PHẬT GIÁO VÀO THẾ KỶ 7:
CÁC TỤC LỆ ‘NGƯỢC NGẠO’ (ĐIỀU 33)
THEO GHI CHÉP CỦA PHÁP SƯ NGHĨA TỊNH
![]() |
(Tác giả Nguyễn Cung Thông) |
Hơn một thập niên sống và học đạo ở Na Lan Đà (Ấn
Độ), pháp sư Nghĩ Tịnh đã ghi chép nhiều nhận xét về luật lệ cho tăng đoàn Phật
giáo vào TK 7. Đây cũng là một mục đích chính của ngài sau 25 ở nước ngoài và
hơn một thập niên du học ở Na Lan Đa (Ấn Độ). Phần này chú trọng vào điều 33
với tựa đề là “Tôn kính quai thức” 尊敬乖式 (tạm dịch các tục lệ/tôn kính ngược ngạo). Tuy điều 33 chỉ có 161 chữ,
nhưng gồm nhiều khái niệm Phật giáo và dữ kiện rất đáng chú ý. Các ghi chép
trong đó cho thấy hai bức tranh toàn cảnh của người thường (phàm/tục) phải trải
qua giai đoạn xuất gia, sống một đời khất sĩ theo gương hạnh đầu đà để cuối
cùng tìm đến niết bàn (vô sinh). Tương phản với người phàm sống trong tham vọng
và xa xỉ, giả dối để mưu sinh. Ngoài ra, ảnh hưởng của Phạn ngữ không nhỏ trong
văn hoá Trung Hoa, phản ánh qua các cách dịch nghĩa và kí âm còn tồn tại đến
ngày nay; một số đã trở thành vốn từ căn bản của các ngôn ngữ bản địa mà ít người
biết là có gốc 'ngoại lai'. Một số Hán và Phạn tự được ghi lại để tránh trường
hợp tối nghĩa và tiện cho người đọc tra cứu thêm khi cần.
1. Pháp sư Nghĩa Tịnh và Nam Hải Kí Quy Nội Pháp
Truyện
Pháp sư Nghĩa Tịnh 義淨,
tên tục là Trương Văn Minh 张文明,
sinh năm 635 ở Tế Châu (Sơn Đông) và xuất gia năm 14 tuổi. Ngài đã nghe tiếng
thiền sư Pháp Hiển và Huyền Trang hành hương xứ Phật, nên nhất định theo đuổi ý
định này để tìm hiểu Phật pháp thấu đáo hơn. Tới năm 37 tuổi, ngài mới có cơ hội
đi tàu qua Srivijaya (bây giờ là Palembang ở Sumatra, từng là một trung tâm Phật
giáo lớn trong vùng Đông Nam Á), ở đây 6 tháng học tiếng Phạn và tiếng Mã Lai,
sau đó đi tàu sang Ấn Độ. Sau khi đậu ‘kì thi nhập học’ rất kham khổ, ngài vào
chùa[1] (tu viện) Nalanda được 12
năm tu học, so với 25 năm sống ở hải ngoại và thăm viếng được hơn 30 quốc gia.
Ngài đem về nước khoảng 400 bộ kinh luận tiếng Phạn, cùng khoảng 300 viên ngọc
xá lợi. Cho đến cuối đời vào năm 713, ngài luôn chăm chú dịch kinh từ tiếng Phạn.
(được hơn 50 bộ kinh). Một số tác phẩm nổi tiếng của Nghĩa Tịnh là Đại Đường
Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện, Trọng Quy Nam Hải Truyện, Nam Hải Kí Quy Nội
Pháp Truyện, Phạn Ngữ Thiên Tự Văn 梵語千字文 còn gọi là Phạm
Đường Thiên Tự Văn, Đường Tự Thiên Man Thánh Ngữ 梵唐千字文, 唐字千鬘聖語 ...v.v...
Nam Hải Kí Quy Nội Pháp Truyện gồm 4 quyển và có
40 điều (chương) được coi như là nội quy cho các sa môn (tăng sĩ hay ni
cô Phật giáo) phải noi theo cùng với các lý do và phê bình chi tiết của pháp sư
Nghĩa Tịnh. Một số điều khoản trong Nam Hải Kí Quy Nội Pháp Truyện:
1) Phá hạ phi tiểu 破夏非小 (phá hạ[2] không phải là chuyện nhỏ)
2) Đối tôn chi nghi 對尊之儀
(cách ứng xử với đức Phật Tổ)
3) Thực toạ tiểu sàng 食坐小床 (ngồi ghế nhỏ trong bữa ăn)
4) Xan phân tịnh xúc 餐分淨觸
(phân biệt thức ăn sạch và dơ)
...
8) Triêu tước xỉ mộc 朝嚼齒木(sáng
sớm phải nhai/chà răng bằng xỉ mộc)
...
23) Kinh hành thiểu bệnh 經行少病 (đi bộ để ít bệnh)
…
33) Tôn kính quai thức 尊敬乖式 (các thức tục lệ/tôn kính ngược ngạo)
…
38) Thiêu thân bất hợp 燒身不合
(thiêu xác thân là không hợp lẽ trong Phật Giáo)
39) Bàng nhân hoạch tội 傍人獲罪
(người ngoài cuộc mắc tội)
40) Cổ đức bất vi 古德不為
(các điều sa môn già và đạo đức không làm)
Phần sau đi sâu hơn vào chi tiết của điều 33. Cần
nhắc lại ở đây là Nam Hải Kí Quy Nội Pháp Truyện viết bằng Hán văn thời trung cổ
nên có nhiều khi khó hiểu, cùng với các văn bản chép lại có khi không giống
nhau vì ở các thời đại khác nhau (tam sao thất bản) nên phải thận trọng khi muốn
tìm hiểu chính xác hơn. Một
điểm đáng nhắc lại ở đây: tuy là người sau cùng trong ba nhà du hành nổi
tiếng Trung Hoa (cũng là tăng sĩ/dịch giả) đã qua xứ Phật vào thời trung cổ,
nhưng ngài ở đây ít nhất là 12 năm trong 25 năm lưu lạc ở 'nước ngoài' lo học đạo,
so với 10 năm của nhà sư Pháp Hiển và 16 năm của nhà sư Huyền Trang. Do đó các
nhận xét và ghi chép của ngài rất sâu sắc và đáng chú ý.
2. Phỏng dịch điều 33 ‘Các thức tục lệ/tôn kính[3] ngược ngạo’
Phật giáo đã có lề luật chỉ rõ cách thức chào hỏi
tôn kính (đảnh lễ) người trên . Tự mình (tì kheo) phải đảnh lễ và niệm chú 6 lần
mỗi ngày, dùng toàn thân (tay và chân) đảnh lễ hết sức nghiêm cẩn; một mình ở
trong phòng yên tĩnh và đi khất thực để sống. Phải noi gương hạnh đầu đà[4] và tu tập tri túc (biết đủ
là đủ). Chỉ mặc ba loại áo choàng (tam y Hán Việt) và không cần (vải/của) dư thừa.
Tâm tư luôn nghĩ về vô sinh hay thoát ra khỏi các dây nhợ (liên luỵ) của thế giới
chung quanh. Không thể làm khác hơn các quy luật trên: thử xem trường hợp người
tu hành mặc áo nhà sư, không nhìn như người thường (người không xuất gia) và
chào hỏi thiên hạ ở chốn thị thành! Hãy kiểm tra lại luật lệ của Phật giáo
(vinaya) thì các điều nói trên đều bị cấm. Đức Phật Tổ dạy rằng[5] có hai hạng người được tôn
kính: 1) Tam bảo và 2) Đại sư[6] (~ người đã là tì kheo lâu
năm hơn). Có những người đem tranh[7] của đức Phật Tổ ra ngoài đường
xá, làm cho dơ bẩn (vì bụi bặm), chỉ đề cầu tài lợi (tiền bạc, của bố thí). Lại
có những người làm cho thân thể như có tật[8]
(chân tay bị cong queo), xăm/châm[9] da mặt (cho có vết thương),
bẻ xương[10] cho gẫy hay làm rách[11] da thịt (cho có vết thương)
và giả bộ như là tình thật chỉ để sinh nhai. Các cảnh tượng như trên ở Tây quốc
(Ấn Độ) hoàn toàn không hiện diện. Cho nên xin khuyên[12] là
đừng làm các trò giả dối đó nữa (hàm ý các trò lừa gạt đó ở quê nhà Trung Hoa của
Nghĩa Tịnh).
3. Bàn thêm về các cách dùng trong điều 33
Các cách dùng Ngũ Thiên, Tây quốc (chỉ Ấn Độ),
Phật (Bụt) đã được giải thích trong bài viết “Đời sống tăng đoàn ở Nalanda (Ấn
Độ) vào thế kỉ 7: cây xỉa/chà răng theo ghi chép của pháp sư Nghĩa Tịnh” cùng
tác giả. Đây là cách dịch/phiên nghĩa so với cách kí/phiên âm Hán Việt của các
thuật ngữ bằng tiếng Phạn. Một số từ Phạn đã bản địa hoá cao độ và dùng một
cách tự do như trong vốn từ cơ bản: td. Phật (Bụt ~ động từ budh- बुध् là biết/tỉnh giấc/giác/ngộ),
Phạn/Phạm (đơn âm hoá danh từ brahman ब्रह्मन्), kiếp (劫波 kiếp ba - kí âm tiếng Phạn kalpa कल्प), bát (缽 là âm đầu của pātra पात्र Phạn ngữ - bát đi khất
thực), xá lợi (舍利
là kí âm của śarīra शरीर là thân thể, sau này mang thêm nét nghĩa Phật Giáo là di cốt sau khi hoả
táng), thế giới (世界
kí âm của loka लोक nghĩa là vũ trụ, thế giới) …v.v… Các dạng kí âm khác khá dễ nhận ra là
từ tiếng Phạn vì cấu trúc đa âm và các nét nghĩa khác biệt (của từng âm tiết)
như A la hán[13] có gốc Arhat अर्हत् (đơn âm hoá thành 阿羅漢 A La Hán Hán Việt > La Hán), Lâm tì ni có gốc
Phạn ngữ Lumbini लुम्बिनी (đơn âm hoá thành 藍毗尼 lam tì ni > Lâm tì ni) ...v.v... Ngoài các từ nhập (thường đa âm) dễ
nhận ra, dấu ấn của tiếng Phạn còn để lại trong cấu trúc thành lập từ mới và ngữ
pháp của tiếng Hán qua các bản kinh dịch của Phật giáo hay các tài liệu như Nam
Hải Kí Quy Nội Pháp Truyện. Cấu trúc ngữ âm truyền thống của tiếng Phạn đặt nền
tảng cho các học giả Trung Hoa để tìm cách phân tích chữ Hán qua phiên thiết và
âm vận thêm chính xác hơn: đây là một chủ đề rất thú vị[14]
nhưng không nằm trong phạm vi bài viết này - tham khảo chi tiết trong bài viết
"The Influence of Buddhist Sanskrit on Chinese" của Xiangdong Shi chẳng
hạn. Phần sau chú trọng vào các cách dùng đặc biệt của điều 33.
3.1 Khất thực
Khất thực 乞食 (khất Hán Việt là xin, thực Hán Việt là ăn ~ xin ăn) là dịch nghĩa của
Paiṇḍapātika Phạn ngữ पैण्डपातिक (xin ăn, người ăn xin) cũng là một trong 12 hạnh
đầu đà - xem thêm chi tiết ở phần dưới. Các cách dịch nghĩa khác là 分衛、團墮, 持缽、捧缽, 托缽
phân vệ, đoàn doạ, trì bát, phủng bát, thác bát ...v.v... Các dạng kí âm của piṇḍapāta
là 賓荼波多; 儐荼夜 tân đồ ba đa; tấn đồ dạ. Đây là một pháp môn của Ấn Độ cổ đại và chư
tăng Phật giáo Nam tông (Tiểu thừa, Nguyên thuỷ) đều đi khất thực mỗi ngày. Các
cách dịch nghĩa trên cho thấy phần nào các ý của hoạt động khất thực hay còn gọi
là đi bình bát hay trì bát.
Phân vệ có thể là kí âm hơi khác lạ (Huyền Ứng
Âm Nghĩa cho là sai, phải kí âm là tân đồ da), tuy nhiên cũng có thể hiểu phân
là sự phân chia thực phẩm cho tăng ni để hộ vệ trong việc tu đạo theo Tăng Kì
Luật.
Đoàn đoạ hàm ý đồ ăn (td. cơm) nắm tròn lại
(đoàn) và bỏ vào trong bát đựng (đoạ ~ rơi/rớt xuống bát).
Trì bát, phủng bát, thác bát đều hàm ý tay cầm
bát hay bưng bát xin ăn.
Khất thực là một biểu trưng không chấp ngã, xa
lìa sự ham muốn vì chỉ nhận được thức ăn tuỳ theo người cho và chỉ rất giới hạn
trong không gian/thể tích nhỏ bé của cái bát nhà sư mang theo. Cùng với quá
trình kinh hành, khất thực là cơ hội để luyện tập sức khoẻ vật chất và tinh thần.
Ngoài ra, đây cũng tạo duyên cho chúng sinh giảm bớt sự tham lam qua việc bố
thí cho tha nhân và cùng nhau tạo công đức về sau ...v.v...
3.2 Nghiệp
Nghĩa Tịnh ghi 乞食為業 khất thực vi nghiệp[15], hàm ý (các nhà sư) phải đi
xin ăn để sinh nhai hay là làm nghề xin ăn như là một trong những hạnh đầu đà.
Dựa vào văn cảnh, nghề hành khất này không phải là quả báo hay nghiệp báo từ
trước kia mà bây giờ phải trả: đây chỉ là một cách tu hành để giới hạn lòng ham
muốn (ăn uống, vật chất - tam độc/tam căn) và để người nhận và người cho (thí
chủ) tu tâm. Người nhận ở đây chính là nhà tu đã chọn con đường xuất gia
để tìm phương thức thoát ly cõi ta bà này, các nhà tu có lịch sử hoàn toàn độc
lập với nhau (td. kiếp trước và kiếp này khác nhau) nhưng cùng noi theo hạnh đầu
đà để tìm đến mục tiêu cuối là giải thoát (vô sinh, niết bàn). Người cho thì có
cơ hội giảm bớt lòng tham và tạo dựng công đức hay nghiệp tốt vậy. Cần
phải thận trọng khi đánh đồng[16] chữ nghiệp 業 với Phạn ngữ karma कर्म, tiếng Pali kamma. Karma
có nhiều nghĩa: hành động, làm, ý định làm, hậu quả của việc làm ... Kí âm của
karma là kiết/yết ma 羯磨 hay 羯摩, nhân đây bàn thêm về cách đọc yết - có lẽ nên đọc là kiết (ma) cho phù hợp
với phiên thiết hơn. Chữ 羯 đọc là kiết dựa vào phiên thiết:
居謁切 cư yết thiết (Thuyết Văn Giải Tự, Quảng Vận, Tập Vận, Vận Hội); 居謁反 cư yết phản (Long Kham Thủ Giám); 居謁巨謁二切
cư yết cự (há) yết nhị thiết (Ngọc Thiên, Tứ Thanh Thiên Hải). Chữ 羯 có thanh mẫu là kiến 見, vận mẫu là nguyệt 月 và nhập thanh. Ngoài ra, một dạng âm cổ phục nguyên của kiết là *kad
(td. tương quan an - yên, càn - kiền, phan - phiên, cát - kiết ...), do đó âm cổ
của *kiết ma 羯磨 là *kad *ma, cận âm của Phạn ngữ karma.
Nên nhắc ở đây là chữ 謁 - cùng thành phần hài thanh 曷 hạt Hán Việt như chữ 羯 - đọc là yết thì phù hợp với phiên thiết: 於歇切 ư hiết thiết (Đường Vận, Tập Vận, Vận Hội, Chánh Vận). Thanh mẫu của 謁 là ảnh 影, vận mẫu là nguyệt 月.
Một đề tài quan trọng cần phải bàn khi nhắc đến
nghiệp là luật nhân quả: nghiệp là thể hiện của thân, khẩu, ý và nếu ta
tạo nhân (nghiệp) tốt thì sẽ được quả tốt và ngược lại. Nghĩa Tịnh đã cho ta thấy
hình ảnh người phàm tục giả dối (tật nguyền, thương tích) và lạm dụng (hình đức
Phật Tổ được thờ) để mưu cầu tài lợi, ngài khuyên là đừng nên làm như vậy với
ngụ ý là sẽ gặp nhiều chuyện không may theo luật nhân quả tự nhiên - đây cũng
là lời nói thường nghe trong dân gian về nghiệp quả hay nghiệp báo (tiêu cực) của
hiện tại hay cho tương lai. Khái niệm về nghiệp và nhân quả đã hiện diện từ thời
cổ đại ở Ấn Độ trong các tôn giáo trước thời Phật giáo - như Ấn Độ giáo, Kì Na
giáo - và vẫn tồn tại cho đến ngày nay cho thấy mức độ 'chính xác' của chúng.
Không những thế, luật nhân quả còn liên hệ đến các nguyên lý khoa học: td. (a)
định luật thứ 3 phát biểu rằng mỗi lực tác động (action/A) thì có một phản lực
ngược chiều (reaction/A) cùng độ lớn (b) nguyên lý Hebb phát biểu rằng khi bắn
những neurons cùng một lúc thì chúng được nối với nhau: nghĩa là các ý nghĩa
liên tục giống nhau sẽ tạo ra mẫu mực cho cá tính và cách ứng xử ...v.v…
3.3 Hạnh đầu đà
Đầu đà 頭陀 là một dạng kí âm tiếng Phạn và Pali Dhùta धुत - từ này có nhiều nghĩa
như lắc đầu (một trong 13 kiểu lắc đầu), bỏ (tháo gỡ) đi, bị bỏ có gốc là động
từ dhu- hàm ý rũ bỏ, tiêu trừ... Nét nghĩa chính dùng trong Phật Giáo là từ bỏ.
Các cách kí âm khác là 杜多、杜荼、投多、偷多,
塵吼多
đỗ đa, đỗ đồ (trà), thâu đa, trần hống đa ... So với các cách dịch nghĩa là sửa
trị, trừ khử, rũ bỏ, đãi lọc, rửa tẩy (hàm ý rũ bỏ các phiền não của thế giới
chung quanh). Nghĩa Tịnh có lúc ghi là 12 và có lúc ghi 13 hạnh đầu đà trong Nam
Hải Kí Quy Nội Pháp Truyện, tuy nhiên điều 33 chỉ ghi hai hạnh là mặt áo (tam
y) và khất thực phản ánh nếp sống khổ hạnh của người xuất gia. Một điểm nên nhắc
ở đây là trong điều 9 (受齋軌則 thụ trai quỹ tắc) của Nam Hải Kí Quy Nội Pháp Truyện, Nghĩa Tịnh ghi là
một số nhà sư[17]
noi theo hạnh đầu đà bằng hành khất và mặc áo choàng (tam y): hàm ý là không phải
tất cả tuyệt đối[18] người xuất gia nào cũng
tuân theo 12 hay 13 hạnh đầu đà. Theo các kinh như Tăng Nhất A Hàm, 12 hạnh đầu
đà có thể tóm tắt lại là (a) về áo quần: lấy vải vụn/cũ/phế thải làm y, chỉ có
ba y (b) về ăn uống: đi khất thực, khất thực tuần tự từng nhà không kể nghèo dầu, ăn một lần,
ăn vừa đủ, quá ngọ không ăn, không uống nước trái cây (ép) (c) chỗ trú ngụ: ở
nơi thanh vắng, ở dưới gốc cây, ở nơi đất trống, ở nơi chứa thây/người chết (mồ mả), chỉ ngồi, không nằm.
3.4 Xuất gia
Xuất gia 出家
là một cách dịch nghĩa của Phạn ngữ pravrajyā अटाट्या, tiếng Pali pabbajja: với
pra- प्र là tiền tố có nghĩa (đi) tới, và vrajyā व्रज्या là đi quanh, diễn hành
... Do đó pravrajyā hàm ý đi tới từ nhà hay rời bỏ nhà để đi tu, giai đoạn đầu
để trở thành một tì kheo. Một cách dịch nữa là tòng (tùng) thích 從釋 (nghĩa đen là đi theo Thích Ca[19]). Cách dịch cổ hơn là xuất
trần 出塵
so với dạng kí âm 波吠你耶,
波吠儞野 ba phệ nhĩ da, ba phệ nhĩ dã
... Nên
ghi nhận thêm ở đây xuất gia/pravrajyā từng là một tục lệ cổ đại của Ấn Độ giáo
khi một người muốn thoát khỏi vướng mắc của thế gian và sống một đời khổ hạnh.
Đây là một trong những truyền thống Phật giáo có liên hệ mật thiết và đến từ Ấn
Độ giáo, ngay cả đức Phật Tổ được coi như là hoá thân (Avatāra अवतार) thứ 9 trong 10 hoá thân
chính của thần Vishnu[20]. Lịch sử hình thành Phật
giáo gắn liền với văn hoá tín ngưỡng Ấn Độ cổ đại, cũng như để hiểu rõ hơn tiến
hoá của Phật giáo cho đến ngày nay: không biết pháp sư Nghĩa Tịnh sẽ nghĩ như
thế nào khi 'biết' tăng ni Nhật Bản[21] hiện
đại có thể lập gia đình và có con cái như người phàm? Hay sự phổ thông của tín
ngưỡng (Phật Bà) Quán Thế Âm ở Trung Hoa, Nhật Bản[22] và
Việt Nam?
3.5 Tri túc
Tri túc 知足 (tri ~ biết, túc ~ đủ) là một cách dịch nghĩa của Phạn ngữ saṃtuṣṭi संतुष्टि
: sam- सम् là tiền tố nghĩa là cùng nhau, với nhau, hết thảy (hoàn toàn) và tusti तुष्टि nghĩa là thoả mãn, vừa
lòng ... Do đó nét nghĩa thứ nhất của tri túc là biết mình có như thế là đủ rồi,
không muốn hơn. Nét nghĩa thứ hai của tri túc là tên của cõi Đâu Suất[23] (Đâu Suất thiên 兜率天) nơi ở của Phật Di Lặc và các vị bồ tát giúp
giáo hoá chúng sinh. Hai nét nghĩa trên liên hệ với nhau mật thiết vì cõi Đâu
Suất là nơi hoàn toàn đầy đủ (vui vẻ, hoan hỉ vì đã thoát ly mọi phiền não).
Tri túc (biết đủ) thường đi chung với thiểu dục 少欲 (ít muốn), như trong kinh Trường A Hàm quyển 12 hay kinh Phật Di Giáo.
Dựa vào nhân quả tự nhiên, khi ít ham muốn và biết đã đủ rồi/không muốn nữa (tự
tại) thì có gì mà có thể làm cho ta khổ?
3.6 Vô sinh
Vô sinh 無生 là một cách dịch nghĩa của Phạn ngữ anutpanna अनुत्पन्न
- so với dạng Utpāda उत्पाद hàm ý nguồn gốc, sinh ra, phát sinh với động từ
gốc pad là sinh ra, phát triển ... Tiền tố[24] an-
có nghĩa là không - có dạng अ- a- khi đứng trước phụ âm và có dạng
अन्- an- khi đứng trước nguyên âm - do đó anutpanna hay vô
sinh[25] hàm ý không sinh ra, không
sống trên đời. Vô sinh hay bất sinh là một nghĩa của Niết bàn: trong điều 33,
pháp sư Nghĩa Tịnh ghi là 無生致想有累全祛 vô sinh trí tưởng hữu luỵ toàn khư. Đoạn này cho thấy tâm tư của người
tu hành (tăng ni) luôn luôn hướng về vô sinh, để có thể trừ khử hay thoát ly mọi
hệ luỵ của cuộc đời, đây một cách giải thích khác của Niết bàn. Các cách nói
khác cho thấy nghĩa của Niết bàn rõ hơn là vô sinh vô diệt, hay thường gặp hơn
là bất sinh bất diệt[26] 不生不滅 (không sinh và không mất, không bị vướng vào vòng sinh tử luân hồi). Vô
sinh còn là một cách dịch nghĩa của A La Hán (xem thêm phụ chú 15), theo Phật
giáo Tiểu thừa là danh vị cao nhất hàm ý đã nhập niết bàn và không chịu quả báo
sống chết lần thứ hai.
3.7 Tam bảo
Tam bảo 三寶 là một cách dịch nghĩa của Phạn ngữ triratna त्रिरत्न
với tiền tố tri त्रि nghĩa là ba (số 3) và ratna रत्न, từ này có nhiều nghĩa như viên ngọc quý, châu
báu, bảo vật, quà tặng ... Phật giáo thường dịch triratna là Tam bảo hàm ý ba
ngôi báu: Phật, Pháp và Tăng. Phật thường chỉ đức Thế Tôn/Thích Ca, bậc giác ngộ
đầu tiên - hay còn có thể chỉ tất các đức Phật đã thành (theo Phật giáo Tây Tạng
chẳnh hạn). Pháp là những lời dạy từ Phật cho ta phương pháp để đi đến giải
thoát/giác ngộ như ngài. Tăng chỉ những người đã xuất gia, thực hành theo lời
Phật để được giải thoát. Khái niệm ba ngôi[27]
(Trinity/A) đã có từ lâu trong Ấn Độ giáo (Trimurti gồm có ba thần Shiva,
Vishnu, Brahma). Để ý là Tam bảo trong đạo Kì Na (Jainism/A) thời cổ đại Ấn Độ,
là một khái niệm trừu tượng hơn so với Phật Giáo, chỉ chính trí 正智 Samyakjñāna सम्यग्ज्ञान,
chính tín 正信
Samyakdarshana सम्यग्दर्शन và chính hành 正行 Saṃyakcaritra संयक्चरित्र): hay là ba cách (ba con đường) dẫn đến giải
thoát hay là Niết bàn; không thể thiếu một trong ba cách nếu muốn đạt đến giai
đoạn giải thoát. Tam bảo là khái niệm căn bản của Phật giáo, người phàm khi tin
vào Tam bảo sẽ trở thành Phật tử.
3.8 Bật sô (> tì kheo)
Bật sô 苾芻 là một cách kí âm của Phạn ngữ bhikṣu भिक्षु, tiếng Pali bhikkhu; các
dạng kí âm khác là 煏芻, 備芻,
比呼, 比丘 phức sô、
bị sô, bỉ hô, bỉ/tỉ khâu ... Dạng bỉ khâu còn có các biến âm khác là tỉ khâu -
tỉ khưu - tì kheo (thường dùng hơn) ... Bhikkhu là một dạng biến cách từ
căn ngữ भिक्षते bhikṣate nghĩa là xin, cầu mong, tiếp nhận - do đó bhikkhu hàm ý người
ăn xin, hành khất nam. Nếu là hành khất nữ thì thêm ni vào भिक्षु bhikṣu + -णी -ṇī trở thành bhikkhuni, kí âm
HV của ni là 尼.
Cấu trúc [Phạn + Hán] cho ra dạng ni cô 尼姑 để chỉ sư cô, nữ tu, tì kheo ni. Các cách dịch nghĩa của bhikkhu là 乞士、乞士男、除士、薰士、破煩惱、除饉、怖魔 khất sĩ、 khất sĩ nam、 trừ sĩ、huân
sĩ、 phá phiền não、 trừ cận、bố (phố) ma (làm cho ma quỷ sợ/bố)...v.v… Bật sô là một dạng kí âm vì bật
苾 có một dạng âm cổ phục nguyên
là *bhit, và sô 芻
có một dạng âm cổ phục nguyên là *[tsʰ]ro (kho xát hoá), tương ứng với dạng
bhikhu tiếng Phạn. Tuy nhiên, hiện tượng trùng nữu biến đổi phụ âm b/p- trở
thành t- tiếng Việt như tân lang 檳榔 có gốc là pinang (pin > tân, nang > lang - lẫn lộn n - l), thành
ra ta có các biến âm bật sô - bỉ khu > tỉ khu > tì kheo.
3.9 Tăng
Tăng 僧 - âm cổ của 僧 là *săng, biến âm s thành t: *săng > tăng
Hán Việt - là kí âm và nói tắt của Phạn ngữ sangha संग्हा tăng già 僧伽; âm cổ của 僧伽 là *săng *ka, cận âm Phạn
sangha; tiếng Pali là saṃgha: gồm tiền tố सं- saṃ- và हन् han. Danh từ tiếng Phạn
này đã hiện diện trong Ấn Độ giáo, Kì Na giáo từ lâu đời: tiền tố sam- hàm ý
cùng nhau, với nhau (chỉ số đông - 4 người trở lên trong Phật Giáo) cho nên
sangha có nghĩa là một nhóm người, đoàn thể, hội đoàn, tập thể ... Các cách dịch
nghĩa là hòa (和),
chúng (眾),
hòa hợp (和合);
cho nên còn được gọi là hòa hợp chúng (和合眾), hòa hợp tăng (和合僧), hải chúng (海眾 hàm ý tăng chúng hoà hợp như biển cả), xuất gia chúng (出家眾), giáo đoàn (教團); hay theo cấu trúc [Phạn + Hán] để cho ra các dạng tăng chúng (僧眾), tăng lữ (僧侶). tăng đoàn (僧團), tăng gia (僧家
- gia là nhà), tăng ngũ (僧伍), tăng đồ (僧徒),
tăng viện (僧院),
tăng ni (僧尼)
...v.v... Danh từ tăng đã được bản địa hoá cao độ (như bụt/Phật, kiếp, tháp chẳng
hạn) nên còn dùng để chỉ một người xuất gia (td. tăng nhân 僧人 ở Trung Hoa) như cách dùng "vị tăng cao tuổi"
trong tiếng Việt; nét nghĩa này rất khác với nghĩa nguyên thuỷ của tăng (<
tăng già). Trong điều 33, pháp sư Nghĩa Tịnh chỉ dùng một chữ tăng để chỉ một
đoàn thể các vị sư so với bật sô (tì kheo) để chỉ một cá nhân. Các cách dùng
liên hệ với cấu trúc [Phạn + Hán] hậu kì là tăng chủ/tăng chính (chỉ người lãnh
đạo và hướng dẫn tăng đoàn), tăng thứ (thứ hạng trong giới tăng ni), tăng thống
(chức vị thống lĩnh Phật giáo quốc gia), tăng nhân (sư nam). Một số học giả xem
tăng già/tăng đoàn như một thể chế dân chủ (demoncratic institution/A) tiên
phong trong lịch sử nhân loại, tương phản với các chế độ đẳng cấp, cuồng tín,
chuyên quyền…v.v…
4. Kết luận
Điều 33 của Nam Hải Kí Quy Nội Pháp Truyện, tuy
chỉ vỏn vẹn có 161 từ Hán Việt, nhưng đã phát hoạ một bức tranh toàn cảnh khá
rõ nét của xã hội Ấn Độ và Trung Hoa nói riêng, và thế giới trần tục này qua đời
sống tăng đoàn cách đây hơn 1300 năm. Bức tranh này có khác với tình hình ngày
nay không? Trọng tâm của bức tranh mà pháp sư Nghĩa Tịnh ghi nhận qua ngòi bút
của ngài là Tam bảo: có Phật (Phật ngôn), có Pháp (tri túc, hạnh đầu đà, khất
thực, vô sinh) và Tăng (tăng, bật sô, xuất gia). Cụ thể hơn, đọc kỹ điều 33 cho
ta hình dung ra một vị tì kheo xuất gia, trang phục rất đơn giản (tam y) và ở
trong một phòng yên lặng để tu tâm dưỡng tính hướng về sự giải thoát (vô sinh)
khỏi các vướng mắc thế gian. Hay có đi ra ngoài thì vị tì kheo này (Nghĩa Tịnh
kí âm bhikṣu là bật sô Hán Việt) khất thực để vừa đủ sinh tồn tối thiểu và cũng
noi theo hạnh đầu đà hướng về giai đoạn sau cùng là sự thoát ly ta bà thế giới.
Bên cạnh hình ảnh khất sĩ đó là những người phàm tục, dẫn dắt bởi lòng ham muốn/tham
lam và dục vọng, có thể làm bất cứ chuyện gì (như huỷ hoại thân thể, lạm dụng
hình ảnh Phật) để thoả mãn sự ham muốn và mưu cầu tài lợi cho cá nhân. Cuối
cùng, Nghĩa Tịnh cũng khuyên là đừng nên gian dối tham lam để mưu cầu tài lợi
(tiền bạc, danh vọng ...). Ngài ngưng lại ở đây và không khai triển thêm nữa.
Theo người viết, ngụ ý của ngài trong dòng cuối điều 33 là đừng nên làm những
chuyện gian dối, tham lam (nhân) vì sẽ lãnh hậu quả tự nhiên (nghiệp báo) và cứ
mãi nằm trong vòng luân hồi sinh tử. So với đoạn đầu điều 33 nói rõ sự xuất
gia, các hoạt động và tu luyện hướng đến vô sinh hay không còn lệ thuộc luân hồi
nữa.
Điều 33 còn cho thấy một số cách kí âm tiếng Phạn thời Nghĩa Tịnh cùng với một số cách dịch nghĩa từ luật lệ và giáo lý căn bản Phật giáo được truyền lại cho tăng đoàn vào TK 7. Biết được cấu trúc của các thuật ngữ tiếng Phạn (và Pali) nguyên thuỷ với phạm trù nghĩa liên hệ (thường khá rộng) sẽ giúp ta hiểu rõ hơn một số cách dùng và khái niệm cốt lõi của Phật giáo theo dòng thời gian - nếu không cẩn thận thì rất dễ nhầm lẫn. Ngoài ra, tìm hiểu các cách dùng trên trong Ấn Độ giáo, Kì Na giáo (trước thời Phật giáo) trong lịch sử Ấn Độ cổ đại cũng giúp ta cảm thông được phần nào quá trình hình thành Phật giáo. Các tiểu mục như khất thực, Tam bảo, Tăng, bật sô, vô sinh, tri túc, xuất gia, nghiệp, (hạnh) đầu đà ghi trong điều 33 cần ít nhất một quyển sách dày mới hi vọng hiểu cặn kẽ hơn. Tuy nhiên, người viết mong rằng bài viết nhỏ này sẽ là một động lực cho người đọc thấy thích thú để tìm tòi tra cứu sâu xa hơn nữa, cũng như phát hiện nhiều kết quả thú vị. Điều 33 nói riêng, hay Nam Hải Kí Quy Nội Pháp Truyện cùng các tác phẩm khác của pháp sư Nghĩa Tịnh nói chung, là nguồn tài liệu quý báu và phong phú: cung cấp thông tin về hoạt động, luật lệ cùng tín ngưỡng của tăng đoàn Phật Giáo vào TK 7 ở xứ Phật. Các dữ kiện này được đúc kết từ trải nghiệm cá nhân sau 25 du học ở 'nước ngoài', cùng với những chuyến đi thực địa, đáng được hậu thế học hỏi và khai thác thêm. Các thông tin trên cũng hỗ trợ cho nghiên cứu về khảo cổ, lịch sử (đặc biệt là Phật giáo) và ngôn ngữ thêm phần chính xác.
[1] Trong Đại Đường Tây Vực
Cầu Pháp Cao Tăng Truyện, Nghĩa Tịnh phê bình là tự 寺 (chùa) là cách phiên/dùng
không chuẩn (不是正翻 bất thị chính phiên), so với cách dùng 毘訶羅 bì ha la (phiên âm tiếng
Phạn vihara विहार là nơi thờ thần/Phật, chùa, tu viện
…). Tuy nhiên ở đây ngài vẫn dùng tự (~ chùa) cho Na Lan Đà.
[2] Hạ 夏 có nhiều nghĩa (td. mùa
hè, nhà lớn, Trung Hoa ...): ở đây nghĩa là thời gian ba
tháng hay khoảng 9 tuần (nhất hạ cửu tuần) mùa mưa - tăng lữ ở một chỗ (an cư)
như chùa, nhà nhỏ, gốc cây mà không được đi đâu. Thành ra có nhiều cách dùng
liên hệ như sơ hạ (đầu hạ), hạ thủ (ngày đầu hạ), mãn hạ, kết hạ, phá hạ
...v.v...
[3] Còn có thể hiểu tôn kính 尊敬 là kính (đức thế) tôn -
hay cách kính lễ tranh hay tượng của đức Phật Tổ. Để ý trong điều 33 là Nghĩa
Tịnh ghi là 尊像 tôn tượng (tranh đáng tôn kính) hàm ý tranh của đức Phật Tổ.
[4] Bản văn thời Tống,
Nguyên, Minh ghi là 杜多 đỗ đà, so với phiên bản bài này là 頭陀 đầu đà.
[5] Nghĩa Tịnh ghi 2 chữ 佛言 Phật ngôn, người viết dịch là đức Thế Tôn dạy rằng (6 chữ), dựa vào
các cách dùng tương đương của Nghĩa Tịnh trong Nam Hải Kí Quy Nội Pháp Truyện (có lúc ngài dùng Phật
hay Thế Tôn, Thích Ca ...). Học giả Tsun Nyen Yong thuộc đại học Kyoto (sđd,
2022) cũng từng nhận xét là Nghĩa Tịnh thường dùng một số từ đồng nghĩa để dịch
một từ Phạn, cho nên phải ý thức điều này để hiểu rõ hơn các tác phẩm của ngài
(qua tiếng Hán trung cổ).
[6] Nghĩa Tịnh ghi 大己苾芻 đại kỉ bật sô, hàm ý các
sư trưởng (thượng toạ, hoà thượng ...), người viết dịch là Đại sư (~ cao tăng,
hoà thượng ...) - xem thêm chi tiết trong mục 3.
[7] Nghĩa Tịnh dùng chữ tượng
Hán Việt 像 nghĩa là tranh vẽ, còn
bức tượng (hay tượng) gọi là điêu tượng 雕像 (tượng được khắc/chạm
trổ) hay tố tượng 塑像 (tượng được đắp/nặn). Chú ý là tượng
trong tiếng Việt hiện đại có nghĩa khác với tranh hay ảnh; tượng Bụt là
tượng Phật (từ điển Việt Bồ La năm 1651).
[8] Nghĩa Tịnh ghi 鉤身 câu thân, hàm ý sửa đổi
hình dáng thân thể trở thành cong quẹo như bị tật ... Các bản văn thời Tống,
Nguyên, Minh ghi là 鉤身自 câu thân tự (làm cong queo thân mình).
[9] Nghĩa Tịnh ghi 刺臉 thứ kiểm hàm ý châm/đâm
vào mặt cho có vết thương. Các bản văn thời Tống, Nguyên, Minh lại ghi kiểm bộ
mục 瞼 (nghĩa là mí mắt).
[10] Nghĩa Tịnh ghi là 斷節 đoạn tiết, hàm ý làm cho
đứt các khớp xương.
[11] Nghĩa Tịnh ghi là 穿肌 xuyên cơ, hàm ý làm rách
da hay thịt (cơ có nghĩa là da hay thịt).
[12] Hán văn trích là 勸導諸 khuyến đạo chư so với bản
văn thời Tống, Nguyên, Minh là 宜勸導 nghi khuyến đạo - hàm ý là (Nghĩa
Tịnh) ra lời khuyên bảo. Câu cuối cùng người viết/NCT cố gắng dịch cho rõ ý hơn
so với văn cảnh (Hán văn thời Trung cổ khá tối nghĩa).
[13] Để ý là có nhiều dạng kí
âm của một từ gốc Phạn (mà từ này thường lại có nhiều nghĩa) như Arhat: 阿羅漢 a la hán Hán Việt, 阿羅訶 a la ha, 阿羅呵 a la a, 阿拉漢 a lạp hán ... Thường gọi
đơn giản là La Hán, so với các dạng dịch nghĩa như 應供 ứng cung, 應、無著、無, 所著、真人、至真、應真 ứng, vô trứ, vô sở trứ,
chân nhân, ứng chân ...v.v... Có tác giả còn ghi nghĩa tương đương của A La Hán
là bất sinh 不生 hay vô sinh 無生 - tham khảo bài viết (2017) 阿羅漢的三個含義 của pháp sư Đại An 大安法師: A La Hán là kí âm tiếng Phạn và có nhiều nghĩa: 1) ứng cung 應供 2) trừ khủ phiền não 3) a- là không (vô, bất Hán Việt) và rahat là sinh - thành ra arhat là vô sinh hay bất sinh (không
còn vướng luỵ trần thế ...v.v...
[14] Đã có nhiều khảo cứu về
ảnh hưởng tiếng Phạn trong tiếng Hán, xem trang này chẳng hạn https://sundayguardianlive.com/opinion/sanskrit-influence-chinese-language
...v.v...
[15] Nghiệp Hán Việt 業 là chữ Hán tượng hình,
hình trên chung đỉnh văn/chữ triện cho thấy những mảnh gỗ bắc ngang của cái giá
treo nhạc khí thời xưa, khắc thành hình răng cưa, dùng để treo chuông khánh ...
Sau mang nghĩa mảnh ván bao bọc sách (~ đại bản 大版), làm sách (viết chữ trên
mảnh gỗ) và mở rộng nghĩa chỉ sự học hành như tốt nghiệp, chức nghiệp, nghiệp
vụ, con nối nghiệp cha - nghiệp nông (~ nghề nông, Việt Nam Tự Điển/1932) ...
Sau khi Phật giáo du nhập vào Á Đông, nghiệp thường dùng để chỉ khái niệm karma
hay nhân quả. Do đó nghiệp mang nặng tính chất tôn giáo (nghiệp báo/quả): từ
phạm trù nghĩa của công nghiệp, cơ nghiệp, nghề nghiệp ta có tội nghiệp, ác
nghiệp (từ điển Việt Bồ La/1651). 'Nghiệp ăn uống' là quá mê ăn uống, 'đa hành
ác nghiệp' là làm nhiều tội ác trong từ điển Việt Bồ La phản ánh cách dùng phổ
thông của nghiệp đã mang đậm sắc thái Phật giáo vào TK 17 - vào đầu TK 19,
truyện Kiều có câu 997 "Số còn nặng nghiệp má đào".
[16] Tham khảo thêm chi tiết
bài viết (2022) "Hiểu đúng về nghiệp" của Thích Hạnh Hoằng (báo Giác
Ngộ).
[17] Đoạn Hán văn liên hệ (trong điều 9 của Nam Hải Kí Quy Nội Pháp
Truyện) có
thể hiểu là một số nhà sư thực hành hạnh đầu đà hay nhà sư chỉ thực hành một số
hạnh đầu đà.
[18] Thời đức Phật Tổ đã có
tranh luận giữa ngài với (anh em họ) Devadatta: ngài không chấp nhận 5 hạnh đầu
đà khắc nghiệt cho nhà tu (như ngủ dưới gốc cây khi mưa) khiến Devadatta ly
khai và thành lập tăng đoàn riêng.
[19] Họ Thích Ca (Sakya) của
đức Phật Tổ gọi tắt là Thích để chỉ Phật Gíao như thời trước dùng Thích tử là
Phật tử (người theo đạo Phật, tu sĩ), đạo Thích Thích giáo) hay đạo Bụt là đạo
Phật, Thích điển là kinh điển Phật giáo, Thích tượng là tượng Phật (tượng bụt -
từ điển Việt Bồ La trang 848), Thích môn hay Phật môn (cửa Phật), Pháp môn,
Chân môn, Huyền môn, Đạo môn, Không môn, Đế môn, Tông môn, Tổ môn ...v.v…
[20] Thần Visnu विष्णु là một trong ba vị thần
chính của Ấn Độ giáo, gồm có Shiva, Vishnu, Brahma. Thần Vishnu trông coi và
bảo tồn luật lệ/đạo lý của thế giới vũ trụ.
[21] Tăng ni chính thức có thể
lập gia đình từ thời Minh Trị (1868) khi tư tưởng quốc gia Nhật Bản lên cao
cũng như khuynh hướng bài ngoại (td. đàn áp Phật giáo vì là từ nước ngoài vào).
[22] Ít người biết là thương
hiệu nổi tiếng của Nhật Bản Canon có nguồn gốc là Quán Âm (観音 Guanyin - Kwanon -
Canon). Ngay cả từ điển Việt Bồ La (1651) cũng có mục Quan Âm (ghi là quan ăm).
Quán Âm hay Phạn ngữ là Avalokiteśvara अवलोकितेश्वर gồm hai thành phần:
thần/chúa tể (Phạn ngữ īśvara ईश्वर) trông coi thế giới này
(Avalokita अवलोकित) - dịch nghĩa là Áp Lâu Tuyên, Quang
Thế Âm, Quán Thế Tự Tại, Quán Thế Âm Tự Tại, Quán Thế Âm Tự Tại Giả, Khuy Âm,
Hiện Âm Thanh …v.v…
[23] Đâu Suất là một dạng
phiên âm gần đúng của tiếng Pali Tusita hay tiếng Phạn Tushita तुषित; So với tiếng Mông Cổ là
Tusid, tiếng Thái dù-sit... Chữ này, cũng như nhiều chữ Phạn khác, gồm có động
từ gốc là tus (thoả mãn/đầy đủ, vui, hoan hỉ) và các hậu tố (tiếp vĩ ngữ,
prefix) như -ta. Tusita có các dạng phiên âm cổ như Đâu Suất 兜率, Đâu Suất Đà 兜率陀, Đâu Suất Đá 兜率哆, Đâu Thuật 兜術 ... Các dạng phiên âm mới
là Đô Sử Đa 都史多, Đấu Sắt Đá 鬥瑟哆, Đô Sử Đa 都史多 ... So với các cách dịch
nghĩa là Thượng Túc, Diệu Túc, Tri Túc , Hỉ Túc, Hỉ Lạc 上足、妙足、知足、喜足, 喜樂 ...v.v...
[24] Thí dụ như (a) priyam प्रियम् nghĩa là dễ chịu, vui vẻ
- apriyam अप्रियम् 'không vui vẻ' hay là khó chịu, đau
khổ; (b) saphalah सफल là thành công, có ích lợi -
asaphalah असफल 'không thành công' hay là thất bại,
vô ích; laya लय là tan rã, phá huỷ (chết), chỗ nghỉ
(nhà ở) ... (c) kuśala कुशल là tốt, đúng, thiện -
akusla अकुशल là không tốt, không đúng hay là xấu,
ác kuśala कुशल là tốt, đúng, thiện - akusla अकुशल là không tốt, không đúng
hay là xấu, ác … (d) laya लय là chảy ra, hoà tan, mất
đi - alaya आलय là không (thể) phân huỷ được - hàm ý
căn bản (gốc) của tâm thức (căn bản thức) - một trong tám thức (bát thức), dịch
là tạng, thất, vô một (không mất) (e) śikṣā शिक्षा là học, aśaikṣa अशैक्ष là không học hay vô học 無學 hàm ý đạo học đã đủ, không cần học nữa (chỉ A La
Hán)...v.v… Biết được cấu trúc Phạn ngữ giúp ta hiểu được các khái niệm PG thấu
đáo so với các cách dịch nghĩa (thường qua HV) hay kí âm.
[25] Một nét nghĩa khác trong
sinh học của vô sinh là khi một cặp vợ chồng không có con hay không thể mang
thai (vô ~ không, sinh ~ sinh con).
[26] Mức phổ thông của cách
dùng (khái niệm) bất sinh bất diệt còn cho thấy trong từ điển Việt Bồ La (1651)
ghi lại ngôn ngữ dân gian vào TK 17 và có rất ít từ Hán Việt hay thuật ngữ Phật
giáo: mục nạt bàn (nát bàn, niết bàn) ghi bất sinh, chẳng sống và bất diệt,
chẳng chết. Cách dùng này đã từng được ngài Long Thọ (khoảng 150 - 250) khai
triển trong Trung Quán Luận 不生亦不滅 不常亦不斷 不一亦不異 不來亦不出“Bất sinh diệc bất diệt,
bất thường diệc bất đoạn, bất nhất diệc bất dị, bất lai diệc bất xuất” khoảng 5 TK trước thời
Nghĩa Tịnh.
[27] Ngay cả trong Thiên Chúa
giáo, ba ngôi là (Chúa) cha, con (Giê Su) và thánh thần.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về khoa Phong Thủy0
- Các bài viết về khoa Tướng thuật0
- Các bài phê bình, cảm nhận thơ0
- Các bài viết về chăm sóc sức khỏe0
- Các bài viết về Kiến thức cuộc sống0
- Các bài viết về Chuyện làng văn0
Mời nghe Kim Yến đọc truyện ngắn
"CÔ" VƯƠNG CƯỚI VỢ của Đặng Xuân Xuyến:
*.
NGUYỄN CUNG THÔNG
Địa chỉ: Thành phố Melbourne, Australia.
Điện thoại: +61385222298 - 0422874335
Email: nguyencungthong@gmail.com
..........................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi qua email ngày 07.02.2025
- Ảnh minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của blog trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét