ĐẤT KHÁCH
(Như cánh chim câu)
Trường Thomas Muenzner của tôi là trường hệ 12 năm. Sân chơi rợp
bóng sồi, thoả sức cho chúng tôi chạy nhẩy. Ngôi trường nằm ngay dưới chân pháo
đài cổ Giebichenstein có hơn một nghìn năm tuổi. Cách không xa là dòng Saale,
nơi đây có cây cầu cong bắc qua, lúc nào nước cũng xanh ngăn ngắt một màu. Bên
kia bờ là vùng Heidenord, rừng phong đỏ ươm, phơi mình dưới ánh nắng vàng mỗi
độ thu về. Lớp 7b của tôi nằm trên tầng hai. Mỗi lần ra chơi, qua cửa sổ, tôi
vẫn dành ít phút đứng một mình, ngắm nhìn bức tranh tuyệt mỹ đó.
Sáng hôm ấy, bỗng nhiên ở khối 7 rộ lên tin đồn: có một con bé
người Việt Nam đi ăn mày ngoài chợ. Tin này thật tai hại, vì cả khối chỉ có
mình tôi là người Việt. Tôi sinh ra và lớn lên ở thành phố này, tôi biết rõ
rằng, vẫn còn có một số ít người Việt đi ăn cắp trong các siêu thị. Nhưng, đi
ăn xin thì tuyệt nhiên không. Chẳng phải chờ lâu, đến sáng thứ tư, câu chuyện
bị đẩy lên rất “nóng”. Ai đó đã tả con bé ăn xin đó giống tôi như đúc. Giờ ra
chơi, Vivien và Johanna thì thầm vào tai tôi:
- Mai! bạn có nghe thấy người ta đồn gì không?
- Mình chẳng liên quan gì tới chuyện ấy. Có nhiều người Việt
sống ở thành phố này, riêng gì tớ đâu. Hơn nữa người châu Á, mắt ai chả đen,
mặt ai chả tròn. Kệ họ, đồn chán không phải rồi lại thôi ấy mà.
Quả nhiên, chuyện cứ thế dịu dần rồi lặng hẳn. Trong lớp, lại
bắt đầu bàn tán về một chủ đề khác. Lớp tôi vẫn luôn như vậy.
Như mọi lần, chiều tối tôi lại mang theo chiếc ví nhỏ ra ngoài
chợ tìm xu rơi. Khi tôi đang lom khom định nhặt đồng 20 xu bỏ vào ví, thì bỗng
có một bàn chân đi giày cao cổ kiểu nhà binh dẫm lên. Tôi giật mình ngẩng đầu,
thì lạy trời! đó là thằng Daniel. Tại
sao nó lại có mặt ở đây và đúng lúc tôi đang nhặt xu thế này. Daniel đứng như
một cây sào, hai tay chống nạnh, răng nhe ra trông thật gớm giếc:
- Mai! Hoá ra lời đồn về mày là con bé đi ăn xin, quả là không
sai.
Bất ngờ quá, tôi không kịp phản ứng gì, thì Daniel nói luôn:
- Nếu như tao có gọi mày là đồ “mọi rợ” thì cũng không oan.
Nó cười hềnh hệch, dùng mũi giày di cho đồng xu chui hẳn xuống
đất, rồi ngoảnh mặt, chét nước bọt qua kẽ răng. Tay tôi run lên bần bật.
Vào đầu năm, lớp tôi nhận một học sinh mới, đó là Daniel. Tóc
cắt cua, áo jacke đen có mũ chùm đầu, chân luôn xỏ đôi giày da cao cổ, trông nó
như một tay “đầu trọc” chính cống. Daniel học rất kém, mà lại hay gây gổ đánh
nhau, thậm chí với cả những học sinh lớp trên. Nhưng nghiêm trọng hơn, Daniel
có thái độ khinh miệt những học sinh là người nước ngoài. Một lần trong giờ tập
thể thao, đang chạy, tôi bỗng nghe phía sau:
- Con mọi này, tránh ra cho tao lên!
Daniel lướt qua, nó dùng vai huých, làm tôi sút ngã. Một lần
khác, cô Wendler yêu cầu mọi người cóp-pi bài để chuẩn bị cho giờ sinh vật.
Daniel bảo tôi:
- Cóp-pi ít thôi! nước Đức không có đủ giấy mực cho chúng mày
đâu.
Trong lớp, đã có bạn nhìn thấy Daniel đứng rít thuốc lá với mấy
thanh niên hư ngoài phố. Cô chủ nhiệm đã nhắc nhở Daniel rằng, nếu điểm không
tốt hơn, có thể đến năm lớp 10, nó sẽ phải chuyển sang hệ học nghề. Mặc dù vậy,
chuyện vẫn như “nước đổ đầu vịt”.
Tôi đành phải bỏ đồng xu dưới chân Daniel, rồi ngậm ngùi trở về.
Cũng tiếc, với giá cả hiện tại, thì đồng 20 xu có thể mua được một quả trứng
gà. Đêm hôm ấy , trằn trọc không ngủ được, tôi nghĩ mãi về chuyện bị thằng
Daniel bắt tại trận. Sáng mai, nhất định nó sẽ làm ầm ỹ ở lớp. Tôi sẽ phải đối
phó thế nào đây?
Đúng như dự đoán - không thể nào khác được, vừa thấy tôi vào tới
cửa lớp, Daniel nhẩy ngay lên mặt bàn, gân cổ:
Ê! mọi người, hãy nghe tin mới đây!
Nó dừng một lúc, chờ lớp quay lại rồi nói tiếp:
- Mọi người có muốn biết con bé xin ăn ngoài chợ là ai không?
Tin tức thật giật gân. Một vài người sốt ruột, giục nó nói cho
nhanh. Daniel nhảy xuống, nhe bộ răng vàng khè vì cắn thuốc lá, hai tay đút túi
quần, nó đến sát bên tôi , giọng mỉa mai:
- Còn ai khác nữa, ngoài tiểu thư cóc nhái này. Có đúng không
thưa tiểu thư?
Cả lớp ồ lên một lượt, rồi quay lại nhìn tôi chờ câu trả lời. Đã
chuẩn bị trước, tôi bình tĩnh nở một nụ cười:
- Các cậu có thể tin vào con người này không?
Vivien và Johanna chen vào bênh tôi:
- Các bạn ơi! Daniel thì lớp ta đã biết rõ rồi mà. Thôi mọi
người về chỗ đi! cô sắp đến đấy. Tuy vậy, Vivien vẫn ghé tai tôi hỏi nhỏ:
- Mai! bạn nói đi, chuyện gì đã xảy ra vậy?
Tôi chưa kịp nghĩ ra câu trả lời, thì Daniel ngăn mọi người lại:
- Chờ cho một tý! Hãy xem cái gì đây!
Nó lấy trong túi ra chiếc điện thoại di động, rồi mở ảnh cho mọi
người xem. Tôi không ngờ rằng, cả một tuần qua, Daniel đã đi săn ảnh tôi nhặt
xu ngoài chợ. Nhưng để thuyết phục hơn, nó còn chụp được cả một bức ảnh, tôi
đứng bên chú Hans - một người ăn mày ngồi ở đầu đường Leipziger.
* *
*
Bến tàu điện Riebeckplatz nằm chếch ngay trước cửa nhà tôi. Đúng
ra là sau khi tan học, tôi lên tàu và đi
thẳng một mạch về nhà. Nhưng hôm nào có nắng ấm, tôi lại thích xuống bến Markt.
Từ đây, tôi nhẩn nha đi dọc theo phố
Leipziger. Đơn giản, đây là con đường dành cho người đi bộ hấp dẫn nhất
thành phố này. Hai bên đường, có tới hàng trăm cửa hiệu nối nhau san sát. Đầu
tiên là hiệu sách Woerhl. Ở đây cơ man nào là sách, truyện. Lọt thỏm trong
chiếc ghế bành bọc da, tôi có thể tự do ngồi đọc những truyện mình thích suốt
buổi sáng thứ bảy. Kế tới là quán kem Ý“Rialto” của một người Ý, gặp hôm trời
nắng nóng, vừa đi vừa ngậm một cây kem vị anh đào mát lạnh, bạn sẽ thấy “đã”
chừng nào. Đến gần giữa phố là cửa hàng
C&A. Trước tủ kính, người trưng bầy những bộ quần áo xuân hè cho mọi
lứa tuổi, trông thật bắt mắt. Còn nếu đi tới gốc cây phong gần cuối phố, người
ta sẽ bắt gặp một quầy nhỏ bằng gỗ, đặt ngay bên lối đi. Đó là quầy xúc-xích
nướng, mang thương hiệu “Thueringen” nổi tiếng. Ai đến thăm nơi đây mà chưa
được thưởng thức món này, coi như chưa được hưởng cái tinh tuý nhất, trong thế
giới ẩm thực truyền thống của Đức.
Nhưng, một điều đặc biệt và rất thú vị trên con phố này là, tôi
phát hiện ra ở chạc ba, trên cành cây phong, có một tổ chim cu. Đôi chim đeo
vòng cườm trắng nơi cổ, suốt ngày quấn quýt bên nhau. Hàng ngày, con chim to
hơn bay đi nhặt những nhánh Bạch dương khô gần đấy. Con nhỏ hơn ở nhà, nó khôn
khéo dùng mỏ cài những nhành khô ấy thành một cái tổ ấm cúng. Có hôm, tôi đứng
tới mười lăm phút đồng hồ để xem đôi chim làm việc. Vừa làm, chúng vừa nói
chuyện “gù…gù” nghe rất vui tai.
Tuy nhiên, đó cũng chưa phải là tất cả, một lý do khác quan
trọng hơn, khiến tôi hay đi về trên con phố này, là được cho tiền bố thí những
người ăn xin. Bố tôi bảo, ngày xưa (tức là thời
nước Đức Xã hội chủ nghĩa) không bao giờ có chuyện ăn mày ngoài phố. Tất
cả mọi người - kể cả tàng tật - đều có công ăn việc làm phù hợp, có nhà ở đàng
hoàng. Sau khi thống nhất nước Đức, hiện tượng này mới lan tràn ra khắp mọi
nơi.
Trước hết phải kể tới những thanh niên Đức rất khoẻ mạnh. Họ túm
tụm vài ba người cả nam lẫn nữ, ngồi bệt trước các cửa hàng trên phố. Đôi khi
họ dắt theo cả những con chó to gộc cà là chìa, trông rất dữ tợn. Tóc họ nhuộm
xanh đỏ, tai và mũi đeo khuyên. Những chiếc áo da cáu bẩn, gắn đinh khuy tá lả,
dây xích móc trên, móc dưới xủng xoẻng. Cũng có lúc, bố tôi bị họ chạy theo:
- Xin lỗi! ông có khoảng vài xu ở đấy không? Cho tôi xin!
Với những người này, dù có tiền trong túi, bố tôi cũng không bao
giờ cho.
Thỉnh thoảng, tôi gặp lại ông già râu bạc. Ông chừng gần 70
tuổi, người gầy gò, đeo kính trắng gọng tròn, thường ngồi phía trái nhà hội
đồng thành phố. Vỏ chiếc đàn violon được mở ra trước mặt, thay cho ống bơ. Mảnh
giấy đặt bên trong ghi: “xin quý vị giúp
cho chút ít, con gái tôi đang phải nằm viện”. Chiếc vĩ cầm cũ kỹ luôn trên
tay ông, nhưng chưa bao giờ tôi được nghe thấy nó nỉ non. Vào dịp cuối tuần hay hội hè, những nghệ sỹ
hành khất thường tập chung trên con phố này. Có thể họ đến từ Pê-ru hay
Colombia gì đó, vừa chơi nhạc, vừa xin tiền. Quần áo gắn lông chim sặc sỡ,
trông họ như những thổ dân da đỏ. Tiếng sáo, tiếng tiêu âm vang, trầm lắng làm
ta có cảm giác như đang bồng bềnh trên những cánh rừng Amazon ở châu Mỹ. Đôi
khi có cả một tốp ca năm người, họ ăn vận theo kiểu kỵ binh vùng sông Đông, đội
mũ kiểu Paven Coócsagin gắn sao đỏ. Chiếc đàn gió láng coóng, kéo lên những âm
thanh réo rắt, hoà với những giọng ca trắc khoẻ, họ để lại cho người nghe một
cảm xúc thật bi hùng. Bố tôi bảo: “Họ hát
ca ngợi những anh hùng đã chiến đấu và hy sinh, để bảo vệ thành quả của cách
mạng tháng Mười”. Bố tôi thuộc lớp người còn lại, rất hâm mộ nước Nga Xô-Viết.
Những bài ca như vậy, bây giờ ông vẫn có thể thuộc đôi ba lời:
“Băng qua dãy núi U-ral
Vượt qua đồng cỏ muôn
vàn kỵ binh.
Băng nhanh hơn cả đàn
chim
Tra-Pa kiện tướng xông
lên trước đoàn.
Băng đi với lưỡi gươm
vàng
Với lời ca, đã ngân
vang núi đồi…”
Nhưng đông đảo nhất, và cũng làm tôi sửng sốt nhất, vẫn là những
người đến từ vùng hạ lưu sông Đa núyp - dòng sông xanh trong và thơ mộng vào
bậc nhất của châu Âu. Từ bao đời nay, Đa nuýp vẫn là nguyên cảm cho những áng
văn, vần thơ làm đắm say lòng người. Tiếc rằng! Hôm nay, nó đã đưa đến đây
những cánh buồm rách nát và những thân phận khổ đau, khốn cùng. Đó là những
người đàn ông và đàn bà, đôi khi còn già hơn cả bố mẹ tôi. Họ luôn nhìn người
qua lại bằng những ánh mắt mệt mỏi xen lẫn cầu khẩn, van lơn. Đã vậy, cách thức
ăn xin của họ mới thật nao lòng: một miếng bao tải gấp làm tư, được trải xuống
bên đường; họ thành kính, đặt hai đầu gối xuống đó, hai bàn tay chụm vào nhau,
bưng lên trước mặt. Cứ như vậy, họ có thể quỳ suốt cả buổi để xin từng xu bố
thí. Đêm xuống, họ lại tìm đến gian phòng đặt máy rút tiền tự động của ngân
hàng Commerzbank để ngủ. Thường ngày, những người trẻ tuổi và những ông bà to
béo, ăn mặc sang trọng, chẳng mấy ai để ý đến họ. Bố thí cho những con người
khốn khổ này, đa phần là những người già cả đã nghỉ hưu. Gặp ngày rét buốt,
nhóm phụ nữ trong đoàn hành khất quấn khăn kín mít, chỉ hở đôi mắt mở to, long
lanh ngấn lệ. Những hôm như thế, có bao nhiêu tiền mẹ đưa để ăn quà vặt, tôi
đều mang ra tặng hết cho những người đàn bà quỳ.
Rồi tới một hôm, ở cuối phố Leipziger, xế ngay trước cửa hiệu
giày Deichmann, xuất hiện một người Đức ăn mày. Ông ta cao, gầy, râu tóc rối
bù, một bàn chân quấn băng trắng toát. Chễm chệ trên chiếc ghế bạt gấp, ông
luôn tỏ ra chăm chú với tờ báo “Trung Đức” trên tay. Phía trước mặt, bên cạnh
ống bơ đựng tiền là một tấm bìa cứng, với dòng chữ viết theo lối cổ khá đẹp:
“Nếu như ông bà không
làm phúc cho tôi được một xu,
thì xin ông bà hãy nở
một nụ cười cho cuộc sống!”.
Đọc những dòng chữ đó, ai đi qua cũng phải tủm tỉm. Thậm chí, có
một số người dừng lại, hỏi han chuyện trò với ông ta. Mấy bữa sau, tôi mới được
bố cho biết: Người ăn mày này là chú Hans - bạn rất thân của bố tôi.
Cách đây hơn 20 năm, bố tôi rời quân ngũ và ra nhập vào đoàn
người sang Cộng hoà Dân chủ Đức lao động. Ông tới thành phố này, làm việc trong
phân xưởng lắp ráp, tại nhà máy ô-tô Wartburg. Lúc ông thợ cả dẫn bố tôi tới
chỗ chú Hans để giao nhiệm vụ, thậm chí chú còn nhầm bố tôi là người Trung
Quốc. Chú “lườm” bố tôi từ đầu đến chân, tỏ ý không tin tưởng lắm vào cái thằng
người bé như hạt thóc này. Nhưng nhóm lắp đèn hậu chỉ có hai người, làm việc từ
sáng đến chiều cũng chỉ có hai người, nên bố tôi và chú Hans thân nhau ngay.
Mỗi khi vận chuyển vật liệu, chú hay dành việc nặng, để bố tôi làm việc nhẹ
hơn. Tới bữa ăn trưa, chú thường dành cho bố tôi chai sữa (sữa phát miễn phí
xuống các phân xưởng có hạn, nếu không nhanh tay thì cũng hết) và hướng dẫn bố
tôi chọn món. Chú bảo: “Chúng mày chịu
đựng chiến tranh khổ nhiều rồi, bây giờ sang đây đáng được sướng một tí”. Những
lúc giải lao, chú hay hỏi bố tôi chuyện đánh nhau với lính Mỹ, rồi chú kể
chuyện ngày xưa - thời còn ở trong đội “thiếu
niên tiền phong Thaelmann”. Vào những ngày cuối tuần, chú thường cùng các
bạn trong đội tổ chức làm “kế hoạch nhỏ”. Dùng tiền kiếm được, họ mua quà gửi
sang tặng các bạn thiếu nhi Viêt Nam. Ngày ấy, chính bố tôi đã được thưởng một
chiếc khăn quàng đỏ, do các bạn từ Đông Đức xa xôi gửi tới. Chiếc khăn mỏng và
nhẹ như bông, bố tôi vẫn còn giữ được đến tận bây giờ.
Đến cuối năm 1989, nước Đức thống nhất, hầu hết các nhà máy bị
đóng cửa. Hàng ngày, từng đoàn dài người thất nghiệp, xếp hàng trước sở lao
động. Lúc ấy, khu nhà công nhân đang ở, bị một ông chủ bên Tây Đức mua lại. Ông
ta đã đuổi tất cả mọi người ra, không cho thuê tiếp. Thời kỳ này, người nước
ngoài đi tìm việc làm và thuê nhà ở là một điều cực kỳ khó khăn. Trước tình
hình đó, chú Hans đã cho bố tôi và hai người Việt ở nhờ trong căn hộ hai phòng
của mình. Chính việc này đã gây tai hoạ cho chú. Số là, theo dõi thấy có người
Việt Nam ra vào khu nhà, bọn “đầu trọc” chặn chú ngoài đường và yêu cầu chú
phải đuổi họ đi. Chú Hans không chịu, vậy là vào một tối thứ bẩy, bọn chúng bất
ngờ phá cửa xông vào. Chúng đánh đập mọi người hết sức dã man. Chú Hans đã bị
chúng dùng gậy chơi bóng chầy, đánh gẫy răng cửa.
Mặc dù vậy, chú vẫn không sợ, vẫn cố gắng dẫn bố tôi và mọi
người, đi khắp thành phố để tìm việc làm. Nhờ vậy mà bố tôi đã ổn định dần cuộc
sống… Bẵng đi một thời gian, một hôm chú Hans buồn rầu bảo với bố tôi rằng:
- Tao sẽ đi lính viễn chinh cho quân đội Pháp.
Chả là lúc ấy có cuộc chiến tranh vùng Vịnh. Nước Pháp phải đóng
góp 2 tiểu đoàn quân cho Liên hợp quốc. Vậy là họ ra thông báo chiêu mộ lính
đánh thuê ở khắp mọi nơi, hứa hẹn trả lương cao. Bố tôi hơn chú Hans vài tuổi,
vả lại ông đã từng là bộ đội và có kinh nghiệm mấy năm trên chiến trường đánh
Mỹ, nên ông bảo:
- Quân đội chúng tao chiến đấu vì Tổ quốc, vì nhân dân. Chúng
tao chiến đấu cho lý tưởng của mình, nên dù có hy sinh tính mạng cũng sẵn sàng.
Còn mày, mày định chiến đấu vì ai? Cho một lý tưởng nào vậy?
Thấy chú Hans im lặng, bố tôi đã hết lời khuyên chú ấy đừng mạo
hiểm đi vào một cuộc chiến “vớ vỉn” như thế. Ngồi im một lúc lâu, rồi chú trả
lời:
- Tao biết, chiến tranh không phải là chuyện đùa, nhưng tao muốn
ra khỏi nước Đức, ra khỏi bầu không khí ngột ngạt này. Tao cần tiền.
Bố tôi bảo: “Đơn giản chỉ
có vậy, những con người cần lao, hiền lành tốt bụng kia, gặp một hoàn cảnh trớ
trêu bỗng nhiên trở thành những tên lính lê dương đi đánh thê. Đến một xứ sở xa
lạ nào đó, họ sẽ trở nên hung hãn và say xưa cướp bóc bắn giết. Không cần nói ở
đâu xa, chính quê hương Việt Nam đã hai lần bị gót sắt của lính viễn trinh Pháp
và Mỹ giày xéo. Từ thời ông nội, chúng ta đã phải cầm súng đứng lên chống lại
họ. Xuất thân từ những thành phần lao khổ, thực ra những người lính đó cũng chỉ
là nạn nhân ngu xuẩn, đáng thương của những chính sách hiếu chiến và xâm lược.”
Đêm ấy, hai người ngồi uống rượu Goldbrand với nhau tới gần
sáng.
Chú Hans đi lính thật. Một sáng chủ nhật, chú khoác bộ quân phục
màu xanh ô-liu, đội chiếc mũ nồi đỏ có gắn phù hiệu đến tìm bố tôi. Lúc chia
tay, hai người đàn ông ôm nhau khóc. Kể từ ngày ấy, bố tôi không còn gặp chú
Hans nữa.
Hai mươi năm sau. Mãi cho đến một ngày không chờ đợi, bố tôi đã
gặp lại chú Hans. Bố tôi bảo, ông cũng không ngờ phút giây hội ngộ sau bao
nhiêu năm xa cách, lại diễn ra thảm hại như vậy. Đang từ trên đường về nhà, khi
đi ngang qua hiệu giày Deichmann, bố tôi bỗng nghe thấy tiếng một người Đức gọi
đúng tên:
- Phiên! Mày còn sống hả? Tao đây, Hans đây!
Quay lại, lúc đầu ông không thể nhận ra người ăn xin hốc hác,
râu tóc bờm sờm che kín mặt kia, lại là Hans Thiede - người bạn Đức thân thương
nhất của mình trên mảnh đất ngìn trùng này. Chú Hans lập cập đứng dậy trên đôi
nạng gỗ. Chú làm đổ cả ống bơ, những đồng xu văng ra tung toé…
Bữa tối, bên li vang Bordeaux, nói chuyện với mẹ tôi, bố trầm
ngâm: “Sống trên đời, mỗi người đều có
một số phận riêng. Cái “số” đó, một phần phụ thuộc vào chính bản thân người ấy;
còn phần kia thì phụ thuộc vào hoàn cảnh xã hội và đôi khi có một chút may mắn
nữa…Số của chú Hans là số phong trần”. Tôi không hiểu số “phong trần” là
gì, nhưng nghe bố kể chuyện xưa, tôi buồn lắm. Thương chú Hans quá, tôi quyết
định đập con lợn tiết kiệm của mình để lấy tiền cho chú ấy. Tất nhiên là cho ít
một, vì như bố tôi bảo: “Có bao nhiêu, sợ
chú ấy lại nướng vào bia, rượu hết”. Khi hết tiền tiết kiệm, tôi đi bốc
trộm xu trong hộp của bố mẹ. Bố mẹ tôi kinh doanh nhà hàng, những đồng xu như
thế này, tôi nghĩ, bố tôi không bao giờ để ý tới. Được ít bữa, ông gọi tôi ra
nói chuyện đàng hoàng:
- Mai này! chuyện chú Hans là bạn của bố như thế nào, con đã
biết. Hiện giờ chú ấy đang gặp khó khăn, chúng ta cần phải giúp đỡ. Bố biết là
con vẫn lấy trộm tiền của bố để cho chú Hans. Ăn trộm là một hành vi xấu, nhưng
con lại sử dụng nó vào một việc tốt, nên bố không phạt. Nhưng, con phải làm lại
cho đúng. Bố và mẹ sẽ giúp chú ấy theo cách của mình. Còn con, sẽ giúp chú ấy
theo cách này: Con sẽ đi nhặt xu rơi ngoài chợ để giúp chú Hans. Con thấy sao?
Chuyện là thế này, trước mặt quán ăn của bố mẹ tôi có phiên chợ
tuần. Trong chợ, có ông Ewin béo phục phịch, là chủ tiệm hiệu bánh mỳ
Săng-đuých. Đều như vắt tranh, cứ đến cuối buổi chợ, ông lại dẫn thằng con trai
Phillip đi nhặt xu rơi trước các quầy bán hàng . Xu rơi ở đây là của khách mua,
khi giở ví ra, họ vô tình để rơi những đồng xu xuống nền chợ đầy cát sỏi. Những
hôm nhập nhoạng tối, có khi họ đánh rơi tới cả 2 đồng, không tìm thấy rồi cũng
bỏ luôn. Mới rồi, ông Ewin chuyển sang thành phố khác sinh sống, vậy là ông đã
bàn giao lại “nghề” này cho bố tôi, với cái vỗ vai rất thân mật:
- Nó là từng xu thôi, nhưng “năng
nhặt chặt bị”, cũng khá đấy. Hơn nữa, đó là mồ hôi công sức lao động của
mọi người kết tinh lại, đừng chê.
Từ đấy, tôi bắt đầu nhận công việc nhặt xu. Công việc đòi hỏi ở
tôi, phải có một bản lĩnh phi thường.
* *
*
Những bức ảnh mà Daniel chụp được, là bằng chứng không thể chối
cãi, không thể lý giải cho công việc kỳ quặc của tôi. Tôi không còn cách nào
khác là giữ im lặng. Nhưng rõ ràng, thằng Daniel cố tình gán cho tôi cái tội
“ăn xin”. Nhặt xu rơi, không có nghĩa là đi ăn xin. Đứng bên người hành khất,
không có nghĩa là đi ăn mày. Thậm chí, trong hoàn cảnh bắt buộc, đi ăn xin còn
trong sạch gấp vạn lần đi ăn cướp, ăn trộm.
Đến giờ ăn trưa, tôi đang đứng xếp hàng thì thằng Daniel đến. Nó
cố tình cao giọng:
- Mày nhầm chỗ rồi Mai ạ! Ăn xin thì phải đứng dưới kia - vừa
nói, nó vừa chỉ tay xuống cuối hàng - chỗ này là của tao.
Rồi không cần biết tôi phản ứng ra sao, Daniel chen ngang vào
trước mặt tôi. Sợ nó, tôi đành phải bỏ hàng, đứng xuống dưới. Vivien và Johanna
kéo thế nào, tôi cũng không lên. Không chịu được thói ngang ngược đó, các bạn
của tôi đến cãi nhau với Daniel. Nó vênh mặt:
- Cách tốt nhất là chúng mày góp tiền, mua cho con Mai một cái
vé không khứ hồi về Việt Nam!
Tủi thân quá, tôi đứng khóc và hôm ấy bỏ bữa trưa. Tôi khóc
không phải vì công việc mình đã làm, mà vì tức thằng Daniel. Nó bộc lộ quá rõ
thái độ khinh miệt người nước ngoài. Tư tưởng đó, chỉ có ở bọn đầu trọc. Mọi
gười xúm lại an ủi tôi, có bạn còn nói, sẽ thưa cô giáo chủ nhiệm vấn đề này.
Tuy vậy, họ vẫn thắc mắc:
- Nhưng bạn phải nói cho chúng tớ biết, rằng chuyện gì đã xảy
ra?
Tôi đã toan nói ra sự thật, nhưng nghĩ tới chú Hans, nên lại
thôi. Tôi không muốn làm tổn thương chú ấy.
Sau khi nghe tôi kể hết chuyện ở trường, bố tôi dành cả buổi
sáng đi gặp chú Hans. Thế là tôi lại được biết thêm hoàn cảnh của chú, trong
thời gian gần đây nhất:
Sau cuộc chiến ngắn ngủi ở vùng Vịnh, chú Hans trở về Đức với
bốn mươi nghìn Mác trong tay - một khoản tiền trong mơ đối với nhiều người khi
ấy. Chú sống ở tiểu bang khác, mãi sau này chú mới quyết định cưới vợ. Cuộc
sống đang ấm êm, thì đại hoạ giáng xuống gia đình nhỏ bé: vợ chú Hans bị tai nạn giao thông và mất ngay sau đó tại bệnh
viện, khi ấy đứa con của họ mới lên 6
tuổi. Vẫn chưa hết, ít lâu sau chú bị thất nghiệp. Cuộc sống bị đảo lộn quá
nhanh. Nhớ vợ, thương con chú bị sốc nặng. Chán đời chú tìm tới bia rượu giải
sầu, rồi sinh ra nghiện ngập lúc nào không hay. Thời gian sau đó, chú nghiện
nặng đến nỗi, sở Thanh - Thiếu niên buộc phải xin quyết định của toà án, tước
quyền nuôi con của chú. Đứa bé được đưa vào trại trẻ mồ côi mãi tận chân núi Wildberg.
Thế rồi, người cha hư hỏng ra nhập đội quân vô gia cư lúc nào không hay. Nay họ
đến thành phố này, mai lại sang thành phố khác. Nắng mưa dãi dầu. Có những hôm
đói quá, họ phải tìm cả đồ ăn thừa trong thùng rác. Vào những đêm đông, tháng
giá, không đủ áo chăn, nhiều người đã gục ngã trên con đường mịt mờ và dài bất
tận của mình. Chú Hans vừa say, vừa đi như vậy cho đến một chiều kia, chú bị
sốt và nằm lại trên chiếc ghế gỗ trong công viên ở thành phố Dresden. Tại đây,
chú đã bị ba thanh niên thuộc tổ chức “Những
thanh niên trung thành với quê hương” hành hung. Chú bị chấn thương sọ não
và gẫy chân.
Sau khi ra viện, chú không còn uống được rượu nữa. Lần đầu tiên
sau nhiều năm, chú thấy mình tỉnh táo. Chú bắt đầu lờ mờ nghĩ về quê hương và
nhớ: hình như còn có một đứa con. Cuối cùng, chú đã trở về đây để tìm lại dấu
xưa của mình.
Chú Hans là một con người như vậy đấy. Ngày xưa, chú là một đội
viên “thiếu niên tiền phong Thaelmann”
đáng yêu của các bạn nhỏ Việt Nam. Sau này, chú là người bạn tốt, giúp đỡ những người lao động Việt
trong cuôc sống khó khăn nơi đất khách quê người. Bây giờ, chú là một nạn nhân
đáng thương của chính bản thân mình và xã hội. Vậy, tôi có thể nói gì với các
bạn, để không làm tổn thương tới cuộc sống đã quá đau khổ của chú. Hơn nữa,
việc làm của tôi cũng chẳng có gì đáng kể, để mà phải nói ra cái sự thật đau
lòng ấy. Nghĩ vậy, tôi quyết định giữ kín, không nói với các bạn trong lớp về
chuyện này.
* *
*
Đơn giản chỉ có vậy.
Và tôi sẽ không còn gì để kể thêm cho mọi người nghe về chuyện
của chú Hans nữa, nếu như không xảy ra một tình huống quá bất ngờ: Chú Hans bị
ngất. Do tai biến từ những căn bệnh ủ đã lâu trong nguời, chú Hans bị kiệt sức.
Trưa hôm ấy, những người qua đường thấy chú bỗng vã mồ hôi, chân tay run lẩy
bẩy, rồi gục xuống. Xe cấp cứu kịp thời đưa ngay chú vào bệnh viện Kroellwitz.
Chuyện xảy ra, phải vài hôm sau gia đình tôi mới được biết. Sáng chủ nhật hôm
ấy, chúng tôi tới thăm chú. Bệnh viện là một khu nhà hình chữ U bốn tầng, rộng
mênh mông bát ngát. Trong phòng chờ và ngoài hành lang, tôi thấy toàn những
người mặc áo bờlu của y, bác sỹ. Họ hối hả đi lại, tịnh không thấy bóng bệnh nhân
nào. Cô y tá nhiệt tình chỉ cho bố con tôi biết số phòng 202. Cô còn nói thêm:
- Ông Thiede cũng có người con trai tới thăm từ hôm thứ sáu.
Cánh cửa phòng vừa mở, tôi giật mình sửng sốt, không thể tin ở
mắt mình nữa: Thằng bé đang bê cốc nước tới cho chú Hans - không ai khác - lại
chính là Daniel. Thật bất ngờ và không thể tin nổi. Tôi cứ đứng như chôn chân
ngoài cửa.
Trong khi bố tôi và chú Hans đang bắt tay thăm hỏi nhau, thì
thằng Daniel lừ đừ đi tới trước mặt tôi, nó cúi mặt, giọng lý nhí:
- Mai! tớ thành thật xin lỗi bạn về những gì đã xảy ra…Bố tớ đã
kể hết chuyện về bạn cho tớ nghe rồi…bạn tốt quá. Cảm ơn nhiều!
Tôi đứng im bối rối, chưa biết nên trả lời thế nào, thì Daniel
tiếp:
- Mình tồi quá phải không? Nhưng… mong bạn hiểu cho, từ bé mình
đã sống thiếu vắng bóng hình của cha mẹ. Mình không tìm được cuộc sống trong
gia đình, nên đã phải đi tìm nó bên ngoài đường phố.
Cuối cùng mọi chuyện đã ổn. Tôi thở phào nhẹ nhõm rồi cùng
Daniel đi đến bên giường. Chú Hans đã khoẻ trở lại và nói với bố tôi rằng: thời
gian thử thách đã qua, sở Thanh - Thiếu niên sẽ cho Daniel về sống với bố. Gia
đình chú sẽ có nhà ở và nhận được tiêu chuẩn trợ cấp xã hội của thành phố. Tôi
thật sự vui mừng, vì mọi chuyện đã trở nên tốt đẹp. Trước khi chúng tôi ra về,
chú Hans tặng cho tôi một con gấu bông và cũng như bao lần, chú âu yếm gọi tôi
là “chim câu bé nhỏ”. Daniel tiễn
chân bố con tôi ra tận cửa bệnh viện. Lúc bắt tay tạm biệt, cậu ta ngượng nghiụ
cười, trông thật hiền. Tôi biết, Daniel bây giờ đã không còn là Daniel của ngày
hôm qua nữa rồi… Năm tháng trôi qua sẽ làm nhân gian biến đổi, hoàn cảnh sống
có thể sẽ làm ai đó khác đi. Nhưng tình nghĩa của chúng tôi, với những con
người trên mảnh đất khách này thì không bao giờ mất, nó vẫn còn đây và mãi mãi…
Tiết trời đã vào cuối xuân, những cơn gió lạnh vẫn còn. Nhưng
nắng hồng rực rỡ đã trải dài trên lối chúng tôi đi. Những bụi hoa chuông vẫn
xoè cánh vàng ươm, khoe sắc hai bên đường xe chạy. Trên kia là trời cao, xanh
thăm thẳm, từng cánh chim câu chao lượn dập dìu, rồi rủ nhau bay mãi về với đất
trời phương Nam.
- Bạn đọc cảm nhận
bài thơ “Quê Nghèo” của Đặng Xuân Xuyếnl
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc
truyện ngắn
CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ của Đặng Xuân
Xuyến:
*.
Halle/S. 2012. Lập hạ-Nhâm thìn.
NGUYỄN CÔNG TIẾN
Định cư tại: thành phố Halle (Saale), Đức Quốc.
Email: truongluuthuy52@yahoo.de
.............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên
bản tác giả gửi qua email ngày 25.01.2024
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn:
internet.
- Bài viết không thể
hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét