NGÔN NGỮ LỆCH CHUẨN:
SỰ THỬ THÁCH NĂNG LỰC SÁNG TẠO
Tất cả các loại ngôn ngữ khi sử dụng đều phải chuẩn xác, duy
nhất có ngôn ngữ thơ được phép lệch chuẩn, điều này là cơ hội thuận lợi cho thơ
đồng thời cũng là thử thách, trách nhiệm của các nhà thơ. Trong trách nhiệm
thẩm mỹ, có trách nhiệm làm mới, làm phong phú, làm đẹp ngôn ngữ dân tộc.
Ngôn ngữ nào cũng đều có những hệ thống quy tắc, quy ước chặt
chẽ. Đó là trật tự mà mọi người khi sử dụng đều phải tuân thủ. Đặc biệt, ngôn
ngữ chuyên ngành có những đặc thù riêng. Chẳng hạn:
– Ngôn ngữ giao tiếp
– Ngôn ngữ thông tấn báo chí
– Ngôn ngữ sư phạm
– Ngôn ngữ tôn giáo
– Ngôn ngữ ngoại giao
– Ngôn ngữ khoa học
– Ngôn ngữ văn học nói chung và thơ nói riêng…
Mỗi loại ngôn ngữ đều có nét chung phổ quát đồng thời có nét đặc
thù riêng, luôn tạo lập sự ổn định cần thiết, đó là những chuẩn mực thượng tôn.
Duy chỉ riêng ngôn ngữ thơ là có sự “lệch
chuẩn” mà các loại ngôn ngữ khác đều không được phép.
Xin nêu một số ví dụ:
Người đi mỏi phố
mùa chưa cúc
(Hải Từ)
Đi bộ trên hè phố, đi nhiều thì mỏi chân, sao
tại “mỏi phố”?
Đàn cừu đi giữa tung
tăng
Làm hương cỏ rối dậy
hăng núi đồi
(Trên Cao Nguyên – Lê Đình Cánh)
Cừu ăn cỏ, chúng đi, chạy tung tăng giữa thảo nguyên chứ,
sao lại “giữa tung tăng”?
Ai tình tứ cho cả chiều
bờ ngỡ
Liền chị xa biền biệt
nỗi giăng mùng.
(Một chút giăng mùng – Phan Quế)
Đi xem hội Xuân, lạc vào vùng quan họ, chị đã bén hơi yêu, về
nhà nhớ vụng, thương thầm. Ban ngày chắc là bận rộn công việc, chỉ đến đêm, lúc
giăng mùng đi nằm mới thao thức nỗi thương thầm thì mới phải, sao
lại “nỗi giăng mùng?
“Chúng mình định mệnh
vào nhau
Bằng bao hạnh phúc,
bằng bao ngậm ngùi”
(Chiều thứ tư – Nguyễn Văn Hàm)
Do định mệnh mà hai chúng mình được gắn kết vào nhau, sao
lại “định mệnh” vào nhau?
Những câu thơ trên đây về trật tự thông thường của ngữ nghĩa có
vẻ như không ổn, cứ như của người nước ngoài mới học tiếng Việt, diễn đạt vụng
về? Khi thì hai danh từ bị đặt nhầm vị trí của nhau (thí dụ 1); khi thì trạng
từ đặt vào vị trí của danh từ (td2); khi thì động từ đặt vào vị trí cửa danh từ
(td3); khi thì danh từ đặt vào vị trí động từ (td4)…
Nhưng thử xem lại, đây có phải sự nhầm lẫn không.
Thí dụ 1, xin chép lại cả bài:
Vàng thu
Lác đác hoàng lan
lất phất thu
Hồ run mặt sóng
thoảng sương mù,
Người đi mỏi phố
mùa chưa cúc
Sắc áo vàng kia
nở sớm ư?
Không có chữ anh, em nào nhưng vẫn hiển hiện là bài
thơ tình. Trong tâm trạng của người đang yêu, đang mong đợi nên cảm nhận về
ngoại cảnh có khác: lất phất thu, hồ run… tức là ngoại cảnh đã hòa
với nội tâm. Hai câu trên đã chuẩn bị cho câu thứ ba xuất hiện: đường phố đã
đồng cảm với con người, vì vậy người đi mà cảm thấy “mỏi phố”, tưởng phi lý mà rất hợp
lý. Nhờ hai câu trên, lô-gic hình thức đã chuyển qua lô-gic nội dung. “Mỏi chân” là lô-gic hình thức; “mỏi
phố” là lô-gic nội dung. “Mỏi chân”
là cảm giác của người… bộ hành; “mỏi phố”
là cảm giác của người tình thơ. Cái sự “đặt nhầm vị trí” này là một sáng tạo
bất ngờ, là điểm sáng của bài thơ, mang lại cho tác giả giải cao nhất cuộc thi
thơ tứ tuyệt Tài Hoa Trẻ lần thứ nhất 1996 – 1998.
Ở thí dụ thứ 2, giữa thảo nguyên mênh mông, ngắm đàn cừu, nhà
thơ vui như chính mình được chạy nhảy tung tăng với chúng, trẻ lại, hồn nhiên,
ngây thơ như… con cừu. Trong tâm trạng ấy, nhà thơ có “đặt nhầm” vị trí từ loại
thì cũng là cái “nhầm đáng yêu” làm cho câu thơ đẹp hơn, hay hơn. Thơ là hiện
thực được phản ánh qua tâm trạng nhà thơ. Chữ “tăng tung” thể hiện được điều
ấy.
Ở thí dụ 3, “xa biền biệt”
thì chuyện “thương thầm” là quá hiển
nhiên! Nhà thơ viết “nỗi giăng mùng”
hình ảnh này gây ấn tượng, xao động tâm tư, gợi nhiều liên tưởng: giăng mùng,
trải chiếu thường nghĩ đến chụyện lứa đôi, hạnh phúc, đằng này lại xa biền
biệt, “hoàn cảnh” quá!
Ở thí dụ 4, không cần dùng chữ “gắn kết” mà được gắn kết nhiều
hơn qua chữ “định mệnh”. Chữ này có
tỉ trọng lớn bởi nó gắn với số phận, với triết lý nhân sinh, đặt vào đây làm
cho câu thơ trở nên nặng ký.
Xin dẫn thêm một số câu thơ “nhầm lẫn sáng tạo” khác.
Tính từ đặt vào vị trí của danh từ:
Tôi đong thêm mấy hao
gầy
Mở ngày tháng đế chất
đầy tương tư
(Khúc dịu êm – Đỗ Trung Lai)
Danh từ đặt vào vị trí của tính từ:
Không dưng chiều trở
gió
Nắng đã mùa xa
xôi
Tóc người còn
hong đó
Giờ đã buồn sang tôi
(Gương mặt – Nguyễn Đức Hạnh)
Ngỡ không thơm nữa
trăng ngày cũ
Cuối ngõ khuya về bưởi
mới hương
(Hương muộn – Lương Hữu)
Đoạn thơ sau đây của một nhà thơ cao tuổi, ông khéo “phá trật
tự”, hoán đổi vị trí từ loại làm cho thơ hồn nhiên mới mẻ:
Hạt mưa chèo bẻo
Nhặt nắng xiên khoai
Hạt mưa hoa nhài
Tàn đêm kỹ nữ
Hạt mưa sành sứ
Vỡ gạch Bát Tràng
Mưa gái thương chồng
Ướt đầm nắng quái
Sang đò cạn sông
(Mưa – Hoàng Cầm)
Đoạn thơ này gợi nhớ câu ca dao: Thân em như hạt mưa sa/ Hạt vào vườn cải, hạt ra vườn đào/ Thân em như hạt
mưa rào/ Hạt ra đồng cỏ, hạt vào đồng hoa/ Thân em như hạt mưa sa. Trong
đoạn thơ trên, Hoàng cầm khéo thay đổi hình ảnh mưa quen thuộc mưa sa, mưa
rào thành những hạt mưa khác lạ, mỗi hạt mưa này lại đi kèm một danh
từ (chèo bẻo, hoa nhài, sành sứ) và cụm từ (gái thương chồng). Qua
những hình ảnh hạt mưa mới lạ ấy, người con gái hiện lên với cảnh ngộ khác với
câu ca dao xưa nhiều lắm. Họ đã bắt đầu ý thức được cuộc vận động đổi đời. Vẫn
là thân phận hạt mưa đấy, nhưng họ có thể chủ động lựa chọn ở chừng mực nhất
định. Bởi thời nào cũng vậy, người phụ nữ vẫn gánh chịu sự thiệt thòi về phận
giới. Ở đây có bóng dáng “hạt mưa”
rơi vào vườn cây thôn dã, có tiếng chim chèo bẻo chia sẻ buồn vui, có “hạt mưa” lạc ra phố thị với hương hoa
nhài tàn đêm kỹ nữ, có “hạt mưa” làm
lụng vất vả đêm ngày đất, lửa sành sứ… Rồi “hạt
mưa” bận bịu chồng con, sang đò cạn sông. Có lẽ là dòng sông nước mắt khóc
cạn đó sao? vẫn là những số phận, những cảnh ngộ, tâm trạng mà nhà thơ không
thể thờ ơ.
Nhờ có sự lao động thơ công phu, đầy sáng tạo ấy, Hoàng Cầm đã
đưa những hạt mưa thân phận đến với những nội dung mới, gắn với sự chuyển động
của cuộc sống. Ở đây hình ảnh đã được nâng cấp lên thành những hình tượng.
Hóa ra những thí dụ vừa nêu trên không phải do “vụng về, nhầm
lẫn”, mà chính là những thủ pháp nghệ thuật cao cường. Mỗi lần độc chiêu này
được tung ra là tạo nên tia chớp lóe đủ làm ta giật mình gây ấn tượng và tác
động mạnh. Trước hết nó tạo nên sự bất thường, mới lạ; nó xóa đi cái trật tự
quen thuộc đễ gây nhàm chán. Trong tác phẩm văn học, sự nhàm chán là điều tối
kị, dễ khai tử cho tác phẩm ngay từ lúc tác phẩm vừa mới lọt lòng. Thứ hai,
những từ ngữ khi được chuyển dịch vị trí, nó tạo nên phản ứng mới, hình
thành cụm từ mới trong một tập hợp mới. Nhờ vậy nó chứa đựng nhiều
năng lượng bùng phát mà trước đó bị mai một theo thời gian. Thứ ba, cô đọng,
hàm súc nói ít, gợi nhiều.
Trong hội họa cũng có hiện tượng tương tự đó chăng? Vẽ không
thật giống mà lại giống hơn thật. Thật ở cái thần hồn, thần thái. Chẳng hạn như
họa sĩ Bùi Xuân Phái, ông vẽ phố Hà Nội, hầu như chả hình ảnh nào “chuẩn xác”.
Từ cái cột đèn, bức tường, mái ngói đến chiếc xe xích lô, xe đạp, con người…
thảy đều xiêu lệch nghiêng ngả như trong cơn say. Như thể ông vẽ trong mơ…
Nhưng lạ lùng sao, chính những hình ảnh xiêu lệch kia nó lại hút hồn người xem
và ám ảnh không nguôi. Phải chăng là bậc kỳ tài mới tạo nên được những tác phẩm
như vậy. Các nhà thơ lớn của Việt Nam nói chung họ đều có những sáng tạo độc
đáo làm nên “thương hiệu” riêng. Sinh thời, nhà thơ Xuân Diệu có lúc nói
vui: “chiều lỡ thì” là made
in Xuân Diệu (Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì”; còn “gió thất tình” là “made in” Nguyễn
Bính (Gác trọ còn nguyên gió thất tình), đừng anh nào cầm nhầm nhé.
Rất mong mỗi nhà thơ có nhiều những câu thơ “thương hiệu” như
thế để mỗi người là một thế giới sáng tạo riêng, không lẫn vào nhau được.
Quy luật vận động của ngôn ngữ luôn gắn với quy luật vận động
của đời sống: trật tự luôn được định hình và luôn bị phá vỡ để thiết lập trật
tự mới. Trên đây là tôi chọn những câu thơ hay làm ví dụ cho những thành công
trong sáng tạo ngôn từ còn những ví dụ cho sự thất bại thì ta thường gặp đây đó
quá nhiều. Còn như những trường hợp không lao động sáng tạo ngôn từ chi cả, tác
giả vẫn chỉ dùng những ngôn ngữ giao tiếp thông thường, những ngôn ngữ chuyên
ngành đã cũ mòn để đặt thành “thơ”, đọc lên thấy chung chung, thiếu hồn vía,
tinh thần, câu thơ dễ thành nhạt nhẽo tầm thường, đó là những bằng chứng của sự
thất bại.
Tất cả các loại ngôn ngữ khi sử dụng đều phải chuẩn xác, duy
nhất có ngôn ngữ thơ được phép lệch chuẩn, điều này là cơ hội thuận lợi cho thơ
đồng thời cũng là thử thách, trách nhiệm của các nhà thơ. Trong trách nhiệm
thẩm mỹ, có trách nhiệm làm mới, làm phong phú, làm đẹp ngôn ngữ dân tộc.
Tuy nhiên sự “lệch chuẩn” này giống như con dao hai lưỡi, nó có
thể phá vỡ, làm hỏng bài thơ cũng có thể đưa bài thơ lên đỉnh vinh quang chói
sáng. Khoảng cách giữa thất bại, thành công chỉ bằng nửa đường kính sợi tóc,
đây phải chăng là sự thử thách năng lực sáng tạo của nhà thơ?
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Bạn đọc cảm nhận
về thơ của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
bài thơ “Quê Nghèo” của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc
truyện ngắn
CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ của Đặng Xuân
Xuyến:
*.
NGUYỄN VŨ TIỀM
Địa chỉ: số nhà 49A/22 phố Phan Đăng Lưu,
quận Phú Nhuận, thành phố Sài Gòn.
Email: vutiemnguyen@yahoo.com.vn
Điện thoại: 0909.450.871
..........................................................................................................
- Cập nhật từ email:
tahongtruong@yahoo.com.vn ngày 23.12.2019
- Ảnh minh họa cho bài
viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể
hiện quan điểm của blog trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét