VÕ VĂN KIỆT
VÀ NGUYỄN THỊ LIÊN HẰNG
(Tác giả Đông La) |
Võ Văn Kiệt không chỉ là một cố Thủ tướng mà còn là một nhà cách
mạng, đã tham gia cách mạng từ hồi trứng nước, chống ngoại xâm vì nền độc lập
của Tổ quốc. Gia đình ông đã hy sinh rất lớn lao khi cả vợ và ba con ông đã bị
chết vì bom đạn của Mỹ. Ông bằng tuổi cha tôi, tôi cũng học cùng khóa, cùng
Trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh với Võ Hiếu Dân, con gái ông. Dân
học Sinh, tôi học Hóa, có một năm ăn cùng nhà ăn tại khu Đại học Thủ Đức. Ông
có tính quảng giao, cởi mở, không cố chấp với những người thuộc chế độ cũ. Ông
đã mời họ làm việc, sẵn sàng lắng nghe, sử dụng tri thức và kinh nghiệm của họ.
*
Nhưng viết về ông hôm nay phải khách quan. Thực tế Võ Văn Kiệt là
một nhà chiến thuật chứ không phải chiến lược. Ông là người của những việc cụ
thể, xuất phát từ thực tiễn chứ không phải là một nhà lý luận. Nhiều câu nói
của ông rất được lòng quần chúng khiến ông đúng là một tấm gương của sự hòa hợp
dân tộc. Nhưng về điều này ông đã có những câu nói “nổi tiếng” để cho những kẻ
xấu lợi dụng, và mới đây, cô Giáo sư “con nít” Nguyễn Thị Liên Hằng cũng đã sử
dụng để phỏng vấn Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm ở Mỹ.
Nhân dịp 30 năm ngày đất nước thống nhất, ông đã trả lời báo Quốc
Tế (vnexpress ngày 15/4/2005 đăng lại):
“Chiến thắng của chúng ta là
vĩ đại, nhưng chúng ta cũng đã phải trả giá cho chiến thắng đó bằng cả nỗi đau
và nhiều sự mất mát. Lịch sử đã đặt nhiều gia đình người dân miền Nam rơi vào
hoàn cảnh có người thân vừa ở phía bên này, vừa ở phía bên kia, ngay cả họ hàng
tôi cũng như vậy. Vì thế, một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại,
có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương
chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu”.
Câu “Vì thế, một sự kiện
liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có
hàng triệu người buồn” của ông đã thành nổi tiếng nhưng xem chừng không ổn.
Về chuyện “nhắc lại” thì nước nào trên thế giới cũng kỷ niệm những sự kiện lịch
sử trọng đại của họ. Như Mỹ người ta cũng có ngày lễ kỷ niệm Ngày Độc Lập, 4
tháng 7, mà không sợ nước Anh buồn. Bởi phải có cuộc chiến chống lại “Mẫu quốc”
Anh, Mỹ mới có được bản Tuyên ngôn Độc lập được ký năm 1776. Còn về nỗi buồn
mất mát ở nước ta thì cả hai phía đều có, nhà tôi anh ruột tôi là bộ đội cũng
hy sinh năm 1968. Nhưng xếp ngang nhau niềm vui chiến thắng với nỗi buồn thất
bại thì rõ ràng là không đúng. Sự hoà hợp dân tộc phải dựa trên cơ sở người
biết tha thứ, người biết nhận lỗi, chứ đúng sai không thể hòa cả làng. Sẽ phải
viết lại lịch sử sai sự thật và trái đạo lý để chiều lòng “bên thua cuộc” sao? Biết giáo dục tinh thần yêu nước cho học sinh
và cho cả người dân ra sao?
*
(Giáo sư Nguyễn Thị Liên Hằng) |
Với Nguyễn Thị Liên Hằng dù sinh sau chiến tranh, đã theo gia đình di tản, lớn lên ở Mỹ, nên đã được di truyền nguyên vẹn “nỗi hận mất nước”, nên trong cuộc phỏng vấn mới hỏi ông Tô Lâm như vậy.
Tiếc rằng Liên Hằng cũng như đa phần những người thuộc “Bên thua cuộc” đã không nhìn lịch sử
bằng con mắt của tư duy mà chỉ nhìn bằng con mắt thịt, cảm tính, chỉ thích
thấy, thích nghe những điều mình thích. Vì vậy Liên Hằng mới viết sách toàn là
những điều sai sự thật.
Trên https://www.voatiengviet.com, 12/01/2013, viết:
“Theo Giáo sư Hằng, trên
thực tế ông Hồ Chí Minh chỉ đóng vai trò biểu tượng trong khi ông Lê Duẩn mới
là nhân vật ngự trị trên Đảng Cộng sản Việt Nam, và là kiến trúc sư, chiến lược
gia cũng như người lãnh đạo các nỗ lực chiến tranh của miền Bắc…
Vẫn theo Giáo sư Liên
Hằng thì cùng với cánh tay mặt của ông, là ông Lê Đức Thọ, ông Lê Duẩn cai trị
chế độ miền Bắc với một bàn tay sắt, và coi ông Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ
Nguyên Giáp, một người hùng cách mạng khác, là những đối thủ, là mối đe dọa lớn
nhất đối với quyền hạn của ông ở Hà Nội.
Chính ông Lê Duẩn đã gạt
ông Hồ Chí Minh và Tướng Giáp cùng với các ủng hộ viên sang một bên, trong khi
làm hầu hết các quyết định quan trọng nhất trong cuộc chiến”.
*
Về điều này tôi đã viết chuyện Lê Kiên Thành ca ngợi là “Một
người yêu Việt Nam” đối với Pierre Asslin, một người Canada, Giáo sư
Lịch sử tại trường Đại học San diego, Mỹ, khi ông ta nói: "Tại sao Mỹ trong một thời gian rất dài vẫn
nghĩ những người đề ra đường lối chiến tranh là ông Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ
Nguyên Giáp chứ không phải là các ông Lê Duẩn, Nguyễn Chí Thanh, Lê Đức Thọ…?"
Tôi chỉ cần chỉ ra vài chuyện dưới đây là đã “vả sưng mõm” ông Giáo
sư “yêu Việt Nam” của ông Lê Kiên
Thành rồi. Vậy hôm nay nhắc lại để vả luôn vào mồm cái cô Liên Hằng mang danh Giáo
sư Lịch sử mà nói láo.
*
Trong cuộc Kháng chiến chống Mỹ, đỉnh cao của sự đối đầu Việt - Mỹ
chính là trận “Điện Biên Phủ trên không”
mà phía Mỹ gọi là Chiến dịch Linebacker II (từ 18 tháng 12 đến 30 tháng 12 năm
1972).
Trước hết, chiến thắng đó chính là kết quả của tầm nhìn xa trông
rộng của Bác Hồ. 1967, Bác đã nói với Tướng Phùng Thế Tài, Phó Tổng tham mưu
trưởng: “Sớm muộn gì, Mỹ cũng sẽ đưa B52
ra ném bom Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua. Chú phải nhớ là trước khi thua
ở Triều Tiên, đế quốc Mỹ đã hủy diệt Thủ đô Bình Nhưỡng. Chiến tranh ở Việt
Nam, Mỹ nhất định thua, nhưng nó chỉ chịu thua trên bầu trời Hà Nội”. Trước
đó, 1962, Bác cũng đã nói với ông Phùng Thế Tài: “B52 bay cao hơn 10 km mà trong tay chú chỉ có cao xạ thôi” và nói
với ông Đặng Tính, Chính ủy Quân chủng Phòng không - Không quân nghiên cứu cách
đánh B52. Ngày 7-2-1965, nhân dịp ông Kô-xư-ghin thăm nước ta, Bác đã yêu cầu
Liên Xô giúp ta xây dựng lực lượng tên lửa phòng không. Cuối năm 1966, Mỹ bắt
đầu dùng B52 đánh phá ác liệt vào Vĩnh Linh, Trung đoàn tên lửa 238 đã vào
Quảng Bình để nghiên cứu cách đánh máy bay B52, tuân theo lời dạy của Bác: “Có vào hang cọp mới bắt được cọp”.
Nếu Việt Nam thất bại, chiến tranh tại Việt Nam có thể chấm dứt,
nhưng kết quả sẽ theo ý Mỹ chứ hoàn toàn không có chuyện đất nước chúng ta sẽ
hoà bình, thống nhất, rồi Việt Nam sánh vai các cường quốc khắp 5 châu như
những ngày hôm nay.
Chúng ta đã chiến thắng trong cuộc đối đầu mà một tờ báo Mỹ đã gọi
là cuộc "Chiến tranh điện tử” đó
không chỉ bằng ý chí, bằng máu mà còn bằng cả trí thông minh tuyệt vời của cả
dân tộc nữa.
Chiến thắng “Điên Biên Phủ trên không” cũng có
liên quan đến Đại tướng Võ Nguyên Giáp, bởi từng có chuyện tố cáo Đại tướng “làm gián điệp cho Liên Xô”, mà “người chỉ đạo mạng lưới tình báo là Đại sứ
Liên Xô tại Việt Nam là Sec-ba-cốp”. Trong bài về “TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN
KHÔNG” tôi đã viết:
“… có thời điểm, bộ đội ta
phóng tên lửa nhưng tên lửa không bay tới máy bay Mỹ mà quay đầu rơi xuống đất,
có khi thành bom rơi xuống nhà dân. Bộ đội ta đã nghiên cứu biết do Mỹ đã biết
được tần số của sóng điện từ dẫn tên lửa tới mục tiêu, nên họ đã chế thiết bị
gây nhiễu. Vì vậy, cần phải thay đổi linh kiện để thay đổi tần số dẫn bắn. Theo
Đại tá Nguyễn Thụy Anh, trong phim tài liệu “Vạch nhiễu tìm thù”: “Những người đại diện tập đoàn tên lửa không
đồng ý cho mở cái khối điều khiển vô tuyến… Lúc bấy giờ đồng chí Đại sứ Liên Xô
ở Việt Nam đã rất quyết đoán, đồng chí nói: “Có gì là bí mật nữa vì người Mỹ đã phát hiện ra rồi, đã gây nhiễu đánh
chúng ta thì bây giờ chúng ta phải mở ra và tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về
điều này”. Quyết định quan trọng này
đã giúp bộ đội tên lửa ta bắn B52 “rụng như sung”. Vị đại sứ đó chính là
Ilya Sherbakov. Như vậy, Ilya Sherbakov đúng là một đại ân nhân của dân Việt
Nam.
*
Sự thật lịch sử là vậy, vậy mà Giáo sư Lịch sử Liên Hằng đã quá
dốt và sai trái khi trả lời cuộc phỏng vấn trên thế này:
“Trên thực tế qua nghiên cứu
tôi thấy rằng thắng lợi lớn nhất của cộng sản miền Bắc là thắng lợi trên mặt
trận ngoại giao trên trường quốc tế… Tới những năm 1973-75, thì Hà Nội đã thắng
cuộc chiến tranh chính trị cho nên người ta hiểu rằng cộng sản miền Bắc đã đánh
bại cường quốc lớn nhất thế giới lúc đó, là Hoa Kỳ, thực sự bằng cách giành
được thắng lợi trên sân khấu ngoại giao.”
Vậy tôi lại phải mất công dạy tiếp cho cô Giáo sư này một ít sự
thật về chuyện thua chạy của Mỹ khỏi Việt Nam.
Hiệp định Paris về Việt Nam, giai đoạn 1968-1972, đã bị bế tắc vì
cục diện chiến trường chưa nghiêng hẳn về bên nào, mà lập trường ban đầu của
Hoa Kỳ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngược nhau. Mỹ muốn quân Mỹ và đồng minh
rút khỏi Việt Nam phải đồng thời với việc Quân đội Nhân dân Việt Nam rút khỏi
Nam Việt Nam; Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu có
quyền tồn tại, không có Tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam. Ngược lại, lập
trường của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là quân Mỹ và chư hầu phải rút khỏi Việt
Nam; Việt Nam sẽ tiến hành Tổng tuyển cử thống nhất đất nước.
Nhằm giữ thể diện, rút quân trong danh dự, Mỹ đã tiến hành Chiến
dịch Linebacker II với ý định "đưa miền Bắc về thời kỳ đồ đá", buộc
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải ký Hiệp định Pari theo ý mình. Nhưng kết quả Mỹ
đã thua.
Theo hồi ký Henry Kissinger, ngày 6/1/1973, Nixon đã chỉ thị cho
Kissinger trở lại Paris, phải đạt cho được một giải pháp dù đối phương đưa ra
những điều kiện nào. Mỹ đã mất hàng chục máy bay B52 để rồi vẫn phải ký vào văn
bản mà họ không muốn ký, nghĩa là mục tiêu của Mỹ khi tiến hành Chiến dịch
Linebacker II đã thất bại.
*
Cái cội nguồn mà người ta đã dựa vào đó, và còn nhai đi nhai lại
cho đến tận hôm nay, đó là những “tài liệu”, trong đó có cuốn Hồi ký mà tác giả
chưa được thông tin chính thống xác thực, ghi là “Trần Quỳnh”. Trần Quỳnh nguyên
là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, từng đi vào ca dao đương đại Việt Nam: “Trần Phương, Trọng Truyến, Trần Quỳnh / Ba
thằng đồng tình làm hại dân ta”.
Với tôi cuốn sách đúng là một thứ rác rưởi. Nhưng lại có những
người nhân cách như loài kền kền thích bu vào, thích hít hà những thứ rác rưởi
đó. Hôm nay tôi lại phát hiện thêm Giáo sư sử học Nguyễn Thị Liên Hằng cũng là
loại kền kền như thế, nên đã viết sách từ những “tài liệu” giống như thế.
*
“Trần Quỳnh” viết trong Kháng chiến chống Mỹ, Võ Nguyên Giáp vẫn
được cử làm Bí thư Quân uỷ TW, Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng, Tổng tư lệnh, nhưng
thực chất chỉ “Ngồi chơi xơi nước”, người lãnh đạo quân đội đánh thắng Mỹ, giải
phóng miền nam, thống nhất đất nước chính là Lê Duẩn. Giai đoạn ta lên kế hoạch
giải phóng miền nam sau khi Mỹ ký Hiệp Định Pari ngày 27 tháng 1 năm 1973,
“Trần Quỳnh” viết: “Mọi việc quân sự, Lê
Duẩn trực tiếp làm việc với Bộ tổng tham mưu, có khi làm việc trực tiếp với Cục
tác chiến”, nghĩa là “Trần Quỳnh” đã dồn công lao cho Lê Duẩn hết, Võ Nguyên
Giáp chỉ là số không.
*
Thực tế hoàn toàn không phải vậy. Có những cuốn hồi ký của những
người trong cuộc, ghi lại đầy chủ, chi tiết, chính xác diễn tiến của những bước
đi lịch sử: Đại tướng Hoàng Văn Thái, từng là Tư lệnh B2 (chiến trường Nam Bộ),
sau khi Mỹ rút, ông là Phó Tổng Tham mưu trưởng Thứ nhất trong giai đoạn quân
ta lên kế hoạch giải phóng miền nam, đã viết Hồi ký “Những Năm Tháng Quyết Định”
(Nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân); đặc biệt chính ĐT Võ Nguyên Giáp cũng viết
cuốn Hồi ký TỔNG HÀNH DINH TRONG MÙA XUÂN TOÀN THẮNG, đúng là ông đã kể công,
nhưng không phải như bọn bất lương xuyên tạc là chỉ kể công mình, ông đã kể
công của tất cả mọi người, kể cả công của “anh Ba”, Tổng Bí thư Lê Duẩn.
*
Để có được Bản "Đề cương kế hoạch chiến lược quân sự”
giải phóng miền nam, không phải như “Trần Quỳnh” viết là bằng “Cách làm việc
của Lê Duẩn có tính cách gia đình”, mà thực tế, sau cuộc họp ngày 24-5-1973 của
Bộ Chính trị mở rộng bàn vấn đề Giải phóng Miền Nam, Đại tướng Võ Nguyên Giáp
đã bàn với Đại tướng Văn Tiến Dũng, thành lập Tổ trung tâm để hoàn thành bản dự
thảo “Đề cương kế hoạch chiến lược” mang số 305 TG1. Đã có cả một quá
trình dự thảo công phu, và để có bản hoàn chỉnh phải chỉnh sửa đến 8 lần. Hội
nghị Bộ Chính trị mở rộng từ ngày 18-12-1974 đã thông qua quyết tâm lần cuối
cùng. Thay mặt Bộ Tổng tham mưu, Tướng Lê Ngọc Hiền đã trình bày kế hoạch hoạt
động quân sự năm 1975, cũng chính là bản dự thảo đã được chỉnh sửa lần cuối
cùng, lần thứ tám.
*
Sự thật là như vậy, cả hai hồi ký của hai vị Đại tướng Võ Nguyên
Giáp và Hoàng Văn Thái đều viết như vậy, có đâu chuyện giải phóng miền nam,
thống nhất đất nước như dời non lấp biển lại giống như chuyện mua con cá, mớ
rau ngoài chợ, như “Trần Quỳnh” viết. “Trần Quỳnh” còn bịa đặt nhiều chuyện mà
tôi đã viết chi tiết trong một bài. Những chuyện động trời mà ông ta cứ viết tự
nhiên như thằng trẻ con, lẫn lộn tùm lum. Như Chiến dịch Hồ Chí Minh, một trận
đánh vĩ đại, gồm cả 5 cánh quân, nhưng ông ta viết:
“Nhiệm vụ giải phóng Sài Gòn được giao cho Quân đoàn 4”; rồi lại
viết: “Lê Duẩn hỏi Lê Trọng Tấn (Quân
đoàn 2) có đánh được vào Sài Gòn không? Lê Trọng Tấn trả lời được và xin cho
vào Sài Gòn trước. Lê Duẩn đồng ý và dặn Lê Trọng Tấn là cứ vào dinh Độc Lập
buộc Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện, nhưng dặn đừng nói Lê Duẩn ra lệnh.
Thế là Quân đoàn 2 từ phía Đông tiến vào dinh Độc Lập trước”.
Sự thực, Tướng Nguyễn Hữu An mới là Tư lệnh Quân Đoàn 2, còn Lê
Trọng Tấn là Tư lệnh cả cánh quân hướng Đông.
*
Chính những loại “tài liệu” như vậy đã giúp cho Giáo sư lịch sử
Liên Hằng khám phá, viết tác phẩm, để rồi thành công vang dội, được ca ngợi tận
mây xanh bởi những cá nhân, tổ chức chuyên chống Việt Nam với cái nhìn bất
lương và trái đạo lý.
- Các bài viết của (về)
tác giả Đỗ Hoàng0
- Các
bài viết của (về) tác giả Hoàng Vũ Thuật0
- Các bài viết của (về)
tác giả Đông La0
- Các bài viết của (về)
tác giả Thái Hạo0
- Các bài viết của (về)
tác giả Tạ Duy Anh0
- Các
bài viết của (về) tác giả Phạm Xuân Nguyên0
- Các bài viết của (về)
tác giả Phạm Lưu Vũ0
- Các bài viết của (về)
tác giả Nguyễn Quang Thiều0
.
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ HỒN QUÊ:
*.
Sài Gòn, ngày 26 tháng 09 năm 2024
ĐÔNG LA (tên thật: Nguyễn Văn Hùng)
Địa chỉ: quận Bình Thạnh, thành phố Sài Gòn
Email: donglasg@gmail.com
.............................................................................................................
- Cập nhật từ messenger
facebook Vũ Thị Hương Mai ngày 27.09.2024.
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện
quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét