NHẬN BIẾT CHƯ PHẬT
QUA HÌNH DÁNG TƯỢNG THỜ
*
(Tác giả Đặng Xuân Xuyến) |
Vào chùa lễ Phật, cho dù ở ngoài đời mỗi người một tâm tính nhưng khi đứng
trước Ban thờ Phật, mọi bon chen, toan tính của đời thường dường như không còn nữa
mà thay vào đó là những khuôn mặt hướng thiện, những ánh mắt trong sáng, chan
chứa niềm tin gửi nơi cửa Phật.
Cứ nhìn cử chỉ dâng hương, ánh mắt thành kính, và những cái chắp tay lạy
Phật của tín đồ Phật giáo mới thấy lòng chí thành, khẩn thiết của họ, mới cảm
nhận sâu sắc sự tôn nghiêm, thanh tịnh chốn Phật đường.
Tuy vậy, cũng không ít Phật tử đang thành tâm hành lễ dâng hương lại không
biết mình đang đứng vái lạy, cầu xin trước chư Phật (Phật và Bồ Tát) nào? Và
lời cầu xin ấy có đúng sở nguyện của chư Phật đó khi đắc đạo, để lời cầu xin ấy
được toại nguyện?
Tất nhiên, chư Phật nào cũng từ bi, hỷ xả, cứu độ chúng sinh nhưng mỗi chư
Phật khi đắc đạo có sở nguyện khác nhau nên thiện nam tín nữ phải phân biệt
được tượng thờ các chư Phật để lời cầu xin được chư Phật chứng giám.
1. Tượng thờ Phật Thích Ca:
Tượng thờ Phật Thích Ca mặt tròn, đỉnh đầu có gò thịt nổi cao, cằm vuông
vức, nơi ấn đường (chỗ đầu hai lông mày giao nhau) có nốt ruồi đỏ. Tai dày,
tròn, đầy đặn, thành quách phân minh, sắc trắng hơn mặt. Hai tay dài và dày.
Ngực có chữ vạn, mình vàng, sắc hoàng kim.
Cũng tùy theo bố trí thờ cúng của mỗi chùa mà tượng Phật Thích Ca có các tư
thế đứng, ngồi khác nhau. Tuy nhiên, tượng Phật Thích Ca thường được tạc theo
thế ngự trên đài sen, hai tay để ấn tam muội, đôi mắt khép lại ba phần tư.
Cũng có chùa ở tầng cao nhất, sát vách cửa chính điện, thờ “Tam Thế Phật”,
đó là các vị Phật của ba thời gian: Quá khứ (Phật A Di Đà), hiện tại (Phật
Thích Ca) và vị lai (Phật Di Lặc). Ba tượng Tam Thế có kích thước và hình dáng
giống nhau, đỉnh đầu có gò thịt nổi cao như búi tóc, tai dài, tóc xoắn ốc, ngực
có chữ vạn, mình có sắc hoàng kim sáng rực, ngồi trên tòa sen.
2. Tượng thờ Phật Di Lặc:
Tượng Phật Di Lặc thường được an vị ngay ở cửa ra vào, hiếm khi được thờ ở chính
điện.
Khi thờ ở Tam Thế Phật thì tượng Phật Di Lặc giống tượng Phật Thích Ca
nhưng khi thờ riêng, thường là ở ngay chỗ cửa ra vào thì tượng Phật Di Lặc được
tạc theo tư thế ngồi ngả lưng ra đằng sau, nhành miệng ra cười ngặt nghẽo, hớn
hở như khoe cái bụng phệ, béo tròn, vô lo vô nghĩ của mình, mà cũng giống như
niềm hân hoan chào đón khách thập phương và hoan hỉ ban niềm tin cho du khách.
Cũng có chùa thờ Ngài Di Lặc theo tượng hình một vị hòa thượng mập mạp, mặc
áo phơi ngực, bày cái bụng to tướng, xung quanh Ngài có năm, sáu đứa trẻ quấy
nhiễu mà Ngài vẫn cười ngặt nghẽo...
3. Tượng thờ Phật A Di Đà:
Phật A Di Đà là hiện thân đời sống vĩnh cửu và trí tuệ hào quang nên có hai
danh hiệu: Vô lượng thọ Phật (đời sống của Phật dài vô lượng, vô biên) và Vô
lượng quang Phật (hào quang của Đức Phật chiếu tới các cõi thập phương).
Theo lời Phật Thích Ca trong kinh A Di Đà thì cõi Phật ở phương Tây
cách xa Trái Đất hàng vạn ức dặm. Cõi Phật có tên Cực Lạc quốc (Sukhavati), là
nơi có đời sống hạnh phúc, an lạc. Chúng sinh nào muốn được về cõi Cực Lạc thì
phải thành tâm tu trì, tin đức Phật A Di Đà.
Tượng Phật A Di Đà thường có những nét đặc trưng: Đầu có các cụm tóc xoắn
ốc, mắt nhìn xuống, miệng thoáng nụ cười cảm thông cứu độ, mình mặc áo cà sa,
ngực có chữ vạn ở khoảng trống của áo cà sa, ngồi hoặc đứng trên toà sen.
Đi theo hầu Phật A Di Đà thường là hai vị Bồ Tát: Đại Thế Chí và Quan Thế
Âm. Ba tượng này được gọi là bộ A Di Đà Tam Tôn. Tượng Phật A Di Đà thường được
tạc thờ theo hai thế:
- Tượng ngồi kiết già trên tòa sen, tay kiết định ấn, hình dáng tương tự
như Phật Thích Ca nhưng có sự khác biệt so với tượng Phật Thích Ca như: Tượng
Phật Thích Ca thường đắp cà sa choàng qua cổ không có đắp y (cà sa) khoát vuông
để trống, trước ngực có chữ vạn và không bao giờ duỗi một cánh tay.
Ngược lại, tượng Phật Di Đà có đôi khi người ta tạc tượng Ngài ngồi tư thế
kiết già và duỗi xòe bàn tay mặt. Y (cà sa) khoát cổ vuông và trước ngực có chữ
vạn.
- Tượng đứng trên hoa sen lơ lửng trong hư không, bên dưới là bể cả
sóng nổi lên rất cao, mắt Ngài nhìn xuống, tay trái bắt ấn cam lồ và đưa lên
ngang vai, tay mặt duỗi xuống như sẵn sàng cứu vớt những chúng sinh đang đắm
chìm trong bể khổ. Tượng này gọi là tượng Di Đà phóng quang.
Về tượng đứng, bên cạnh Ngài thường có hai vị đại Bồ tát Quán Âm và Thế
Chí. Bồ tát Quán Âm thì đứng bên tay trái và Bồ tát Thế Chí đứng bên tay
phải của Ngài. Đây gọi là tượng Tam Thánh (như tượng thờ Phật A Di Đà ở
chùa Kim Liên (Hà Nội).
4. Tượng thờ Quan Thế Âm Bồ Tát:
Đức Phật nói về thần lực của Quan Âm trong kinh Phổ Môn rằng: Nếu một ngàn
chỗ có tâm thành cầu nguyện Đức Quan Âm thì đồng một lúc đó có một ngàn Bồ tát
Quan Âm liền ứng hiện, Ngài sẽ hiện thân hình tương ứng với nhu cầu của con
người như hiện thân Tỳ kheo, hiện thân cư sĩ, hiện thân ngoại đạo...
Tượng Phật Bà Quán Thế Âm được thờ tại các chùa đều theo các cách thể hiện:
Quan Âm Chuẩn Đề (Tượng có ba mặt và 18 tay), Quan Âm nghìn tay, nghìn
mắt (Thiên thủ, thiên nhãn), Quan Âm Tọa Sơn (Quan Âm ngồi trên đỉnh
núi), Phật Bà (Quan Âm đội mũ, ngồi toà sen), Quan Âm Tống Tử (Quan
Âm ngồi bế đứa bé, một bên có Thiện Sĩ - biểu trưng bằng hình con vẹt)...
Tượng thờ Phật Phật Bà Quán Thế Âm tại các ngôi chùa Việt Nam thường là
hiện thân hình dáng của người phụ nữ quý phái, nhân hậu, dịu dàng, đứng trên
đài hoa sen tay trái cầm bình thanh tịnh, tay phải cầm cành dương liễu để phổ
độ chung sinh. Cũng có một số chùa lại thờ theo lối Di Đà Tam Tông: Đức Phật Di
Đà ở giữa, bên tả là Quan Thế Âm Bồ Tát, bên hữu là Đại Thế Chí Bồ Tát.
5. Tượng thờ Văn Thù Bồ Tát:
Văn thù Sư Lợi là vị Bồ Tát tượng trưng cho kinh nghiệm giác ngộ, đạt được
bằng phương tiện tri thức, là một trong những vị Bồ Tát quan trọng của Phật
giáo.
Theo truyền thuyết Phật giáo Trung Quốc, Văn Thù Bồ Tát được Phật
Thích Ca đích thân giao phó việc truyền bá Phật pháp và Ngũ Đài
sơn chính là nơi Bồ Tát thuyết pháp. Vì vậy, Ngũ Đài sơn cũng được xem là
trụ xứ của Văn Thù Bồ Tát.
Văn Thù Bồ Tát thường được tạc theo tượng đứng trên hoa sen trắng, an vị
bên trái tượng Phật Thích Ca (theo thế đứng vái lạy của người dâng lễ) để theo
hầu Phật Tổ.
Nhưng có chùa thờ riêng Văn Thù Bồ Tát ngồi trên lưng sư tử xanh, tay trái
cầm cành hoa sen xanh, tay phải cầm thanh kiếm sắc. Cũng có chùa thờ tượng Ngài
theo hình thức người cư sĩ đội mũ, mặc giáp, cầm kiếm....
6. Tượng thờ Phổ Hiền Bồ Tát:
Phổ Hiền là vị Bồ tát Đẳng giác có năng lực hiện thân khắp mười
phương pháp giới, tùy theo mong cầu của chúng sinh mà Ngài hiện thân hóa độ.
Trong Phật giáo Đại thừa thì Ngài là một trong những vị Bồ
Tát quan trọng.
Theo truyền thuyết của Phật giáo thì Bồ Tát Phổ Hiền được xem là người
hộ vệ của những ai tuyên giảng đạo pháp và đại diện cho
"Bình đẳng tính trí" tức là trí huệ thấu hiểu cái nhất thể của
sự đồng nhất và khác biệt.
Phổ Hiền Bồ Tát thường được an vị đứng trên tòa sen, bên phải Phật Thích Ca
(theo thế đứng vái lạy của người dâng lễ) để theo hầu Phật Tổ.
Tại các chùa, Bồ Tát Phổ Hiền hay được thờ chung với Phật Thích
Ca và Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi. Nhưng cũng có chùa thờ riêng Phổ Hiền Bồ
Tát với tượng hình người cư sĩ cưỡi voi trắng sáu ngà (voi trắng tượng
trưng cho trí huệ vượt chướng ngại, sáu ngà tượng trưng cho sự chiến
thắng sáu giác quan)....
7. Tượng thờ Địa Tạng Bồ Tát:
Địa Tạng Bồ Tát là vị Bồ Tát chuyên cứu độ sinh linh trong địa ngục và
trẻ con yểu tử hoặc cứu giúp lữ hành phương xa. Đó là vị Bồ Tát duy
nhất được diễn tả với bạch hào (lông trắng xoáy nằm giữa hai mắt) trên trán,
một trong ba mươi hai tướng tốt của một vị Phật.
Tại Trung Quốc và các nước Đông nam Á, Địa Tạng Bồ Tát được xem là một
trong bốn vị Đại Bồ Tát (ba vị khác là Quán Thế Âm, Văn Thù Sư Lợi và Phổ
Hiền) chuyên cứu độ những người bị sa vào địa ngục. Trú xứ của Bồ Tát Địa Tạng
là Cửu Hoa Sơn. Tương truyền, Địa Tạng Bồ Tát đã thật sự hiện thân tại núi Cửu
Hoa vào đời Đường dưới dạng một hoàng tử xứ Triều Tiên. Sau khi chết, nhục thân
của vị hoàng tử này không tan rữa và người dân bản địa đã xây một ngôi tháp để
thờ và bảo tháp đó ngày nay vẫn còn trên núi Cửu Hoa.
Tượng Địa Tạng Bồ Tát thường có dáng một vị tăng đầu đội mũ thất phật (trên
mũ có hình 7 vị Phật), mặc áo cà sa đỏ, tay phải cầm gậy tích trượng có 12
khoen, tay trái cầm ngọc minh châu, ngồi trên tòa sen.
Ở một số chùa, tượng Bồ Tát Địa Tạng lại được tạc ở tư thế đứng hoặc cưỡi
trên lưng một con vật giống như sư tử.
8. Tượng thờ Đại Thế Chí Bồ Tát:
Đại Thế Chí Bồ tát còn gọi là Đắc đại thế Bồ tát, Đại tinh tấn Bồ
tát, Vô biên quang Bồ tát... Là vị Bồ tát dùng ánh sáng trí tuệ chiếu
khắp mọi loài, làm cho chúng sinh thoát khổ thành tựu quả vị Vô thượng bồ đề.
Theo kinh “Quán vô lượng thọ”, Bồ tát thân cao tám mươi muôn ức, da màu
vàng tử kim, trong thiên quang của Bồ tát có 500 hoa báu, mỗi một hoa báu có
500 đài báu, trong mỗi đài đều hiện quốc độ tịnh diệu của mười phương chư Phật,
nhục kế như hoa Bát đầu ma, giữa nhục kế có một hình báu, khác hình tượng Quan
thế âm Bồ tát.
Theo “A lợi đa la đà la ni a lỗ lực”, thì hai Bồ tát
(Đại Thế Chí và Quán Thế Âm) đều toàn thân màu vàng, phóng
hào quang trắng, tay phải cầm phất trần trắng, tay trái cầm hoa sen, nhưng thân
hình Bồ tát Đại thế chí nhỏ hơn thân hình Bồ Tát Quán Thế Âm.
Còn trong “Hiện đồ mạn đồ la thai tạng giới” của Mật tông, thì tượng Ngài
ngồi trên hoa sen đỏ, thân màu trắng, tay trái cầm hoa sen mới nở, tay
phải co ba ngón giữa đặt trước ngực. Mật hiệu là Trì luân kim cương, hình Tam
muội da là hoa sen mới nở.
Tại các chùa Việt Nam, tượng Đại Thế Chí Bồ Tát thường được tạc theo
hình dáng người cư sĩ, cổ đeo chuỗi anh lạc, tay cầm hoa sen xanh, đứng bên
trái Đức Phật A Đi Đà (theo thế đứng vái lạy của người dâng lễ) để theo hầu
Phật A Di Đà. Đây là lối thờ Di Đà Tam Tông: Đức Phật Di Đà ở giữa, bên tả là
Quan Thế Âm Bồ Tát, bên hữu là Đại Thế Chí Bồ Tát.
Khi đứng riêng thì tượng Đại Thế Chí Bồ tát được tạc theo nhiều hiện thân,
nhưng cơ bản là hình tượng cư sĩ ngồi hoặc đứng trên toà sen, tay cầm một cành
sen.
9. Tượng Đức Thánh Hiền:
Đức Thánh hiền được thờ ở các chùa, chính là Ngài Anan tôn giả, đệ tử đệ
nhất đa văn của Đức Phật. Theo Phật giáo Đại thừa ngài còn phát nguyện độ sinh
do đó Ngài còn tái sinh nhiều lần để cứu vớt chúng sinh.
Tượng ngài được đặt ở bên trái của Bái Đường. Tượng có khuôn mặt thanh
thoát, hiền từ, đầu đội mũ có 7 cánh sen, mỗi cánh sen có hình một Đức Phật,
một tay cầm chén, một tay bắt ấn.
10. Tượng Đức Ông:
Có chùa ghi là Đức Chúa, được an vị ở bên phải Bái Đường. Tượng được tạc
theo hình dáng quan văn, đầu đội mũ cánh chuồn, mặt đỏ, râu dài, vẻ mặt nghiêm
nghị.
Theo điển tích Phật giáo thì khi Đức Thích Ca vừa thành đạo, Trưởng giả Cấp
Cô Độc, một nhân vật thời Đức Thích Ca tại thế, đã mua một khu vườn cây xây
tịnh xá, ngôi chùa rất to, thỉnh Phật Thích Ca về thuyết pháp. Sau này ông được
coi là người bảo vệ tài sản của nhà chùa. Vì vậy người ta gọi là Đức ông hay
Đức Chúa Già Lam Chầu Tể.
* *
*
Trên đây là một số tượng được thờ ở các ngôi chùa Việt Nam. Nhìn
chung, các vị Phật hay Bồ Tát đều ngồi hoặc đứng trên tòa sen với đôi mắt khép
kín, khuôn mặt nhân hậu, thanh thản, tượng trưng cho sự đại phú, đại quý, siêu
phàm và vinh quang.
.
.....................................................................................................
- © Tác giả giữ bản quyền.
- Copy bài tại trang: https://tienglongnguoixaque.blogspot.com/
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét