không phải là mục đích hướng đến của mọi nền văn học. Và một khi là trạng thái
thì nó sẽ tự đến và qua đi để nhường chỗ cho những trạng thái khác. Những đặc
điểm của xã hội Việt Nam sau chiến tranh, đang ở giai đoạn hiện đại hóa, công
nghiệp hóa đã chi phối sự nhạy cảm của chủ thể trữ tình trong thơ Việt Nam
đương đại. Cô đơn, khát vọng và khoảnh khắc vẫn là những chủ đề được nói đến
với tâm thức sáng tạo mới liên quan đến cách nhìn khác về thực tại. Có thể
trong cái mới và cái khác đó cũng đang xuất hiện những dấu ấn của chủ nghĩa hậu
hiện đại?
Thế kỷ XX đã khép lại được 16
năm. Đó là một thế kỷ mà trí năng đã tỏ ra bất lực trước đời sống và mọi sự lý
giải về đời sống dường như chống lại đời sống. Một thế kỷ đối diện với nghèo
đói, bạo lực, ô nhiễm môi trường và cô đơn tập thể trong sự bất khả kháng của
con người đang trở thành trạng thái phổ biến của thế giới. Một thế kỷ mà trật
tự thế giới luôn được điều chỉnh trước những biến động chính trị và sự phân cực
của các hệ thống quyền lực, nhưng con người thì vẫn bị lãng quên ngay trong
chính những việc mà người ta thực hiện nhân danh lợi ích của con người. Một thế
kỷ mà loài người vẫn chưa tìm ra chìa khóa đích thực mở đường cho tiến bộ xã
hội; và bản thân đời sống hiện đại, về một phương diện nào đó, vẫn chỉ là sự
kéo dài của những giá trị thời trung cổ, trong những hình thức mới của nó mà
thôi!
Thế kỷ XXI đã bắt đầu được 16
năm. Con người chuyển từ trạng thái bất khả kháng sang trạng thái không số
phận, một hình thức mới của sự tha hóa, hệ quả của sự cưỡng đoạt số phận cá
thể. Xin đừng hỏi thơ có thể làm được gì trong một thế giới mà con người đang
tiếp tục bị lãng quên. Thơ có thể và cần phải nói được nhiều hơn về con người
theo cách của thơ. Không phải chỉ có tiểu thuyết mới cần phải khám phá những
khía cạnh mới, phức tạp hơn, bí ẩn hơn của đời sống. Và cũng không phải chỉ có
tiểu thuyết đang đứng trước nguy cơ bất lực trong việc khám phá cái bản thể của
tồn tại đã bị tư duy giáo điều với hệ thống các quy ước đầy tính thực dụng của
thời hiện đại bỏ quên, mà ngay cả thơ hiện đại cũng đang ở trong tình trạng đó.
___________________
(1) Đặng Tiến: Vũ trụ thơ, Giao
Điểm, Sài Gòn, 1972, tr.103.
(2) Đỗ Lai Thúy: “Huy Cận, sự
khắc khoải không gian”, trong sách Huy Cận về tác gia tác phẩm. Nxb. Giáo dục,
H., 2000, tr.330.
(3) Đỗ Lai Thúy: “Huy Cận, sự
khắc khoải không gian”, trong sách Huy Cận về tác gia tác phẩm. Nxb. Giáo dục,
H., 2000, tr.331-332.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
Chuyện làng văn0
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
- Bạn đọc cảm nhận
về thơ của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ VỀ ĐI EM:
Đinh Như Quang giới thiệu
Tác giả: Trương
Đăng Dung - nguồn: vannghequandoi
Ảnh minh họa sưu tầm
từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét